You are on page 1of 51

Đề cương Tư duy pháp lý

(Mỗi đề thi gồm 2 câu lý thuyết và 1 câu tình huống bất kỳ)

I. Lý thuyết
1. Nêu khái niệm và các đặc trưng cơ bản của Tư duy pháp lý
a. Khái niệm “Tư duy pháp lý”
- Theo nghĩa rộng:
+ Là sản phẩm hoạt động trí tuệ của con người.
+ Hiện thực hóa dưới dạng khái niệm, phán đoán, lý luận về những vấn đề pháp
lý.
+ Kết quả của hoạt động TDPL là sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối
liên hệ cơ bản, phổ biến, các quy luật ở một hiện tượng, quá trình riêng lẻ và ở
một nhóm hiện tượng, quá trình pháp lý nhất định.
- Theo nghĩa hẹp:
+ Là khoa học nghiên cứu về các hình thức, các quy luật tư duy đúng đắn trong
hoạt động thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật.
+ Tập trung vào vấn đề phương pháp, cách thức, kỹ thuật thực hiện pháp luật,
áp dụng pháp luật.
+ Là cách thức, thủ pháp giải quyết tình huống pháp lý cụ thể phù hợp với luật
lệ.

b. Đặc trưng cơ bản của TDPL


- Là cách nghĩ, cách phân biệt, cách lập luận hợp logic phải tuân theo khi áp
dụng pháp luật, thực hiện pháp luật phù hợp với luật lệ, lẽ phải, quyền con
người.

+ Tư duy pháp lý = Hiểu biết (có kiến thức rộng) + biết phân biệt + đi theo một
tuần tự hợp lý + thu hút: nói ra đúng, gọn, rõ.
+ Giúp ta tìm ra phương án phù hợp với luật lệ, lẽ phải, quyền con người.

+ Hoạt động áp dụng pháp luật tức là hoạt động hiện thực hóa các quy phạm
pháp luật của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Có thể thể hiện ở cả
hoạt động tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật hay sử dụng pháp luật.

- Thể hiện trước tiên ở việc đặt các câu hỏi pháp lý đi “trúng vấn đề” và trình
bày, lập luận một cách đúng, gọn, rõ.

+ Đi trúng vấn đề tức là đi tìm sự kiện quan trọng nhất nằm trong vụ việc đó.

+ Đặt câu hỏi pháp lý đi “trúng vấn đề”:

_ Câu hỏi thực tế: Ai? Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? -> có ý nghĩa pháp lý ->
làm sáng tỏ sự thật đã diễn ra -> các khía cạnh pháp lý đầy đủ của sự kiện sẽ
dần được sáng tỏ.

_ Câu hỏi tìm luật: Với tình huống này thì lĩnh vực pháp luật nào điều chỉnh?
Có quy phạm pháp luật nào đang có hiệu lực không? Nếu không có quy phạm
pháp luật thì có tập quán không? Có vụ việc nào tương tự đã từng được giải
quyết chưa?

=> Xác định quy tắc pháp lý nào sẽ áp dụng cho tình huống pháp lý đang phải
giải quyết.

_ Câu hỏi pháp lý mấu chốt: 3 yếu tố liên hệ với nhau: 1. Sự kiện pháp lý; 2.
Luật áp dụng; 3. Trăn trở về sự kết hợp hai yếu tố trên.

_ Câu hỏi pháp lý phụ thuộc.

_ Câu hỏi pháp lý kết luận: Là kết quả cuối cùng của tình huống pháp lý được
giải quyết như thế nào.
+ Trình bày, lập luận một cách đúng, gọn, rõ.

- Thể hiện qua việc tranh luận, giải thích các khía cạnh: hình thức thể hiện (văn
phạm), mục đích, lịch sử, cơ sở xã hội hoặc tính hệ thống của quy tắc pháp lý.

- Thể hiện thông qua việc phát hiện, phản biện, đánh giá và tìm ra câu trả lời
cho những “điểm mờ”, những “điểm thiếu rõ ràng” của quy tắc pháp lý.

Những quy tắc pháp lý thường mang tính khái quát hóa, tính trừu tượng hóa
cao. Một quy tắc pháp lý không đề cập đến một người, một hành vi, một thời
điểm cụ thể. Một quy tắc pháp lý liên quan đến nhiều người, thực hiện những
hành vi khác nhau và ở thời điểm khác nhau. Trong nhiều quan hệ pháp lý,
nghĩa vụ của chủ thể pháp luật là một yêu cầu được đặt ra như một đại lượng
chung để bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Những nghĩa vụ này là yêu cầu khách
quan mà dù muốn hay không chủ thể pháp luật đó vẫn phải tuân theo.

Có một sự thật là nếu mọi thứ đã rõ ràng thì không mấy khi xảy ra tranh chấp,
tranh chấp ở đây thường là bộ phận gây tranh cãi, hay còn gọi là “điểm mờ” của
quy tắc pháp lý như đã nêu ở trên. Sẽ có những ý kiến khác nhau hoặc là ủng hộ
sự giống nhau hoặc là phản đối chỉ ra chúng khác nhau và ai cũng tin là mình có
khả năng giành chiến thắng khi đưa ra lập luận. Thực tế hầu hết các vụ việc
pháp lý đều là Những vụ việc khó và gây tranh cãi. Các quy tắc pháp lý nói
chung lại hiếm khi đưa ra những câu trả lời thực sự rõ ràng.

Một quy định pháp lý vì mang tính khái quát, nên nó có thể rơi vào các thái cực:
khái quát quá mạnh (overinclusive) hoặc khái quát quá yếu (underinclusive).
Khi lập luận, bạn phải chú ý đến chi tiết này để bảo vệ quan điểm của mình.
Khái quát quá mạnh là trường hợp một quy tắc pháp lý được đặt ra đã chứa
đựng những điều cấm không cần thiết, quá mức để đạt được mục đích hợp pháp
đề ra. Ngược lại, khái quát quá yếu là trường hợp một quy tắc pháp lý được đặt
ra đã chứa đựng một hoặc một vài điều cấm đơn lẻ nhưng không đủ triệt để
nhằm đạt được mục đích hợp pháp đề ra.

- Thể hiện qua việc hiểu và vận dụng tốt các phương pháp Tư duy pháp lý, cũng
như các kỹ thuật trong áp dụng pháp luật, thực hiện pháp luật.

2. Phân biệt “Tư duy pháp lý” với tính chất là một khoa học pháp lý cơ bản
và “Tư duy pháp lý” trong các lĩnh vực khoa học pháp lý khác.
a. “Tư duy pháp lý” với tính chất là một khoa học pháp lý cơ bản.
- Không nên nhầm lẫn cho rằng TDPL chỉ là một bộ phận của Lý luận pháp
luật, xã hội học pháp luật hay Triết học pháp luật hoặc đồng nhất với khoa học
về phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý. Mỗi một lĩnh vực khoa học có
nhiệm vụ, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu riêng.
- Là một khoa học pháp lý cơ bản nhưng không có sự đồng nhất với các khoa
học pháp lý cơ bản khác mà có phạm vi nghiên cứu riêng, có sự bổ sung, hỗ trợ
cho các khoa học pháp lý cơ bản khác.
b. “Tư duy pháp lý” trong các lĩnh vực khoa học pháp lý khác:
- Các lĩnh vực khoa học pháp lý chuyên ngành cũng liên quan đến TDPL và lâu
nay cũng đòi hỏi phải tư duy về các vấn đề pháp lý cụ thể. TDPL không làm
thay công việc của những chuyên ngành này mà chỉ hướng đến cung cấp cho
người học phương pháp, cách thức, con đường để đi đến những kết luận đúng.
- TDPL không đi trực tiếp vào việc làm sáng tỏ tất cả các khía cạnh của các
khoa học pháp lý chuyên ngành mà chỉ xây dựng nên các phương pháp cần phải
tuân theo để áp dụng pháp luật đúng đắn.
- TDPL giúp định hướng, giúp người học đặt ra những câu hỏi, trăn trở về nó để
đến đích cuối cùng là đưa ra phương án phù hợp nhất giải quyết một tình huống
pháp lý phát sinh trên thực tế.
3. Ý nghĩa của Tư duy pháp lý
- TDPL trở thành một học phần trong chương trình đào tạo cử nhân luật học đã
góp phần làm phong phú thêm các học phần của chương trình đào tạo. Đây là
học phần giới thiệu những nội dung mới, không trùng lặp với những học phần
đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình đào tạo cử nhân luật học. Học
phần này góp phần bổ sung những vấn đề về phương pháp, kĩ thuật trong áp
dụng pháp luật, thực hiện pháp luật và cách thức vận dụng hiệu quả.
- Giúp người học luật có sự chủ động, tự giác, nhanh nhạy, thể hiện được tính
chính xác, tính triệt để, tính có căn cứ, chứng minh được các lập luận, nâng cao
hiệu quả và tính thuyết phục trong quá trình tranh luận.
- Giúp chúng ta phát hiện ra những sai lầm trong tư duy của chúng ta và người
khác cũng như để tránh khỏi sai lầm trong tư duy do vô tình hay hữu ý phạm
phải. Những phẩm chất này có giá trị to lớn trong hoạt động khoa học và thực
tiễn hành nghề luật.
- Người học có một số kiến thức, kĩ năng và thái độ cần thiết của người hành
nghề luật trong tương lai. Người học sẽ dần hình thành một số khả năng khác
như: khả năng phân tích logic quy phạm pháp luật, khả năng lựa chọn nguồn
pháp luật, khả năng xử lý lỗ hổng pháp luật, xung đột pháp luật, biết cách giải
thích pháp luật. Người học cũng có thể nâng cao khả năng lập luận chặt chẽ,
thuyết phục, biết cách tránh được những sai lầm do vi phạm các quy tắc, quy
luật của tư duy logic khi tranh luận; nắm bắt được các phương pháp tư duy pháp
lý từ đơn giản như các phương pháp tư duy logic hình thức, đến phức tạp hơn là
phương pháp so sánh và phương pháp hiện thực bao gồm các phương pháp như
phân tích dựa trên chính sách, dựa trên cơ sở đạo đức, phương pháp phân tích
tương xứng; phát triển được tư duy phản biện, một phương pháp tư duy rất cần
thiết đối với nghề luật trong tương lai.

4. Tư duy logic là gì? Phân tích các đặc điểm của Tư duy logic?
- Tư duy logic là tư duy có hệ thống, tất yếu, chặt chẽ và chính xác. Tư duy
logic xuất hiện một cách khách quan trong quá trình sinh sống, lao động của con
người. Đối với loài người, phải đến một giai đoạn nhất định tư duy logic mới
hình thành. Đối với mỗi cá nhân cụ thể, phải trải qua một quá trình sống nhất
định, một quá trình hoạt động thực tiễn nhất định, tư duy logic của cá nhân đó
mới dần được hình thành. Tư duy logic chính là đối tượng nghiên cứu của logic
học.

- Phân tích các đặc điểm của tư duy logic:


+ Tư duy có tính hệ thống: các tư tưởng – yếu tố cấu thành của hệ thống, trong
quá trình tư duy tuân theo trình tự nhất định, chúng quan hệ và quy định lẫn
nhau tạo thành kết cấu chặt chẽ, qua đó thấy rõ được tính chỉnh thể của tư
tưởng.
+ Tư duy có tính tất yếu: tư duy thể hiện mối liên hệ nội tại, có tính quy định lẫn
nhau của các tư tưởng; tiến trình vận động và xu hướng phát triển của tư tưởng
phù hợp với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là để tri thức – kết quả của
nhận thức đạt tới chân lý thì tư duy phải diễn ra thế này chứ không thể thế khác.
+ Tư duy có tính chặt chẽ: tư duy có sự liên kết bền vững giữa các tư tưởng bảo
đảm tính nhất quán, rõ ràng, mạch lạc, không mâu thuẫn và dựa trên những cơ
sở vững chắc, phù hợp với logic khách quan. Hay nói cách khác, tư duy chặt chẽ
tức là tư duy theo các quy tắc nhất định đã được con người đúc kết trong quá
trình suy nghĩ, dựa trên cơ sở vững chắc và có lý do đầy đủ.
+ Tư duy có tính chính xác: tư duy có nội dung phù hợp với đối tượng phản ánh.
Đó là tư tưởng phản ánh tương đối đầy đủ những phẩm chất cơ bản, xác định
của đối tượng, giúp cho mọi người trao đổi thông tin, tiếp cận thông tin một
cách chính xác.

5. Phương pháp IRAC (Issue – Rule – Application – Conclusion)


- Phương pháp này gồm 4 bước:
+ Bước 1: Trình bày vấn đề cụ thể.
+ Bước 2: Trình bày quy phạm pháp luật được áp dụng.
+ Bước 3: Phân tích.
+ Bước 4: Đưa ra kết luận.
- Issue (Vấn đề - tình huống thực tế): “Vấn đề pháp lý đang được tranh luận là
gì?”. Thường thì các tình huống pháp lý rất dài, rất nhiều tình tiết, nhiệm vụ của
ta là cần tóm lược được tình tiết có ý nghĩa pháp lý.
- Rules (Quy định pháp luật liên quan - quy tắc áp dụng): Đặt các câu hỏi:
+ Thuộc lĩnh vực/những lĩnh vực nào: dân sự, hình sự, hành chính, thương
mại...
+ Văn bản pháp luật/những văn bản pháp luật nào quy định?
+ Quy tắc nào/những quy tắc nào trong văn bản pháp luật đó đang có hiệu lực?
+ Trước đó đã từng có tập quán, quy phạm tương tự, án lệ/vụ án nào tương tự đã
được giải quyết liên quan đến trường hợp cụ thể đang phải giải quyết
không?/Có những vụ việc nào tương tự đã từng được giải quyết hay chưa?
- Analysics (Vận dụng luật vào tình huống - phân tích):
+ Là cách vận dụng luật cụ thể vào tình huống của ta đang giải quyết như thế
nào. Khi phân tích cần cân nhắc:
· Tại sao dùng điều luật này mà không dùng điều luật khác?
· Hệ quả pháp lý của những quy tắc này là gì? Điểm mạnh và điểm yếu của từng
cách giải quyết là gì? Giải quyết tối ưu nhất là gì?
- Conclusion (kết luận): Đây là hệ quả của ba bước trên, là phần nhấn mạnh,
khẳng định quan điểm và cách giải quyết cuối cùng của bạn.

6. Phương pháp Tam đoạn luận (syllogismos)

Phương pháp Tam đoạn luận là phương pháp gồm có ba mệnh đề, trong đó
hai mệnh đề đặt trước, mệnh đề thứ ba do chúng mà ra một cách tất nhiên, mệnh
đề thứ ba này đã ngầm chứa trong hai mệnh đề trên.
A+B=C (1)

D+E=A+B (2)

D+E=C (3)

- Tam đoạn luận đơn giản trên thường được gọi là tam đoạn luận nhất quyết,
trong đó cấu trúc của nó bao gồm hai tiền đề, đứng trước là đại tiền đề, đứng
sau là tiểu tiền đề và một kết luận. Quá trình đi từ tiền đề đến kết luận là tất suy
logic.

Ví dụ:

Mệnh đề chính: Ai vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Mệnh đề phụ: Nhóm anh A đua xe máy, tổ chức đua xe trái phép là vi phạm
pháp luật.

Kết luận: Nhóm anh A đua xe máy, tổ chức đua xe trái phép sẽ bị xử lý theo quy
định của pháp luật.

7. Phương pháp tư duy quy nạp


Phương pháp tư duy quy nạp là phương pháp tư duy trong đó tiến trình tư tưởng
trong đại đa số trường hợp đi từ sự hiểu biết về cái riêng để rút ra kết luận
chung cho cả lớp đối tượng.
Sức mạnh của tranh luận quy nạp không phụ thuộc vào số lượng ví dụ, mà phụ
thuộc vào tính đại diện của các mẫu ví dụ.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng gửi giữ tài
sản,... đều yêu cầu khi tham gia giao kết các bên phải thiện chí, trung thực. Vì
vậy tất cả các hợp đồng đều đòi hỏi khi giao kết phải thiện chí, trung thực.

8. Phương pháp suy luận đối nghịch (argumentum a contrario)


Phương pháp suy luận đối nghịch hay còn gọi là suy luận ngược, là phương
pháp mà người ta có thể áp dụng giải pháp ngược lại với giải pháp mà luật đã
dữ liệu cho những trường hợp trái ngược nhau.
Kết quả của suy luận đối nghịch phải là kết luận mà về mặt logic là không trái
luật.
Ví dụ: Điều 123 của X nói rằng “những chiếc xe ô tô màu xanh lá cây thì sẽ có
lốp màu xanh lục”.
Suy luận đối nghịch là “những chiếc xe không phải màu xanh lá cây không cần
phải có lốp màu xanh lục”.

9. Phương pháp suy luận tất nhiên (fortiori)


Phương pháp suy luận tất nhiên là một hình thức tranh luận dựa trên sự hiện
diện của một mệnh đề đúng đắn (mệnh đề mạnh), mệnh đề này có khả năng
củng cố tính xác thực của một mệnh đề thứ 2 khác (mệnh đề yếu).

Ví dụ: Pháp luật quy định người không có năng lực hành vi sẽ không phải chịu
trách nhiệm pháp lý. Suy luận tất nhiên là người bị tâm thần sẽ không phải chịu
trách nhiệm pháp lý.

Suy luận tất nhiên có hai dạng:

Dạng thứ nhất là suy luận từ cái lớn hơn đến cái nhỏ hơn (Argumentum a maiori
ad minus). Suy luận từ cái lớn hơn đến cái nhỏ hơn (from the greater to the
smaller) liên quan đến suy luận pháp lý mà cho phép ai làm điều gì, suy luận
mệnh lệnh yêu cầu ai đó phải làm gì.

Dạng thứ hai là suy luận từ cái nhỏ hơn đến cái lớn hơn (Argumentum a minori
ad maius). Hình thức suy luận này thường được diễn đạt như sau: Ai mà bị cấm
đoán làm những hành vi ít gây hại hơn, thì cũng bị cấm đoán làm những hành vi
gây hại nhiều hơn.
10. Phương pháp tư duy tuyến tính (Linear reasoning) và phi tuyến tính
(Lateral Reasoning)
1. Phương pháp tư duy tuyến tính
Tư duy tuyến tính là một quá trình phân tích liên tục gồm nhiều bước khác nhau
để đi đến một kết luận cuối cùng. Thực chất đây là tư duy gián tiếp, dựa trên
tính bắc cầu của phép kéo theo.
Công thức chung: nếu x = y, y = z, z = m => x=m

Ví dụ: Nếu trời mưa thì đường ướt


Nếu đường ướt thì đi lại sẽ bẩn
Vậy, nếu trời mưa thì đi lại sẽ bẩn

Ví dụ: A bị tâm thần nên…


A không có năng lực hành vi
Vì A không có năng lực hành vi nên A không có lỗi
Vì A không có lỗi nên A không vi phạm pháp luật
A không vi phạm pháp luật nên A không phải chịu trách nhiệm pháp lý
Kết luận: A không phải chịu trách nhiệm pháp lý

Ví dụ: A và B cùng ký kết một hợp đồng dân sự


A sử dụng chất kích thích trong lúc ký kết hợp đồng
Vì A sử dụng chất kích thích nên trong khi ký kết A mất năng lực hành vi
dân sự
Vì A mất năng lực hành vi dân sự, nên A không đủ điều kiện tham gia
vào giao dịch dân sự
Kết luận: Hợp đồng dân sự giữa A và B vô hiệu.

2. Phương pháp tư duy phi tuyến tính


Trong thực tế. ta cần sử dụng tư duy phi tuyến tính nhiều hơn, đây là cách tư
duy đa hướng, phân tích các hướng và lựa chọn phương án tốt nhất. thực chất
đây là tư duy giải quyết vấn đề thông qua cách tiếp cận gián tiếp và sáng tạo. Ý
tưởng mới chỉ xuất hiện khi chúng ta thách thức chính giả thiết của vấn đề đưa
ra
VD: bạn đang lái xe trong một cơn bão và gặp ba người đứng trên lề. Một bà lão
có vẻ như sắp gục ngã. Một người bạn từng cứu mạng mình. Người còn lại là
người tình trong mộng của bạn, và đây là cơ hội 1000 năm có một của bạn để
tiếp cận người ấy. Bạn chỉ còn một chỗ ngồi trong xe. Bạn sẽ cho ai đi nhờ.
Phương pháp tối ưu: cho bà lão lên xe. Giao chìa khóa cho người bạn. Bạn sẽ ở
lại với người thầm thương trộm nhớ của mình và cùng đón xe buýt.
VD: trong một cái nhà kho bằng gỗ hoàn toàn bỏ trống. Có một người đàn ông
tìm được thấy treo cổ trên cây xà ngang chính. Sợi dây thường ông ấy dùng để
treo cổ là 3m. Chân ông ấy cách sàn nhà 25cm. Dưới sàn vẫn còn đọng nước.
Bức tường gần nhất cách 6m. Không thể leo tường hoặc với tới sà ngang. Vậy
mà người đàn ông đó có thể tự treo cổ được. Vậy làm sao ông ấy làm được điều
đó. Đáp án ông ấy leo lên một tảng băng, rồi nó tự tan dần bởi nhiệt
VD: bạn bị mắc kẹt trong một căn phòng phép thuật với hai lối ra. Lối ra đầu
tiên là một căn phòng làm bằng kính lúp khổng lồ, mặt trời sẽ thiêu đốt bạn cho
đến chết. Lối ra thứ hai là một căn phòng giam giữ con rồng lửa, sẽ nướng bạn
cháy khét khi gặp nó. Bạn chọn lối ra nào. Đáp án lối ra thứ nhất. Bạn chỉ cần
chờ khi mặt trời lặn rồi thoát ra
VD: phán quyết của vua Solomon là một câu chuyện trong kinh thánh của người
Do Thái, kể về cuộc xử án của vua Do Thái trong vụ tranh chấp con của hai bà
mẹ. Cả hai người phụ nữ đều nhận đó là con của mình, tất nhiên 1 trong 2 là kẻ
mạo danh. Đối với vụ án tranh chấp, vua đã yêu cầu cưa đôi đứa trẻ, mỗi người
được nhận một nửa và cuối cùng vụ án đã được giải quyết. Đáp án bà mẹ thật sự
khi nghe phán quyết như vậy đã chấp nhận nhường đứa con cho kẻ mạo danh để
bảo vệ tính mạng của con mình. Vua thông minh đã biết được ai là người mẹ
thật sự thông qua phản ứng của bà ta.
VD: một bà già mất gà đã nổi điên chửi hàng xóm hết ngày này qua ngày khác.
Cả xóm hết chịu nổi, bèn kéo nhau đến công đường nhờ phán xử. Vị quan cho
phép mọi người thẳng tay tát kẻ làm náo loạn. Bằng cách nào vị quan đã tìm
được kẻ trộm gà thực sự. Đáp án: người bình thường nghĩ đến tình làng nghĩa
xóm, lại thương bà già của đau con xót, nên chỉ muốn tát rất nhẹ. Riêng kẻ
trộm, vì bị nguyền rủa, đã xuống tay rất mạnh.

11. Phương pháp suy luận phản chứng (argumentum ad absurdum)


Suy luận phản chứng là hình thức suy luận để bác bỏ một nhận định không có
căn cứ bằng việc chỉ ra sự vô lý của nhận định đó thông qua một suy luận khác.
Cần lưu ý rằng chỉ khi tồn tại một suy luận không có căn cứ, có lỗi logic, ta mới
áp dụng phương thức suy luận này. Thực chất phương pháp này ra đời trên cơ
sở ta biết vận dụng luật cấm mâu thuẫn, áp dụng nó trong lĩnh vực pháp lý. Để
bác bỏ một luận đề nào đó, ta phải chứng minh phản đề của nó là đúng đắn.
Phản đề đúng thì theo luật cấm mâu thuẫn, luận đề phải sai.
VD: tại một địa điểm công cộng có biển báo: “Xin đừng ngắt hoa”. Một đứa trẻ
nói với mẹ của cậu là: “Đó chỉ là một bông hoa thôi mà”. Mẹ cậu đáp: “Đúng
rồi, nhưng nếu mọi người mà ai cũng đến ngắt một bông hoa thôi, thì sẽ chẳng
còn gì là vườn hoa nữa”. Để bác bỏ một luận đề “đó chỉ là một bông hoa thôi
mà”, bà mẹ đã đưa ra một phản đề, giá trị có phản đề là đúng đắn. Phản đề đúng
thì theo luật cấm mâu thuẫn, luận đề phải sai. Khi người mẹ nói “nếu mọi người
mà ai cũng đến đặt một bông hoa thôi, thì sẽ chẳng còn gì là vườn hoa nữa” đứa
trẻ đó sẽ tự nhận ra câu nói của mình là sai và hành động hái hoa là việc không
nên làm.
VD: cậu con trai bỏ học đi chơi nhưng về nói với bố rằng “các bạn con ở lớp
cũng thế”. Ông bố hỏi lại “thế nếu các bạn của con cũng nhảy lầu tự tử, thì con
cũng nhảy à”. Để bác bỏ một luận đề “các bạn con ở lớp cũng thế”, tức là cũng
nghỉ học đi chơi, ông bố đã đưa ra một phản đề, giá trị của phản đề là đúng đắn,
cậu con trai cô sẽ tự nhận ra câu hỏi của mình là sai và hành động tự ý nghỉ học
đi chơi là việc đương nhiên không liên lạc
VD: Bà F nói với chồng mình là bà ta sẽ tự tử nếu người chồng ly dị bà ấy. Khi
người chồng một buổi tối không về nhà, bà F đã tự tử. Liệu có thể xử người
chồng tội giết người được không. Ta có thể áp dụng phương pháp này như sau:
nếu xử tử M tội giết người thì có thể suy ra bất cứ ai mà làm cho vợ mình không
vừa lòng hoặc các cặp vợ chồng ly dị dẫn đến việc một trong hai bên tự tử, thì
người kia sẽ đều có thể trở thành người giết người

12. Phương pháp tư duy so sánh tương đồng (reasoning by analogy) và tư


duy so sánh tương phản (reasoning by distinguishing)
1. Phương pháp so sánh tương đồng
Các phương pháp so sánh tương đồng về so sánh tương phản là những phương
pháp được luật sư và thẩm phán sử dụng rất phổ biến khi tiếp cận giải quyết các
tình huống pháp lý và các vụ việc được đưa ra trước tòa án. Các phương pháp
này dựa trên nguyên tắc cơ bản của truyền thống common law- nguyên tắc stare
decisis (tiền lệ phải được tuân thủ), theo đó, những vụ việc có tình tiết giống
nhau thì phải được giải quyết giống nhau để đảm bảo tính thống nhất của pháp
luật, có những vụ việc có tình tiết khác nhau thì phải được giải quyết khác nhau
Phương pháp so sánh tương đồng: phương pháp so sánh tương đồng giúp
chúng ta đi đến kết luận bằng cách chỉ ra những điểm tương đồng giữa vụ việc
đã được giải quyết trước đây (tiền lệ) với vụ việc đang được giải quyết. Dạng
thức phổ biến nhất của phương pháp so sánh tương đồng là chỉ ra những điểm
giống nhau giữa các tình tiết, sự kiện trong tiền lệ và tình tiết trong vụ việc đang
được giải quyết. Có thể khái quát công thức của phương pháp so sánh sinh động
như sau:
Trong vụ A kiện B, tòa án đã ra phán quyết X. Tình tiết trong vụ này tương tự
với tình tiết trong vụ án A kiện B. Do đó, trong vụ này, tòa án cũng sẽ ra phán
quyết X.
Theo nguyên tắc này, nếu luật đã giải quyết một trường hợp tương tự thì có thể
căn cứ vào trường hợp đó để giải quyết trường hợp đang tranh chấp.
Tác giả Edward Levi đã mô tả lập luận pháp lý về cơ bản của ba bước sau đây:
Bước 1: thiết lập những điểm tương đồng giữa hai vụ việc.
Bước 2: chỉ ra quy tắc pháp lý đã được tìm thấy trong vụ việc đã xảy ra.
Bước 3: áp dụng quy tắc pháp lý đó cho vụ việc đang phải giải quyết.
Ví dụ tồn tại quy tắc một người nuôi giữ một động vật hoang dã là một con hổ
phải chịu trách nhiệm pháp lý cho bất kỳ thiệt hại nào gây ra bởi động vật này.
Quy tắc này có thể áp dụng cho chó Pitbull. Cần phải tìm ra những tiêu chí khác
nhau để khẳng định cho Pitbull có những đặc điểm giống với con hổ, nếu muốn
chứng minh có sự tương đồng.
So sánh tương đồng là một phương pháp lập luận đi từ một cái cụ thể này đến
một cái cụ thể khác. Đây không phải đi từ cái chung đến cái riêng hay từ cái
riêng đến cái chung như hai phương pháp diễn dịch và quy nạp đã nêu ở phần
trên.
Do hệ thống pháp luật Anh Mỹ dựa vào án lệ nên lập luận pháp lý sẽ tập trung
vào phương pháp so sánh tương đồng theo nguyên tắc các vụ án tương tự phải
được xét xử tương tự.
Lập luận pháp lý chủ yếu dựa vào sự tương đồng giữa vụ việc đang được giải
quyết với vụ việc đã được giải quyết trước đó, vụ việc mà đã thiết lập tiền lệ cho
quyết định pháp lý.
So sánh tương đồng giữa các vụ việc thường là kết quả tư duy sáng tạo cao của
luật sư và thẩm phán. Trước hết phải xác định được những vụ việc nào sẽ được
coi là tương tự, căn cứ vào những tình tiết nào. Trên thực tế đôi khi thẩm phán
và luật sư phải đối mặt với những vụ việc thiếu tiền lệ một cách rõ ràng, được
gọi là cases of first impression. Trong những trường hợp này để giải quyết một
cách thuyết phục, luật sư và thẩm phán phải tổng kết từ nhiều vụ việc có liên
quan, để đưa ra phương án giải quyết.
So sánh tương đồng thường liên quan đến việc so sánh hai hay nhiều hơn các
công việc và đòi hỏi một đặc tính nào đó giữa các vụ việc đó rút ra, đây là một
đặc tính mang tính hệ quả từ việc so sánh các đối tượng cụ thể. Ngoài ra, việc so
sánh đòi hỏi một sự giải thích công bằng, khách quan và các quy phạm. Các quy
tắc pháp lý thường mang tính trừu tượng, khái quát hóa cao. Cho nên, thiếu sự
giải thích công bằng, khách quan thì được so sánh có thể mắc sai lầm.
VD: một người chạy bộ ngang qua một tấm biển đề: “Phạt 100 đô la cho hành
vi xả rác”. Chạy tiếp vài bước nữa, người này ăn một quả chuối và anh ta ném
vỏ chuối xuống đất. Một cảnh sát xuất hiện. Trước đó, cảnh sát này đã không xử
phạt cho người làm đổ cà phê xuống đất và đã xử phạt cho người ném vỏ kẹo.
Câu hỏi đặt ra cảnh sát phạt người chạy bộ này ném vỏ chuối xuống đất được
không. Luật sư cần đặt những câu hỏi nào để tư duy.
Luật: xả rác phạt 100 đô.
Luật sư hỏi: xả rác nghĩa là gì?
Khi câu chữ trong luật mơ hồ, thì luật sư sẽ tìm đến những trường hợp tiền lệ
mà luật đã được áp dụng trước đó.
Bằng cách so sánh những sự thật từ vụ việc hiện tại với các sự kiện có tiền lệ.
Luật sư có thể dự đoán được là sẽ áp dụng như thế nào trong vụ việc hiện tại.
Câu hỏi 1: rác lỏng hay rắn. Cà phê là chất lỏng, vỏ kẹo và bỏ chuối là chất rắn.
Câu hỏi 2: tự nhiên hay nhân tạo. Vỏ kẹo là nhân tạo và vỏ chúa ra tự nhiên. Hạt
cà phê tự nhiên như khi được chế biến là nhân tạo.
Câu hỏi 3: bạn sẽ bộ phận nào vào thùng rác. Cà phê thì chắc chắn là không. Vỏ
kẹo thì chắc chắn được. Vỏ chuối có thể.
Kết luận vỏ chuối giống vỏ kẹo hơn. Cũng bởi vì bộ chuối giống vỏ kẹo hơn,
nên pháp nên theo phép lập luận loại suy ta sẽ suy ra kết luận giống nhau. Vì
vậy, người cảnh sát nên phạt người chạy bộ vì hành vi vứt vỏ chuối xuống
đường.
2. Phương pháp so sánh tương phản
Phương pháp so sánh tương phản giúp chúng ta đi đến kết luận bằng cách chỉ ra
những điểm khác biệt (thường là về tình tiết) giữa vụ việc đã được giải quyết
trước đây và vụ việc đang cần giải quyết. Công thức chung là
Trong vụ A kiện B, toà án đã ra phán quyết X
Tình tiết trong vụ này khác biệt với tình tiết trong vụ A kiện B
Do đó trong vụ này tòa án sẽ không ra phán quyết X mà sẽ ra phán quyết tương
phản với phán quyết X.

Đối với các vụ việc khác nhau, quy tắc của vụ việc trước không thể áp dụng đối
với vụ việc hiện tại.
VD: quy tắc “một người nuôi giữ một động vật hoang dã ví dụ một con hổ, phải
chịu trách nhiệm pháp lý cho bất kỳ thiệt hại nào gây ra bởi động vật này”. Quy
tắc này có thể áp dụng với một con chó cảnh toy poodles, bạn cần phải chỉ ra
những tiêu chí cụ thể để chứng minh rằng chó cảnh cũng là chó nhưng nó hoàn
toàn khác với Pitbull và càng khác với một con hổ.
Trong khoa học pháp lý để phân biệt một vụ việc này với một vụ việc khác ta
thường so sánh giữa hai vụ việc để thấy chúng khác nhau về phương diện thực
tế vật chất. Phán quyết phải dựa trên những bằng chứng có thật và tiêu chuẩn
của những án lệ ràng buộc mà liên quan đến vấn đề đang giải quyết mà phán
quyết đó phải tuân theo.
Bà X bị chồng bạo hành nhiều năm. Một đêm ông chồng về nhà trong trạng thái
say rượu, cầm một khẩu súng đe dọa giết bà X. Sau đó anh ta ngủ trên ghế. Bà
X cầm súng bắn chết ông chồng lúc đang ngủ.
Trước đó, tòa án đã xử vụ việc sau tên trộm Y vào nhà thấy chủ đang ngủ say,
bắn chết chủ nhà. Tòa án kết luận tên trộm Y phạm tội giết người.
Câu hỏi: bà X có phạm tội giết người giống tên trộm Y không.
Trong trường hợp này bạn có thể thấy tên trộm Y và bà X đều có điểm giống
nhau là tước đoạt mạng sống của người khác, nhưng vụ việc trước và vụ việc
sau không hoàn toàn giống nhau. Bạn phải bám vào chi tiết.
Chi tiết 1: bà X đã bị chồng bạo hành nhiều năm.
Chi tiết 2: ông chồng về nhà trong trạng thái say rượu, cầm một khẩu súng đe
dọa giết bà X.
Khác với vụ việc trước.
Chi tiết 1: Y đột nhập vào nhà là để trộm.
Chi tiết 2: Y thấy chú đang ngủ say bắn chết chủ nhà.

13. Phương pháp phân tích dựa trên chính sách (policy-based reasoning)

- Phương pháp lập luận dựa trên chính sách có sự khác biệt cơ bản với các
phương pháp lập luận khác ở chỗ nó luôn luôn xuất phát từ dự báo về hệ quả sẽ
xảy ra nếu tòa án giải thích pháp luật theo một hướng nhất định. Người lập luận
dựa trên chính sách cố gắng thuyết phục rằng tòa án nên hay không nên giải
thích pháp luật theo một hướng nhất định thời như vậy sẽ có lợi về mặt chính
sách công, đem lại kết quả tốt nhất cho xã hội nói chung chứ không chỉ cho các
bên tranh chấp trong vụ án.
- Lập luận dựa trên chính sách thường gồm hai bước: dự đoán và đánh giá.
Bước thứ nhất là tòa án dự đoán hậu quả xảy ra nếu giải thích pháp luật theo
cách này hay cách khác. Tiếp theo, tòa án sẽ đánh giá và lựa chọn xem hậu quả
nào sẽ thống nhất và phù hợp với các giá trị nền tảng của pháp luật.

14. Phương pháp phân tích tương xứng (proportionality)

Phương pháp phân tích tương xứng là phương pháp được sử dụng để đánh giá,
đo lường về sự phù hợp giữa công cụ, biện pháp, phương tiện và mục đích đặt
ra (thường được sử dụng khi xem xét các hành vi của công quyền). Phương
pháp này được tiến hành xét 4 khía cạnh: Tính chính đáng của mục đích, tính
cần thiết, tính phù hợp và tính chừng mực.

15. Phương pháp phân tích dựa trên cơ sở đạo đức (moral reasoning)

Phương pháp lập luận dựa trên cơ sở đạo đức là phương pháp lập luận dựa vào
chuẩn mực chung được xã hội thống nhất về những hành vi đúng đắn hoặc sai
trái để từ đó đưa ra được những quyết định pháp lý thay vì chỉ dựa trên cơ sở
pháp luật và chính sách.

16. Luật đồng nhất: khái niệm, nội dung và ví dụ cụ thể ứng dụng trong
lĩnh vực pháp lý
- Khái niệm: Là quy luật cơ bản của quá trình tư duy, mọi tư tưởng phải đồng
nhất với chính nó. Quy luật này thể hiện một đặc điểm của tư duy đó là tính xác
định, nhất quán của tư duy.
- Nội dung: Trong quá trình tư duy, mọi tư tưởng phải đồng nhất với chính nó
Công thức: A = A
Thực tế phản ánh đúng đối tượng, đúng những dấu hiệu vốn có. Và mỗi thuật
ngữ chỉ được dùng một nghĩa duy nhất.
Vi phạm luật đồng nhất có thể do cố ý, thiếu hiểu biết hoặc ngôn ngữ phức tạp,
không dấu, có sự thêm, bớt.
- Ví dụ:

17. Luật cấm mâu thuẫn: khái niệm, nội dung và ví dụ cụ thể ứng dụng
trong lĩnh vực pháp lý
- Khái niệm: Là một quy luật cơ bản trong quá trình tư duy logic, lập luận về
một đối tượng xác định nào đó, không thể đồng thời khẳng định và phủ định
một cái gì đó trong cùng một mối quan hệ và cùng một thời gian.
- Nội dung: Khi lập luận về một đối tượng xác định trong cùng một mối quan
hệ và cùng một thời gian, hai phán đoán đối lập nhau không thể cùng chân thực
nếu cùng một đối tượng, cùng một thời gian và cùng một mối quan hệ.
Công thức: Không thể vừa A vừa không A
Vi phạm trường hợp này là trường hợp mâu thuẫn logic là mang tính chủ quan,
thể hiện sự suy nghĩ, nói năng “tiền hậu bất nhất”.

18. Luật triệt tam: khái niệm, nội dung và ví dụ cụ thể ứng dụng trong lĩnh
vực pháp lý
- Khái niệm: Là một quy luật cơ bản trong quá trình tư duy logic, lập luận, cần
đưa vấn đề đến khẳng định hoặc phủ định một cách dứt khoát. Giữa tồn tại và
không tồn tại không có khái niệm trung gian.
- Nội dung: Giữa 2 phán đoán phủ định nhau, thì phán đoán chân thực chỉ có
một, phán đoán còn lại giả dối và không có cái thứ 3.
Công thức: Hoặc là A hoặc là không A
Ví dụ:

19. Luật lý do đầy đủ: khái niệm, nội dung và ví dụ cụ thể ứng dụng trong
lĩnh vực pháp lý

- Khái niệm: Quy luật lý do đầy đủ là một quy luật cơ bản của tư duy yêu cầu
trong quá trình tư duy, lập luận, một phán đoán chỉ được coi là chân thực nếu có
đầy đủ cơ sở để luận chứng cho nó (tức là được chứng minh)
- Nội dung: Quy luật lý do đầy đủ phát biểu: Một tư tưởng, một ý nghĩ đã định
hình trong tư duy phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định thì chỉ được công
nhận là chân thực (hay giả dối) khi có đầy đủ căn cứ, đầy đủ lý do để chứng
minh cho tính chân thực (hay giả dối) của nó.
- Cơ sở của quy luật gồm 2 khía cạnh:
+ Cơ sở khách quan: Là nguyên nhân, kết quả tác động của nó là hệ quả.
+ Cơ sở logic: Là việc viện dẫn nguyên nhân hoặc hệ quả để suy ra một kết luận
khác.
- Ví dụ:

20. Ngụy biện là gì? Ý nghĩa của việc phát hiện lỗi ngụy biện trong tranh
luận?

- Khái niệm: Ngụy biện là lối lập luận quanh co, là những lí lẽ mà bề ngoài có
vẻ logic, có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất là
những người mang nặng cảm tính. Ngụy biện là sản phẩm của sự lười suy nghĩ,
vi phạm luật logic nhằm làm cho người khác hiểu sai sự thật.
- Ý nghĩa của việc phát hiện lỗi ngụy biện: Khi phát hiện được lỗi ngụy biện,
chúng ta sẽ tránh được việc tin vào những điều không đúng đắn, những lý lẽ giả
dối. Từ đó, hiểu được sự thật và chân lý phía sau một vấn đề.

21. Lỗi ngụy biện tấn công cá nhân (Ad Hominem)

- Khái niệm: Lỗi ngụy biện tấn công cá nhân là kiểu ngụy biện tấn công vào đối
thủ tranh luận thay vì tập trung vào vấn đề đang tranh luận, trong khi người
tranh luận và vấn đề vốn dĩ không liên quan gì đến nhau.
- Đặc điểm: Người mắc lỗi này tấn công vào hoàn cảnh, thân phận, cử chỉ, ngôn
từ không liên quan đến cách lập luận và dựa vào điều này để dồn đối phương
vào thế sai.
- Hình thức lỗi ngụy biện tấn công cá nhân: A phát biểu một vấn đề, B không
đồng tình và tấn công cá nhân A – làm cho người khác nghi ngờ quan điểm của
A.
Ví dụ: Câu nói khá thông dụng của các bạn trẻ khi tranh luận với nhau: "Làm
được như người ta đi rồi hãy nói”.
Ngoài những gì đối phương làm được hay không làm được không dính dáng gì
đến tính đúng sai, logic lời người ta đang nói cả. Câu này mang tính chất hạ
thấp người đối thoại.

22. Lỗi ngụy biện “lợi dụng quyền lực” (ad verecundiam)
- Khái niệm: dùng câu nói của những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người
ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình.
- Ví dụ:
+ Chúng ta nên tin vào Đấng toàn năng vì cả hai nhà vật lý học đại tài Michio
Kaku và Albert Einstein đều tin vào điều đấy.
+ “A là người tốt nghiệp ĐH Luật nên chắc chắn anh ta không bao giờ có thể
phát biểu sai khi nói về luật được”

23. Lỗi ngụy biện “Đặt nghĩa vụ chứng minh” (Burden of Proof)
- Khái niệm: Ai đưa ra ý kiến, người đó phải chứng minh. Đây là trường hợp
bên cần phải chứng minh áp đặt nghĩa vụ chứng minh cho người khác.
- Ví dụ:

A: “Có một thống kê trên toàn cầu cho biết rằng hơn 97% người luôn mồm chửi
chế độ là những kẻ thất bại trong công việc, sự nghiệp hay cảm thấy không hài
lòng về cuộc sống hiện tại của mình”

B: “Con số 97% ở đâu ra? Tôi nghi ngờ nó”

A: “Bạn hãy chứng minh con số tôi đưa ra là sai”

24. Lỗi ngụy biện “hai sai thành một đúng” (two wrongs make a right)
- Khái niệm: Người nói đưa ra một cái sai tương tự để biện hộ, giảm nhẹ, hoặc
làm lạc hướng cái sai của sự vật đang xét đến.
- Cấu trúc: Đối tượng B làm một điều X với A thì A cũng có quyền làm điều Y
với B.
- Ví dụ:
+ “Vì mày ăn trộm chó của tao trước nên tao có quyền đánh chết mày”
+ A: “Việt Nam tham nhũng ghê quá!”
B: “Nước nào mà chả có tham nhũng.”

25. Lỗi ngụy biện “được nhiều người tin thì đúng” (Appeal to Belief)
Đây là lỗi ngụy biện mà người mắc lỗi tìm sự ủng hộ của đám đông, khi họ cho
rằng những gì đám đông tin thì luôn đúng.
VD: Đại đa số mọi người trong lớp đều ủng hộ bạn A nên hành động của bạn A
là đúng đắn.

26. Lỗi ngụy biện “dựa vào số đông” (ad numerum)


Đây là lỗi ngụy biện mà người mắc lỗi chứng minh mình đúng bằng cách chỉ ra
rằng nhiều người cũng hành động giống như họ
VD: Bởi vì tôi thấy nhiều hàng xóm cũng đổ rác ở chỗ này nên tôi cũng đổ rác ở
đây.

27. Lỗi ngụy biện “cái xảy ra sau” (Post Hoc):


Đây là lỗi ngụy biện xảy ra khi người mắc lỗi mặc định rằng cái xảy ra sau một
hành động sẽ luôn là kết quả của hành động đó.
VD: Ông X: vì sáng nay vừa bước chân ra đường tôi đã gặp phụ nữ nên cả ngày
hôm nay tôi toàn gặp xui xẻo.

28. Lỗi ngụy biện lợi dụng nặc danh (anonymous authority)
- Người ngụy biện đưa ra thông tin mà không chỉ rõ nguồn từ đâu, ai nghiên
cứu, khi nào → cách nói không khả tín, không xác thực.
- VD: M nói: “Người ta tố cáo anh nhận phong bì đút lót trên mạng mà anh
không biết à?”
+ Người ta là ai? trên mạng là trên nền tảng nào? khi nào? có kèm theo bằng
chứng không?

29. Lỗi ngụy biện người rơm (straw man):


- Cách ngụy biện khi người nói muốn hạ bệ, bóp méo, suy diễn lời nói của đối
phương để giành phần lợi cho luận điểm của mình; thường đc sử dụng khi
người nói tách câu nói của đối phương ra khỏi ngữ cảnh gốc.
- VD:
A: “Tác phẩm này chủ yếu là em làm, tại sao tác giả không ghi tên em mà lại
ghi là “Nhóm nghiên cứu” vậy ạ?”
B: “Hóa ra cậu đặt danh tiếng cá nhân của mình lên trên mục đích của cả nhóm
à, cậu trên cả tập thể sao?”
A: “Dạ em không có ý đó”
B: “À thế là tôi hiểu sai ý cậu sao?”
→ Rõ ràng A không có suy nghĩ là đặt mình lên trên tập thể, cậu ấy chỉ muốn
bày tỏ ý kiến của mình, nhưng B đã cố tình hiểu sai ý của A biến ý kiến của A
thành thái độ không tôn trọng tập thể.

30. Lỗi ngụy biện khái quát hóa vội vã (secundum quid)
- Đưa ra kết luận bằng cách khái quát hóa từ vài ví dụ lặt vặt khác, không mang
tính đại diện.
- VD: A: “Mấy con mèo nhà tôi đều có lông màu tam thể chứng tỏ tất cả mèo
trên thế giới đều có lông màu tam thể”.
→ Rõ ràng ngoài màu tam thể thì mèo còn có màu vàng, trắng, vằn,... nhưng chỉ
từ vài con mèo của anh ta mà anh ta kết luận tất cả số mèo còn lại đều như vậy.

31. Nguồn pháp luật là gì? Kỹ thuật xác định nguồn pháp luật?
- Nguồn pháp luật nói chung được hiểu là các căn cứ đảm bảo tính hợp pháp,
hợp lý được các chủ thể sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích,
vận dụng để giải quyết các vụ việc pháp lý phát sinh theo thực tế. Theo nghĩa
này, nguồn pháp luật bao gồm nguồn nội dung và nguồn hình thức.
+ Nguồn nội dung là cơ sở để các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, ban hành
pháp luật.
Ví dụ: đường lối, chính sách của Đảng, các nguyên tắc chung của pháp luật,…
+ Nguồn hình thức được hiểu là cơ sở để vận dụng giải quyết các vụ việc pháp
lý phát sinh trên thực tế.
Ví dụ: tập quán pháp, án lệ và các văn bản quy phạm pháp luật.
- Kỹ thuật xác định nguồn pháp luật: cần xem xét mối quan hệ giữa các loại
nguồn, thứ bậc áp dụng các loại nguồn.
+ Về thứ bậc áp dụng: Hiến pháp, Văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam tham
gia ký kết, VBQPPL, Tập quán, Áp dụng pháp luật tương tự, Các nguyên tắc
chung của pháp luật, Án lệ, Lẽ công bằng.
+ Theo thứ tự áp dụng khi không có các nguồn ở mức độ cao hơn thì các nguồn
ở dưới mới được áp dụng.

32. Phân biệt giả định xác định và giả định không xác định
- Giả định xác định: bao gồm các dữ liệu được nhà làm luật lượng hóa trước
những dữ liệu như số lượng, cân nặng, công cụ, thời điểm cụ thể. Những dữ liệu
này do đã được cụ thể hóa nên thường không cần giải thích thêm mà có thể áp
dụng được ngay.
- Giả định không xác định: chứa các thuật ngữ, khái niệm chưa được cụ thể hóa
hoặc cần phải được giải thích.
+ Điều kiện giả định mô tả: liên quan đến những vật thể hoặc đối tượng, đặc
tính như con người, nhà cửa, phương tiện, công cụ…
VD: Cấm xe cộ đi lại trong công viên
+ Điều kiện giả định quy tắc: liên quan đến sự đánh giá về mặt pháp lý, thường
chứa đựng thuật ngữ mang tính định tính như “nguy hiểm”, “khi cần thiết”,
“ngay tình”
VD: Về phòng vệ chính đáng trong Bộ luật Hình sự 2015: PVCĐ là hành vi của
người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình mà chống trả lại một
cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của mình…

33. Phân biệt hệ quả pháp lý xác định và hệ quả pháp lý không xác định
- Hậu quả pháp lý xác định: chẳng hạn hậu quả pháp lý trong các lĩnh vực như
hình sự, dân sự, hành chính thường là các hình phạt được quy định ở các mức
độ khác nhau. Hậu quả pháp lý trong dân sự thường là trả lại hoặc bồi thường
theo nghĩa vụ. Hậu quả pháp lý xác định rất đa dạng.
- Hậu quả pháp lý không xác định: là trường hợp các nhà làm luật không nêu rõ
bất kỳ một biện pháp cụ thể nào xác định khi phát sinh các điều kiện giả định.
Trong những trường hợp như này, các chủ thể khi áp dụng pháp luật phải có sự
tính toán, so sánh kĩ lưỡng để lựa chọn các biện pháp giải quyết phù hợp nhất.

34. Phân biệt các loại quy phạm pháp luật không đầy đủ: Định nghĩa pháp
lý, Quy phạm giả định tương đối và giả định tuyệt đối, Quy phạm hư cấu
pháp lý, Quy phạm dẫn chiếu pháp lý, Quy phạm mục đích pháp lý.
- Định nghĩa pháp lý: Quy phạm pháp luật không đầy đủ là trường hợp chỉ có
một bộ phận của quy phạm xuất hiện trực tiếp và không đặt ra sự cấm đoán,
nghĩa vụ, cho phép hay tùy nghi. Quy phạm pháp luật không đầy đủ giúp ích
nhiều cho công việc của nhà làm luật, vì nhà làm luật có thể tổng hợp được
nhiều vấn đề tương tự trong một đạo luật mà có nội dung liên quan đến nhau mà
không lặp lại.
- Quy phạm giả định tương đối:
- Giả định tương đối là giả định có thể bị bác bỏ khi có sự chứng minh ngược
lại. Hay nói cách khác, các giả định được coi là sự thật chừng nào có ai đó
chứng minh điều ngược lại. Như vậy, giả định tương đối là một giả định về thực
tế nào đó được Tòa án chấp nhận hoặc luật quy định, cho tới khi giả định đó bị
bác bỏ.
VD: chẳng hạn ở nhiều quốc gia, nếu một người phụ nữ kết hôn và có con, thì
chồng của người đó là bố của đứa trẻ. Giả định này được coi là một sự thật pháp
lý (a legal fact) nếu nó không bị phản bác và được chứng minh là sai.
- Giả định tuyệt đối: Giả định tuyệt đối là giả định không thể bị bác bỏ, việc
đưa ra bằng chứng ngược lại là không thể được chấp nhận.
- Quy phạm hư cấu pháp lý: Hư cấu là điều không có thật ở hiện tại, sự khác
biệt là một giả định tuyệt đối thì trên thực tế vẫn có thể tồn tại, còn hư cấu pháp
lý là tại thời điểm nói thì sự thật đó không tồn tại hoặc chưa xảy ra.
- Quy phạm dẫn chiếu pháp lý: Dẫn chiếu hay còn gọi là quy định chuyển tiếp
được sử dụng để định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật, thực hiện pháp
luật. Về nguyên tắc quy định được viện dẫn phải liên quan đến điều khoản,
chương hoặc văn bản đang có hiệu lực vào thời điểm quy định chính có hiệu
lực.
- Quy phạm mục đích pháp lý: Đây là trường hợp nhà làm luật không nêu rõ
hậu quả pháp lý cụ thể là cấm đoán hay cho phép mà chỉ nói đến mục đích của
pháp luật hoặc mục đích của văn bản pháp luật đó về vấn đề gì.

35. Xung đột pháp lý là gì? Cách thức xử lý xung đột pháp lý?
❖ Khái niệm xung đột pháp luật
Là trường hợp có quy định khác nhau về cùng một vấn đề ở những văn bản
pháp luật khác nhau, gồm:
● Xung đột pháp luật nội:
(1) Xung đột giữa các VBPL.
(2) Xung đột giữa các quy phạm trong cùng 1 VBPL.
(3) Xung đột giữa thẩm quyền ban hành và áp dụng luật của cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước.
(4) Xung đột nguyên tắc, thủ tục pháp lý trong áp dụng pháp luật.
● Xung đột pháp luật ngoại:
Xung đột giữa quy định luật quốc gia với luật quốc tế. Đây là hiện tượng hai
hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ tư
pháp quốc tế và giữa các hệ thống pháp luật này có sự khác biệt về các quy định
cụ thể khi giải quyết cùng một vấn đề pháp lý.

❖ Xử lý xung đột pháp luật


● Xử lý xung đột pháp luật nội
Theo Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015
- Xung đột giữa các VBQPPL có hình thức khác nhau => áp dụng văn bản có
hiệu lực pháp lý cao hơn, căn cứ thứ tự hiệu lực Điều 4 LBHVBQPPL
- Xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật cùng hình thức:
+ VBQPPL cùng hình thức do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác
nhau về cùng một vấn đề => Áp dụng văn bản ban hành sau.
+ VBQPPL cùng hình thức do hai cơ quan ban hành => chọn văn bản của cơ
quan có chức năng, thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực được các điều luật điều
chỉnh. Trường hợp cả 2 cơ quan đều có thẩm quyền => chọn điều luật của cơ
quan có chức năng, thẩm quyền quản lý chính.
+ Văn bản không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp
lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra trước ngày văn bản có hiệu lực => áp dụng
văn bản mới.
- Mâu thuẫn giữa các điều luật trong cùng một văn bản => xem xét lại các biện
pháp lập pháp, nắm bắt được ý đồ của nhà làm luật. Nếu không tìm được =>
giải quyết theo nguyên tắc chung của luật.
● Xử lý xung đột pháp luật ngoại
(1) Hài hòa hóa pháp luật, tự thay đổi các QPPL thực chất trong hệ thống
luật quốc gia để tạo ra các QPPL thực chất giống nhau.
(2) Pháp điển hóa về nội dung (bổ sung các quy định còn thiếu), bổ sung các
quy phạm thực chất mới để giải quyết xung đột.
(3) Thống nhất hóa (thông qua ký kết các Điều ước quốc tế) tạo ra các quy
phạm thực chất thống nhất mới để giải quyết xung đột.
Điều 156 LBHVBQPPL 2015 cùng quy định: “...trường hợp VBQPPL và Điều
ước quốc tế mà nước CHXHCN VN là thành viên có quy định khác nhau về
cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT đó, trừ Hiến pháp”.

36. Lỗ hổng pháp luật là gì? Cách thức xử lý lỗ hổng pháp luật?
❖ Khái niệm lỗ hổng pháp luật
Là tất yếu khách quan bởi luật thành văn không bao giờ bao quát hết tất cả các
trường hợp phải giải quyết trên thực tế. Nói cách khác, luật thành văn không
bao giờ hoàn thiện. Đây cũng là lĩnh vực thể hiện sự sáng tạo trong áp dụng
pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền.

❖ Cách thức xử lý lỗ hổng pháp luật


(1) Xây dựng pháp luật
Khi xác định lỗ hổng pháp luật, nhiều quốc gia tiến hành ban hành các QPPL
mới để thay thế, sửa đổi hoặc bổ sung nhằm khắc phục những lỗ hổng này.
Hoặc trong trường hợp có những “khoảng trống pháp luật” - không có VBPL
điều chỉnh lĩnh vực đó => các QG tiến hành khảo sát, điều tra XHH, phân tích
chính sách, xây dựng và ban hành VBPL mới để khỏa lấp khoảng trống đó
Hạn chế của cách thức này là thường mất nhiều thời gian trong khi vụ việc thực
tế cần phải giải quyết ngay.
(2) Áp dụng tập quán, áp dụng pháp luật tương tự
- Áp dụng tập quán: Quy tắc tập quán thường khó tìm kiếm, không rõ ràng. Khi
áp dụng tập quán cần trải qua một quá trình nghiêm ngặt gồm tìm kiếm, chứng
minh, giải thích và đánh giá tập quán.
- Áp dụng pháp luật tương tự:
+ Áp dụng tương tự QPPL: giải quyết 1 vụ việc thực tế cụ thể mà chưa có
QPPL điều chỉnh trên cơ sở QPPL điều chỉnh một trường hợp khác có nội dung
gần giống.
+ Áp dụng tương tự pháp luật: giải quyết 1 vụ việc thực tế cụ thể mà chưa có
QPPL điều chỉnh trên cơ sở những nguyên tắc chung và ý thức pháp luật.
Áp dụng tương tự pháp luật là cần thiết để giải quyết kịp thời các vấn đề, vụ
việc pháp lý. Tuy nhiên việc áp dụng cần tránh tùy tiện, đơn giản hóa, tuân thủ
pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể pháp luật,
không trái đạo đức xã hội.
(3) Xây dựng án lệ
Thẩm phán xây dựng án lệ trong trường hợp pháp luật không quy định cụ thể.
Án lệ là sản phẩm của hoạt động xét xử, do tòa án tạo lập trong quá trình giải
quyết một vụ việc cụ thể, được Nhà nước thừa nhận như khuôn mẫu để giải
quyết những vụ việc tương tự.

37. Giải thích pháp luật là gì? Các phương pháp giải thích pháp luật?

Giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về nội dung và ý nghĩa của các quy phạm
pháp luật, để giúp cho các cá nhân, tổ chức áp dụng các quy phạm pháp luật đó
một cách chính xác và thống nhất. Giải thích pháp luật là hoạt động có tác động
tích cực đối với việc tăng cường pháp chế và bảo vệ trật tự pháp luật.

Đặc điểm:

+ Ngược lại với làm luật: Thay vì kết hợp thông tin xã hội “dày” thành các điều
khoản luật “mỏng”.

+ Giải thích pháp luật nhằm giải thích ngữ nghĩa quy phạm pháp luật trong
những hoàn cảnh cụ thể.

- Ý nghĩa và mục đích:


+ Làm sáng tỏ hơn các quy phạm pháp luật, kết quả của giải thích pháp luật có
giá trị như pháp luật, nên nó rất cần thiết và có vai trò vô cùng quan trọng trong
nhận thức - thực thi - áp dụng pháp luật.

+ Giúp các chủ thể nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật, giúp họ tuân thủ, thi
hành, sử dụng pháp luật một cách hợp pháp, kiềm chế và hạn chế các hành vi vi
phạm pháp luật do không nhận thức đúng về quy phạm pháp luật.

+ Nếu không có giải thích pháp luật thì sẽ khó có thể hiểu được nội dung của
quy phạm pháp luật được đem ra áp dụng một cách chính xác, sâu sắc và đầy
đủ, thể hiện hết ý nghĩa mục đích pháp lý, chính trị và kinh tế sâu xa đằng sau
các ngôn từ của quy phạm pháp luật đó khi được xây dựng. Như vậy thì sẽ dẫn
đến việc áp dụng pháp luật không hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền,
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật, cũng như trách nhiệm pháp lý đối
với vi phạm được xác lập.

Để làm sáng tỏ một nội dung tư tưởng và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật,
khoa học pháp lý đưa ra các phương pháp giải thích pháp luật sau:

1. Phương pháp giải thích văn phạm


- Là việc thông qua phân tích các thuật ngữ và cấu trúc cú pháp của điều luật để
tìm ra ý chí của nhà làm luật. Nghiên cứu và phân tích luật viết dựa vào phương
pháp phân tích câu chữ là hoạt động trí tuệ của nhà chuyên môn “ đi xuyên qua
văn bản quy phạm pháp luật” để nắm bắt ý chí đích thực của người làm luật:
- Nguyên tắc của giải thích văn phạm là các thuật ngữ phải được hiểu theo đúng
nghĩa thông thường của nó tại thời điểm văn bản được làm ra.
- Phương pháp giải thích văn phạm là phương pháp tối ưu đối với văn bản pháp
luật tuy nhiên việc giải thích dựa trên văn phạm không thể là phương pháp duy
nhất.

2. Phương pháp giải thích xã hội học


- Phương pháp giải thích xã hội học cho phép người giải thích tìm ý nghĩa của
pháp luật dựa trên lợi ích và nhu cầu phổ biến của xã hội.
- Cơ sở của phương pháp này là lý lẽ cho rằng các nhà lập pháp không thể dự
liệu tất cả mà phải dựa trên các dữ kiện đời sống trong giai đoạn hiện tại mà các
nhà lập pháp đưa ra các quy tắc phù hợp nhất với nhu cầu của xã hội đương
thời.
3. Phương pháp giải thích chính trị - lịch sử
- Đây là phương pháp tìm hiểu nội dung, tư tưởng quy phạm pháp luật thông
qua việc nghiên cứu các điều kiện chính trị - lịch sử tại thời điểm ra đời quy
phạm đó. Khi quy phạm pháp luật chung chung, việc hiểu đặc trưng của bối
cảnh lịch sử cũng như mục đích chính trị trong thời điểm ra đời quy phạm pháp
luật sẽ giúp cho việc hiểu đúng đắn nhất ý chính của nhà lập pháp.
- Ý chí của nhà lập pháp thể hiện trong nội dung quy phạm pháp luật phải được
hiểu theo bối cảnh lịch sử cụ thể mà quy phạm đó ra đời => có thể cân nhắc đến
các sự kiện lịch sử của thời đại mà quy phạm pháp luật ra đời để hiểu đúng ý
nghĩa của quy phạm đó.
4. Phương pháp giải thích hệ thống
- Giải thích hệ thống bắt nguồn từ đặc điểm của pháp luật: pháp luật là những
quy phạm pháp luật luôn tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất, khó tách rời.
- Giải thích hệ thống là làm rõ tư tưởng, nội dung quy định của pháp luật thông
qua việc đối chiếu nó với các quy định khác của pháp luật; xác định vị trí của
quy định cần giải thích trong mối quan hệ với chế định pháp luật, với toàn văn
bản, ngành luật và hệ thống pháp luật.
- Thậm chí các quy phạm pháp luật có thể được giải thích trong mối quan hệ với
nguyên tắc pháp luật -> để tìm ra ý nghĩa rõ ràng nhất của các quy phạm đó.
5. Phương pháp giải thích theo mục đích
- Giải thích theo mục đích là việc giải thích quy phạm tiêu mục tiêu, mục đích
của nó. Thoạt đầu người giải thích phải xác định đúng mục tiêu của quy phạm,
căn cứ vào văn bản và hoàn cảnh ra đời văn bản đó. Tiếp theo người giải thích
phải tiến hành lý giải quy phạm theo tiêu chí là bảo đảm tuyệt đối mục đích đó.
- Phương pháp giải thích theo mục đích thường được sử dụng khi việc giải thích
được mở rộng vượt ra ngoài câu chữ hoặc thậm chí ngoài mục tiêu ban đầu của
quy phạm.
- Người giải thích pháp luật sẽ dựa vào mục đích chung của đạo luật và mục
đích chung của xã hội để làm sáng tỏ nội dung quy phạm luật.
=> Phương pháp này được áp dụng để nhằm làm giảm thiểu những thiệt hại do
thiếu sót của luật gây ra (tuy nhiên phương pháp này không được sử dụng rộng
rãi do dẫn đến rủi ro sẽ lấn quyền của nhà lập pháp).

38. Đặc trưng Tư duy pháp lý của hệ thống pháp luật Civil law.

- Tư duy diễn dịch, nhấn mạnh chủ nghĩa duy lý, coi trọng pháp điển hóa.

- Các nguyên tắc pháp lý được rút ra từ các quy phạm, mang tính chất trừu
tượng, khái quát hóa rất cao nên phương pháp tư duy là giải thích pháp luật.

- Các thẩm phán phân tích sự việc, đồng thời tra cứu các quy phạm pháp luật và
áp dụng vào để giải quyết các vụ việc cụ thể.

- Kết luận: điểm mạnh là yên tâm, chắc chắn, đảm bảo.

39. Đặc trưng Tư duy pháp lý của hệ thống pháp luật Common law.
- Tư duy quy nạp, nhấn mạnh vào chủ nghĩa kinh nghiệm, đặt niềm tin vào tiền
lệ.
- Các nguyên tắc pháp lý được rút ra từ án lệ cụ thể nên phương pháp tư duy
pháp lý là so sánh và phân tích bản án đã có.
- Các thẩm phán phân tích vụ việc đồng thời căn cứ vào các bản án đã có để rút
ra tổng quan về sự việc để áp dụng.
- Điểm mạnh: gắn với thực tiễn xã hội nhiều hơn, tuy nhiên có điểm yếu là khó
tra cứu.

II. Bài tập tình huống


1. Vận dụng Tư duy pháp lý diễn dịch và so sánh tương đồng để giải quyết vụ
việc sau: Một khách hàng đến ăn súp cua tại một nhà hàng ở bang X và nuốt
phải một mảnh vỏ cua lớn dẫn đến bị tổn thương nặng nề ở cổ họng, phải đi
bệnh viện điều trị. Khách hàng hỏi luật sư xem có thể khởi kiện yêu cầu nhà
hàng bồi thường được không. Luật sư sẽ phải tiếp cận vấn đề và xử lý như thế
nào?
a. Phương pháp tư duy diễn dịch (a maiore ad minus)

- Phương pháp Tam đoạn luận:

+ Mệnh đề chính: Ai gây thiệt hại cho người khác một cách có lỗi thì phải bồi
thường.

+ Mệnh đề phụ: Đầu bếp của nhà hàng ở bang X đã không lọc kỹ mảnh vỏ cua
lớn, gây thiệt hại cho một khách hàng đến ăn súp cua đã nuốt phải mảnh vỏ cua
lớn ấy dẫn đến bị tổn thương nặng nề ở cổ họng, phải đi bệnh viện điều trị.

+ Kết luận: Nhà hàng ở bang X phải bồi thường thiệt hại cho vị khách hàng đã
nuốt phải mảnh vỏ cua lớn ấy.

- Phương pháp IRAC:

+ I: Issue – Vấn đề

_ Một khách hàng đến ăn súp cua tại một nhà hàng ở bang X.

_ Vị khách hàng ấy nuốt phải một mảnh vỏ cua lớn.


_ Khách hàng bị tổn thương nặng nề ở cổ họng, phải đi bệnh viện điều trị.

_ Khách hàng khởi kiện yêu cầu nhà hàng bồi thường.

+ R: Tìm Rule – Quy định pháp luật liên quan

_ Lĩnh vực pháp luật nào cần quan tâm để giải quyết vấn đề trong trường hợp
này: Lĩnh vực dân sự.

_ Có những quy định pháp luật nào đang có hiệu lực: Bộ Luật Dân sự năm
2015:
Chương XX: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Mục 1. Quy
định chung; Điều 584, khoản 1.
Chương XX: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Mục 2. Xác
định thiệt hại; Điều 590.

_ Có những vụ việc nào tương tự đã từng được giải quyết hay chưa?

+ A: Application/Analysis – Vận dụng luật vào tình huống

_ Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Khách hàng ăn súp cua ở nhà hàng tại bang X và nuốt phải một mảnh vỏ cua
lớn dẫn đến bị tổn thương nặng nề ở cổ họng, phải đi bệnh viện điều trị.

Theo khoản a, Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: Người nào có hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.

_ Căn cứ xác định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Theo khoản a, Điều 590
Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng,
phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
+ C: Conclusion – Kết luận

Nhà hàng ở bang X đã gây thiệt hại cho khách hàng do sức khỏe bị xâm phạm
và phải bồi thường cho khách hàng theo quy định của pháp luật.

2. Tìm câu hỏi kết luận và câu hỏi pháp lý mấu chốt trong tình huống sau: Ông
A chết vì tai nạn giao thông không kịp để lại di chúc cho 4 người con của mình
là B, C, D, E. Trong 4 người con có anh E đi làm ăn xa đã 20 năm không thấy
trở về. Anh B là con cả vì cần tiền để sản xuất kinh doanh nên có đơn yêu cầu
tòa án mở thừa kế.

a. Câu hỏi pháp lý mấu chốt


- Sự kiện pháp lý:
+ Ông A tử nạn vì tai nạn giao thông.
+ Ông A không kịp để lại di chúc cho 4 người con của mình là B, C, D, E.
+ Anh E đi làm ăn xa đã 20 năm không thấy trở về.
+ Anh B là con cả cần tiền để sản xuất kinh doanh nên làm đơn yêu cầu tòa
án mở thừa kế.
- Luật áp dụng: Luật Dân sự.
- Trăn trở về sự kết hợp hai yếu tố trên: Anh B có quyền yêu cầu tòa án mở
thừa kế hay không? Nếu tòa án quyết định mở thừa kế, vậy tài sản được
chia cho anh E sẽ do ai quản lý?
b. Câu hỏi pháp lý kết luận: Anh B có yêu cầu tòa án mở thừa kế thành công
hay không? Tài sản của ông A sẽ được phân chia như thế nào? Anh E
nhận tài sản được thừa kế của mình như thế nào?

3. Xác định câu hỏi kết luận và sự kiện mấu chốt trong tình huống sau: Anh A
lái xe ô tô đâm vào vợ chồng anh B và chị C dẫn đến chị C bị thương. Anh A
đưa chị C vào viện làm các thủ tục y tế. Theo pháp đồ điều trị của bác sĩ, chị C
phải điều trị vết thương trong vòng 4 tháng. Theo thỏa thuận giữa anh A và anh
B, anh A sẽ đưa tiền cho vợ chồng anh B số tiền bồi thường và số tiền viện phí
để chị C điều trị trong 4 tháng. Nếu sau đó quá trình điều trị kéo dài thêm theo
chỉ định bác sĩ thì anh A sẽ tiếp tục trả tiền. Điều trị được 3 tháng, thấy vết
thương đã dần bình phục, anh B và chị C không đến khám nữa. 2 tháng sau vết
thương nhiễm trùng, chị C bị chết. Anh B kiện đòi anh A phải bồi thường chi
phí chôn cất chị C và trợ cấp nuôi 2 đứa con cho tới khi chúng đủ 18 tuổi.
- Câu hỏi kết luận: Anh A có phải bồi thường chi phí chôn cất chị C và trợ cấp
nuôi 2 đứa con cho tới khi chúng đủ 18 tuổi hay không?
- Sự kiện mấu chốt: Điều trị được 3 tháng, thấy vết thương đã dần bình phục,
anh B và chị C không đến khám nữa. 2 tháng sau vết thương nhiễm trùng, chị C
bị chết.

4. Xác định câu hỏi kết luận và sự kiện mấu chốt trong tình huống sau:
Thanh là học sinh lớp 7 của trường Trung học cơ sở Tam Đồng. 9h sáng thứ hai
ngày 20/4 Thanh đang học môn vật lý của cô Hương dạy thì nhận được tin bạn
mình đang bị các anh chị lớp 9 đánh ở cổng phụ của trường. Thanh lẻn ra khỏi
lớp, ra chỗ bạn mình bị đánh. Tại đây, Thanh đã đánh bị thương 2 học sinh lớp
9 khiến 2 học sinh này phải đi cấp cứu.

- Câu hỏi kết luận: Thanh có phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình hay
không?
- Sự kiện mấu chốt: Thanh là học sinh lớp 7 và đã đánh bị thương 2 học sinh lớp
9 khiến 2 học sinh này phải đi cấp cứu.

5. Xác định câu hỏi pháp lý trong tình huống sau:


Anh A và chị B còn độc thân và chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn. Sau 10 năm chung sống thực tế đã có 1 con trai 7 tuổi, 1 con
gái 2 tuổi cùng khối tài sản chung là 1 ngôi nhà đứng tên anh A và số tiền là 7 tỷ
đồng. Đến nay anh A và chị B thấy không thể chung sống với nhau, đồng thời
không thỏa thuận được việc nuôi con và phân chia tài sản. 2 anh chị làm đơn
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, nuôi con và phân chia tài sản.

Câu hỏi pháp lý: Anh A và Chị B có được pháp luật công nhận quan hệ vợ
chồng hay không? Việc ly hôn, nuôi con và phân chia tài sản của anh A và chị B
sẽ được giải quyết như thế nào?

Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc kết hôn không
đăng kí theo quy định thì không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền
cũng như nghĩa vụ giữa vợ và chồng, không được pháp luật công nhận quan hệ
vợ chồng.

Tòa án vẫn sẽ thụ lý đơn nhưng không giải quyết theo thủ tục ly hôn mà sẽ ra
tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng. Về vấn đề nuôi con và phân chia
tài sản sẽ được giải quyết theo điều 15 và điều 16 của Luật Hôn nhân và gia
đình.

6. Xác định câu hỏi kết luận và câu hỏi pháp lý trong tình huống sau:
Chị Hà là chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Ngày 1/2/2016 chị Hà cần chở hàng
bằng xe máy từ cửa hàng đến nhà khách nhưng nhân viên chở hàng của cửa
hàng hôm đó nghỉ ốm. Anh Quân là nhân viên bán hàng tại cửa hàng của chị
Hà, 21 tuổi, chưa có bằng lái xe máy nhưng đã thường xuyên sử dụng xe máy từ
mấy năm nay. Anh Quân nói để mình chở giúp. Chị Hà tin tưởng và đồng ý.
Trên quãng đường chở hàng, anh Quân không may đâm vào xe anh Hùng, làm
anh Hùng bị thương phải đi cấp cứu.
Câu hỏi pháp lý: Người nào có nghĩa vụ và trách nhiệm liên quan? Ai sẽ chịu
trách nhiệm với anh Hùng?
Câu hỏi kết luận: Chị Hà hay anh Quân có phải chịu trách nhiệm và bồi thường
cho anh Hùng hay không?

7. Xác định câu hỏi pháp lý trong tình huống sau: Anh Lê Văn Đại, 34 tuổi là
người bị tâm thần. Tháng 3 năm 2015 gia đình có gửi anh Đại đến bệnh viện
tâm thần Lòng Tin để điều trị nội trú. Một buổi tối khi bệnh lên cơn, anh Đại tự
mình dùng dao gọt hoa quả đâm vào bụng mình và chết. Gia đình biết tin đã
đâm đơn kiện đòi bồi thường đối với bệnh viện.
Câu hỏi pháp lý: Cần có trách nhiệm bồi thường do lỗi bất cẩn của bệnh viện
khi để bệnh nhân tự sát hay không?
Luật áp dụng: Để có thể yêu cầu bên bị đơn bồi thường, nguyên đơn cần
chứng minh:
- Bị đơn có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho nguyên đơn trong mọi trường hợp.
- Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ đó.
- Nguyên đơn bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng của bị đơn.
Kết luận: trong tình tiết anh Lê Văn Đại tự sát trong bệnh viện tâm thần, nhiều
khả năng tòa án sẽ xác định bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho
nguyên đơn, lí do không bố trí người theo dõi, hay bất kì một thiết bị giám sát
nào (bởi nguyên đơn và những bệnh nhân trong bệnh viện đều là người mất
năng lực hành vi dân sự toàn phần) nên để xảy ra vụ việc. Vì vậy, bị đơn phải
bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn.

8. Xác định câu hỏi pháp lý trong tình huống sau:


Bà Lê Thị Lành có tiền sử dị ứng với đồ hải sản. Khi đến ăn tại nhà hàng Thanh
Hương, là một nhà hàng chuyên về các món gà. Bà Lành xem thực đơn của nhà
hàng và chọn món ăn, trong đó có món “Miến xào thập cẩm”. Khi lựa chọn bà
nghĩ đây là cửa hàng chuyên về gà nên các món sẽ an toàn cho mình. Tuy nhiên
khi chế biến, đầu bếp có cho thêm một ít thịt cua dạng sợi (từ trước đến nay
trong công thức nấu món ăn riêng của nhà hàng khi chế biến món “miến xào
thập cẩm” vẫn luôn có thịt cua dạng sợi cho vào). Bà Lành ăn và bị dị ứng phải
đi cấp cứu. Sau đó bà có làm đơn kiện nhà hàng vì theo bà một cửa hàng về gà
không thể nấu “Miến xào thập cẩm” có lẫn hải sản như vậy được.
Câu hỏi pháp lý: nhà hàng có phải bồi thường cho bà Lành vì bà bị dị ứng thực
phẩm khi ăn đồ ăn ở đây hay không?
Luật áp dụng: Để có thể yêu cầu bên bị đơn bồi thường, nguyên đơn cần
chứng minh:
- Bị đơn có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho nguyên đơn trong mọi trường hợp
- Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ đó
- Nguyên đơn bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng của bị đơn
Phương pháp tư duy diễn dịch: tam đoạn luận
Tiền đề lớn: thương nhân bán hàng hóa không phù hợp với mục đích sử dụng
thông thường phải bồi thường thiệt hại do hàng hóa gây ra cho người mua
Tiền đề nhỏ: nhà hàng là thương nhân đã bán thực phẩm không phù hợp với
mục đích sử dụng thông thường gây thiệt hại cho người mua
Kết luận: nhà hàng phải bồi thường thiệt hại cho người mua
Phương pháp so sánh tương đồng - tương phản
Bước 1: Xác định vụ án nguồn để so sánh
Vụ án 1: Khách hàng đến ăn buffet tại một nhà hàng tự chọn ở bang
Oklahoma (Hoa Kỳ). Khách hàng tự múc cho mình một bát súp cua từ nồi súp
được dán nhãn “súp cua tươi đã gỡ thịt” trong số rất nhiều các món ăn tự chọn
do nhà hàng bày sẵn cho thực khách. Nước súp có màu trong, chứa các mẩu thịt
cua và rau nhỏ được nấu lẫn. khách hàng ăn đến thìa thứ ba thì nuốt phải một
mảnh vỏ cua dẫn đến bị tổn thương nặng ở họng, phải đi đến bệnh viện điều trị.
Khách hàng hỏi luật sư xem có thể khởi kiện yêu cầu nhà nước bồi thường được
không
Vụ án 2: Nguyên đơn bị gãy 3 chiếc răng khi ăn thịt trai đóng hộp cắn phải
ngọc. Người tiêu dùng không thể biết được khi ăn vì đây là thực phẩm đã qua
chế biến và đóng gói.
Bước 2: Nhận diện những điểm tương đồng và khác biệt giữa vụ án nguồn và vụ
án đang cần giải quyết
Tương tự như 2 vụ án nguồn, trong vụ án “miến xào”, bà Lành cũng chịu
thiệt hại, cụ thể là dị ứng và phải đi cấp cứu khi sử dụng thực phẩm tại những
nhà hàng, quán ăn. Trong 3 vụ án, vốn vỏ cua, ngọc trai và hải sản đều có tính
tự nhiên, nhưng không ai sử dụng vỏ cua hay ngọc trai để cho vào thức ăn, hay
nói cách khác, cả hai đều là hàng hóa không phù hợp với mục đích sử dụng
thông thường, nên nếu nhà hàng để người tiêu dùng ăn phải và chịu thiệt hại do
sự bất cẩn, thì nhà hàng phải bồi thường trong trường hợp bị khách hàng đâm
đơn kiện
Trong vụ việc cần giải quyết, hải sản là thực phẩm phù hợp với mục đích sử
dụng thông thường. Nhà hàng cũng thường xuyên cho hải sản vào món “miến
xào thập cẩm”, chứ không chỉ khi làm cho bà Lành, mặc dù nhà hàng chuyên về
những món gà. Hơn nữa món ăn là “thập cẩm”, sẽ đầy đủ nguyên liệu mà nhà
hàng có, trong trường hợp bà Lành bị dị ứng với hải sản, bà phải báo với nhà
bếp, nếu không, mặc nhiên họ sẽ nghĩ bà có thể ăn tất cả các nguyên liệu. Đây
không phải lỗi bất cẩn của nhà hàng
Khi ăn súp cần ăn nhanh chứ không ăn chậm rãi, cẩn thận nên khó tránh khỏi
việc mắc mai cua như vụ án nguồn 1, nhưng khi ăn miến xào thập cẩm, người
tiêu dùng hoàn toàn có thể thấy được nguyên liệu trong món ăn có những gì.
Nên trong vụ án “miến xào thập cẩm”, phần lỗi là do bà Lành
Bước 3: xác định mức độ tương đồng hay khác biệt giữa vụ án nguồn và vụ án
đích để từ đó quyết định tòa án cần ra phán quyết cho vụ án đích tương tự như
phản quyết trong vụ án nguồn hay khác với phán quyết trong vụ án nguồn
Kết luận: nhà hàng là thương nhân đã bán thực phẩm phù hợp với mục đích
sử dụng thông thường, nhưng do bản thân nguyên đơn bị dị ứng hải sản- một
nguyên liệu đã được sử dụng trong nhà hàng nên phải đi cấp cứu. Nguyên đơn
bị thiệt hại không do hành vi vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng của bị đơn, bị đơn
không vi phạm nghĩa vụ đảm bảo cho nguyên đơn do lỗi bất cẩn, vì vậy, nhà
hàng không phải bồi thường

9. Hãy xác định sự kiện pháp lý mấu chốt và câu hỏi kết luận trong tình huống
sau: Anh Tùng là bệnh nhân tâm thần dạng nhẹ, chỉ thỉnh thoảng mới phát bệnh,
chưa có gia đình, hiện đang sống cùng bố mẹ đẻ. Tháng 5/2015 anh Tùng có lấy
45 triệu đồng trong tủ của bố là ông Nam và ra cửa hàng xe máy Thắng Lợi,
mua một chiếc xe máy Lead. Thời điểm đó ông Nam và bà Nga là bố mẹ anh
Tùng đi thăm họ hàng ở trong Sài Gòn, nhà chỉ có đứa cháu ra trông và nấu cơm
cho anh Tùng. Mua xe được 2 ngày, anh Tùng điều khiển xe bị ngã, xe bị xây
xước nhẹ. Bố mẹ anh Tùng khi quay về nhà biết chuyện đã mang xe đến cửa
hàng Thắng Lợi để trả với lý do anh Tùng bị tâm thần, không thể thực hiện giao
dịch mua bán xe máy được. Chủ cửa hàng Thắng Lợi không nhận xe.
- Câu hỏi kết luận: chủ cửa hàng Thắng Lợi có phải nhận lại xe không?
- Sự kiện pháp lý mấu chốt: Anh Tùng là một bệnh nhân tâm thần đến mua xe ở
cửa hàng xe máy Thắng Lợi.
- Câu hỏi pháp lý mấu chốt: việc anh Tùng là một bệnh nhân tâm thần đến mua
xe ở cửa hàng xe máy Thắng Lợi, theo quy định của luật giao dịch này có được
coi là hợp pháp hay không?

10. Xác định câu hỏi kết luận và câu hỏi pháp lý mấu chốt trong tình huống sau:
Ông A có 2 người con trai là anh B và anh C. Cả gia đình sống trên một ngôi
nhà gắn liền với mảnh đất 500m2 là tài sản của ông A. Năm 2000 anh B lập gia
đình và được ông A cắt một mảnh đất 70m2 (trong mảnh đất 500m2) để ra ở
riêng. Anh B dùng tiền của mình xây một ngôi nhà 4 tầng. Việc tặng cho này
không có văn bản. Năm 2015, ông A vì mâu thuẫn với vợ chồng anh B đã đòi
lại mảnh đất này.
- Câu hỏi kết luận:
11. Xác định câu hỏi kết luận và câu hỏi pháp lý mấu chốt trong tình huống sau:
Anh A và chị B là vợ chồng sống ở Hải Dương. Năm 2001 do điều kiện kinh tế
gia đình quá khó khăn, anh A đã vào Sài Gòn làm ăn và ba tháng một lần đều
gửi tiền về cho vợ. Đến năm 2003 chị B không thấy anh A gửi tiền nữa và cũng
không thấy anh A liên lạc về. Khoảng sáu tháng sau khi không nhận được tin
tức gì của anh A, chị B đã vào Sài Gòn tìm nhưng không có kết quả. Chị B quay
về Hải Dương. Tám năm sau, chị có tình cảm với anh C là hàng xóm nhà mình.
Chị muốn làm thủ tục đăng ký kết hôn với anh C nên đã làm đơn yêu cầu tòa án
nhân dân tỉnh Hải Dương tuyên bố anh A là đã mất tích. Sau đó chị cưới anh C.
Một năm sau, anh A trở về.
- Câu hỏi pháp lý mấu chốt: Quan hệ của chị B và C có hợp pháp hay không?
- Câu hỏi kết luận: Những văn bản quy phạm pháp luật nào có thể giải quyết
câu hỏi: Quan hệ hôn nhân giữa A và B còn tồn tại hay không?
- Sự kiện mấu chốt: Anh A đi làm xa được cho là đã mất tích, dù chưa làm đơn
ly hôn với anh A nhưng chị B và anh C vẫn làm thủ tục đăng ký kết hôn, một
năm sau anh A trở về.

12. Xác định câu hỏi kết luận và câu hỏi pháp lý mấu chốt trong tình huống sau:
A chuyển nhà đến nhà mới và vì vậy A đã nhờ hai người bạn đến trợ giúp. D là
một người bạn không được nhờ, nhưng vì biết thông tin A chuyển nhà nên đã
đến và tự nguyện giúp đỡ A. A không nhờ D, nhưng cũng không phản đối việc
D tự nguyện giúp mình. Do bị trượt chân ở cầu thang nên D đã bị ngã gãy chân
trái. D yêu cầu A phải bồi thường. D cho rằng: Vì A đã chấp nhận việc được trợ
giúp, do vậy A nên gánh chịu mọi rủi ro, phí tổn. A cho rằng D tự gây ra hậu
quả thì phải tự chịu trách nhiệm, A không phải chịu trách nhiệm từ việc bất cẩn
của D, mà A đâu có nhờ D giúp đó là việc D tự nguyện. A sẽ không bồi thường.
-> Câu hỏi pháp lý mấu chốt: Để xác định câu hỏi pháp lý mấu chốt cần xác
định sự kiện pháp lý đã diễn ra, luật áp dụng và trăn trở về sự kết hợp của 2 yếu
tố trên.
+ Sự kiện pháp lý đã diễn ra: D không được A nhờ giúp đỡ nhưng đã tự nguyện
đến giúp (D là bạn của A), A biết và không phản đối, trong lúc giúp đỡ cho A
thì D bị trượt chân ngã gãy chân.

D yêu cầu A phải bồi thường.

+ Luật áp dụng: Luật dân sự về thực hiện công việc không có ủy quyền

=> Câu hỏi pháp lý mấu chốt là hành vi của D có phải là thực hiện công
việc không có ủy quyền không?

-> Câu hỏi kết luận: A có phải bồi thường cho D hay không?

13. Phân tích câu hỏi pháp lý, câu hỏi mấu chốt trong tình huống sau: Một nhân
viên đi giao hàng của công ty mình cho một cửa hàng bán lẻ. Trên đường đi ghé
vào tiệm sách và bị thương vì xe đụng trên đường từ tiệm sách đến cửa hàng
bán lẻ. Câu hỏi pháp lý, Câu hỏi mấu chốt, Sự kiện mấu chốt trong tình huống
này là gì?
Với tình huống trên, ta có 3 sự kiện:
● Sự kiện 1: Nhân viên đi giao hàng cho cửa hàng bán lẻ
● Sự kiện 2: Nhân viên ghé vào tiệm sách
● Sự kiện 3: Nhân viên bị thương vì đụng xe trên đường đi
=> Sự kiện mấu chốt là nhân viên này đang đi giao hàng cho công ty nhưng vì
xe đụng nên không thể giao được nữa.
Ta cần giải đáp được các vấn đề pháp lý sau:
● Nhân viên này dùng xe cá nhân hay xe công ty để giao hàng ?
● Nhân viên này bị người khác đụng xe hay đụng xe vào người khác, sai
hay đúng?
Do vậy, câu hỏi pháp lý mấu chốt là: Ai chịu trách nhiệm cho việc anh nhân
viên này bị thương?
14. Sử dụng quy tắc IRAC để tìm ra kết luận cho vụ việc trong tình huống sau:
Janet Lawson là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng. Cô đang đi mua hàng ở siêu
thị Quality Market thì bị trượt chân và ngã trên nền nhà còn ướt. Nền nhà này
mới được nhân viên siêu thị lau xong, nhưng không để biển báo cho khách hàng
là sàn còn ướt. Do bị ngã, cô Lawson bị thương ở cánh tay phải và không thể
chơi piano trong các buổi hòa nhạc trong vòng 6 tháng tới. Nếu như có thể tham
dự các buổi hòa nhạc như đã định thì cô có thể sẽ kiếm được 60.000 USD. Cô
Lawson bèn thưa kiện siêu thị Quality Market để đòi số tiền này, và đòi thêm
10.000 USD tiền thuốc thang. Cô nói rằng siêu thị đã không thông báo cho
khách hàng là sàn ướt, đó là lỗi của siêu thị và siêu thị phải chịu trách nhiệm về
thương tích của cô.
1. Issue – Vấn đề pháp lý:
● Siêu thị Quality Market đã không thông báo cho khách hàng là sàn ướt
● Lawson bị ngã và bị thương ở cánh tay phải, không thể chơi piano trong
các buổi hòa nhạc trong vòng 6 tháng tới
● Lawson mất đi cơ hội kiếm 60.000 USD
● Lawson thưa kiện siêu thị Quality Market để đòi tiền
2. Rules – Quy định pháp luật có liên quan
Bộ luật dân sự năm 2015
Điều 597. Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra
Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực
hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì
có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật.
Điều 600. Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra
Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người
làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền theo quy định của pháp luật.
3. Application/Analysis – Vận dụng luật vào tình huống
Chủ doanh nghiệp có bổn phận phải gỡ bỏ hay thông báo cho các khách hàng về
những sự rủi ro có thể lường ra được mà người chủ đã biết hay đáng lẽ phải
biết. Nếu một chủ doanh nghiệp vi phạm vào bổn phận phải cẩn thận này
(không hành xử ở một mức độ cẩn thận thích hợp đối với khách hàng), và sự vi
phạm ấy làm cho khách hàng bị thương, thì chủ doanh nghiệp sẽ phải chịu trách
nhiệm với khách hàng về thương tích của họ. Việc một khách hàng có thể bị ngã
trên một sàn ướt thì rõ ràng là một rủi ro có thể thấy trước. Vì thế, việc người
lau sàn không để biển báo sàn ướt cho khách hàng biết là một sự vi phạm vào
bổn phận phải cẩn thận của siêu thị Quality Market đối với các khách hàng của
siêu thị, là một tội phạm dân sự.
Siêu thị Quality Market nếu là một chủ thể có tư cách pháp nhân thì áp dụng
Điều 597 BLDS 2015, nếu không phải là một chủ thể có tư cách pháp nhân thì
áp dụng Điều 600 BLDS 2015
4. Conclusion – Kết luận
Trong tình huống ở đây, siêu thị Quality Market phải chịu trách nhiệm đối với
cô Lawson về thương tích của cô ấy theo Điều 597 BLDS 2015 hoặc Điều 600
BLDS 2015; vì đây vi phạm vào bổn phận cẩn thận khiến cho cô Lawson bị
thương.

15. Chó nhà ông Tony cắn bà Larry. Ông Tony đưa bà Larry đến trung tâm y tế
rửa vết thương và tiêm ngừa ngay lập tức. Ông Tony đã trả mọi chi phí đủ để bà
Larry tiếp tục tiêm phòng thêm 5 mũi nữa, theo lời bác sĩ. Ông Henry (Chồng
bà Larry) nói: “Chỗ bà con lối xóm mà chi ly tiền bạc làm chi. Để tôi chở bà ấy
đi cho. Đừng có lo”. Sau đó, Ông Henry vì công việc bận, nên không đưa bà
Larry đi tiêm. Ba tháng sau, bà Larry lên cơn dại và qua đời. Chồng bà Larry
đòi ông Tony phải bồi thường. Hỏi: Theo bạn, ông Tony có phải bồi thường, trợ
cấp cho gia đình bà Larry không?
- Tình huống trên có 2 sự kiện:
+ Sự kiện 1: Chó nhà ông Tony cắn bà Larry. Ông Tony đã nhận trách nhiệm
đầy đủ của chủ vật nuôi theo luật
+ Sự kiện 2: Ông Henry - chồng bà Larry nói “ Đừng có lo” và không đưa bà
Larry đi tiêm.
- Như vậy, có thể thấy được, nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà Larry là do
sự kiện 2. Vì ông Tony đã bồi thường mọi chi phí theo trách nhiệm của mình
(chi phí cho 5 lần tiêm phòng dại). Về việc đưa bà Larry đi tiêm phòng, ông
Henry nhận trách nhiệm nhưng lại không thực hiện đúng như đã nói. Việc
không tiêm phòng đầy đủ dẫn đến bệnh dại mới là nguyên nhân chính dẫn đến
sự việc bà Larry qua đời.
=> Ông Tony không phải bồi thường thêm về cái chết của bà Larry. Vì ông
Henry đã ko thực hiện đúng nhiệm vụ mà ông đã nhận nên người chịu trách
nhiệm phải là ông Henry.

16. Phán quyết của vua Solomon (The Judgment of Solomon) là một câu chuyện
trong Kinh thánh của người Do Thái, kể về cuộc xử án của vị vua Do Thái
Solomon trong vụ tranh chấp con của hai bà mẹ. Cả hai người phụ nữ đều nhận
đó là con của mình, tất nhiên một trong hai là kẻ mạo danh. Đối mặt với vụ
tranh chấp, vua Solomon đã yêu cầu cưa đôi đứa trẻ, mỗi người được nhận một
nửa và cuối cùng vụ án đã được giải quyết. Tại sao?
- Sử dụng phương pháp tư duy tuyến tính: tư duy theo nhiều hướng, phân tích
các hướng và lựa chọn phương án tốt nhất.
- Vua Solomon đã biết được ai là người mẹ thật sự thông qua phản ứng của bà
khi nghe phán quyết: bà mẹ thật sự khi nghe thấy phán quyết của nhà vua, đã
chấp nhận nhường con của mình cho kẻ mạo danh để bảo vệ tính mạng của con
mình.
17. Bà M đã nói với chồng mình là bà ta sẽ tự tử nếu người chồng ly dị bà ấy.
Khi người chồng một buổi tối không về nhà, bà M đã tự tử. Liệu có thể xử
người chồng tội giết người được không? Hãy dùng phương pháp tư duy phản
chứng để giải quyết.
Áp dụng phương pháp tư duy phản chứng, ta sẽ thấy là: nếu xử người chồng tội
giết người thì có thể suy ra là bất kỳ ai mà có các hành động khiến vợ/chồng
mình k hài lòng hoặc khi xảy ra li dị dẫn đến việc 1 trong 2 bên tự tử thì người
kia sẽ đều có thể bị xử tội giết người. Vậy nên ta không thể kết tội người chồng
được.

18. Xuất phát từ nhu cầu thực tế phòng chống nạn khủng bố, đặc biệt là từ vụ
việc ngày 11/9/2001 ở Mỹ, vào năm 2005, Nghị viện liên bang Đức đã thông
qua Luật An toàn hàng không. Theo Khoản 3 Điều 14 của đạo luật này, trong
những trường hợp nghiêm trọng, khẩn cấp, cơ quan an ninh quốc gia được phép
bắn vào máy bay dân dụng mà kẻ khủng bố sử dụng làm công cụ khủng bố. Câu
hỏi: Luật này có đảm bảo nguyên tắc tương xứng?
- Tính chính đáng của mục đích: Việc bắn thẳng vào máy bay có người dân vô
tội, cướp đi sinh mạng của họ là một hành vi xâm phạm đến quyền sống của con
người, xâm phạm đến phẩm giá của con người. Vì vậy, hành vi đó là vi hiến,
trái với điều 1 khoản 1 của Luật cơ bản Đức. Nên mục đích của đạo luật này là
không hợp pháp.
- Tính phù hợp: Hành động bắn máy bay dân dụng là biện pháp tiêu cực, không
thích hợp với mục đích vừa ngăn chặn phần tử khủng bố vừa hạn chế thương
vong tối đa xảy ra.
- Tính cần thiết: Đây không phải là biện pháp tối ưu nhất, không đảm bảo yếu tố
công bằng, hợp lý bởi khi so sánh giữa mạng người với của cải vật chất thì tính
mạng con người vẫn luôn là quý giá.
- Tính chừng mực: Bảo vệ tính mạng con người là một nhiệm vụ quan trọng.
Hành động bắn máy bay dân dụng để loại bỏ phần tử khủng bố gây thiệt hại
nặng nề về cả mạng sống lẫn tài sản, ngoài chi phí bồi thường cho gia đình
những nạn nhân vô tội thì còn phải khắc phục thiệt hại về cơ vật chất nơi mà
máy bay rơi xuống. Thay vì bắn bỏ, chúng ta có biện pháp thiết thực hơn như
đàm phán để đạt được mục đích loại bỏ phần tử khủng bố và không làm thương
vong tới người vô tội. Như vậy đây là một hành động vô cùng tàn ác, gây tổn
hại nhiều so với lợi ích mong muốn đạt được.

19. Năm 2001 ở Mỹ có trường hợp Brandes, 43 tuổi đồng ý với lời mời trên
Internet tìm người tự nguyện chết và bị ăn thịt. Người đưa là lời ngỏ đó là
Armin Meiwes 42 tuổi. Khi bị bắt Meiwes đã ăn hết 2/3 số thịt. Tại thời điểm
đó, ở Mỹ không có luật chống lại việc ăn thịt người, anh ta bị kết án 5 năm tù.
Hãy dùng phương pháp tư duy phân tích dựa trên cơ sở đạo đức để trả lời câu
hỏi: hành động của công quyền trường hợp này là đúng hay sai ?
Dưới góc nhìn đạo đức thì cần xem xét:
- Góc nhìn đạo đức cá nhân: Hành vi công quyền bắt Meiwes là để bảo vệ lợi
ích của những người khác.
- Góc nhìn các quyền đạo đức: Hành vi công quyền là để bảo vệ tính mạng con
người, trong mọi trường hợp thì nó không bao giờ đc phép bị xâm hại.
- Góc nhìn công lý: Hành vi của công quyền là hướng tới công lý nói chung.
- Góc nhìn hạnh phúc cực đại: Hành vi của công quyền sẽ mang tính răn đe cực
cao đối với những người khác, ngăn chặn những hành vi tương tự có thể xảy ra.
→ Hành vi công quyền là đúng dưới góc độ đạo đức.

20. Nhà bạn nhiều bụi bẩn, người hàng xóm đi qua khuyên bạn dọn dẹp nhà
cửa. Nhà người hàng xóm đó cũng rất bẩn. Bạn nói: Bác về mà dọn dẹp nhà bác
đi. Nhà bác cũng bẩn mà. Bạn đã vi phạm quy luật nào của tư duy?
→ Vi phạm quy luật đồng nhất. Trong trường hợp này đáng lẽ ra cần phải tập
trung vào lời khuyên của người hàng xóm chứ k phải tấn công cá nhân bằng
cách nói lại “Nhà bác cũng bẩn mà”.

21. Sau khi để chúa Trịnh đói lả vì chờ món ăn nấu quá lâu, Quỳnh đưa một lọ
tương cho Chúa ăn để tên là “Đại Phong”. Do đói quá nên Chúa ăn rất ngon và
hỏi “Đại Phong” là món gì, Quỳnh trả lời: “Đại phong là gió lớn. Gió lớn thì đổ
chùa. Đổ chùa thì tượng lo. Tượng lo là lọ tương”. Chúa cười ha hả, hiểu thâm ý
của Quỳnh. Dân gian qua đó khen Quỳnh thông minh, dí dỏm. Xác định lỗi
ngụy biện trong câu nói của Trạng Quỳnh?
Lỗi ngụy biện:
+ Khái quát hóa vội vã: Gió lớn chưa chắc đã đổ chùa, tại sao và điều gì chứng
minh được đổ chùa thì tượng lại lo
+ Đánh tráo khái niệm: Tượng lo là lọ tương (chơi chữ nhưng đã tự đánh tráo
khái niệm gốc mà mình đưa ra ban đầu)
+ Cái xảy ra sau: Vì sự việc B xảy ra sau chưa chắc đã là kết quả của sự việc A
xảy ra trước. Đổ chùa chắc gì đã do gió lớn mới đổ, mà còn nhiều nguyên nhân
khác.

22. Điều 528 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp hành khách vi
phạm điều kiện vận chuyển đã thỏa thuận hoặc quy tắc liên quan đến vận
chuyển mà gây thiệt hại cho bên vận chuyển hoặc bên thứ ba thì phải bồi
thường.” Hãy xác định các điều kiện giả định mô tả và điều kiện giả định quy
tắc trong Điều luật này.
- Điều kiện giả định mô tả: Hành khách, bên vận chuyển, bên thứ ba.
- Điều kiện giả định quy tắc: “vi phạm điều kiện vận chuyển đã thỏa thuận”,
“gây thiệt hại”.
23. Vào năm 1936, Tạp chí Literary Digest của Mỹ đã tiến hành một cuộc thăm
dò để dự đoán kết quả bầu cử tổng thống giữa hai ứng cử viên là Alf Landon và
Franklin Roosevelt. Tạp chí này đã thăm dò ý kiến của hai triệu người và đa số
đã biểu quyết họ sẽ bỏ phiếu cho Landon. Trong cuộc bầu cử thực tế, Roosevelt
đã dành được 523 phiếu bầu, trong đó Landon chỉ nhận được 8 phiếu bầu. Tại
sao có sự khác biệt như vậy?
Vấn đề ở đây là cuộc bầu cử tổng thống đáng ra phải có sự tham gia của hàng
trăm triệu người dân Mỹ, thì cuộc thăm dò của tạp chí Literary Digest chỉ giới
hạn trong 2 triệu người, như vậy là không đủ tính đại diện. Chưa kể đến địa vị
pháp lý, thành phần xã hội của họ có đủ đa dạng, bao quát hết các tầng lớp trong
đất nước hay không. Kết quả cuộc thăm lấy ý kiến của một bộ phận nhỏ, không
đủ phổ quát toàn dân Mỹ. Nếu ta vội vàng đưa ra kết luận từ kết quả này thì sẽ
mắc lỗi khái quát hóa vội vã trong tư duy.

24. Có quy định rằng: “Quyết định bổ nhiệm công chức sẽ bị thu hồi, nếu phát
hiện rằng người được bổ nhiệm đã thực hiện một hành vi phạm tội hình sự”.
Suy luận đối nghịch của quy định trên là gì?
=> Suy luận đối nghịch: “Không thu hồi quyết định bổ nhiệm công chức nếu
người được bổ nhiệm không thực hiện một hành vi phạm tội hình sự”.

25. Một bà già mất gà đã nổi điên chửi hàng xóm hết ngày này qua ngày khác.
Cả xóm chịu hết nổi, bèn kéo nhau đến công đường nhờ phân xử. Vị quan cho
phép mọi người thẳng tay tát kẻ làm náo loạn. Bằng cách nào vị quan đã tìm ra
được kẻ trộm gà thực sự?
Người bình thường nghĩ đến tình làng nghĩa xóm, lại thương bà già của đau con
xót, nên chỉ vung tay rất nhẹ. Riêng kẻ trộm, vì bị nguyền rủa, nên đã xuống tay
rất mạnh => Phương pháp tư duy phi tuyến tính.
26. Thân chủ của bạn nhận được trát yêu cầu hầu tòa vì đã lái xe đạp điện mà
không đội mũ bảo hiểm. Sau khi nghiên cứu bạn thấy rằng không có đạo luật
nào quy định cụ thể về vấn đề này cả. Tuy nhiên có hai án lệ mà có thể viện dẫn
để đưa ra kết luận. Một vụ án xác lập quy tắc người lái xe mô-tô phải đội mũ
bảo hiểm, vụ án kia thì xác lập quy tắc người lái xe đạp không phải đội mũ bảo
hiểm. Bạn sẽ lập luận ra sao để bảo vệ thân chủ của mình?
Tìm các tiêu chí để chứng minh rằng lái một chiếc xe đạp điện thì cũng giống
như lái một chiếc xe đạp mà thôi.
+ Tiêu chí 1 về tốc độ: Xe đạp điện không thể đi nhanh như một chiếc xe máy,
mà tốc độ chỉ bằng hoặc nhanh hơn xe đạp bình thường không nhiều
+ Tiêu chí 2 về loại đường mà phương tiện được lưu thông: xe đạp điện và xe
đạp đều không được phép lưu thông trên đường cao tốc. Chỉ có xe máy mới
được phép lưu thông trên đường cao tốc
+ Tiêu chí 3 về mức độ nguy hiểm gây ra: Xe đạp điện và xe đạp vì tốc độ chậm
nên không thể gây ra nguy hiểm nhiều cho chủ phương tiện và người đi đường
như xe máy.

27. Có một điều luật quy định là: “Việc dán quảng cáo lên tường nhà người
khác là bị cấm”. Có hai suy luận. Suy luận 1: việc treo quảng cáo lên tường là
không bị cấm. Giải thích: Vì điều luật chỉ nói đến việc cấm „dán quảng
cáo“ thôi. Dán và treo là hai hành động khác nhau. Suy luận 2: Việc “dán quảng
cáo” hay “treo quảng cáo” lên tường nhà người khác đều bị cấm.
Giải thích: vì về mặt bản chất, hai hành động này đều giống nhau đều là hành
động gắn một thông tin quảng cáo lên tường nhà người khác vì thế đều bị cấm.
Suy luận nào là suy luận đúng trong hai suy luận trên? Giải thích?

You might also like