Professional Documents
Culture Documents
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Kafka: Lòng nhẫn nại và “sự bất diệt” kinh điển
(1/2)
LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH | 09/03/2016 - 08:51
Bài dịch dưới đây là toàn bộ mục 20, thuộc chương III của
cuốn Điển phạm phương Tây: Tác phẩm và trường phái
qua các thời đại (Western Canon: The Books and School
of the Ages) (1994) – một trong những công trình quan
trọng của nhà phê bình người Mỹ đương đại nổi tiếng
Harold Bloom. Trước nguy cơ những tác phẩm kinh điển
cũ đang bị xem xét gạt ra khỏi chương trình khoa học
nhân văn ở Hoa Kỳ, cuốn sách của Bloom ra đời như một
“khúc bi ca cho điển phạm”, một tiếng nói thẳng thắn
nhằm bảo vệ và gìn giữ những chuẩn mực văn chương
thẩm mỹ. Trong cuốn sách này, ông đã liệt kê hàng trăm
gương mặt thuộc kho tàng điển phạm phương Tây và tập
trung khảo sát 26 tác giả mà ông cho là những đại diện
tiêu biểu nhất cho các thời đại văn học: Shakespeare,
Dante, Chaucer, Cervantes, Montaigne, Molière, Milton,
Samuel Johnson và Goethe của thời đại Quý tộc;
Wordsworth, Jane Austen, Whitman, Dickinson, Dickens,
George Eliot, Tolstoy và Ibsen của thời đại Dân chủ; và
Freud, Proust, Joyce, Woolf, Kafka, Borges, Neruda,
Pessoa, Beckett của thời đại Hỗn loạn. Chúng tôi xin
được giới thiệu phần viết về tác giả Franz Kafka trong
công trình này.
*
Kafka: Lòng nhẫn nại và “sự bất diệt” kinh điển
(Trích Điển phạm phương Tây: Tác phẩm và trường phái
qua các thời đại)
Nếu muốn tìm một gương mặt tiêu biểu nhất cho
văn chương thế kỉ này, có lẽ ta sẽ thấy mình lang thang
vô vọng giữa muôn vàn những lựa chọn bị chối bỏ. Không
biết chừng sang thế kỉ XXII, người đọc – nếu vẫn tồn tại
người đọc theo cách hiểu của chúng ta – sẽ gạn lọc đến
cả những Dante và Montaigne của thế kỉ XX (như Kafka
và Freud chăng?). Trong cuốn sách này, tôi chọn ra chín
tác gia hiện đại: Freud, Proust, Joyce, Kafka, Woolf,
Neruda, Beckett, Borges và Pessoa. Tôi không quả quyết
rằng họ là những thiên tài bậc nhất; họ có mặt ở đây để
đại diện cho tất cả những người, ở một chừng mực nào
đó, xứng tầm những nhà văn kinh điển của thời đại.
Ngoại trừ Neruda và Pessoa, các nhà thơ cùng
thời không có mặt ở đây là: Yeats, Rilke, Valery, Trakl,
Stevens, Eliot, Montale, Mandelstam, Lorca, Vallejo, Hart
Crane cùng nhiều người khác nữa. Bản thân tôi ưa
chuộng thơ ca hơn tiểu thuyết và kịch, thế nhưng dễ thấy
rằng ngay cả Yeats, Rilke và Stevens cũng không thể
sánh bằng Proust, Joyce và Kafka trong việc biểu thị toàn
vẹn tinh thần thời đại. W. H. Auden cho rằng Kafka là linh
hồn độc đáo của thời đại. Hẳn vậy, cái định ngữ “kiểu
Kafka” (Kafkaesque), như ta biết, đã hàm chứa một ý
nghĩa lạ thường; dường như nó đã trở thành một thuật
ngữ toàn cầu cho cái mà Freud gọi là “cái lạ lùng” (the
uncanny) – cái hiện hữu vừa gần gũi, thân thuộc lại đầy
cách xa, lạ lẫm. Nhìn từ khía cạnh văn chương đơn thuần,
đây là thời đại của Kafka hơn là của Freud. Freud, người
kế nhiệm kín đáo của Shakespeare, đã vẽ ra bản đồ tâm
lý; còn Kafka lại ngụ ý rằng không thể trông chờ vào đó
mà cứu rỗi bản thân, thậm chí là cứu rỗi bản thân khỏi
chính mình.
Để chứng minh vị trí trung tâm của Kafka trong
điển phạm thế kỉ, cần khảo sát trên một diện rộng các tác
phẩm, bởi không một thể loại riêng biệt nào Kafka từng
thử bút có thể thâu tóm tinh hoa văn chương của ông.
Kafka là một nhà cách ngôn vĩ đại chứ không phải là một
người kể chuyện thuần túy, ngoại trừ trong truyện ngắn
(parable). Ở thể loại tự sự dài hơi hơn, các tiểu thuyết
Nước Mỹ, Vụ án, thậm chí Lâu đài đều hay hơn với tư
cách các phần riêng lẻ hơn là ở dạng những tác phẩm
hoàn chỉnh; và ở những truyện vừa như Biến dạng, thì sự
khởi đầu cũng thường sâu sắc hơn chiều hướng kết thúc.
Bên cạnh cách ngôn và truyện ngắn, trí tưởng tượng của
Kafka bộc lộ mạnh mẽ nhất trong những truyện kể rất
ngắn hay mảnh truyện (fragment), đặc biệt là những mảnh
truyện hoàn chỉnh như Người cưỡi xô, Người thầy thuốc
nông thôn, Thợ săn Gracchus và Vạn lý trường thành.
Nhật kí của Kafka được ưa thích hơn thư từ, kể cả những
lá thư gửi Milena Jesenka, bởi trên đời này, hay thậm chí
trong cả tiểu thuyết của môn đệ của ông – Philip Roth,
cũng thật hiếm tìm được người tình nào lại bi thảm như
Kafka. Freud, người từng bị Kafka gạt đi, xem như là “một
Rashi[1] của nỗi âu lo Do Thái đương đại”, hẳn sẽ thỏa
nguyện nếu có dịp nghiền ngẫm những bức thư tình của
Kafka, ở nơi đó, những nỗi âu lo sâu thẳm nhất của chính
Kafka lại càng chất chứa. Để khám phá cái bản ngã sâu
kín trong những thiên tài văn chương thời đại này, cần
phải kiếm tìm ở những nơi mà nhà văn nỗ lực tỏ ra khách
quan và trung hòa nhất, và nỗ lực đó, hẳn nhiên, vô hiệu.
Khám phá bản ngã sâu kín thay vì những khúc
mảnh tâm lý manh mún là phương thức phủ nhận rất
riêng của Kafka, người đã từng tuyên bố: “Không lặp lại
tâm lý học!” và “Tâm lý học là sự thiếu nhẫn nại”. Thiếu
nhẫn nại, Kafka quả quyết, là thứ tội lỗi lớn nhất, bao trọn
tất cả mọi tội lỗi khác. Ấy vậy mà tôi lại chưa từng đọc
Kafka mà không nghĩ về cách ngôn ưa thích của mình về
bản chất của sự nóng vội Do Thái: “Ngủ nhanh mà giữ
gối”[2]. Đức Chúa Yahweh không phải là một vị chúa nhẫn
nại, ít nhất là trong J[3], và có lẽ Kafka, người tự xưng là
tín đồ Kabbalah[4] mới, đã đeo đuổi cuộc truy tìm nhiệm
mầu bí mật một đề án khiến cho đấng tối cao của người
Do Thái nhẫn nại hơn. Gustav Janouch trong Những cuộc
đối thoại với Kafka (Conversations with Kafka), một công
trình không mấy đáng tin (cho dù có những thuyết phục
nhất định trong việc nắm bắt được các biến tố trong văn
chương Kafka), đã cố chứng minh cái mà một số người
gọi là thuyết ngộ đạo Do Thái của Kafka, điều cũng được
tìm thấy ở Gershom Scholem và Walter Benjamin, hai
người chịu ảnh hưởng sâu rộng của ông. Thuyết ngộ đạo
đó thiếu kiên nhẫn với thời gian, vậy nhưng trong văn
chương và trong các cuộc trò chuyện, Kafka lại luôn đề
cao lòng nhẫn nại trên tất cả.
Những nghịch lí là điều mà người đọc Kafka hẳn
đã đoán định được từ ông, nhưng cái gọi là thuyết ngộ
đạo nhẫn nại thì còn hơn cả một nghịch lí. Lòng ngộ đạo,
theo định nghĩa, là một tri thức phi thời gian cả về bản ngã
trong bản ngã lẫn đấng thần linh ngoại lai ẩn tàng trong
bản ngã sâu kín nhất. Nhẫn nại có thể là con đường thực
dụng dẫn tới lòng ngộ đạo, điều này khá rõ ràng ở Kafka,
nhưng tuyệt nhiên nó có rất ít liên hệ với cái gọi là sự phủ
nhận đột ngột của bất kì thuyết ngộ đạo nào. Bằng chứng
cho song đề này là: lòng nhẫn nại, cách hiểu biết của
Kafka, không hề dẫn tới sự phủ định mang tính nhị
nguyên hay việc đề xuất một thuyết Kabbalah mới. Mặc
dù chúng ta có xu hướng kết nối hay liên kết lòng ngộ đạo
và thuyết ngộ đạo, Kafka lại phân biệt chúng. Ông gọi
lòng ngộ đạo là “sự nhẫn nại”, và thuyết ngộ đạo là “sự
phủ nhận”; cái đầu tiên vô cùng chậm rãi, cái sau đó lại
nhanh đến kinh ngạc bởi vì nó thừa nhận thuyết nhị
nguyên mà Kafka cho rằng tồn tại sâu kín trong tất cả mọi
thứ, tất cả mọi người. “Lòng nhẫn nại” của Kafka chứa
đựng một điều gì rất khác biệt:
Bạn không cần phải rời khỏi nhà. Hãy lưu lại bên
bàn và lắng nghe. Thậm chí hãy đừng nghe, chỉ cần chờ
đợi. Thậm chí đừng đợi, hãy cứ tĩnh lặng và cô đơn. Thế
giới sẽ hiện thân ngay trước mắt; không gì khác hơn;
trước mắt bạn, nó sẽ quằn quại đớn đau trong ngây ngất
vô ngần.
“Thế giới không thể bị đánh lừa tước mất những
chiến thắng của nó”[5], khi mà Kafka không hề tìm kiếm
chiến thắng cho riêng mình. Thế nhưng ông chưa từng
biết đến thất bại, “bởi vì chưa từng có điều gì xẩy ra”. Nếu
bị thuyết phục rằng chưa có điều gì từng xảy ra, bạn
không thể thoát xa khỏi truyền thống Do Thái. Ký ức
người Do Thái giống như sự kìm nén trong Freud: tất cả
mọi thứ đã xảy ra, và không bao giờ có điều gì mới. Bất
chấp nỗi sợ hãi bởi chuyện tình gia đình[6] mình, Kafka
vẫn kiên quyết viết như thể “chưa có gì từng xẩy ra”. Đối
với người Do Thái, biến cố mang tính khởi thủy chính là
Giao ước của Abraham, và với Kafka, Abraham lại là một
nhân vật không đáng tin. Có lẽ, vai trò anh hùng của
Abraham trong Sợ hãi và run rẩy (Fear and Trembling)
của Kierkegaard đã khiêu khích Kafka đến những sự phủ
định. Chúng hẳn nhiên đều là những phản đề đối với
truyền thống Do Thái giáo và Ki-tô giáo:
Nhưng hãy thử nhìn một Abraham khác. Một
người muốn hi sinh tất thảy một cách đúng đắn và có cảm
quan đúng đắn trong toàn bộ sự việc, nhưng không chịu
tin rằng ông ta là một kẻ có ý nghĩa, chính ông, một ông
già xấu xí, và đứa trẻ bẩn thỉu ấy con của ông ta. Lòng
trung thành đúng nghĩa không thiếu trong ông, ông có
lòng trung thành; nhưng ông chỉ có thể hi sinh một cách
đúng đắn khi mà ông hiểu rằng ông là một kẻ có ý nghĩa.
Ông ta e sợ rằng sau khi bắt đầu như là Abraham với con
trai mình, ông sẽ thay đổi thành như Don Quixote.
(Clement Greenberg dịch)
Theo một cách đen tối nào đó, Abraham này là
tiền thân kiểu Quixote của Kafka. Từ bình diện ảnh hưởng
văn chương, Goethe là Abraham mà từ đó Kafka xuất
thân; từ bình diện tâm linh, Luật hay đạo Do Thái tích cực
được hóa thân trong Abraham. Kafka, từ bỏ Luật vì sự
phủ nhận của riêng mình, đã ruồng bỏ cả Abraham, người
đã diễn giải nhầm thế giới:
Abraham đau đớn với ảo ảnh sau: ông ta không
thể chịu đựng nổi tính thống nhất của thế giới. Tuy vậy,
thế giới giờ đây đa dạng chưa từng thấy, bất cứ lúc nào,
chỉ cần nhặt một nhúm nhỏ thế giới lên và ngắm nhìn thật
kĩ cũng đủ thấy rõ điều đó. Bởi vậy, lời than phiền về tính
thống nhất của thế giới thực ra là lời than phiền về nỗi
không thể hòa nhập sâu sắc với tính đa dạng của nó.
Kafka là một nhà châm biếm quá ư khôn ngoan để
tin rằng nghệ thuật hay cuộc đời của mình có thể hòa trộn
sâu sắc với tính đa dạng của thế giới. Sự châm biếm nổi
loạn của ông chống lại Abraham là sự chống đối lại bản
ngã và cả những cuộc trốn chạy của nó, bao gồm sự chạy
trốn khỏi Do Thái giáo và truyền thống văn chương chính
thống của ngôn ngữ Đức từ Goethe. Kafka gọi sự trốn
chạy này là “lòng nhẫn nại”, một phép tu từ hay ẩn dụ cho
việc thực hành nghệ thuật của một nhà văn. Thứ nghệ
thuật đó, hơn tất cả công việc của bất kì nhà văn nào có
cùng năng lực, tồn tại trong một sức căng biện chứng với
khả năng phê bình. Joyce lại ở đối cực khác: ông nghênh
đón và nhiệt tình hướng dẫn mọi sự diễn giải. Beckett –
người đủ liều lĩnh và tài năng để kết hợp cả Joyce, Proust
và Kafka, trong thái độ với phê bình, lại tỏ ra giống với
Kafka hơn là Joyce và Proust; nhưng thực tế Kafka lại ít
để lại ảnh hưởng đối với tác giả Murphy, Molloy và Watt
hơn là Joyce và Proust.
Giới phê bình đành phải chịu thua Kafka mỗi khi
rơi vào cái bẫy mà tác giả luôn giăng sẵn chờ mọi nỗ lực
diễn giải cắm đầu vào, cái bẫy của riêng Kafka chối bỏ
mọi diễn giải. Dưới hình thức phúng dụ của riêng mình,
mỗi một hình ảnh mà ông bày ra trước chúng ta đều vừa
là vừa không phải là cái mà ta tưởng như đang nhìn thấy.
Vì thế trong truyện Những cuộc điều tra của một con chó
(Investigations of a Dog), kịch tính lạ thường xảy ra khi
chú chó săn tuyệt đẹp hiển lộ trước kẻ dẫn chuyện – một
con chó tội nghiệp đang đầm mình trên nền sân trong
vũng máu và một đống nôn mửa, thì chúng ta không thể
nào diễn giải một điều dẫu đơn giản rằng con chó săn kia
là ai, hay nó tượng trưng cho điều gì. Ít nhất một nhà phê
bình xuất sắc nào đó về Kafka đã từng bạo gan cho rằng
con chó săn mồi đẹp đẽ đó chính là Thượng đế, nhưng
cũng như tất thảy những phê bình diễn giải các hình ảnh
thần thánh trong thế giới Kafka, trường hợp này rốt cuộc
cũng là nạn nhân của sự châm biếm của tác giả mà thôi.
Sẽ là an toàn khi cứ để những hình ảnh đại diện được
yên, chứ các thánh thần trong truyện ngắn và tiểu thuyết
Kafka không chuyển tải một gợi ý gì. Có nhiều quỷ sứ giả
trang thành thiên sứ và thánh thần, và có cả những loài
vật thần bí (và những hình hài giống vật), nhưng Thượng
đế thì luôn ở một nơi nào khác, một nơi xa xôi dưới vực
thẳm, hoặc là đang say ngủ, hoặc có lẽ đã chết. Kafka,
một thiên tài độc đáo, là một tác gia lãng mạn chứ không
đời nào là một nhà văn tôn giáo. Ông thậm chí còn không
phải là một kẻ ngộ đạo Do thái giáo hay tín đồ Kabbalah
như trong trí tưởng tượng của Scholem và Benjamin, bởi
vì ông không nuôi hi vọng, dẫu là vì bản thân ông hay vì
chúng ta.
Tất cả những gì dường như là siêu nghiệm trong
tác phẩm Kafka, thật kì lạ, lại đều là sự giễu nhại đích
thực; đó là lời giễu nhại khởi phát từ vị ngọt tuyệt vời của
tinh thần. Mặc dù tôn thờ Flaubert nhưng Kafka sở hữu
một cách cảm nhẹ nhàng hơn tác giả Bà Bovary (Madame
Bovary). Tuy vậy, những truyện kể của ông, dù ngắn hay
dài, gần như luôn luôn gay gắt trong những sự kiện, sắc
điệu và những lời tiên đoán. Điều khủng khiếp sắp xảy
đến. Tinh thần cốt lõi của văn Kafka có thể được chuyển
tải qua nhiều trích đoạn, và một trong chúng là bức thư
nổi tiếng ông gửi cho nàng Milena. Cũng đầy đớn đau
như thư Kafka nói chung, chúng thực là những tuyệt tác
của thế kỉ:
Đã lâu rồi kể từ lần cuối tôi viết thư cho em, Frau
Milena ạ; và mặc dù thế, hôm nay tôi viết cho em cũng chỉ
như kết quả của một sự ngẫu nhiên. Thực sự là tôi không
cần phải xin thứ lỗi vì đã không viết thư, em biết tôi ghét
thư từ đến thế nào rồi đấy. Tất cả nỗi bất hạnh của đời tôi
– tôi không có ý phàn nàn, chẳng qua chỉ đưa ra một bình
luận chung chung – nếu có thể nói, đều phát xuất từ
những lá thư hoặc từ việc có thể viết thư. Con người khó
có thể làm tôi thất vọng, thế mà những lá thư – và sự thật
là không chỉ những lá thư của người khác, mà cả của
chính tôi – thì luôn luôn làm được điều đó. Với tôi, đây là
nỗi bất hạnh riêng tư mà tôi sẽ không nói thêm về nó nữa,
thế nhưng nó đồng thời lại cũng là nỗi đau chung. Cái khả
năng dễ dãi của việc viết thư – nhìn một cách đơn thuần lí
thuyết – đã làm thối rữa kiệt cùng những linh hồn thế gian.
Điều này, thật sự là một sự giao tiếp[7] với những hồn ma,
và không chỉ với những hồn ma của người nhận mà ngay
cả hồn ma của chính mình, bóng ma này hình thành giữa
những dòng thư ngay khi người ta đang viết và trở nên lớn
hơn trong một chuỗi những lá thư, nơi mà mỗi lá thư lại
chứng thực cho một lá thư khác và đến lượt lá thư khác lại
là nhân chứng. Làm sao trên đời này lại có kẻ mang một ý
tưởng rằng con người có thể giao tiếp với nhau bằng thư!
Mỗi người có thể nghĩ về một người ở xa, và có thể nắm
tay người ở gần – còn thì tất thảy mọi điều khác đều vượt
quá sức mạnh của con người. Hành động viết thư đồng
nghĩa với việc lột trần con người ra trước loài ma quỷ, điều
mà lũ chúng hau háu chờ chực. Những nụ hôn trên trang
giấy không thể nào tới được nơi chúng cần tới, trái lại
chúng bị quỷ dữ uống cạn trên đường đi. Nhờ vào nguồn
dinh dưỡng dư dật này, lũ chúng sinh sôi theo cấp số
nhân một cách nhanh chóng đến kinh hoàng. Loài người
cảm nhận được điều này và đấu tranh chống lại nó và để
tiêu diệt đến tối đa những yếu tố ma quái tồn tại giữa
người với người, để tạo ra sự giao tiếp tự nhiên, để mang
lại sự bình yên cho các linh hồn, loài người đã phát minh
ra tàu hỏa, xe hơi, máy bay. Nhưng cũng chẳng ích gì, rõ
rành rành có những phát minh ngay lập tức nát vụn ngay
trong khoảnh khắc thành hình. Kẻ thù thì bình tĩnh và
mạnh mẽ hơn nhiều; sau dịch vụ thư tín chúng đã phát
minh ra điện báo, điện thoại, vô tuyến. Quỷ dữ sẽ không
chết đói, mà chính chúng ta sẽ bị diệt vong.”
(Bản dịch
tiếng Anh của Philip Boehm)
Thật khó để hình dung được một điều gì ám ảnh
hơn những câu văn: “Những nụ hôn trên trang giấy không
thể nào tới được nơi chúng cần tới, trái lại chúng bị quỷ
dữ uống cạn trên đường đi” hay “Quỷ dữ sẽ không chết
đói, mà chính chúng ta sẽ bị diệt vong.”
Thái độ của Kafka với cội nguồn Do Thái của mình
có lẽ là nghịch lí lớn nhất của ông. Có những dấu vết khốn
khổ của sự tự căm ghét cội nguồn Do Thái trong những
bức thư viết cho Milena, nhưng chúng dường như vẫn có
thể lí giải được, và tệ nhất, chúng mới chỉ là mặt ngoài
của sự ray rứt. Trong những phức cảm bất tận, gần như
mọi thứ Kafka viết đều gợi lên mối liên quan giữa ông với
người Do Thái và những truyền thống Do Thái. Chúng ta
nên bắt đầu thức nhận rõ ràng về điều này, ít nhất là vì
chúng thường không được ghi lại. Kafka, với sự nhạy cảm
tôn giáo của một thiên tài hiếm có, không hề tin vào
Thượng đế, thậm chí không tin vào Đấng Thượng đế xa
vời của phái ngộ đạo. Ông chia sẻ sự hoài nghi này với
Freud, Woolf, Joyce, Beckett, Proust, Borges, Pessoa và
Neruda – những nhân vật kinh điển tôi đã chọn lọc từ thời
đại chúng ta, nhưng không ai có thể tìm thấy trong bộ tám
nói trên, ngay cả ở Beckett – người chịu ảnh hưởng của
Kafka, một điều gì tương tự như những mối ưu tư về tôn
giáo như ở Kafka. Trong Chiến dịch Shylock (Operation
Shylock), Philip Roth có một khám phá bước ngoặt đáng
ngưỡng mộ rằng Hein, một tác giả Do Thái tiêu biểu trước
Kafka, cho rằng tên Chúa là Aristophanes. Heine là một
tín đồ đầy dằn vặt; Kafka, một kẻ vô thần, không đặt tên
cho Chúa, nhưng nếu những kẻ trong Cung điện và Lâu
đài của Kafka có một vị Chúa, thì đó hẳn là Aristophanes.
Kafka nói giúp và nói với một số lượng độc giả, bất
kể là người Do Thái hay không, những người không như
Freud xem tôn giáo như một ảo tưởng, nhưng lại đồng ý
với Kafka rằng họ đã sinh ra quá muộn để biết chắc rằng
mình thuộc về những truyền thống Kitô giáo và Do Thái
giáo. Kafka không biết liệu ông là sự kết thúc hay sự khởi
đầu, chúng ta cũng vậy. Ritchie Robertson, một trong
những học giả nghiên cứu về Kafka nổi tiếng nhất, đã tinh
ý chỉ ra rằng đối với tác giả Lâu đài thì “hình tượng tôn
giáo chỉ có giá trị khi được xem là sự biểu hiện của sự thôi
thúc tôn giáo, và sẽ trở nên sai lạc khi bị xem là sự diễn
giải những thôi thúc đó”. Bởi vì Kafka tránh xa việc diễn
giải sự thôi thúc tôn giáo và sẽ không thừa nhận bất kì sự
diễn giải nào, thành ra độc giả bị bỏ rơi trong hàng loạt
những lối tượng trưng kiểu Kafka đối với sự thôi thúc nói
trên, những lối tượng trưng đôi khi tuân theo những hình
tượng quen thuộc và đôi khi lại xa rời chúng. Điều này
khiến cho việc nghiên cứu một cách chính xác, trong mức
Kafka cho phép, rằng điều gì là quan điểm của Kafka, trở
nên rất đỗi quan trọng.
Hồ Vân Anh dịch
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Một cách nhìn về “tiểu thuyết hậu hiện đại ở
Việt Nam”
THỂ TÀI PHÊ BÌNH | 27/08/2013 - 06:50
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam
những năm gần đây
THỂ TÀI PHÊ BÌNH | 13/02/2013 - 06:07
Văn Giá
—————————–
Chú thích của tác giả:
(1) Khái niệm phân mảnh có khác so với khái niệm lắp
ghép (montage) của kỹ thuật tự sự nửa cuối 19 ở phương
Tây và 1930-1945 ở ta. Nghệ thuật lắp ghép chỉ thực hiện
với một mục đích duy nhất là phá vỡ hình thức văn bản
truyện trùng khít với trật tự thời gian tuyến tính của cốt
truyện. Còn tính phân mảnh đi xa hơn, nó còn chủ trương
đập vỡ các mảng văn bản trần thuật thành những mảnh
vụ rời rạc, xô lệch, không theo một trật tự nhân quả rõ rệt
nào, và tương ứng với mỗi mảnh vụn ấy là mỗi mảnh của
hiện thực đời sống được biểu hiện.
(2) Xem thêm bài Tấm ván phóng dao sức sống của các
giá trị nhân văn cổ điển của Văn Giá, in trên Văn nghệ trẻ,
số 39, ra ngày 26/9/2004.
Nguồn: http://vietvan.vn
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Cảm thức vĩnh viễn trong tiểu thuyết Âm thanh
và cuồng nộ của William Faulkner
THỂ TÀI PHÊ BÌNH | 16/03/2016 - 08:29
Hồ Vân Anh
Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu cảm thức vĩnh viễn trong tiểu
thuyết Âm thanh và cuồng nộ của William Faulkner, có thể
hiểu là tính chất bất động, khép kín vĩnh cửu của thời gian
và tồn tại trong tác phẩm. Những ấn tượng, cảm giác, tri
nhận về sự vĩnh cửu được biểu hiện sâu đậm nhất trong
dòng ý thức của nhân vật Benjy và Quentin. Nếu như
Benjy hiện diện như một con người thuở hoang sơ, tồn tại
vĩnh viễn trong quá khứ hồn nhiên thì Quentin mắc kẹt
mãi mãi ở hiện tại trong khát vọng níu giữ quá khứ bất
thành. Từ đó, tác phẩm gợi nên hoài niệm về một quá khứ
hoang sơ, trinh bạch, về cái đẹp bị đánh mất, niềm đau
đớn trước nền văn hóa vật chất chủ nghĩa đang lan tràn.
Trên tất cả, điều đó xuất phát từ lòng mến yêu cái đẹp và
khát vọng ươm giữ cái đẹp vĩnh cửu của nhà văn.
Từ khóa: văn học Mỹ, William Faulkner, Âm thanh và
cuồng nộ, thời gian, dòng ý thức
1.Thời gian là một mối âu lo của con người hiện đại. Thời
gian co giãn của Einstein, chuyến du hành trong giấc
mộng mang tên Freud, thời gian trực cảm của Bergson,
ngày – mùa biến chuyển quanh đụn cỏ khô trong tranh
Monet…, tất cả những phát kiến khoa học, tư tưởng và
nghệ thuật đầu thế kỉ XX đã gây chấn động với những tâm
hồn bấy lâu đang yên vị trên đường chạy thẳng tắp của
thời gian hay tin cậy vào vòng quay không đổi của kim
đồng hồ. Hiển lộ trong một hình hài mới, thời gian, ban
đầu là nỗi âu lo, dần dần trở thành một thứ cảm thức mới
của con người hiện đại. Cảm thức đó, đến lượt nó, được
biểu hiện một cách da diết trong thể nghiệm văn chương
của những F. Kafka, J. Joyce, M. Proust, S. Beckett, G. G.
Marquez…
William Faulkner, trong tiểu thuyết xuất sắc đầu tiên của
mình, Âm thanh và cuồng nộ (1929), đã đem đến một cảm
thức riêng về thời gian và tồn tại – cảm thức vĩnh viễn.
Toàn bộ những ấn tượng, cảm giác, tri nhận, trong sự
quyện hòa với nhau, hội tụ thành cảm thức về một tồn tại
phi thời gian, ở đó sự tồn tại của con người bị ghim chặt
trong những khoảnh khắc vĩnh cửu, không có trước hay
sau, không có tiếp nối hay trôi chảy. Quá khứ, hiện tại hay
tương lai mất đi ý nghĩa của nó khi bị tháo tung khỏi hệ
quy chiếu tuyến tính. Cái còn lại duy nhất: những khoảnh
khắc vĩnh viễn.
Nhìn trên kết cấu tác phẩm, sự sắp xếp các chương bước
đầu tạo nên ấn tượng về tính phi thời gian. Bốn chương
được tháo rời và đính vào những mốc thời gian xáo trộn
độc lập (chương một: ngày 7/4/1928, chương hai: ngày
2/6/1910, chương ba: ngày 6/4/1928, chương bốn:
8/4/1928) và những người kể chuyện khác nhau (ba
chương đầu được kể từ ngôi thứ nhất, là dòng ý thức của
ba anh em trai nhà Compson, chương cuối được kể từ
ngôi thứ ba). Sự phá vỡ trật tự tuyến tính của thời gian
trần thuật và tính đơn nhất của ngôi kể tạo nên ấn tượng
về những mảng khoảnh khắc tách rời và ý niệm rằng
không một thời điểm nào là trung tâm. Người đọc khi lần
đến những trang cuối của chương một không đoán định
được rằng mình sẽ bước hụt chân vào quá khứ trước đó
18 năm ở chương hai, và hành trình đọc cứ gập ghềnh
thế cho đến chương cuối tác phẩm. Điều đáng nói là,
ngay ở mỗi chương, theo dòng hồi ức, liên tưởng hỗn độn
như dòng thác lũ mộng mị của nhân vật, lại toát lên một
ấn tượng về thời gian hoàn toàn khác biệt. Trong đó, tính
chất ngưng đọng vĩnh cửu của thời gian trở nên ám ảnh
hơn cả trong dòng ý thức của nhân vật Benjy và Quentin –
hai nhân vật chịu những chấn thương đau đớn và nghiệt
ngã nhất. Ở hai người con của gia đình Compson ấy, có
kẻ ngây thơ điên dại mắc kẹt trong quá khứ hoang sơ mãi
mãi, cũng có kẻ trí thức giãy đạp khỏi hiện tại trong những
nỗ lực bất thành.
2.Cuốn tiểu thuyết được xếp vào loại khó đọc nhất trong
văn chương thế kỉ XX mở đầu bằng lời kể của một thằng
khờ, Benjy, một gã câm bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ và
chịu những chấn thương tâm lí. Ngay từ chương đầu tiên
của tác phẩm, dòng ý thức của Benjy đã tạo lập một thế
giới hoàn toàn khác lạ: hàng loạt những phiến đoạn hồi
ức quá khứ được gọi dậy từ những kích thích giác quan,
trở nên sống động và thật hơn cả, khiến hiện tại dường
như mờ nhòe và biến mất. Cảm thức vĩnh viễn ở nhân vật
Benjy, do vậy, toát lên từ sự ngây thơ vĩnh viễn của nhân
vật: nhân vật mãi mãi không trưởng thành, với Benjy, quá
khứ chính là thời gian sống của nhân vật, vĩnh viễn.
Trước hết, cảm thức vĩnh viễn ở Benjy gợi nên từ
cảm nhận của nhân vật về sự tồn tại sống động của quá
khứ và sự nhòe mờ, trống rỗng của hiện tại. Đồng hành
cùng “câu chuyện được kể bởi một thằng ngốc”, độc giả bị
thử thách trong chuyến phiêu lưu vào một thế giới tâm tư
hỗn độn đầy vụn vỡ. Sự nhảy cóc, xáo trộn các cảnh hiện
tại, quá khứ diễn ra với một tần số đậm đặc, tạo nên một
mớ hỗn mang khó nắm bắt trong tâm trí thằng khờ
Benjy[1]. Có thể hình dung chương của Benjy được cấu
trúc bởi hai mạch thời gian vừa xen kẽ vừa tách biệt (quá
khứ – hiện tại) và điều quan trọng là mỗi mảng thời gian
lại chiếm vị trí khác nhau trong cảm thức của nhân vật.
Ở các cảnh hiện tại, thời gian câu chuyện và thời gian
trần thuật gần như bằng nhau, do nhân vật chủ yếu chỉ
thuật lại lời thoại của nhân vật và một vài câu kể. Trong
đó, 17/32 cảnh chỉ hoàn toàn thuật lại những lời nói mà
Benjy nghe được. Chỉ ở những phiến đoạn quá khứ, thời
gian trần thuật so với thời gian câu chuyện mới có sự
giảm tốc, thể hiện ở những câu tả người và cảnh, tả cảm
giác của Benjy. Những câu đặc tả làm chậm lại tốc độ trần
thuật hầu như chỉ xuất hiện ở những cảnh trong quá khứ:
“… Giờ thì tôi khóc, và có cái gì đang bùng lên trong tôi và
tôi khóc dữ hơn, và họ giữ chặt tôi đến khi nó không bùng
lên nữa. Rồi tôi nín. Nó vẫn quanh quẩn đâu đây, và rồi
những hình thể hiện ra. “Mở thùng ra, Versh”. Chúng lướt
chậm rãi. “Trải các bao tải không lên sàn”. Chúng lướt
nhanh hơn, khá nhanh. “Nào. Nhấc chân cậu ấy lên.”
Chúng lướt qua, êm dịu và sáng ngời.”[2,40]
Việc giữ nguyên trật tự và nhịp điệu trần thuật trong các
phiến đoạn hiện tại bước đầu cho thấy sự ghi nhận hoàn
toàn thụ động, hờ hững của Benjy với hiện thực xung
quanh. Hiện tại bước vào trong chương Benjy theo đúng
trật tự và nhịp điệu của nó. Sự can thiệp của chủ thể cảm
nhận bị triệt tiêu đến mức tối đa. Đời sống nội tâm của
Benjy chỉ thực sự tồn tại trong quá khứ – quãng thời gian
mà cậu bé Benjy, tuy ngốc nghếch, thiểu năng, nhưng vẫn
được sống và cảm nhận cuộc sống với rất nhiều kỉ niệm,
ấn tượng, cảm xúc. Bất chấp sự chói gắt của hiện tại phả
vào, một quá khứ xa xưa nhất đang sống lại, kéo dài miên
viễn. Trải qua màng lọc thời gian dày 15 năm, giữa những
khoảng sáng tối vụt nhớ vụt quên của kẻ mất trí, những kí
ức không thể hiện về đầy đặn, vẹn nguyên; nhưng những
ấn tượng, cảm xúc vẫn đọng lại trong tiềm thức đã đem
đến cho ngôn từ quá khứ sắc màu biểu cảm và giọng điệu
trữ tình. Quả vậy, chỉ ở mảng ngôn từ quá khứ mới xuất
hiện nhiều câu văn miêu tả ấn tượng, cảm giác của Benjy
và mới có hiện tượng điệp câu văn tả cảm giác như trong
đoạn văn sau:
“Tôi nghe thấy đồng hồ, và nghe thấy Caddy đứng sau
lưng tôi, và tôi nghe thấy mái nhà. Trời vẫn mưa, Caddy
nói. Tôi ghét mưa. Tôi ghét mọi thứ. Và rồi chị gục đầu
vào lòng tôi và chị khóc, ôm lấy tôi, và tôi òa khóc. Rồi tôi
lại nhìn ngọn lửa và những hình thể êm ái sáng ngời lại di
động. Tôi nghe thấy đồng hồ và mái nhà và Caddy.”[2,91]
Nếu như trước con mắt của Benjy mất trí là một hiện tại
chết, hiện tại khô cứng, đóng băng thì đối với cậu bé
Benjy trong quá khứ, cuộc sống đầy những âm thanh, mùi
vị riêng. Ở đó có “nắng lạnh và chói”, có “những hình thể
sáng loáng lướt qua êm ả và đều đặn”, có “đám lá xào xạc
sáng chói”; ở đó Benjy “ngửi thấy mùi ốm đau”, “nghe trời
đổ tối”, “nghe thấy lửa và mái nhà”… Chúng tôi lập bảng
so sánh tần số xuất hiện của một số từ ngữ có ý nghĩa
biểu cảm đặc trưng của Benjy giữa hai nhóm ngôn từ hiện
tại – quá khứ[2]:
Từ Hiện tại Quá khứ Từ Hiện tạ
nghe (hear) 7 43 lạnh (cold) 0
nhìn (see) 9 16 sáng (bright) 3
ngửi (smell) 2 30 tối (dark) 3
cảm thấy (feel) 0 5 đen, tối đen (black) 1
khóc (cry) 0 22 hình thể (shape) 0
nín (hush) 0 7 từ so sánh (like) 1
Mặc dù nhóm ngôn từ quá khứ có số dòng chỉ gấp gần 3
lần nhóm ngôn từ hiện tại, nhưng như đã thấy, tần số xuất
hiện các từ chỉ cảm giác, giác quan, tính chất, phép so
sánh đều lớn hơn gấp rất nhiều lần. Điều này chứng tỏ
đây mới thực sự là khoảng tồn tại của đời sống nội tâm,
nơi có những xúc cảm, ấn tượng, cảm nhận chủ quan của
nhân vật. Nói cách khác, Benjy dường như không tồn tại
ở cái thực tại năm 1928 này. Quá khứ của những năm về
trước trở thành thứ “siêu thực tại” của anh ta.
Đặc biệt, để tạo cảm giác về một quá khứ khép kín trong
tâm tư Benjy, Faulkner còn dùng đến một kĩ thuật ngôn
ngữ: bất chấp việc sử dụng động từ ở thì quá khứ trong
khi kể (trừ các lời thoại trực tiếp) ở suốt chương một, câu
cuối cùng của chương sử dụng động từ ở thì hiện tại đơn
và hiện tại hoàn thành:
“Caddy held me and I could hear us all, and the darkness,
and something I could smell. And then I could see the
windows, where the trees were buzzing. Then the dark
began to go in smooth, bright shapes, like it always does,
even when Caddy says that I have been asleep.” (chúng
tôi in đậm) [3,63] (Caddy ôm lấy tôi và tôi có thể nghe thấy
tất cả chúng tôi, và bóng tối, và những gì tôi ngửi thấy. Và
rồi tôi nhìn thấy cửa sổ, nơi cây cối rì rầm. Rồi bóng tối
bắt đầu biến thành những hình thể êm ả, sáng ngời, như
nó luôn luôn thế, ngay cả khi Caddy nói rằng tôi ngủ rồi.)
Có sự chuyển đổi thì ngay trong câu cuối: từ thì quá khứ
đơn với “bóng tối” sang thì hiện tại với “những hình bóng
êm ả ngời sáng” và “Caddy” tựa như quá khứ đang hồi
sinh với những bóng hình và hơi thở sống động trước
mắt. Cái quá khứ khép kín đó trở thành cái hiện tại tiếp
diễn vĩnh viễn – hiện tại tâm tư. Benjy mãi mãi sống trong
thời quá khứ, trong những khoảnh khắc vụt sáng của tiềm
thức thời ấu thơ.
Ở Benjy, cảm thức vĩnh viễn còn được gợi lên từ ấn
tượng về thời gian nguyên thủy, hoang sơ trong cảm nhận
của nhân vật. Các khái niệm về thời gian trong dòng ý
thức của Benjy được thay thế và trực quan hóa. Giống
như một đứa trẻ, Benjy chưa gọi tên được những khái
niệm ngày tháng, giờ giấc. Những từ ngữ trực tiếp xác
định thời gian như hôm nay, tối nay, ngày mai, hôm qua,
năm, buổi sáng, buổi chiều, ngày, tối chỉ xuất hiện trong
lời thoại của các nhân vật khác. Trong lời kể, tả của Benjy
chỉ có các dấu hiệu chỉ thời gian gián tiếp là thiên nhiên:
mặt trăng, mặt trời, ánh trăng, ánh nắng hay tính chất ánh
sáng: sáng, tối, bóng tối, tối đen. Sự thiếu vắng khái niệm
thời gian góp phần tạo nên cảm giác về thời gian nguyên
thủy. Benjy sống trong thế giới không biết đến đồng hồ,
không biết đến thời gian nhân tạo; thời gian trong thế giới
ấy là thời gian thực sự – thời gian của thiên nhiên, vũ trụ,
của những mặt trời mọc – lặn hay vòng quay sáng – tối.
Cái không khí toát ra từ chương của Benjy vì thế là một
không khí của miền hoang sơ, khi con người chưa đặt
chân vào lối sống kĩ nghệ.
Tư duy ngôn ngữ của Benjy cũng là một yếu tố tạo nên ấn
tượng về tính chất trẻ thơ vĩnh viễn của nhân vật, nhân
vật mãi mãi không trưởng thành, chỉ sống với quá khứ đã
đánh mất. Dường như có những điểm giống nhau giữa
người thiểu năng trí tuệ bẩm sinh và trẻ thơ (trong những
năm đầu đời): ở người thiểu năng, trí tuệ của họ chỉ dừng
lại ở ngưỡng rất thấp và không có sự phát triển, vì thế họ
có một số đặc điểm về khả năng tư duy, thói quen hành
động giống với trẻ em. Georges Devereux trong bài “Bệnh
tinh thần phân liệt, một chứng loạn tâm có tính tộc người”
cũng đã nhắc tới “tính trẻ con (ở người lớn)” là một trong
những đặc trưng của những bệnh nhân phân liệt [1,216].
Như một đứa trẻ những năm đầu đời, Benjy tư duy bằng
biểu tượng hình ảnh cụ thể, trực quan. Có thể nói hầu
như mọi ấn tượng của Benjy đều được biểu đạt bởi sự
hiện diện của một cái gì đó hữu hình, cụ thể. Benjy biết
đến ngày và đêm qua mặt trăng, mặt trời. Benjy cảm nhận
sự thanh khiết của người chị Caddy qua mùi cây… Tính
chất trực quan được biểu hiện ở vai trò đáng kể của danh
từ cụ thể. Nếu như danh từ, do chức năng định danh, là
từ loại mà trẻ thơ cũng như người thiểu năng thu nhận
sớm hơn và dễ dàng hơn thì tính từ, do yêu cầu tư duy
khái quát tính chất sự vật, được tiếp thu muộn hơn và khó
khăn hơn. Có thể thấy, trong chương một, các tính từ chủ
yếu chỉ những thuộc tính dễ nhận biết và mang tính trực
quan của sự vật như: màu sắc (đỏ, xanh, vàng, trắng,
đen), ánh sáng (sáng, tối), nhiệt độ (lạnh, nóng, ấm, mát),
hình dạng (to, nhỏ, dài, ngắn), tính chất của nước (ướt,
khô), tình trạng sức khỏe (ốm), chuyển động (êm ả, đều
đặn). Trong khi đó, ở chương của Quentin, xuất hiện rất
nhiều tính từ có mức độ trừu tượng cao hơn. Lấy thí dụ:
cùng trong trường liên tưởng về Caddy, Benjy chỉ dùng
một số tính từ như: mát lạnh (cold), sáng ngời (bright), ướt
đẫm (wet) – những tính từ gắn liền với ấn tượng trực tiếp
về thân thể của chị. Trong khi đó, trường liên tưởng về
Caddy có thể gợi dậy ở Quentin hàng loạt những tính từ
mà mức độ trực quan ít hơn hẳn như: thanh khiết (clean),
vĩnh hằng (eternal), quyến rũ (cunning), thanh thản
(serene), mỏng manh (delicate), bí ẩn (mysterious), ương
bướng (stubborn), trách móc (reproachful), đẫm lệ
(tearful), đều đều (steady), êm dịu (soft), khủng khiếp
(terrible)…
Ngôn từ chương một dành ưu tiên cho danh từ hơn cả,
đặc biệt là danh từ cụ thể, chỉ những đối tượng quen
thuộc, đơn giản mà một đứa trẻ có thể nhận thức được.
Đối với Benjy, đó là những hiện diện quen thuộc ở trong
một phạm vi không gian hẹp: ngôi nhà và đồng cỏ (nay là
sân golf), thậm chí còn trong một phạm vi thời gian hẹp:
quãng thời gian mấy năm đầu đời. Nói như vậy bởi vì
những đối tượng mà Benjy 33 tuổi nhận thức và miêu tả
không nhiều hơn là mấy so với cậu bé Benjy 3 tuổi. Về
điều này, Noel Polk tinh tế khi nhận thấy trong câu tả cảnh
Caddy và Benjy cùng đi qua suối mùa đông (năm Benjy 3
tuổi): “She broke the top of the water and held a piece of it
against my face” (Chị đập vỡ mặt nước rồi cầm một mảnh
giơ trước mặt tôi), sở dĩ cụm từ “mảnh nước” (piece of it –
it thay thế cho water được nói ở vế trước) được dùng chứ
không phải là “mảnh băng” (piece of ice) là bởi Benjy đã
từng biết sự vật này được gọi là nước và vẫn giữ nguyên
cách gọi ấy. [5,104]
Thậm chí, ngôn từ Benjy, xuất phát từ tư duy bằng hình
ảnh cụ thể, có hiện tượng trực quan hóa đến mức tối đa
các khái niệm trừu tượng, dẫn đến hệ quả là việc ưu tiên
dùng các danh từ cụ thể thay cho danh từ trừu tượng hay
tính từ. Thế giới ấn tượng và xúc cảm của Benjy được
biểu hiện dưới dạng cấu trúc câu: Tôi + hành động thụ
cảm giác quan + đối tượng thụ cảm. Cấu trúc câu này tạo
cảm giác rằng những ấn tượng, cảm giác tồn tại như một
hiện diện hữu hình, do đối tượng thụ cảm đều là danh từ/
cụm danh từ. Thí dụ: cách diễn đạt nghe thấy mái nhà,
ngửi thấy cái lạnh, cảm thấy bóng tối… đều tạo cảm giác
mùi vị, âm thanh tồn tại một cách hữu hình. Lấy thí dụ:
thay vì dùng nguyên dạng tính từ “lạnh” trong “Tôi cảm
thấy lạnh” (I felt cold), cảm giác lạnh được viết dưới dạng
danh từ “cái lạnh, cái lạnh sáng, cái lạnh tối” trong “Tôi có
thể ngửi thấy cái lạnh” (I could smell the cold), “Chúng tôi
chạy lên các bậc thềm và ra khỏi cái lạnh sáng, vào cái
lạnh tối” (We ran up the steps and out of the bright cold,
into the dark cold). Ngay cả linh cảm về sự chết chóc, một
linh cảm rất mơ hồ mà Benjy chưa ý thức được, cũng
được hình dung như một điều cụ thể qua cách dùng đại
từ thay thế “nó” (it) trong câu “Tôi có thể ngửi thấy nó” (I
could smell it). Benjy hiện lên như một con người nằm
ngoài cái vòng đảo điên của xã hội. Không ngôn ngữ, chỉ
sống với những cảm giác bản năng, nguyên thủy, Benjy
hiện diện như một con người thưở hoang sơ.
3.Trong khi đó, ở nhân vật Quentin, cảm thức vĩnh viễn
được gợi nên ở trạng thái mắc kẹt mãi mãi không bao giờ
thoát ra nổi hiện tại. Chương hai tiểu thuyết là dòng ý thức
của Quentin, một trí thức Harvard, trong trạng thái bị ám
ảnh điên cuồng bởi những ý nghĩ loạn luân và tự sát.
Quentin dằn vặt mình trong những hồi ức êm dịu mà đau
đớn về người em gái Caddy, người em gái đã từng trinh
nguyên và thơm dịu. Bởi vậy, toàn bộ dòng ý thức của
Quentin là một nỗ lực đau đớn trốn chạy và phủ định hiện
tại, cố với tay níu giữ quá khứ nhưng bất thành và rút cục,
hiện tại vẫn vây bủa nghiệt ngã.
Nếu như ngôn từ Benjy là bất lực khi “cố nói” thì ngôn từ
Quentin lại là sự “cố gắng không nói”. Bị ám ảnh bởi sự
băng hoại của người em gái, trong anh luôn giằng xé giữa
niềm yêu thương và oán hận. Anh cố gắng trốn chạy nỗi
đau nhưng chúng luôn ập đến:
“Nếu trời xấu tôi có thể nhìn ra cửa sổ, nghĩ tới những gì
ông nói về các thói quen vô ích. Thời tiết như thế này mà
xuống New London thì thật là thú. Sao lại không nhỉ?
Tháng của cưới xin, của giọng nói thì thào. Nàng chạy
khỏi tấm gương, khỏi làn hương ướp. Những đóa hồng.
Những đóa hồng. Ông bà Jason Richmond Compson
thông báo lễ thành hôn của Những đóa hồng. Không phải
là các trinh nữ như cây sơn thù, cây bông tai.” [2,118-119]
Ban đầu Quentin nghĩ về thời tiết và lời bố nói, về New
London, chuyện cưới xin. Rồi câu văn in nghiêng xuất
hiện khi hình ảnh cô em gái ập đến, lóe sáng đầy thanh
tao và quyến rũ với màn gương, hương thơm quấn quyện
và những đóa hồng. Nhưng ngay lập tức, ý nghĩ về đám
cưới của cô dồn đến hành hạ Quentin: “Ông bà Jason
Richmond Compson thông báo lễ thành hôn của”. Câu
văn in nghiêng bị cắt cụt. Quentin không đủ sức đối diện
với câu nói. Anh cố lấy ý niệm về cái đẹp để xua đi hiện
thực trần trụi đó: “Những đóa hồng”. “Những đóa hồng”
trước đó được in nghiêng bởi nó là hoài niệm về Caddy
trong quá khứ thì nay được chuyển sang in đứng, như là
cố gắng của Quentin, bứt ra cái quá khứ đó để giữ vẹn
nguyên hình ảnh trong sáng của em gái. Anh trốn tránh
nỗi đau thất tiết của Caddy bằng cách nói phủ định “không
phải là các trinh nữ như cây sơn thù, cây bông tai”.
Chương của Quentin bao gồm rất nhiều những gián đoạn
như thế. Ở đó, một ám ảnh, nỗi đau từ trong vô thức hiện
về bất chợt thì anh luôn cố gắng trốn chạy nó, phủ định
nó. Anh cố kiềm chế không nói: “Đứa em gái bé bỏng của
con đâu còn. Nếu con nói được Mẹ à”. Nhưng rồi chúng
vẫn cứ ập đến. Những đoạn in nghiêng chính là “cái
khoảnh khắc tức thời, nhanh chóng của những gì anh ta
thấy và cảm thấy, không phải những gì anh ta đang nói
về; chúng là những thứ mà anh ta thực sự không muốn
diễn tả thành lời”.[5,116]
Nuối tiếc quá khứ nhưng không thể với tay chạm vào quá
khứ, mỗi lần với tay là quá khứ trinh nguyên tan biến,
Quentin căm ghét đến điên cuồng hiện tại. Nỗi sợ hãi hiện
tại hiện thân trong ám ảnh ray rứt về đồng hồ. Những suy
tư, triết lí về thời gian của anh được biểu đạt bởi hàng loạt
những ẩn dụ, so sánh: “nấm mồ của mọi hi vọng và ước
muốn”, “mô hình phi lý của toàn bộ kinh nghiệm nhân
sinh”, “Christ không bị đóng đinh, ông chỉ bị bào mòn bởi
tiếng tích tắc của những bánh xe bé xíu”… Trong khi
người em Benjy sống ngoài thời gian thì Quentin luôn bị
những ám ảnh về thời gian dằn vặt. Anh, cùng với người
cha của mình, “ý thức được rằng họ đã bị chinh phục bởi
thế họ mới bị tiếng tích tắc của đồng hồ ám ảnh ray
rứt.”[6]
Trạng thái mắc kẹt trong hiện tại của Quentin tìm thấy
mình trong một hình thức lời văn tương ứng: sự xâm lấn
vào cấu trúc cú pháp tạo nên một kiểu cấu trúc câu bện
xoắn không thể nào tháo gỡ. Nếu như ngôn từ Benjy, một
gã khờ, được cấu trúc gián đoạn theo lối lắp ghép, ở đó,
các cảnh hiện tại – quá khứ tách rời nhau ra như những
ốc đảo, các câu văn tuy rời rã, hỗn độn nhưng rành mạch
về cấu trúc ngữ pháp thì ngôn từ Quentin lại gián đoạn
theo lối giai điệu với kiểu câu văn bị xé lẻ, tràn lên nhau,
dài triền miên, phá bỏ quy tắc cú pháp:
“chính ông chẳng bao giờ để mình bị ép uống, nhưng ông
luôn nói rằng một giỏ rượu cuốn sách gì mà con đã đọc
nói rằng trong cái giỏ có bộ quần áo chèo thuyền của
Gerald ấy rằng giỏ rượu là một phần thiết yếu trong hành
lí của bất cứ trang phong lưu nào đi picnic em có yêu họ
không Caddy em có yêu họ không khi họ chạm vào em
em chết” [2,215]
Tính không liền mảnh xâm lấn vào ngay trong cấu trúc
câu văn: một câu bao gồm nhiều mẩu bị xé lẻ, tràn bên
nhau không khoảng cách như dòng nước chảy. Đang
nghĩ về người bố, hình ảnh giỏ rượu lại khiến anh nghĩ
đến chiếc giỏ, bộ quần áo chèo thuyền của Gerald. Bị ám
ảnh bởi niềm thù hận sự băng hoại của cô em gái khi trao
thân cho Dalton Ames, một gã trai lơ, một gã “phong lưu”,
anh lập tức bị ý nghĩ về Caddy dằn vặt, day đi day lại: “em
có yêu họ không Caddy em có yêu họ không…”. Phức
cảm giằng xé của Quentin đã tìm thấy mình nhiều nhất ở
ngay lối viết mà các câu văn vừa đứt gãy, vừa bện xoắn
lấy nhau. Những câu văn vừa bị gãy ra, thì ngay ở điểm
đứt gãy đã tràn ra dòng nhựa xoắn lấy câu trước và sau
nó. Mỗi khi in nghiêng xuất hiện là một khoảng vụt sáng,
trở đi trở lại như một ám ảnh. Có thể hình dung dòng
ngôn từ của Quentin như một giai điệu. Ở đó, để thưởng
thức, ta không vô ích chia nhỏ từng nốt nhạc, bởi trong
cùng một khoảnh khắc, có thể vang lên một hay nhiều nốt
nhạc với nhiều âm vực khác nhau, và một nốt nhạc có thể
ngân nga hòa quyện trong những thanh âm khác. Giai
điệu đó ám ảnh người đọc với những nốt nhấn, những
điệp khúc trở đi trở lại. Ngôn từ gián đoạn của Quentin
hiện lên trong sự trộn lẫn, giằng xé như một cơn mộng mị
đau đớn. Đó là thứ ngôn từ Quentin được phát ra từ dòng
chảy của ý thức và tiềm thức quyện lẫn. Ở anh chàng trí
thức Harvard này, tiềm thức không giản đơn chỉ là những
kí ức được hồi tưởng. Nó là một phức cảm của những tổn
thương quá lớn và những khao khát mãnh liệt bị dồn nén.
Với Quentin, nỗi đau từ sự mất trinh tiết của người em
gái, ám ảnh về tội loạn luân và cái chết trong ý muốn đau
đớn “bảo giữ em gái mình nguyên vẹn mãi mãi trong ngọn
lửa vĩnh hằng”, tất cả dồn nén mạnh mẽ vào vô thức.
Chúng tràn lên ý thức và chi phối mọi suy nghĩ của
Quentin trong hiện tại. Trạng thái giằng xé ấy được thể
hiện trên lối viết gián đoạn đan xen, chồng chéo với nhiều
điểm nhấn với hình thức câu văn bất chấp quy phạm cú
pháp.
Như thế, bản thân một kĩ thuật được thể nghiệm ở những
nhân vật khác nhau lại đưa tới những hiệu quả khác
nhau. Có thể lấy lời nhận xét của Gustaf Hellström, trong
lời Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển dành cho
Faulkner để nói về ngôn từ của Benjy và Quentin. Nếu
như câu văn trong chương Benjy là “loạt những câu văn
ngắn, mỗi câu như một nhát búa, giáng cho cây đinh ngập
lút tận mũ vào thanh gỗ và không bao giờ xê dịch” thì ở
Quentin là “những câu văn vô tận và đầy sức mạnh như
những đợt sóng Đại Tây dương”. Faulkner hoàn toàn
xứng đáng được vinh danh là “nhà tiểu thuyết thực
nghiệm lớn trong số những nhà tiểu thuyết thế kỷ 20 này”.
Sáng tạo về ngôn từ, đến lượt nó, lại phản ánh một quan
niệm, một cách nhìn về con người. Lối viết gián đoạn kiểu
lắp ghép được áp dụng với Benjy – trong tình trạng mất
hết ý thức trong hiện tại, chỉ sống với tiềm thức – đã phản
ánh đến tận cùng tình trạng bơ vơ của con người giữa
một thế giới đổ vỡ. Benjy bất lực trong việc thấu hiểu và
nối kết thế giới. Benjy tha thẩn trong hiện tại, trở về với
những mảnh vụn kí ức mà không biết bám víu vào đâu
trong những mảnh vụn rời rạc đó. Khác với Quentin, lối
viết đứt đoạn kiểu giai điệu với nhiều điểm nhấn, nhiều
hợp âm lại cho thấy tình trạng con người mắc kẹt giữa
bộn bề của những ý niệm chằng chịt, giằng xé và không
thể được giải thoát. Cảm thức về tình trạng con người
vĩnh viễn không thể thoát ra được khỏi sự tồn tại giới hạn
của mình trở nên đau đớn hơn bao giờ hết.
Trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ có một
nhân vật vắng mặt. Nhân vật ấy chỉ hiện lên trong hồi ức
êm dịu mà đau đớn của những người thương yêu cô. Đó
là người con gái “thơm như cây” và trinh nguyên như
những đóa hoa kim ngân trong mưa. Caddy chính là cái
đẹp vĩnh viễn trong hoài niệm. Giữa bối cảnh lối sống văn
hóa vật chất lan tràn đặt những giá trị truyền thống trên đà
suy thoái, Faulkner lo âu, đau đớn vì sự mất mát của cái
đẹp trong thế giới hiện đại. Ông ươm giữ cái đẹp quá khứ
trong hình tượng Caddy: “Đối với tôi, nàng là hiện thân
của cái đẹp. Nàng là niềm trìu mến trong trái tim tôi” và để
cho hình tượng ấy hiện lên gián tiếp qua những người con
trai nhà Compson. Tuy nhiên, mỗi người – Benjy, Quentin,
Jason – lại lưu giữ trong tâm trí một chặng đường của
Caddy. Benjy nhớ về quá khứ tuổi thơ xa xôi nhất (từ
1898), nhớ về Caddy trong dáng vẻ trinh nguyên thời thơ
ấu cho tới khi bắt đầu bị cám dỗ và “không còn mùi như
cây”. Quentin nhớ về những năm 1910 – giai đoạn sóng
gió nhất cuộc đời Caddy, giai đoạn cái đẹp bị giằng kéo và
vùi dập ghê gớm giữa sức cám dỗ của tình dục và sức ép
của đạo lí thanh giáo. Còn Jason, trong hậm hực, nhớ về
quá khứ gần, với thực trạng sắp suy vong của gia đình và
lúc Caddy đã trở thành một thiếu phụ đáng thương bị gia
đình và xã hội chối bỏ. Đẩy nhân vật Caddy lùi về khoảng
không gian không bao giờ chạm tới, W. Faulkner như
muốn gìn giữ, nâng niu cái đẹp trinh bạch ấy trong hoài
niệm, để nó tồn tại như một giá trị vĩnh cửu trong niềm
hoài nhớ.
4.Âm thanh và cuồng nộ ra đời trong bối cảnh nền văn
hóa vật chất đang xâm lấn đời sống con người miền Nam
Hoa Kỳ. Ba người anh em trai nhà Compson, mỗi người
có một lối ứng xử khác nhau. Jason, kẻ thực dụng lí trí,
hoàn toàn tha hóa trong lối sống vật chất, anh ta thích
nghi nhanh chóng với thế giới hiện đại và cố tạo vỏ bọc
cho phù hợp với cái xã hội cuồng nộ ấy. Trong khi đó,
chấn thương ở Quentin và Benjy đau đớn và thấm thía
hơn cả. Cũng chính ở những nhân vật này, cảm thức về
thời gian và sự tồn tại vĩnh viễn được gợi nên trong từng ý
nghĩ, cảm giác, những hồi ức, những quẫy đạp, khát
vọng… Quentin giằng xé và mắc kẹt trong một trạng thái
lưỡng cực: vừa nuối tiếc vừa bất lực, anh tồn tại trong
một thế chông chênh giữa hai bờ sự thật và lí tưởng, quá
khứ và hiện tại, nỗi đau và sự chối bỏ. Còn Benjy, “con
người gần với cỏ cây muông thú”, con người “mang tâm
trí của một đứa trẻ”, lại dường như là một tồn tại vượt
thoát ra khỏi thực tế. Benjy như một con người thưở
nguyên sơ, gặp phải tấn bi kịch lạc lối giữa thời hiện đại
đảo điên và suy tàn, như một hiện diện của sự hồn nhiên
chưa bị đánh mất trong một tác phẩm viết về “sự hồn
nhiên bị đánh mất” (chữ dùng của Faulkner) [4,16]. Trên
tất cả, cảm thức vĩnh viễn gợi nên nỗi hoài niệm đối với
truyền thống tốt đẹp và sự hoang sơ trinh bạch của tự
nhiên đang bị tàn phá, đồng thời niềm đau đớn trước nền
văn hóa vật chất đang lan tràn. Âm thanh và cuồng nộ,
bởi vậy, bất chấp những âm thanh náo loạn của những
gào rống, kêu khóc đầy cuồng nộ trong thực tại, vẫn tồn
tại một không khí lắng dịu rất riêng. Đó là một bầu không
khí của sự tồn tại miên viễn, niềm hoài niệm và khát vọng
ươm giữ không bao giờ mất về cái đẹp nguyên sơ. Tác
phẩm, có lẽ, đã chinh phục trái tim độc giả trong những
khoảnh khắc tĩnh lặng vô cùng như vậy.
………….
[1] Trong bài viết Thể nghiệm dòng ý thức của W.
Faulkner – Thử thách và mê hoặc, chúng tôi đã khảo sát,
tiến hành phân chia và xác định thời điểm cụ thể cho các
phiến đoạn quá khứ, hiện tại trong chương một. Theo đó,
trong 62 trang nguyên bản có tới 99 cảnh khác nhau, dựa
trên 14 mốc thời gian sự kiện từ năm 1898 đến năm 1828.
[2] – Chúng tôi khảo sát trên nguyên bản.
– Chúng tôi không thống kê những từ ngữ trong những
câu đối thoại, tức lời người khác trong chương 1.
– Đối với động từ, chúng tôi thống kê những động từ mà
Benjy là chủ thể, chứ không thống kê ở những câu kể về
hành động của người khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Baranov, F. G. và Georges Devereux … (2007), Phân
tâm học và tính cách dân tộc, Đỗ Lai Thúy dịch, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
[2] Faulkner, William (2008), Âm thanh và cuồng nộ (Phan
Đan, Phan Linh Lan dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
[3] Faulkner, William (2000), The Sound and the Fury,
Everyman Publishers, London
[4] O’Connor, William Van (1969), William Faulkner, North
Central Publishing Company, St Paul, Minnesota.
[5] Polk, Noel (1996), “Trying not to say: A primer
language of The sound and the fury”, Children of the dark
house: Text and context in Faulkner, University Press of
Mississippi, Jackson.
[6] Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ và triết
học, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?
res=8524&rb=08
HOME
GIỚI THIỆU
LIÊN HỆ
PHÊ BÌNH THẾ HỆ F
SƠ ĐỒ
TỪ ĐIỂN PHÊ BÌNH
RSS Feed
Internet thay đổi văn học như thế nào?
TIN TỨC - SỰ KIỆN | 26/04/2014 - 08:18
Minh Hà
Ngày 12/3/2014, internet đã bước sang tuổi 25. Một phần
tư thế kỷ qua, internet đã mang đến cuộc cách mạng
trong văn học, cả về hình thức và nội dung, từ sách điện
tử đến hư cấu.
The Circle (Vòng đời) – tiểu thuyết mới nhất của Dave
Eggers xuất bản cuối năm 2013, lấy bối cảnh tương lai
không quá xa, trong đó những công cụ độc quyền như
Google sẽ kết nối mọi người, mạng xã hội và người tiêu
dùng dưới một tài khoản TruYou. Trong cái nhìn châm
biếm này, Eggers miêu tả “ác mộng chuyên chế”, trong đó
mọi người sẽ bị theo dõi, từ khi chào đời đến khi xuống
mồ, không có khả năng trốn thoát.
Eggers là tác giả mới nhất ghi lại những thay đổi nhanh
chóng mà chúng ta đã trải nghiệm khi internet thay đổi cả
thế giới và cả văn học. Chả ai có thể tồn tại nếu không có
internet. “Khối lượng thông tin, dữ liệu, đánh giá, đo
lường, quá nhiều, và có quá nhiều người, quá nhiều khao
khát của quá nhiều người và quá nhiều ý kiến của quá
nhiều người, và quá nhiều đau đớn… tất cả liên tục được
đối chiếu, thu thập, bổ sung và tổng hợp, giới thiệu cho
cô cứ như tất cả đã làm cho nó gọn gàng và dễ quản lý
hơn”. Chúng ta có lúc cảm giác bị ngợp bởi sự thay đổi
của công nghệ, nhưng ảnh hưởng của internet đối với
hình thức và nội dung của văn học đặc biệt chính xác và
không thể khác được.
Trước khi internet ra đời, một số tác phẩm của các tiểu
thuyết gia khoa học viễn tưởng đã đề cập đến hình thức
thông tin liên lạc này. Do Androids Dream of Electric
Sheep? (được chuyển thể thành phim Blade Runner của
Ridley Scott, năm 1982) của Philip K Dick là một ví dụ.
Trong tiểu thuyết, Philip K Dick đã đề cập đến những tác
động tiêu cực (mối đe dọa) của internet đối với cuộc sống
của con người như quan hệ giữa người với người có xu
hướng suy giảm, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của công
nghệ nói chung, internet nói riêng. (Trăn trở này cũng
được Eggers đề cập trong The Circle). Về điểm này, nhiều
người đặt câu hỏi, phải chăng văn học không chỉ mang
tính dự đoán mà còn khơi nguồn ý tưởng cho sự ra đời và
phát triển của internet?
Nhà văn William Gibson cũng từng dự đoán về sự không
cưỡng lại được của internet. Thuật ngữ không gian
mạng đã được ông sử dụng trong truyện ngắn Burning
Chrome (1982). Ngay những trang đầu của Burning
Chrome, Gibson đã miêu tả không gian mạng khá chi tiết:
không gian ảo, vô sắc trong một ma trận, nơi mà một
lượng dữ liệu khổng lồ được kết nối, xử lý thông minh,
chính xác. Những gì Gibson đề cập trong Burning
Chrome lúc đó chưa hề tồn tại (những năm cuối 1970,
đầu 1980). Khi ông ngồi viết về video game Pong, về khả
năng kết nối giữa điện thoại di động với máy tính để bàn
thì Tim Berners-Lee – người tiên phong về internet thời
bấy giờ – mới đang viết mã cho hypermedia (một loại
chương trình giảng dạy với sự trợ giúp của máy tính, như
HyperCard, được dùng để bổ sung đồ họa, âm thanh,
video, tiếng nói mô phỏng vào các khả năng của một hệ
thống hyperytext). Trong cuốn tiểu
thuyết Neuromancerviết năm 1984, Gibson đã tạo ra nhân
vật hacker có tên Case, không gian ảo, ma trận một lần
nữa lại xuất hiện. Đúng như những gì chúng ta chứng
kiến về internet sau này, không gian mạng của Gibson
không tồn tại vị trí địa lý, chỉ có ảo ảnh của không gian vô
hạn; ông gọi nó là hệ thần kinh mở rộng của nhân loại.
Đến giữa những năm 1990, các tiểu thuyết gia vẫn viết về
internet nhưng không còn là viễn tưởng nữa mà là thực
thế.Galatea 2.2 của Richard Powers (1995) là một ví dụ.
Ông đã viết về khả năng kết nối mang tính toàn cầu của
internet. Trong Galatea 2.2, nhân vật kể chuyện đã tạo ra
trí thông minh dựa vào máy tính (có thể vượt qua kỳ thi
Tiếng Anh). Rất nhiều khả năng kỳ diệu của internet cũng
như máy tính xuất hiện trong tiểu thuyết (như: huấn luyện
động vật làm xiếc ở Faulkner hay Thomas Gray).
Rõ ràng, văn học và internet luôn có ảnh hưởng qua lại
ngay từ khi nó còn chưa xuất hiện. Với văn học hiện đại,
ảnh hưởng này rõ rệt và sâu sắc hơn, internet đang chi
phối (gần như hoàn toàn) từ cấu trúc đến hình thức xuất
bản văn học. Kể từ khi New World Writing của Frederick
Barthelme (1995), một trong những tạp chí văn học trực
tuyến đầu tiên ra đời, rồi đến Electric Literature, tạp chí
văn học đầu tiên có phiên bản đặc biệt trên iPhone, iPad;
sau đó là Black Box(2012) của Jennifer Egan trên Twitter,
dường như internet đang được văn học hiện đại khai thác
tận lực. Nhiều nhà văn còn chọn hình thức viết văn cùng
độc giả qua Twitter. Ví dụ, Elliott Holt cho đăng một đoạn
trong câu chuyện của mình (Vào đêm ngày 28 tháng 11,
10h13, một phụ nữ có tên Miranda Brown, 44 tuổi, ở
Brooklyn đã chết do rơi từ sân thượng của khách sạn
Manhattan) lên Twitter, đưa ra ba nguyên nhân về cái
chết của nhân vật này và hỏi độc giả muốn nguyên nhân
nào.
Theo Halimah Marcus, biên tập viên sách văn học điện tử:
“Tiểu thuyết vừa có chức năng phản ánh xã hội, vừa phải
giải quyết các vấn đề được phản ánh (theo cách vừa thú
vị, vừa bất ngờ trong khả năng và đặc thù thể hiện). Với
tác giả William Gibson (được mệnh danh là nhà tiểu
thuyết tiên tri), điều đó có vẻ đúng. Ông cũng như một số
nhà văn khác nhìn thấy tương lai của thế giới online, và
như đã đề cập ở trên, ý tưởng trong những trang tiểu
thuyết của họ rất có thể không phải lời tiên tri mà khơi
nguồn ý tưởng cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu.
Nguồn:http://www.daibieunhandan.vn/