You are on page 1of 16

BÀI TẬP LỚN MÔN:

Luật Hôn nhân và Gia đình

Họ và tên: Nguyễn Văn A

Đề tài: Đánh giá các quy định về điều kiện


sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp đó

1
Mục lục
A. Mở đầu...............................................................................................3
B. Nội dung.............................................................................................4
I. Một vài khái niệm chung:.................................................................4
1. Khái niệm về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.........4
2. Khái niệm về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.........................4
II. Quy định về điều kiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm....................................................................................................4
1. Điều kiện của chủ thể cho tinh trùng, cho noãn.............................4
2. Điều kiện của chủ thể nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi.......8
III. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm....................................................................10
1. Những điểm tích cực....................................................................11
2. Một số điểm hạn chế....................................................................12
C. Kết luận............................................................................................14
Nguồn tài liệu tham khảo ……………………………………...…….15

A.

2
A. Mở đầu
Hiện nay, tình hình vô sinh ở nam và nữ giới ngày càng nhiều. Bên cạnh
đó, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tiên tiến đã thể hiện sự phát triển
vượt bậc của khoa học kĩ thuật, nhiều tiến bộ trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã ra
đời đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có thể có con, đáp
ứng niềm mong mỏi tha thiết của họ. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể giải quyết
được tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như
bệnh lý, căng thẳng kéo dài, do môi trường, điều kiện sinh hoạt, hậu quả chiến
tranh… Điều này đã đáp ứng được nguyện vọng làm cha, làm mẹ của họ, thể hiện
những giá trị nhân bản cao đẹp.
Tuy nhiên, thực tế việc áp dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không đơn
thuần thuộc lĩnh vực khoa học mà còn liên quan đến nhiều vấn đề về đạo đức, pháp
lí, về tâm lí tình cảm… Việc áp dụng các biện pháp này trong nhiều trường hợp
không chỉ trong nội bộ cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân mà còn có thể liên
quan đến người thứ ba, đó là người cho tinh trùng, cho trứng, cho phôi hay người
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Do đó, vấn đề này càng trở nên phức tạp và
nhạy cảm hơn bao giờ hết.
Vậy nên em đã lựa chọn đề tài “Đánh giá các quy định về điều kiện sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp đó” để nghiên cứu sâu hơn, tìm hiểu kỹ hơn những mặt tích cực và tiêu
cực của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và cách xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp này.

3
B. Nội dung
I. Một vài khái niệm chung:
1. Khái niệm về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
- Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm (Theo Khoản 21, Điều 3 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014)
- Đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào
quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm
muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có những đứa con như họ
ước muốn. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt
bậc của khoa học kĩ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của nữ giới và nam
giới do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường, hóa chất, hậu quả chiến tranh,
…đem lại hạnh phúc và hi vọng cho không ít các gia đình Việt Nam nói riêng và
trên thế giới nói chung. Hiện nay có hai phương pháp chính được áp dụng đó là thụ
tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm.
2. Khái niệm về kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
- Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống
nghiệm để tạo thành phôi ( Theo Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).
+ Noãn là giao tử của nữ
+ Tinh trùng là giao tử của nam
+ Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng
- Nói cách khác, phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp mà
trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người phụ nữ. Đây là
phương pháp điều trị hiếm muộn trong các trường hợp: Tắc nghẽn ống dẫn trứng;
Lạc nội mạc tử cung; Tinh trùng ít, yếu, dị dạng; xin trứng;…Đây cũng là biện
pháp được nhiều cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân tìm đến và mang lại hiệu
quả tương đối cao.
II. Quy định về điều kiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm
1. Điều kiện của chủ thể cho tinh trùng, cho noãn
Tại Điều 4 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về điều kiện của chủ thể cho
tinh trùng, cho noãn như sau:
“1. Người cho tinh trùng, cho noãn được khám và làm các xét nghiệm để
xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau; không bị mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình; không bị nhiễm HIV.

4
2. Tự nguyện cho tinh trùng, cho noãn và chỉ cho tại một cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm.
3. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và
hình ảnh của người cho tinh trùng.
4. Tinh trùng, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người, nếu
không sinh con thành công mới sử dụng cho người khác. Trường hợp sinh con
thành công thì tinh trùng, noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng
cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học.”
 Điều kiện về độ tuổi
Tại Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã không còn quy định về độ tuổi cho, nhận
tinh trùng, noãn, phôi như trong nghị định cũ. Trước đây, trong Nghị định
12/2003/NĐ-CP, độ tuổi người cho tinh trùng, cho noãn, nhận tinh trùng, nhận
noãn, nhận phôi bị giới hạn tại Điều 7 và Điều 8. Cụ thể, độ tuổi của người cho
tinh trùng là từ đủ 20 tuổi đến 55 tuổi, người cho noãn là từ đủ 18 tuổi đến 35 tuổi;
đối với người nhận tinh trùng, người nhận noãn, nhận phôi là từ đủ 20 đến 45 tuổi.
Bản chất của quy định về độ tuổi là để đảm bảo chất lượng đối với người hiến tặng,
đồng thời đảm bảo khả năng đáp ứng của người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận
phôi.
Tuy nhiên, chính bởi quy định chặt chẽ về độ tuổi, dẫn tới việc hạn chế
quyền được mang thai của những phụ nữ đơn thân từ 45 tuổi trở lên. Thực tế cho
thấy, nhiều người phụ nữ do lập gia đình trễ, do tái hôn, do không biết đến kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm hoặc do ngại ngần, đến khi tiếp cận kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản này đã qua ngưỡng 45 tuổi và bị từ chối cho dù ước nguyện và tình cảnh của
họ là chính đáng. Thực trạng đã xuất hiện những trường hợp phụ nữ trên 45 tuổi tại
Việt Nam muốn mang thai bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải tới các nước khác
trong khu vực như Thái Lan, Singapore hoặc xa hơn là Mỹ… nơi quy định mở hơn
hoặc thậm chí không giới hạn về tuổi tác để có thể đáp ứng được nhu cầu của
mình. Quy định mới tại Nghị định 10/2015/NĐ-CP đã bỏ các quy định giới hạn về
tuổi cho nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi, đáp ứng nhu cầu chính đáng của
phụ nữ ở bất kỳ lứa tuổi nào, miễn người phụ nữ đó đảm bảo các điều kiện về sức
khỏe, có thể tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm.
 Điều kiện sức khỏe của người cho tinh trùng, cho noãn
Trước khi tiến hành cho tặng tinh trùng, noãn, người cho tặng sẽ được xét
nghiệm tổng thể về tình trạng sức khỏe, bệnh lý để đảm bảo chất lượng tinh trùng,
noãn trước khi đưa vào ngân hàng lưu trữ. Tại khoản 1, Điều 4 Nghị định
10/2015/NĐ-CP luật quy định: “Người cho tinh trùng, cho noãn được khám và làm
các xét nghiệm để xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau;
không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình; không bị nhiễm HIV”. Tiêu chuẩn hiến tinh trùng là nam
5
giới có sức khỏe tốt, không mắc các bệnh về tâm thần hay di truyền, các xét
nghiệm sàng lọc về viêm gan (HbsAg, HCV), bệnh giang mai (BV), HIV âm
tính… học vấn tối thiểu là hết trung học cơ sở. Khi đến bệnh viện hiến tinh trùng,
họ cần mang theo CMND, bằng tốt nghiệp THCS, giấy khám sức khỏe tổng quát.
Đối với người cho tinh trùng, sau khi xét nghiệm đầy đủ không có các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và bất thường nhiễm sắc thể, trước ngày hiến tinh trùng
trong vòng 3-5 ngày không được xuất tinh, sẽ được lấy 3 mẫu tinh trùng cách nhau
tối thiểu 3 ngày. Sau đó 3 tháng quay lại để làm xét nghiệm HIV, nếu âm tính thì
khi đó các mẫu tinh trùng mới đủ điều kiện sử dụng. Người cho tặng sau đó phải
cung cấp những thông tin như chiều cao, cân nặng, trình độ học vấn để lưu hồ sơ,
đặc biệt thông tin cá nhân như tên hay địa chỉ sẽ không được ghi vào để đảm bảo
nguyên tắc vô danh và nguyên tắc bí mật của người cho tặng. Đối với những
trường hợp hiến tinh trùng tự nguyện sẽ không trả bất kỳ chi phí lưu trữ hay xét
nghiệm nào.
So với việc cho tinh trùng, việc cho tặng noãn từ những người vô danh rất
hiếm. Bởi lý do văn hóa Á Đông, rất hiếm phụ nữ tìm đến bệnh viện để cho noãn,
cùng với đó là việc mỗi lần cho noãn đều phải mất chi phí từ 30-40 triệu đồng/lần
cho việc tiêm thuốc kích trứng và chọc hút trứng lấy noãn. Do vậy, hầu như tại các
bệnh viện không có nguồn noãn hiến tặng và không có ngân hàng noãn. Trong khi
đó, bệnh nhân bị lép trứng, suy buồng trứng, trứng không có noãn đều phải điều trị
bằng trứng của người khác. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, theo thống kê,
trong số 2.500 cặp vợ chồng đến chữa trị vô sinh tại đây hằng năm, có khoảng 10%
cần xin noãn để điều trị. Tất cả những trường hợp cần xin noãn, người bệnh phải tự
đi tìm người cho noãn và chủ yếu họ xin noãn từ người thân họ hàng. Ngoài ra, họ
có thể xin trứng hiến từ những người phụ nữ tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm
có nhiều trứng. Nếu không may mắn trong việc tìm được trứng hiến, việc người
bệnh phải tự đi tìm trứng để chữa trị vô sinh, và tạo điều kiện cho tình trạng mua
bán trứng, hoặc cò mua bán trứng mà trong thời gian qua đã xảy ra cả trong và
ngoài nước. Bên cạnh đó, chưa thể xây dựng ngân hàng trứng giống như ngân hàng
tinh trùng bởi lẽ việc cho trứng vừa tốn kém, vừa ảnh hưởng tới sức khỏe, thời gian
tiến hành kéo dài 2 tuần, không thể lấy ngay tức khắc và ít tốn kém như hiến tinh
trùng, đồng thời nếu lưu trữ trứng thì chất lượng trứng sau khi rã đông kém, không
như “trứng tươi”, nên để tạo thành phôi làm thụ tinh trong ống nghiệm thì tỷ lệ
thành công thấp.
 Đảm bảo tính tự nguyện của người cho tinh trùng, cho noãn
Căn cứ vào khoản 2 khoản 3 Điều 4 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định
người cho tinh trùng, cho noãn phải:
“2. Tự nguyện cho tinh trùng, cho noãn và chỉ cho tại một cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm;
6
3. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và
hình ảnh của người cho tinh trùng.”
Tự nguyện là việc một người có quyền tự quyết định, không bị bất kỳ ai lừa
dối, cưỡng ép ý chí trong việc cho tinh trùng, cho noãn. Việc tự nguyện bằng các
cá nhân đó tự mình tới cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm đề nghị xin được cho, hiến tinh trùng, noãn. Để hiến tinh
trùng, noãn cần chuẩn bị một bộ hồ sơ gồm có các giấy tờ như: bản photocopy
CMND, bằng tốt nghiệp THPT (không cần công chứng, chỉ đối chiếu bản gốc),
đồng thời lập bản cam kết về việc cho tinh trùng, noãn với nội dung: cho phép cơ
sở điều trị được quyền sử dụng nguồn tinh trùng, noãn đã hiến, không được tìm
hiểu về nhân thân, tên tuổi, địa chỉ, hình ảnh... của người nhận tinh trùng, noãn
cũng như em bé sinh ra sau này
Để đảm bảo cho việc tự nguyện của người hiến tặng, cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cũng phải đảm bảo nguyên
tắc bí mật và nguyên tắc vô danh, bằng cách không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ
và hình ảnh của người cho. Điều này sẽ hỗ trợ qua lại lẫn nhau, việc đảm bảo bí
mật sẽ tạo lòng tin cho người hiến tặng, khuyến khích nhiều người tự nguyện hiến
tặng vào ngân hàng tinh trùng đang khan hiếm hiện nay.
 Điều kiện mỗi mẫu hiến tặng chỉ được sử dụng cho một người
Tại khoản 4 Điều 4 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: “4. Tinh trùng,
noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người, nếu không sinh con thành
công mới sử dụng cho người khác. Trường hợp sinh con thành công thì tinh trùng,
noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu
khoa học.”
Bên cạnh quy định mỗi mẫu hiến tặng chỉ dùng cho 01 người, trường hợp
sinh con thành công thì tinh trùng, noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến
tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học cũng là quy định mới, mà luật cũ chưa có
điều chỉnh. Trước đây, tại khoản 1 Điều 11, Nghị định 12/2003/NĐ-CP chỉ đưa ra
giải pháp cho việc xử lý phôi dư sau khi thực hiện thành công, nếu có con và
không có nhu cầu sử dụng thì cặp vợ chồng vô sinh có thể tặng lại cho cơ sở y tế
qua hợp đồng tặng cho, tuy nhiên với tinh trùng và noãn còn dư thì lại không có
phương án xử lý. Quy định mới đã bổ sung thêm việc xử lý tinh trùng, noãn bằng
cách hủy hoặc hiến tặng cơ sở y tế để phục vụ nghiên cứu khoa học. Điều này sẽ
hợp lý và ý nghĩa hơn, cũng giống như việc hiến mô, hiến bộ phận cơ thể vào mục
đích nghiên cứu.
Theo quy định, mỗi người chỉ được cho tinh trùng, noãn một lần nên các
bệnh viện quản lý rất chặt nhân thân người cho tinh trùng, noãn thực hiện tại đơn
vị mình. Tuy nhiên, thực tế thì một người có thể cho tinh trùng, noãn nhiều lần ở

7
những nơi khác nhau nên khó kiểm soát. Như vậy, việc thiết kế một hệ thống quản
lý đồng bộ giữa các bệnh viện là điều hết sức cần thiết.
2. Điều kiện của chủ thể nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi
Tại Điều 5, Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về chủ thể nhận tinh trùng,
nhận noãn, nhận phôi, cụ thể:
“1. Người nhận tinh trùng phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều
trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng hoặc là phụ nữ độc thân có
nhu cầu sinh con và noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai.
2. Người nhận noãn phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam và là
người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do
người vợ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai.
3. Người nhận phôi phải thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô
sinh là do cả người vợ và người chồng;
b) Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà vợ chồng đã thực
hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại, trừ trường hợp mang
thai hộ;
c) Phụ nữ độc thân mà không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất
lượng để thụ thai.
4. Người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức khỏe để
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con; không đang
mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh truyền nhiễm thuộc
nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau, không bị mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình.
5. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và
hình ảnh của người nhận tinh trùng, nhận phôi.”
Căn cứ theo quy định này, sẽ có 3 đối tượng được tiến hành sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và có thể nhận tinh trùng, noãn, phôi, cụ thể:
- Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh;
- Người phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con;
- Người phụ nữ mang thìa hộ vì mục đích nhân đạo.
 Người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh
Trước hết, cặp vợ chồng vô sinh sẽ trải qua quy trình khám và xét nghiệm
thăm dò được quy định tại Điều 7, Thông tư 57/2015/TT-BYT để tìm ra nguyên
nhân vô sinh. Nguyên nhân vô sinh có thể do người vợ hoặc người chồng. Sau khi
xét nghiệm thăm dò, xác định nguyên nhân, việc điều trị vô sinh sẽ dẫn tới các
trường hợp sau:

8
Trường hợp 1, không cần phải nhận tinh trùng, noãn, nhận phôi: xét nghiệm
thăm dò có kết quả noãn và tinh trùng của người vợ và người chồng đảm bảo chất
lượng, sẽ tiến hành quy trình để lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người
chồng để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm;
Trường hợp 2, nhận tinh trùng: xảy ra trong trường hợp người vợ trong cặp
vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng. Nếu
người chồng không có tinh trùng hoặc số lượng quá ít, chất lượng tinh trùng kém,
không đủ điều kiện, người vợ trong cặp vợ chồng sẽ nhận tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (khoản 1 Điều 5, Nghị định
10/2015/NĐ-CP);
Trường hợp 3, nhận noãn: xảy ra trong trường hợp người vợ trong cặp vợ
chồng đang điều trị vô sinh là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam mà
nguyên nhân vô sinh là do người vợ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất
lượng để thụ thai (khoản 2 Điều 5, Nghị định 10/2015/NĐ-CP). Việc quy định
người vợ phải là người Việt Nam hoặc gốc Việt Nam để đảm bảo việc nhận noãn
hiến tặng không khác biệt về chủng tộc, có thể thích ứng được với cơ địa người
phụ nữ và tăng tỷ lệ thành công của việc nhận noãn, tạo phôi. Đặc biệt, quy định
việc nhận noãn phải là phụ nữ Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam sẽ có ý nghĩa
trong việc xác định quốc tịch cho trẻ sau khi sinh ra. Một đứa trẻ sinh ra bởi một
cặp vợ chồng vô sinh có quốc tịch nước ngoài (hoặc 1 trong 2 hoặc cả 2 là người
không quốc tịch) với noãn hiến tặng là noãn của phụ nữ Việt Nam sẽ khó lòng xác
định quốc tịch cho trẻ, lúc đó trẻ sẽ mang quốc tịch của cặp vợ chồng vô sinh hay
quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, Khoản 2 điều 5 mới chỉ quy định người nhận noãn
phải là người Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam, trong khi đó lại không có quy
định rõ ràng về đối tượng xin nhận tinh trùng hay xin nhận phôi có thể là người
nước ngoài hay không.
Trường hợp 4, nhận phôi: xảy ra trong trường hợp người vợ trong cặp vợ
chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người
chồng; hoặc người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà vợ chồng đã
thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm nhưng bị thất bại, trừ trường hợp
mang thai hộ (điểm a,b khoản 3 Điều 5, Nghị định 10/2015/NĐ-CP). Trong trường
hợp này, pháp luật quy định người vợ sẽ tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm với
phôi hiến tặng.
 Phụ nữ độc thân có nhu cầu sinh con
Về mặt thủ tục, phụ nữ độc thân nếu có nhu cầu sinh con, khi tới cơ sở
khám, chữa bệnh được phép tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm sẽ phải chuẩn bị
hồ sơ gồm có giấy tờ chứng minh mình độc thân, đang không có quan hệ hôn nhân
hợp pháp như: đơn xác nhận của địa phương nơi cư trú về tình trạng độc thân, xác
nhận tiền sử gia đình và con cái. Trong trường hợp nếu đã ly hôn thì cung cấp thêm
quyết định cho phép ly hôn của tòa án để bệnh viện xem xét, tiến hành kỹ thuật thụ
9
tinh trong ống nghiệm, với phụ nữ góa chồng thì kèm theo giấy chứng tử của người
chồng đã mất… Trường hợp phụ nữ đang có quan hệ chung sống như vợ chồng với
một ngƣời khác giới nhưng không kết hôn vì một lý do nào đó, hoặc phụ nữ có
mối quan hệ chung sống với người cùng giới thì nếu có xác nhận về tình trạng độc
thân vẫn được phép tiến hành kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, nhưng phải sử
dụng mẫu tinh trùng xin từ ngân hàng tinh trùng, không được phép lấy tinh trùng
trực tiếp từ người hiến hoặc lấy tinh trùng từ người đang chung sống như vợ chồng
với mình.
 Người phụ nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Để được mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì người nhờ mang thai hộ cần
được xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang
không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Điều kiện về người
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo khoản 7, Điều 2 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP là: “7. Người thân thích cùng hàng bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ
khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể,
em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ
khác cha với họ”. Ngoài ra, còn những điều kiện khác như người mang thai hộ
phải từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác
nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người
phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người
chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Thỏa thuận về việc mang thai phải
được lập thành văn bản có công chứng.
Về nguyên tắc, phụ nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sẽ nhận phôi
được tạo ra từ noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng trong cặp vợ
chồng vô sinh để thực hiện việc sinh con.
Tuy nhiên, có nhiều bất cập nảy sinh tại quy định này, nếu như trong trường
hợp đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ, người vợ không có tử cung,
đồng thời buồng trứng cũng không còn hoặc trứng không có noãn thì có thể cho
người này xin trứng để thực hiện mang thai hộ hay không? Nếu người chồng
không có tinh trùng hoặc chất lượng tinh trùng quá kém thì cặp vợ chồng vô sinh
có thể xin tinh trùng và nhờ mang thai hộ hay không? Đây là điều mà pháp luật còn
bỏ ngỏ, chưa dự liệu tới.
Đồng thời, tại Điều 5, khoản 4 của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định
người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải đủ sức khỏe, không bị bệnh di
truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau… Thực tế, có những trường hợp người bệnh có
bất thường về di truyền thường bị sảy thai liên tục hoặc chẳng thể mang thai thì
buộc phải xin noãn; trường hợp người chồng bị bất thường về di truyền muốn thực

10
hiện mang thai hộ phải xin tinh trùng. Khi cặp vợ chồng chỉ hội tụ được 1 trong 2
điều kiện noãn hoặc tinh trùng thì có thể xin của người khác để nhờ mang thai hộ.
III. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm
“Điều 93. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản
1. Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì
việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.
2. Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.
3. Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ
cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được
sinh ra.
4. Việc xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo được áp dụng theo quy định tại Điều 94 của Luật này.
Điều 94. Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con
chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.”
1. Những điểm tích cực
Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định việc
xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
cũng xuất phát từ nguyên tắc chung đó là xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có
hôn nhân hợp pháp. Quy định này nhằm đảm bảo mọi quyền lợi cho cặp vợ
chồng, người phụ nữ độc thân và đặc biệt là đứa trẻ. Đối với trường hợp người
phụ nữ độc thân khi sinh con thì áp dụng tương tự như trường hợp xác định cha,
mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp, trong trường hợp này chỉ có
quan hệ giữa mẹ và con.
Thứ hai, khoản 2 Điều 93, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “ Trong
trường hợp người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì
người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Pháp luật hiện nay ngoài việc
cho phép người phụ nữ độc thân được nhận tinh trùng từ người khác còn cho
phép họ được nhận phôi trong trường hơp họ không có noãn hoặc noãn không
bảo đảm chất lượng để thụ thai. Việc quy định cho người phụ nữ đơn thân được
phép nhận phôi thể hiện được tính chất nhân đạo của pháp luật, bởi khi người
phụ nữ độc thân khát khao được làm mẹ nhưng do không có noãn hay noãn
không đảm bảo chất lượng để thụ thai, do đó dù có nhận tinh trùng của người

11
khác thì họ cũng không thể thụ thai được nên lúc này họ có thể nhận phôi để
được sinh con.
Thứ ba, kheo khoản 3, Điều 93, Luật HN&GĐ năm 2014 còn quy định:
"Việc sinh con kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ,
con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra” .
Lý do mà pháp luật quy định như vậy xuất phát từ việc chính cặp vợ chồng vô
sinh và người phụ nữ độc thân là người đem lại sự sống cho đứa trẻ và họ cũng
là người mong muốn có đứa trẻ chứ không phải là người cho tinh trùng, cho
noãn, cho phôi. Quy định trên cũng nhằm tránh những tranh chấp về quan hệ
cha, mẹ, con của các chủ thể liên quan, là cơ sở đảm bảo ổn định mối quan hệ
cha, mẹ, con, giúp cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân yên tâm nuôi dạy đứa
trẻ trong điều kiện tốt nhất.
Thứ tư, việc phổ biến sinh con theo phương pháp khoa học sẽ góp phần
giảm thiểu tình trạng “mang thai hộ, đẻ thuê” đang diễn ra rất phổ biến và là
một trong những vấn đề nóng hổi, đáng bàn luận hiện nay. Một tình trạng đang
bị xã hội ra sức phản đối bởi tính vô đạo, vi phạm đạo đức nghiêm trọng của nó.
Ngoài một số ưu điểm của việc sinh sản theo phương pháp khoa học mà đã nêu
ở trên thì còn nhiều nguyên nhân khác khiến chúng ta phải ngày một phổ
biến,lan rộng trong toàn dân phương pháp sinh sản theo phương pháp khoa học.
Thứ năm, việc sinh con theo phương pháp khoa học đã thể hiện tính nhân
bản cao đẹp, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc. Việc sinh con theo
phương pháp khoa học thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật và y
học, nó đã tạo ra cơ hội cho những cặp vợ chồng vô sinh có thể có con, góp
phần thực hiện được cái niềm mong mỏi tha thiết của họ đã lâu. Nó đảm bảo
quyền làm cha, làm mẹ, đảm bảo cho những người phụ nữ thực hiện thiên chức
làm mẹ, chức năng sinh đẻ. Các phương pháp sinh con theo phương pháp khoa
học sẽ góp phần giải quyết được phần nào tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam
giới do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường, xã hội, chiến tranh,… Nó
không đơn thuần chỉ là vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học mà còn liên quan mật
thiết tới nhiều vấn đề về đạo đức, pháp lý, tâm lý tình cảm,…
Thứ sáu, khi các cặp vợ chồng thực hiện việc sinh con theo đúng quy định
pháp luật thì quyền lợi pháp lý của họ được pháp luật đảm bảo và bảo vệ bởi
quyền lực của mình. Việc này giúp các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn cảm
thấy yên tâm trong vấn đề sinh con, thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của mình
như bao cặp vợ chồng bình thường khác.
2. Một số điểm hạn chế
Thứ nhất, là về đối tượng áp dụng phương pháp sinh con khoa học, việc
xác định đối tượng là cặp vợ chồng vô sinh mà không quy định rõ là cặp vợ
chồng hợp pháp theo luật hôn nhân gia đình thì chưa đủ. Nếu chỉ quy định

12
chung chung là “cặp vợ chồng vô sinh” thì những đôi nam nữ chung sống như
vợ chồng bị vô sinh cũng được quyền thực hiện phương pháp này.
Thứ hai , là vấn đề quyền lợi của đứa con được sinh ra theo phương pháp
khoa học, Theo quy định của nghị định 12 thì “việc cho, nhận tinh trùng, phôi
phải thực hiện theo nguyên tắc bí mật” (khoản 4 Điều 4), người cho,
nhận “không được phép tìm hiểu về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh” của
nhau ( khoản 4 Điều 7, khoản 3 Điều 8). Điều đó có xâm phạm đến quyền được
biết đến nguồn gốc của mình của đứa trẻ? Thực tế cho thấy có rất nhiều trẻ sinh
ra theo phương pháp khoa học khi đến tuổi trưởng thành mong muốn được biết
về xuất xứ của mình. Ngoài ra, trong trường hợp đứa con mắc một số bệnh mà
cần đến người có cùng huyết thống mới chữa được thì việc đứa con không biết
được thông tin về cha của mình là một thiệt thòi rất lớn.
Khoản 2 Điều 20 đã quy định đứa trẻ “không được quyền yêu cầu thừa kế,
quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, trứng, cho noãn, cho
phôi”. Vì thế có nên cho phép đứa trẻ được quyền xác nhận nguồn gốc của mình
thông qua hệ thống tư liệu điện tử mở như một số nước trên thế giới đã thực
hiện? Điều này không làm ảnh hưởng gì đến việc xác định cha, mẹ, con bởi theo
quy định người cho tinh trùng, noãn, phôi không có bất kì mối liên hệ pháp lí
nào với đứa trẻ. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có văn bản nào
quy định cụ thể về vấn đề này. Hơn nữa điều này còn có thể giảm trường hợp
người cho tinh trùng và người nhận tinh trùng có cùng dòng máu về trực hệ
hoặc có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời.
Thứ ba, trong trường hợp mang thai hộ, mặc dù đứa trẻ mang huyết thống
của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và hoàn toàn không mang gen của người
mang thai hộ, tuy nhiên, về mặt tình cảm, người mang thai hộ vẫn dễ dàng nảy
sinh gắn kết với đứa trẻ khi mang thai. Điều này dẫn đến trường hợp người
mang thai hộ không muốn giao con cho vợ chồng nhờ mang thai hộ.
Trong trường hợp người mang thai hộ cố tình không muốn trả con, có thể xảy ra
việc người mang thai hộ có thể được coi là mẹ đứa bé đó nếu căn cứ vào giấy
chứng sinh mà cơ sở y tế nơi đứa trẻ sinh ra cấp cho. Vấn đề xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp này rất phức tạp, nhất là khi không có thỏa thuận rõ ràng.
Thứ tư, trong trường hợp xác định cha mẹ con cần quy định rõ sau khi đứa
trẻ được sinh ra nếu người cha, mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không
được yêu cầu xác định lại. Bởi vì họ là người yêu cầu thực hiện việc sinh con
bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản, quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu, không thể phủ
nhận. Điều này khác với trường hợp sinh con tự nhiên vì người chồng có quyền
yêu cầu xác định lại quan hệ cha con khi không tin tưởng đứa con là con ruột
của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nếu cặp vợ chồng, người
phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế và có thể có sự nhầm lẫn trong quá trình

13
thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì nên chăng cho phép họ được quyền yêu
cầu xem xét lại.
Thứ năm, pháp luật cấm hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên chưa có quy định nào về vấn đề giải quyết trong trường hợp xác định
cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại xảy ra
tranh chấp nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của đứa trẻ.

14
C. Kết luận
Tóm lại, có thể thấy pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm ở Việt Nam hiện nay đang dần hoàn thiện hơn. Tuy nhiên những quy
định cho các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng
kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, vẫn
có những vấn đề thiếu cụ thể dẫn đến những hạn chế, lúng túng trong quá trình
thực thi pháp luật. Để giải quyết những hạn chế, bất cập đó đòi hỏi cơ quan lập
pháp cần xây dựng những quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm được đầy đủ, chặt chẽ hơn.

15
Nguồn tài liệu tham khảo:
- Thuvienphapluat.vn, C.phủ (2003) Nghị định 12/2003/NĐ-CP sinh con Theo
Phương Pháp khoa học, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Available at:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-dinh-12-2003-ND-
CP-sinh-con-theo-phuong-phap-khoa-hoc-50513.aspx.
- Thuvienphapluat.vn, Q.H. (2014) Luật Hôn Nhân và Gia đình 2014 SỐ
52/2014/QH13, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Available at:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Hon-nhan-va-gia-
dinh-2014-238640.aspx.
- Thuvienphapluat.vn, C.phủ (2015) Nghị định 10/2015/NĐ-cp sinh con bằng
kỹ Thuật Thụ Tinh Trong ống nghiệm Mang Thai Hộ, THƯ VIỆN PHÁP
LUẬT. Available at:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-dinh-10-2015-ND-
CP-sinh-con-bang-ky-thuat-thu-tinh-trong-ong-nghiem-mang-thai-ho-
264622.aspx.
- Thuvienphapluat.vn, B.Y.T. (2015) Thông TƯ 57/2015/TT-byt hướng sinh
con bằng kỹ Thuật Thụ Tinh ống nghiệm điều kiện Mang Thai hộ, THƯ
VIỆN PHÁP LUẬT. Available at: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-
thao-Y-te/Thong-tu-57-2015-TT-BYT-huong-sinh-con-bang-ky-thuat-thu-
tinh-ong-nghiem-dieu-kien-mang-thai-ho-299841.aspx.

16

You might also like