You are on page 1of 12

TÍNH NGUYÊN HỢP TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN

1. MỞ ĐẦU

Có thể nói, ở bất cứ dân tộc, châu lục nào khi chưa có văn học viết thì văn học dân
gian là bộ phận chính của nền văn học và văn hóa của dân tộc đó. Đến khi văn học
viết xuất hiện thì văn học dân gian không vì thế mà bị triệt tiêu. Hai dòng văn học này
vẫn tồn tài và phát triển song hành, có sự tác động tương hỗ lẫn nhau. Đặc biệt là
các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam, văn học dân gian hầu như là bộ phận
chủ yếu trong toàn bộ giá trị sáng tạo văn học của họ.

Từ vốn văn học dân gian, ta hiểu được truyền thống sáng tạo thẩm mỹ cùa các
cộng đồng người trên lãnh thổ Việt Nam qua các thế hệ. Điều đó nói lên rằng truyền
thống sáng tạo thẩm mỹ vừa tuân theo những quy luật chung của quá trình lao động
nghệ thuật toàn nhân loại nhưng lại mang bản sắc dân tộc độc đáo. Và thiết thực
hơn, ta có thể chắt lọc từ trong di sản văn hóa dân gian những chất liệu quý cho
chiến lược phát triển con người Việt Nam mới hiện nay, phục vụ cho sự nghiệp xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vậy văn học dân gian là gì?

Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân lao động,
trong đó thành phần nghệ thuật ngôn từ chiếm vị trí quan trọng và bao giờ cũng có
mối liên hệ với các yếu tố nghệ thuật và phi nghệ thuật khác. Văn học dân gian ra đời
từ thời nguyên thủy và trải qua thời kì phát triển lâu dài trong xã hội có giai cấp, tiếp
tục tồn tại trong xã hội ngày nay.

Văn học dân gian có bốn đặc trưng cơ bản: tính nguyên hợp, tính truyền miệng,
tính tập thể và tính dị bản. Trong đó, tính nguyên hợp là một đặc trưng tiêu biểu

1
nhất của văn học dân gian. Vậy tính nguyên hợp của văn học dân gian là gì? Và được
thể hiện qua các thể loại ra sao? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây.

2. NỘI DUNG

2.1. Tính nguyên hợp của văn học dân gian.

a. Khái niệm:

“Nguyên” là khởi nguồn, “hợp” là kết hợp. Nguyên hợp là sự kết hợp ngay từ lúc
khởi nguồn, lúc tác phẩm bắt đầu được sinh ra.

Tính nguyên hợp theo V.E Guxép đó là “Sự dính liền nhau ngay từ ban đầu của các
loại hình khác nhau trong sáng tạo văn hóa”. Hay giải thích một cách dễ hiểu như
phó giáo sư Chu Xuân Diên là “ có sự hòa lẫn, trộn lẫn với nhau một cách tự nhiên
vốn có của nhiều yếu tố khác nhau ở dạng những yếu tố này chưa từng bị phân hóa”.

Trong khi chú ý đến tính chất phức tạp của tính nguyên hợp về hình thái ý thức
văn học dân gian, các nhà nghiên cứu vẫn phải xác định bản chất của văn học dân
gian xem đó trước hết là những sáng tác nghệ thuật, trong đó có tính nguyên hợp về
hình thái ý thức được thể hiện qua hình tượng nghệ thuật. Mặt khác, tính nguyên
hợp đó không phải là như nhau ở các thể loại văn học dân gian khác nhau và trong
những giai đoạn phát triển lịch sử khác nhau của lịch sử văn học dân gian. Mối quan
hệ của hoạt động thực tiễn và tính nguyên hợp về hình thái ý thức xã hội bao giờ
cũng làm cho văn học dân gian sinh động và đa dạng.

2
Cuộc sống của văn học dân gian không phải là cuộc sống dưới hình thức văn bản
mà là cuộc sống gắn liền với một môi trường sinh hoạt nhất định của văn học dân
gian. Do đó cuộc sống của văn học dân gian được biểu hiện thành vô số hình thức
sinh hoạt, những hình thức sinh hoạt này cũng phong phú đa dạng như bản thân
những hình thức sinh hoạt trong đời sống thực tiễn của nhân dân.

b. Đặc trưng:

Văn học dân gian có ba đặc trưng: tính nguyên hợp về hình thái ý thức văn học
dân gian, tính nguyên hợp về ngoại hình nghệ thuật và tính nguyên hợp của văn học
dân gian biểu hiện ở sự chưa tách rời với đời sống thực tiễn.

o Tính nguyên hợp về hình thái ý thức của văn học dân gian.
Văn học dân gian là một hình thái ý thức xã hội phức tạp và tính nguyên hợp về
hình thái ý thức của văn học dân gian có nguồn gốc và là một biểu hiện của sự nhận
thức nguyên hợp của người nguyên thủy. Nhưng không phải chỉ có sự nhận thức nói
chung của người nguyên thủy có tính chất nguyên hợp mà cả sự nhận thức thẩm mỹ
nói riêng của người nguyên thủy cũng có tính chất nguyên hợp.

Như vậy, tính nguyên hợp về hình thái ý thức là bản chất chung của toàn bộ cơ
cấu văn học dân gian cổ truyền. Văn học dân gian mang trong nó những yếu tố về
nghệ thuật, tôn giáo, triết học… Điều này phản ánh ý thức xã hội còn ở dạng nguyên
khôi chưa có sự phân hóa thành các dạng thức khác nhau.

Qua đó, có thể nói, văn học dân gian là cuốn bách thư toàn khoa của mấy nghìn
năm bao gồm các hình thức sinh hoạt, phong tục tập quán, lễ giáo, kinh nghiệm sống
về vật chất và tinh thần.
3
o Tính nguyên hợp về loại hình nghệ thuật.
Tính nguyên hợp của văn học dân gian còn thể hiện ở sự chưa tách rời các loại
hình nghệ thuật trong tổng thể Folklore. Nghĩa là trong nội bộ nghệ thuật nguyên
thủy chưa có sự phân hóa rõ rệt và sự phát triển của các loại hình nghệ thuật khác
nhau. Điều đó biểu hiện rõ ở chỗ trong văn học dân gian thành phần ngôn từ có sự
gắn bó chặt chẽ với các thành phần khác như: vũ đạo, âm nhạc, tạo hình… mà trong
sự kết hợp ấy, ngôn từ đóng vai trò chủ yếu. Tính nguyên hợp là một hiện tượng tự
nhiên vốn có của một kiểu nghệ thuật không chuyên. Nó là một vấn đề thuộc về bản
chất tồn tại của loại hình nghệ thuật này chứ không phải do ai tự ý đặt ra.

Chẳng hạn, khi trình diễn một bài ca dao, ta có thể thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa ngôn ngữ và phương tiện âm nhạc. Ví dụ khi hát bài “ Trúc xinh trúc mọc đầu
đình / Em xinh em đứng một mình càng xinh” người ta có thể hát theo các làn điệu
khác nhau như Quan họ Bắc Ninh hay làn điệu nhịp đuổi của sân khấu chèo. Hay khi
kể chuyện cổ tích, người ta phối hợp giữa giọng kể với nét mặt, cử chỉ, điệu bộ để
làm cho câu chuyện hấp dẫn người nghe hơn. Khi diễn xướng những bài ca nghi lễ,
ngoài các nghi lễ được tiến hành chúng ta còn thấy người ta phối hợp những hình
thức đọc, hát, nhảy, múa trong quá trình diễn xướng. Do đó có sự phân biệt về tính
nguyên hợp của văn học dân gian và các loại hình nghệ thuật mang tính văn học sân
khấu, điện ảnh như sau:

Thứ nhất: Xét về quá trình hình thành của một loại hình nghệ thuật trong lịch sử.

Sự ra đời của loại hình nghệ thuật nhiều thành phần là kết quả của sự phát triển
nhiều nghệ thuật loại hình một thành phần. Vì nó chỉ xuất hiện khi có sự chuyên môn
hóa các hoạt động sản xuất tinh thần.

Văn học dân gian ra đời từ nhận thức nguyên hợp của người nguyên thủy và tiếp
tục tốn tại đến các thời kì sau này. Điều đó thể hiện qua một số loại hình dân gian có
4
quan hệ về mặt nguồn gốc với các hoạt động lao động tập thể, hội hè và nghi lễ của
xã hội nguyên thủy, một số khác ra đời trong xã hội có giai cấp nhưng vẫ tiếp tục kế
thừa, cải biên và phát triển nhiều truyền thống của nghệ thuật truyền thống thời
nguyên thủy. Những truyền thống nguyên hợp đó sở dĩ vẫn còn sức sống trong văn
học dân gian sau này là vì trong suốt quá trình phát triển lịch sử của nó, văn học dân
gian luôn luôn tồn tại như một loại nghệ thuật không chuyên môn hóa, như một
hoạt động tinh thần luôn luôn gắn bó với hoạt động thực tiễn. Song tính nguyên hợp
về loại hình nghệ thuật của văn học dân gian không chỉ có thể cắt nghĩa bằng các
điều kiện lịch sử - xã hội, mà còn có thể cắt nghĩa được bằng những đặc điểm của sự
nhận thức thực tại bằng nghệ thuật. Do đó văn học dân gian có tính nguyên hợp.

Thứ hai: Xét quá trình sáng tác và diễn xướng của tác phẩm.

Ở những loại hình nghệ thuật tổng hợp, sự sáng tạo các thành phần nghệ thuật
được thực hiện một cách độc lập có ý thức bởi các cá nhân khác nhau. Do đó, quá
trình sáng tác và diễn xướng có khoảng cách nhất định. Ở văn học dân gian, quá trình
sáng tác và diễn xướng nhập thành một và được thực hiện bởi một cá nhân.

Như vậy văn học dân gian là kết quả hay nói đúng hơn là biểu hiện của sự nhận
thức thẩm mỹ nguyên hợp có từ thời nguyên thủy và tồn tại qua các thời kì lịch sử
sau này trong lĩnh vực không chuyên môn hóa của sự sản xuất nghệ thuật. Vì vậy, có
thể gọi văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật tổng hợp.

o Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện ở sự chưa tách rời với
đời sống thực tiễn.
Văn học dân gian gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân với tư cách là một
nhân tố tham gia cấu thành tổng thể. Nó ít nhiều bị quy định bởi những thể thức của
hình thức sinh hoạt, của phong tục tập quán gắn với những thời gian nhất định trong
cuộc sống gia đình, đời sống xã hội của nhân dân. Ví dụ như sự gắn bó của sử thi Tây
5
Nguyên với đời sống nhân dân Tây Nguyên, sự gắn bó của dân ca lao động với
những hoàn cảnh nhất định trong cuộc sống của nhân dân lao động…

Tính nguyên hợp dẫn đến tính đa chức năng của văn học dân gian. Trong văn học
dân gian, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng thẩm mỹ và chức
năng sinh hoạt hợp thành một thể thống nhất. không phải là không có lí do mà văn
học dân gian đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau.

Các nhà nghiên cứu triết học nhận thấy trong thần thoại, trong tục ngữ những vấn
đề về nhận thức luận của người xưa.

Các nhà nông học, y học nhận thấy trong đó những kinh nghiệm làm ăn, dưỡng
sinh và chữa bệnh.

Các nhà xã hội học tìm thấy trong truyện cổ tích, cao dao những bài học về cách
ứng xử giữa người với người.

Nói như Pôn Laphac văn học dân gian là “Bộ bách khoa toàn thư về kiến thức, tôn
giáo, triết học của nhân dân”.

V.E Guxép có lí khi nhận xét rằng “ Văn học dân gian vừa là nghệ thuật vừa không
phải là nghệ thuật” vì trong đó có sự phản ánh hiện thực bằng hiện tượng nghệ
thuật và có cả vai trò của những yếu tố ohi nghệ thuật. Chẳng hạn khi nghiên cứu sử
thi Đăm Săn chúng ta không thể không tìm hiểu về tục nối dây trong đời sống của
đồng bào Ê Đê, về tổ chức buôn làng, về mái nhà Rông…

Hay nghiên cứu về truyền thuyết, chúng ta không thể không truy tìm về cơ sở để
trên cái nền đó mà chấp đôi cánh “thơ” và “mộng”. Đó là các nhân vật và sự kiện
lịch sử đích thức.

6
Chúng ta không lấy làm lạ vì sao Thần thoại nước ta lại là đối tượng nghiên cứu
của văn học dân gian, các nước khác thì đặt vào khoa Dân tộc học hoặc có nước coi
nghiên cứu thần thoại là một ngành khoa học riêng, tách khỏi văn học dân gian và
dân tộc học. Chính tính đa chức năng của văn học dân gian dẫn đến tình trạng đó.

2.2. Tính nguyên hợp của thể loại thần thoại.

Tính nguyên hợp thể hiện trên rất nhiều phương diện, đó có thể là sự kết hợp của
nhiều nội dung, mục đích, đề tài sáng tạo (ví dụ, sự tích Trầu cau kể về tục lệ ăn trầu
– một phong tục tốt đẹp của người Việt cổ và chế độ hôn nhân tiến bộ một vợ một
chồng). Có thể đó là sự kết hợp của nhiều loại văn học, nhiều phương thức diễn
xướng khác nhau (dân ca là sự kết hợp giữa phần lời và phần nhạc, truyện thơ dân
gian có sự kết hợp giữa truyện và thơ tức là sự kết hợp của tự sự và trữ tình).

Song ta thấy ở thể loại thần thoại, tính nguyên hợp thể hiện một cách điển hình
nhất, tạo ra đặc trưng của nó so với các thể loại khác.

a. Tính nguyên hợp của thần thoại thể hiện ở các hình thái ý thức xã hội
khác nhau.
Thần thoại là sáng tạo trí tưởng tượng tập thể của toàn dân, phản ánh khái quát
hiện thực dưới dạng vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn, dù
đặc biệt hay phi thường đến mấy vẫn được người nguyên thủy nghĩ và cho là hoàn
toàn có thực.

Tuy thần thoại tồn tại như những truyện kể về thế gian nhưng nó không hẳn là
một thể loại ngôn từ, mà là những ý niệm, biểu tượng nhất định về thế giới. Bên
cạnh đó, cảm quan thần thoại nói chung không chỉ bộc lộ trong những hình thức
khác (nghi lễ, lễ thức, điều răn dạy), bài ca, vũ điệu…

7
Đặc điểm của thần thoại thể hiện rõ nhất trong văn hóa nguyên thủy nơi mà vị trí
của thần thoại trong tâm thức của cộng đồng có thể coi tương đương với “văn hóa
tinh thần” và “khoa học” thời cận hiện đại.

Trong đời sống của các cộng đồng người nguyên thủy, thần thoại là một hệ thống
mà nhờ đó con người tri giác và mô tả thế giới bằng các biểu tượng của hệ thống ấy.
Do đó có thể coi thần thoại là nguyên hợp của xã hội nguyên thủy.

Trong thần thoại chứa đựng mầm mống của tôn giáo, triết học, pháp luật, sử học,
văn học nghệ thuật… Những khát vọng không thôi nhận thức đúng quy luật khách
quan tạo ra một vũ trụ về nhân sinh quan cùng việc duy trì những tập tục, lề lối sống
của cộng đồng, một tư duy suy nguyên có hệ thống bắt đầu, sự tồn tại những biểu
tượng phản ánh con người đang vươn lên khẳng định mình trước thiên nhiên… tất
cả điều đó đều có trong thần thoại. Nó là một tổng thể nguyên hợp đa yếu tố.

Ta thấy bản chất các


hình tượng Folklore
thường là tích hợp nhiều
lớp biểu tượng và nhiều
giá trị, do vậy những biểu
tượng và giá trị thần thoại
là đặc trưng mà thường
đó là lớp hữu thức, lớp có
sau gắn liền với ý thức
cộng đồng và quốc gia.

Trong thần thoại “Sơn


Tinh, Thủy Tinh”, giáo sư Nguyễn Tấn Đắc trong công trình “Đọc lại Sơn Tinh, Thủy
Tinh” đã công phu bóc lớp biểu tượng “chống lũ lụt” mang tính hữu thức và đương
8
đại thì cũng làm hé lộ cái nhân lõi đầu tiên nay đã trở thành vô thức, đó là phản ánh
một đặc trưng xã hội thời kì đầu của người Việt cổ với hình thái hôn nhân tranh
cướp phụ nữ mà tàn dư của nó để lại ở nhiều dân tộc.

b. Tính nguyên hợp của thần thoại thể hiện ở thành phần nghệ thuật.
Tính nguyên hợp chi phối tất cả các thành phần nghệ thuật, các yếu tố, chất liệu
tạo nên bản thân nó như ngôn từ, nhạc, vũ, hóa trang… đều nhất loạt tham gia sinh
hoạt vào một biểu tượng thần thoại tổng thể. Vì vậy phải quan sát cuộc sống thực
của một tác phẩm dân gian qua việc sử dụng, lưu truyền và biểu diễn của nhân dân
mới nhận rõ tính nguyên hợp. Bởi văn học dân gian là một nghệ thuật tổng hợp và
đầy đủ, tự nhiên và mạnh mẽ trong môi trường phù hợp với chức năng của nó.

Ở đây, thần thoại như chưa tách khỏi môi trường sống, nó chưa bị phân hóa đến
mức tồn tại như một văn học dân gian, đã được ghi chép thành văn, có cuộc sống
tương đối độc lập như nhiều thần thoại của người Việt. Chính trong tang lễ của
người Mường, ta được nghe diễn kể cả hệ thống thần thoại của họ, chủ yếu tập
trung trong “Đẻ đất, đẻ nước”, chính trong dịp lễ đầu xuân của người Thái, ta được
nghe diễn kể lại hệ thống truyện và các then (các thần) nói về quá trình di chuyển và
định cư nhuốm màu sắc thần kì của người Thái.

Chính trong nghi lễ cúng mừng năm mới của buôn làng người Ê Đê ta được nghe
diễn kể về các sự tích liên quan đến AiĐiÊ (ông trời) và các Yàng (thần) khác của họ.

Các dân tộc khác cũng diễn ra các hình thức sinh hoạt nghi lễ thần thoại tương tự
như vậy.

c. Tính nguyên hợp của thần thoại thể hiện ở sự chưa tách rời với đời sống
thực tiễn.

9
Sự nguyên hợp giữa các yếu tố thuộc quan hệ thực tiễn và quan hệ tinh thần của
con người với thực tế khách quan. Từ một hạch đá, người ta ghè đẽo thành một
chiếc rìu đá, chiếc rìu này có thể được quan niệm vừa là công cụ tiện lợi cho năng
suất lao động cao hơn là những hòn đá cuội tự nhiên, vừa là vật thiêng liêng bởi vì
nó là con của “mẹ đá thiêng liêng”, vừa là kết tinh của công sức lao động nhọc nhằn
cùng một trí tưởng tượng rất khó khăn để có. Trong chiếc rìu đó hòa lẫn nhuần
nhuyễn hai yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

Một con thú mới được săn bắt về, ta coi nó là sản phẩm của lao động, là thức ăn,
đồng thời cũng có thể coi nó là một vị cứu tinh đã hiến sinh nuôi sống cộng đồng
mình. Tư duy của những người cổ xưa là như vậy.

Các thần thoại Lạc Long Quân, Sơn


Tinh, Phù Đổng Thiên Vương đã phản
ánh lịch sử nhưng đã được cho qua
lăng kính kì diệu của óc tưởng tượng,
chất phát và táo bạo, của niềm tin
tưởng và tự hào về lịch sử dân tộc.
Nguồn gốc dân tộc đã được thần
thánh hóa, “con Rồng cháu Tiên”
thành ngữ đó đã trở nên quen thuộc
với nhân dân bao đời nay. Hình
tượng “bọc trăm trứng nở trăm con” có hình tượng lịch sử của nó, đó là sự sinh sôi,
nảy nở của những thị tộc vốn cùng một nguồn gốc nhưng nó còn có một ý nghĩa lớn
hơn đó là tình đồng bào thắm thiết đã hình thành trong cuộc đấu tranh gian khổ và
trường kì để xây dựng và bảo vệ đất nước.

10
“Đẻ đất đẻ nước” là áng sử thi thần thoại của người Mường. Ban đầu là do các
thầy mo hát bên thi hài người chết giúp cho hồn người chết ôn lại sự việc ở trần gian
từ lúc khai thiên lập địa cho đến lúc bản Mường được ổn định, chế độ xã hội được
hình thành và mỗi chặng hát như vậy có những quy trình lễ thức kèm theo. Vì vậy,
“Đẻ đất đẻ nước” là một tác phẩm thơ dân gian đồ sộ trong kho tàng văn học cổ Việt
Nam. Cấu trúc chặt chẽ, các yếu tố lịch sử và thần thoại mang đậm màu sắc tượng
trưng, biểu hiện sâu sắc sự kiện của dân tộc Mường: hình thành đất nước, con người
xây dựng cơ sở vật chất xã hội, thu xếp công việc gia đình, lo việc nước, các xung đột,
các chiến công bảo vệ lãnh thổ và hoàn chỉnh chế độ cai trị. “Đẻ đất đẻ nước” đã
khắc họa bước đầu phát triển của dân tộc Mường.

3. KẾT LUẬN

Nói tóm lại, tính nguyên hợp là sự gắn bó hữu cơ những giá trị thẩm mỹ và trí tuệ,
là sự kết hợp hài hòa, thống nhất tính cách hồn nhiên tự phát và tính chất sáng tạo
có ý thức trong một tác phẩm văn học dân gian.

Thần thoại với tư cách là một thể loại phải được nhìn nhận như một tổng thể
nguyên hợp điển hình. Chính đây là một đặc trưng quan trọng của thể loại thần
thoại.

Như vậy, tính nguyên hợp đã chỉ ra rằng tác phẩm văn học dân gian không chỉ là
một hình tượng văn học mà còn là một hình tượng văn hóa. Chính điều này đã đặc ra
một nguyên tắc có tính phương pháp luận, đòi hỏi Thần thoại với tư cách là một thể
loại phải được nhìn nhận như một tổng thể nguyên hợp điển hình. Chính đây là một
đặc trưng quan trọng của thể loại thần thoại

11
12

You might also like