Professional Documents
Culture Documents
Phong TH y Luan - 2
Phong TH y Luan - 2
A/ PHẦN MỞ ĐẦU ;
1/LỜI NÓI ĐẦU :Theo sử sách còn truyền lại,từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định
Thiên đồ,xa thì trông Thiên vă3n,đại Địa,gần thì trông ở người,vật,toàn đồ Vũ trụ
quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân.
THIÊN :Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh.
ĐỊA :Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa.
NHÂN :Tinh ba là Tinh -Khí -Thần.
Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo,mỗi thành phần đều sống động.
THIÊN ĐẠO :Là sự vận hành các phần tử Thiên hà,Thiên hệ,Tinh tú châu lưu an
toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định.
ĐỊA ĐẠO :Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn
vật.
NHÂN ĐẠO :Là cái đức lớn của Thiên -Địa,Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh.
Vũ trụ toàn đồ luôn sống động,nếu ngưng ,nghỉ tức là hoại ,là diệt.
Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc,hạnh phúc cho mọi người tức là cả ba
thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo.Vì thế ,các bậc Tiền
nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng một Cảnh giới Chân -Thiện -
Mỹ,họ chiêm nghiệm ,học hỏi từ Thiên nhiên địa vật,tạo nên nền tảng Kiến
trúc .Nhân giới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn,Địa thế,Nhân sinh ),nên gọi là
thuật Phong thủy.Phong thủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ,Hà Lạc.
Trước khi Tầm Long,trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi để hiểu biết nhân
thân là một TIỂU VŨ TRỤ.Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1.000
huyệt nhỏ khác,cũng có Khí,có Thủy,có Hỏa,kinh lạc như Đại Vũ trụ bên
ngoài.Phải biết kết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể,tức là phần
tu luyện Pháp Đạo,Đạo Thuật để đạt được đức Nhân.Có Đức Nhân rồi mới tìm
hiểu biết về Đại Vũ trụ,tầm Long,tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ",là
những nơi có Huyền lực của Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân
thể.
Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng,còn điểm Huyệt trên
đất,nước,âm,dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc ,con cháu nhiều đời.Do
vậy,các Phong thủy sư phải rèn luyện Đạo thuật,nhằm khai mở Tâm năng,khiếu
Cảm xạ,Thấu thị là chính yếu,còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn
bản cho sự nhận định và luận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi,chứ việc Tầm
Long ,trích Huyệt rất phức tạp và đa dạng.
Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện,khai thác đúng mức
những khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như:
-Cảm xạ các giao động mạch Khí.Tìm nguồn nước.
-Thần giao cách cảm.Tương tác giữa người này và người kia.
-Sử dụng tâm năng Tiên đoán,thấu thị.
-Hóa giải theo ý muốn.
-Biết được Thiên vận,Địa thế,Nhân cơ,các nguồn thông tin,dữ liệu từ Vũ trụ.
-Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu,giải phẫu...
-Trị liệu bằng Trường Sinh học.
Ngày xưa ở Trung quốc,Việt nam và các nước Chấu Á đều có Kỹ thuật xây
dựng,kiến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố :HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ.
1/KHÍ :là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ,vật thể,Đất,Nước,con người..
2/LÝ :Là quy luật vận động,vận chuyển ,tạo tác của Khí Thủy -Phong -Hỏa.Gồm ba
nguyên tắc :
a/Trời chưởng quản Địa,Nhân.
b/Trời,Đất đều tác động đến Vật chất và con người,nên phải biết vận dụng ảnh
hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống.
c/Vận mạng ,hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết,tức là
Âm trạch.Do vậy người xưa có câu :"Người sống thì xem cái nhà ,người chết thì
xem cái mồ ".
3/SỐ :Là những tượng số của Dịch lý(Nghi,Tượng,Quái,Hào).
4/HÌNH :Là hình thể vùng đất,dòng nước,cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh
hưởng tốt đến mạch khí.
Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau.Yếu tố
được xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng lực của Đất
hay còn gọi là sóng điện từ.Chính hai lực này chi phối,ảnh hưởng đến hoạt động
của Trường Sinh học con người,nếu hai lực này tương phản thì đem lại kết quả xấu
cho con người trong cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở,hoặc Âm trạch táng
tử thi.Nếu hai lực kết hợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt,sức khỏe dồi
dào,kinh tế phát triển lên mãi.
Do vậy,Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh triết của Âm -Dương-Ngũ
hành -Bát quái,là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghiệm trên
5.000 năm.Phong thủy không mê tín mà là một học thuật tối cổ căn cứ vào HÌNH -
LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định.
PHONG THỦY.
Phong : Là Gió.
Thủy :Là nước.
Hỏa :Là Lửa.
Là tinh túy của Đất,sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí.Địa vận có
sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó.Thiên vận có sự biến đổi thì
Địa khí tương ứng với nó.Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với
nó;Nhân vận động ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo.Như vậy chúng ta thấy
rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau.Hoàng Thạch Công
nói :Một Âm,một Dương là Đạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo ).Một tĩnh ,một
động là Khí,một Vãng một Lai là Vận.Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh
Dương hay thuần Dương,số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm.
Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết :"Vào
thời Phục Hy,Thần nông,Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển từ Long môn đến Lã
Lương Sơn,Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Kiệt Thạch sơn
vào biển lớn.Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam,rồi từ
Nam chuyển hướng lên Đông bắc,Dự châu đóng ở giữa.Hoàng hà chính là dải đai
các núi Nhũ nhạc triều bái,thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa.Cũng là nơi xuất
hiện ra các bậc Thánh nhân như vua Ngiêu,Thuấn,Khổng tử.Phía Bắc Hoàng
hà ,còn phương Nam là Trường giang,Thái sơn (Tỉnh An huy ) kẹp giữa ;như vậy
Thái sơn chính là Can Long từ dải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là
của Việt tộc ).Nhưng rồi Thiên vận hướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam
để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh địa.Có Linh Tú khí.Quách Đại Quân viết
rằng :"Ta xem núi non ở Giao châu phần lớn Long mạch đều xuất phát từ Quý
châu,mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy
qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu,nên nước ấy có Can Long kết
thành Linh bảo địa".
Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thuật của Tổ tiên,ông cha
truyền khẩu,bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ
Bắc thuộc.
Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn,xem tinh tú trên trời.Sao Tử vi ở phương
Bắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở
phương Tây,nhìn địa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương.Lấy tứ chánh vị
Càn -Khôn -Ly -Khảm làm dương Long,và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm
Long (Tiên Thiên ).Một ngọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó,thấy
cảnh vật xung quanh xinh đẹp,trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa ,dị thảo thì phải biết
đó là Long,phải biết phân biệt đầu ,đuôi,Can,Chi,Triền,Giáp,Hộ vệ sơn chạy đến
đâu.Đối chiếu xem vì sao nào chủ chiếu cuộc đất này,xem cục thế lớn,nhỏ,tốt
xấu.Sau cùng quan sát xem tính tình,ăn ở của dân địa phương nơi đây thì ta mới
nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long.
Kinh Thư có viết :"Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn tương hỗ với
nhau,Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành...Dương đức sẽ hình thành từ thân thể
của ta và Âm đức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ".Tóm lại thuật
Sư Phong thủy phải tiến hành tính toán,nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm
Long mạch ắt phải sáng tỏ.
MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 loại :SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG
LONG,ẤP LONG,UỔNG LONG,SÁT LONG,QUỶ LONG,KIẾP LONG,DU
LONG,BỆNH LONG,TUYỆT LONG,TỬ LONG.Các tên này nhằm chỉ vào sự tán tụ
của chân Khí mà gọi.SINH LONG,PHÚC LONG,ỨNG LONG,ẤP LONG là bốn loại
Chân Khí hội tụ,còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình thể của Long ngắn,gấp
khúc ít lần đi lên,xuống hoặc đi lên mà không đi xuống,xuống mà không lên,cho nên
nó làm cho mạch Khí thế đi xuống.Còn tụ Chân Khí thì trải dài ,lên xuống theo hình
thể nhiều lần.
Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch,theo đường hướng mà đi xuống,đoạn
ẩn ,doạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG.
Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG.
Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên,ôm vòng trở lại thì gọi là
ỨNG LONG.
Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần,khí trùng điệp,hình dáng giao đầu lẫn nhau gọi
là ẤP LONG.
Long mạch hình thế hiểm ác,gấp rút,trùng điệp,nhưng không đối xứng chỉnh tề gọi là
UỔNG LONG.
Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG.
Loại phân chi,chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG.
Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG.
Loại mà Khí lưu ly,tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG.
Mạch Khí không lên,xuống,không chuyển động gọi là BỆNH LONG.
Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG.
Mạch nằm riêng biệt không hộ,giáp,triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG.
Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho
những âm phần táng trong cuộc đất như :
SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc ,Thọ.PHÚC LONG thì con cháu Phú
quý.ỨNG LONG thì con cháu giầu có,hiếu thuận.ẤP LONG thì con cháu Lễ
ðộ ,nhường nhịn,thuận hòa.
SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai họa,chết chóc.QUỶ LONG và BỆNH
LONG thì con cháu bị bệnh tật,không an cư,nghèo khổ.DU LONG thì con cháu
hoang đàng,dâm loạn.TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu bị tử thương,tuyệt
tự,không có người nối dõi Tông đường.
12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần,quan hệ đến
người còn tại tiền,nên vì thế khi mai táng cho người chết,không thể không lựa chọn
đất cắm Huyệt.
Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 thế núi căn cứ vào hình dáng,tư thế
mà chia ra làm 9 RỒNG :
1/XUẤT DƯƠNG LONG.
2/SINH LONG.
3/GIÁNG LONG.
4/PHI LONG.
5/HỒI LONG.
6/NGỌA LONG.
7/ẨN LONG.
8/ÐẰNG LONG.
9/LĨNH QUẦN LONG.
Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU :"Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ,lấy Long
Huyệt làm nền tảng,Sa,Thủy làm bổ trợ.Xem Phong thủy chính là quan sát sự thuận
ứng nghịch phản của Sơn và Thủy,Khí cứng rắn nhu hòa của Âm Dương,lý Phân
ly,hội hợp của tụ và tán.
Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao,vượt lên,hướng đi của Ðịa mạch hoạt
bát như Long,nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại nối liền.Ðịa mạch xuất hiện ở
giữa,xung quanh có Sa trướng trùng trùng.Sa trướng của nó có gần có xa,có
nghênh có tống,có triền,có hộ vệ.Khi hiệp cốc xuất hiện ,chúng đều thu giữ Ðịa Khí,
tựa Phong yêu (Lưng ong ) và Hạc tính (Gối Hạc ) vậy,có nơi tạo ra thế cử đỉnh,có
chỗ tạo ra hình Giáp hộ,nơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn,khi Phong suy
đi qua hai bên Hiệp cốc ,thì Ðịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà
ra.Nơi đỉnh và hai bên của Ðịa mạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần,tựa
hồ như sắp có Long có Hổ giáng xuống nơi này.Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ,muôn
hình vạn trạng.Minh đường rộng rãi bằng phẳng,Thủy khẩu giao kết ,uốn lượn xung
quanh,bốn phương tám hướng không có nơi nào bị khuyết hãm.Ðịa Huyệt hạ lạc kết
Huyệt ở nơi này,khí Âm Dương phân biệt cùng tiếp,chỗ cao chỗ thấp,lồi lõm rõ ràng,
địa hình hai bên như hai cánh tay giang rộng,trên phân ra,dưới hợp lại,Ðịa thế tròn
và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ðịa quỷ.Thủy trong ,Thủy ngoài đều ôm
ấp,bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng tụ hội.Nơi được như vậy được
xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy."
Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ giữa tam tài THIÊN -ÐỊA -
NHÂN ,mối quan hệ giữa Long mạch,Huyệt vị....vv.Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét
đến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH.
Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm,dienbatn sẽ viết ở phần sau.Bây
giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi
sinh sống của người tại tiền.Theo định nghĩa : Dương trạch là nơi sinh sống của
người tại tiền (đang sống ),nó không chỉ bao gồm nhà cửa,cơ sở làm ăn,buôn bán
mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố,Tỉnh lỵ....
Trong thuật Phong thủy hiện nay,có rất nhiều Trường phái,đang bàn cãi lung tung cả
và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất.Tạm thời người ta có thể
chia ra các Trường phái chính như sau :
1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang chủ xướng.
2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải ) của
Triệu Cửu Phong chủ xướng.
3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC .
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến những
Trường phái nổi bật nhất hiện nay.
Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một.Tất nhiên chỉ có thể
nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất,sau cùng xin chia sẻ với các bạn một
số kiến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG THỦY LẠC
VIỆT,CẢM XẠ PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.
Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi cần phải tranh
luận về vấn đề này.
1/TRẠCH :Là một cuộc đất,có ranh giới hoặc không ,được sử dụng vào công việc
chôn cất, làm mồ mả,nhà mồ hay xây cất nhà cửa ,Làng mạc,Thành phố..Cũng có
một số người coi Trạch là dải đất,giống như con lươn trên đê.Riêng người viết chỉ
quan niệm đơn giản Trạch là một cuộc đất,vùng đất.Trong Trạch lại được chia ra
làm Âm Trạch và Dương Trạch.
2/ÂM TRẠCH :Là cuộc đất dùng để chôn người chết , còn gọi là Mồ mả.Phong Thủy
cho rằng,nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ
truyền được Phúc ðức cho con cháu đời sau.
3/DƯƠNG TRẠCH :Là cuộc đất được dùng vào mục đích
làm nhà cửa,Ðình ,Chùa,Miếu mạo,Thôn xóm,làng mạc,Thị trấn,Thành phố.Dương
trạch phải hài hòa với Thiên nhiên,có môi trường tốt đẹp,làm cho con người thấy vui
tươi ,mạnh khỏe,hạnh phúc.Dương trạch tốt tức là môi trường tốt.
4/LONG MẠCH :Mạch là nguồn gốc,là đường dẫn máu đi nuôi cơ thể người ta;Long
là con Rồng. Nhưng trong Phong thủy,người ta gọi Long mạch là những dải Núi,dải
đất, Dòng sông,dòng nước chảy,nhấp nhô,uốn khúc như Rồng,thoắt ẩn,thoắt
hiện.Long mạch có thể chỉ vài chục cây số,nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số.
Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH.
SƠN MẠCH :Là những dải Núi,dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt.Tổ Sơn là Núi
cao,nơi xuất phát Sơn mạch.Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long.Hành Long
lại được chia ra làm CÁN LONG :Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ Sơn và BÀNG
LONG :Là chi nhánh đi ra từ Cán Long.Long mạch lúc nổi lên thành
Núi,đồi ,gò ,đống,lúc lại chìm sâu vào lòng đất,có khi vượt qua cả những dòng sông.
THỦY LONG :Là các mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ Sơn,chảy theo các
Sơn Long.Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long,đổ vào Minh đường rồi thoát ra
ở Thủy khẩu tiêu Thủy.
Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long.Ði ngược chiều nước
chẩy gọi là Hồi Long,đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long.
Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta,nói chung Núi sông chạy từ Tây Bắc xuống
Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN ),do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -
KHÔN,hoặc CÀN -LY là chính.Long đi theo hướng này là thế chính có tính chất rất
bền vững,dài lâu.Long thuận thì nước chầu xuống,Long ngược thì nước chầu
lên.Thuận nước chầu lên là thế thuận,nước chầu xuống là thế nghịch.
6/THỦY KHẨU :Thủy khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường.Chẩy đến gọi là
Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ.Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn,nơi nước
chẩy ra gọi là Ðịa hộ.Dòng nước chẩy đến,chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan
trọng,riêng về nó người ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH,xét đến
sự tốt xấu của hướng các dòng nước đối với Huyệt vị.
ÐIỂM HUYỆT :Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long
mạch,Thủy khẩu,Minh đường, Long -Hổ,Sơn,Chu tước,Huyền vũ...,các phương vị
sinh ,Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt.Làm như
vậy được gọi là Ðiểm Huyệt.
Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó ,là việc phải tổng hợp tất cả các kiến thức về
Ðịa lý Phong thủy,các Kinh nghiệm ,các pháp của Huyền thuật,cảm giác
của Phong thủy sư,kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi nhất cho việc xây
cất nhà cửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình,Ðịa thế có thể lấy đúng giữa
Huyệt,lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt.
7/MINH ÐƯỜNG :Theo danh từ ,Minh đường là nơi ngày xưa Vua,Chúa tiếp các Bá
Quan,Văn -Võ triều bái.Trong Phong thủy,Minh đường là vùng đất phía trước của
Huyệt vị.Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường,Trung Minh đường và
Ngoại minh đường,gọi chung là Tam đường.Minh đường ở trước Huyệt gọi là nội
Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh
đường.Minh đường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường.
8/HUYỆT VỊ :Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ,sào Huyệt,là ngôi nhà bằng đất,là
chỗ châm cứu trên cơ thể con người.Trong Phong thủy ,Huyệt là nơi tập trung Khí
của Long mạch.
9/ÁN SƠN :Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án
Thư ).Án cũng co nghĩa là che chắn trước mặt.Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt
như cái bàn làm việc trước mặt người ngồi,Án Sơn không được quá cao.Huyệt có
Án như Chủ có Khách,Vua có Tôi.
10/TRIỀU SƠN :Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách.Triều Sơn là núi to ở
phía xa hơn Án Sơn.Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt là
Triều Sơn quý.Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như
nhau ,nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa.
11/SA SƠN :Là Núi ở xung quanh Huyệt.Trong Ðịa lý chia ra các Sa (Sơn ) như sau
:Án sơn,Triều sơn,Thanh long,Bạch hổ,Tả phù,Hữu bật,La thành viên cục,Lạc
sơn,Hạ thủ sa,Thủy khẩu sa,Cản môn sơn,Hoa biểu sơn,Bắc Thần tinh,La tinh
sơn,Quan tinh sơn,Quỷ tinh sơn,Diệu tinh sơn...
12/THANH LONG (TAY LONG ):Thanh long là Núi hay dải đất nằm bên TRÁI
Huyệt.Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm
lấy Huyệt tạo nên Thanh long,Bạch hổ.Thanh long chủ DƯƠNG,CON TRAI,KHÍ
DƯƠNG.
13/BẠCH HỔ :Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt.Bạch hổ chủ Âm,Con Gái,Khí Âm.
Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên chiếc ghế có hai
tay tựa vậy,hai tay này phải cân đối mới tốt.
14/TẢ PHÙ HỮU BẬT :Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị.Tả phù hữu
bât cần phải cân xứng về cả độ cao,xa gần,lớn nhỏ.Nếu không xứng lứa vừa đôi là
Huyệt không quý.Người ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chiếu,hay Văn
võ thị vệ.Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất,Thái ất.Dịch về
phía trước một chút gọi là Thiên hồ,Thiên giác.Nếu dịch về phía trước một chút nữa
và chụm đầu vào nhau gọi là Kim ngô,Chấp pháp.Nếu nằm ở hai bên Minh đường
Gọi là Thiên quan,Ðịa trực.Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu,Cản môn.
15/LA THÀNH VIÊN CỤC :Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành
bao quanh trùng trùng điệp điệp,lên xuống nhấp nhô bảo hộ Huyệt vị,tựa như cánh
sen ôm lấy nhị hoa.Nếu có điều đó là Huyệt quý.
16/HẠ THỦ SA :Còn gọi là hạ quan,Hạ tư.Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở
bất kỳ phương nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa.Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết
phát.Dòng chảy trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ.Hạ thủ sa cần trùng
điệp,dày đặc,liên tiếp,không được mỏng,nhỏ.
17/BẮC THẦN SA :Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái.
Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm,thường đi với Huyệt Công hầu ,Khanh tướng.Bắc
Thần sa càng hùng vĩ càng cát lợi.
18/LA TINH :Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu giống như Bắc Thần
sa.La tinh có thể là núi nhỏ,gò đá hoặc đất,nếu là đá thì tốt hơn là đất.La tinh tròn
trặn hay nghiêng vát là tốt.La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt.Ðịa thế Huyệt có La
tinh là địa thế Huyệt quý.
18/QUAN TINH :Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh
long,Bạch hổ,kéo sơn mạch ra đằng trước.
20/DIỆU TINH :Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt.Diệu tinh to lớn
và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài.
21/QUỶ TINH :Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh,để cho Huyệt
trườn gối lên.Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh.Quỷ sơn không nên qua
cao,lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt.Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý.
22/CẦM TINH :Là sơn thạch (Núi đá ) ở giữa Thủy khẩu ,còn gọi là Hỏa tinh Hà
Lạc.Hình dạng của Cầm tinh giống như cái bút lông,con cá đang bơi,hay
Rùa,rắn,dài,nhọn,vuông tròn,cao thấp,tụ hay tán.Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý.
23/HUYỀN VŨ :Là sơn mạch đằng sau Huyệt.Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy
vào Huyệt.Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ.Huyền vũ cúi đấu,bằng
phẳng,vuông tròn là quí.Tôn nghiêm có bút nhọn,thanh tú thì quý.Thấp,mỏng bị gió
thổi,thô bạo lấn át Huyệt là xấu.
24/CHU TƯỚC :Là các sa sơn ở trước Huyệt,là các gò đống ở trước Huyệt.Nó múa
lượn,chầu đón Huyệt,tốt tươi,sáng sủa,vòng cung ôm lấy Huyệt là quý.Sơn chạy tán
loạn,lởm chởm ,âm u là xấu.
Ghi chú :Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS.TRẦN VĂN TAM trong cuốn
XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY.
Trong phần này có một bài của Nguyên Vũ ( Văn Hóa Phương Đông ) , tóm lược rất
nhiều sách về các khái niệm trong Phong Thủy . Người viết xin đưa vào để các bạn
tham khảo - dienbatn .
Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn
xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố
cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc,
thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt
là phong thủy không hợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí.
Kinh viết : Khí gặp gió (phong) ắt tán, gặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm
sao cho khí tụ chứ không tán, nước chảy có chỗ dừng". Do vậy mà có tên
là Phong thủy.
Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc
mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy.
Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa chọn nơi
trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với một hệ thống lý luận và
phương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự
nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến
con cháu của người đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại
đó. Thuật này đề xuất lý luận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh
hung, cầu phúc tránh họa. Thuật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ
con người đã chú ý đến ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của
loài người, nên đã tiến hành lựa chọn một cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu
có hoạt động xây dựng một cách tự giác, việc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an
toàn, thích hợp, tiện lợi đã trở thành một trong những nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn
cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh hưởng của quan niệm sùng
bái linh hồn và tổ tiên, người ta cố tìm cách mai táng sao cho có thể giữ gìn lâu dài
thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa học còn thấp, các hình thức
bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn liền với hoạt động xây
dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc cư, Bốc lạc phản ánh
tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu
Dịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc
cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng
triết học cần thiết. Thời Lưỡng Hán , đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như
Cung trạch địa hình, Kham dư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia
cũng mang nội dung Phong thủy. Mối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung
họa phúc của con người đã trở nên rất mật thiết, đồng thời xuất hiện những người
chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu
sấm) và hàng loạt điều cấm kỵ mang tính chất mê tín đang thịnh hành trong xã hội
đương thời. Thời kỳ Ngụy Tấn Nam Bắc triều, quan niệm nhà ở và mồ mả gắn
với cát hung họa phúc của con người được tầng lớp sĩ đại phu tiếp nhận rộng rãi,
thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong thủy. Các sách Phong thủy
xuất hiện nhiều chia ra 2 loại : Dương trạch và âm trạch. Thuyết "Tứ Linh" cũng bắt
đầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà
lạc, âm luật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường,
thuật Phong thủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời
hàng loạt, trong đó Trạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm loại.
Sách Trạch kinh, Táng thư đời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm
nhất của Trung Quốc còn đến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại
thể đã hoàn bị, làm cơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp
trong học thuyết Phong thủy sau này. Nhất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí" đã
trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên
Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác được tôn là người sáng lập học
thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong thủy là
Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cuối đời Đường,
xuất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên
Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát triển về lý luận và
phương pháp, đồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp
đặc biệt thịnh hành, song chứa đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của
thuyết Phong thủy trong xã hội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp
xã hội; đồng thời được Lý học đời Tống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức
ủng hộ, có tác động vô cùng mạnh mẽ tới đời sống xã hội Trung Quốc cổ đại.
Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, Tụ khí, Đắc khí. Nội
dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong
đó Phong thủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung
của Phong thủy âm trạch bao gồm : khảo sát hình dạng núi non sông nước trong
một phạm vi khá rộng, xác định địa chất địa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng
của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất thổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây
cỏ trên mặt đất, cách thức và thời gian mai táng, các vật kiến trúc phụ bên trên
huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm nội dung dùng sức người cải tạo địa hình. Nội dung
của Phong thủy dương trạch thì gồm có: chọn địa điểm nhà ở, thôn xóm, thành phố,
khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa thế cao thấp, hình dáng và bố
cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày giờ khởi công và trình tự xây dựng,
hướng mở cổng cửa, kích thước cổng cửa, các loại cây trồng và phương vị sở tại
còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính thống nhất giữa nhà ở
với các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đều
có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý
pháp thì lấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp" có chỗ mạnh chỗ yếu,
nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai.
Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa cổ truyền Trung Quốc, hiển nhiên
chứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đồng thời
thuật Phong thủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy
hàng ngàn năm trên cơ sở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát
hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất : thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui
hoạch thiết kế xây dựng cổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất
học, sinh thái học, cảnh quan học, kiến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa
của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại, cùng với Doanh tạo học và Tạo viên học
hợp thành 3 cột trụ của lý luận kiến trúc Trung Quốc cổ đại. Tuy thuật Phong thủy có
giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung
tục, nên khó hiểu và có khi bị chê cười; hơn nứa quan niệm cho rằng vị trí mai táng
có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu chưa hề có tư liệu khoa học nào
xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần bị thay thế (chẳng hạn bằng hỏa
táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa.
Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán thư. Dương Hùng
truyện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đồ trạch thư".
Văn tuyển. Cam tuyền phú viết : "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực)
để biết thư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Nghệ
văn chí chép 14 quyển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo
chứng là "sách viết về phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện . "Thời
Hiếu Võ đế, có triệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ?
Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham dư đáp không được". Tùy thư. Kinh
tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Địa tiết kham dư", bàn về cách chọn ngày giờ.
Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo
chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 vị thần.
Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan
sát tượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói
kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ thời Tùy
Đường trở đi, người ta dần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời
Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết : "Các nhà Kham dư thời cổ tức
là các nhà "tướng trạch đồ mộ" thời cận đại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về
sau người tá mới đưa nghĩa Phong thủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn
nhân sĩ đại phu quen dùng thuật ngữ Kham dư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy.
Địa lí : Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh thủy yên đàm lục
viết : "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh
trong Xương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết " Hoàng hậu họ Từ qua đời, Lễ
bộ thượng thư Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, chọn đất
tốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình".
Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký của Lục Du đời Tống:
"Kỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do trời đất tạo dựng
nên.. Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn địa dư này
chăng?" Tức là khi hỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy".
Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 viết : "Đời sau
khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư".
Âm trạch : Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai
táng". Sớ : "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, nơi trú
ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120 : "Nếu ta
chết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung chọn đất mai táng,
tức Phong thủy âm trạch.
Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời cổ, chu "trạch" vừa có
nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi mồ mả là
âm trạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời
Đường : "Phàm dương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm
ôm dương". Còn bao hàm nội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa,
tức phong thủy dương trạch.
Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong thủy âm trạch
và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại
diện cho Phong thủy.
Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử soạn Táng kinh, nên
các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là
thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ" .
Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện : "Phác giỏi
chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày họ Quách ẩn cư ở
Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách chứa
đựng thuật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chiếc túi
vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang
kinh, tức Cửu thiên Huyền nữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy,
mượn tên Quách Phác viết lời tựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật
Thanh nang.
Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ
côi từ nhỏ , được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày
tướng nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà
thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói : Họ ngoại có được
trạch tướng tốt vậy".
Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh" (cháu ngoại) thay cho chu "trạch tướng".
Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết : "Vương
Mãng
làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của
mình".
Gia tướng : Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình,
hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà).
Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình
tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất).
Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản thị
địa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị : "Bốc triệu dinh thất gồm 2 việc; một là
luận sơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư".
Bốc cát : Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy chủ hậu lục, quyển 1,
của Vương Minh Thanh đời Tống, viết : "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho Tư
thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát" được dùng
để chỉ việc chọn đất mai táng.
Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến
hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm
trạch.
Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là tiến
hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm
trạch. Hoàng đế trạch kinh : "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay dữ, địa
điểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự".
Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định mức độ cát hung tọa
hướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống
sử.
nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển.
Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành
làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc
liên quan.
Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành
làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt
mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm
mộ phần, tức Phong thủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 : "Những
thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải
chỉ là tên gọi riêng của tướng trạch, tướng địa".
Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác
định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi
mỹ lệ, cây
cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị".
Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng,
hoặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi
nhuận, cây
cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào bới, thấy chắc chắn dày
dặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "Uất thảo", cũng là đất lành. Cho nên phàm
đất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây
là nội dung bảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực.
Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ được
xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo : "Ngã nãi bốc giản thủy đông, triền thủy tây,
duy lạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc.
Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long thế,
Hưng loạn võng bất vong" .
Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô.
Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi nướng, mai rùa có
những đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo : "Ngã nãi
bốc giản thủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi việc chọn đất xây
dựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn : "Bốc thực Đông Hạ,
nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng : "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt
tươi, Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị" .
Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Việt xuân thu. Câu Tiễn
qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán : "Đường Ngu bốc địa, Hạ
ân phong quốc, cổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng việc lựa
chọn đất làm phần mộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ
"Bốc địa khởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai
chữ Phong thủy.
Bốc trạch: Chữ "trạch" có 3 nghĩa : l) Nơi trú ngụ 2) Phần mộ 3) Lựa chọn. Cho nên
bốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô.
Thượng thư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc
kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất cư
trú. Bài thơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông
khử quốc xa". Thơ Di cư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu : "Đào Tiềm ái
bốc trạch, Thẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn
đất làm phần mộ. Lễ ký. Tạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ
của Khổng Dĩnh Đạt : "Trạch là đất mai táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng
của Cố Viêm Vũ đời Thanh : "Bốc trạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui
cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong
thủy là Bốc trạch.
Bốc cư : Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. Sử ký. Tần bản kỷ.
"Đức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ việc chọn đất định cư. Nghệ văn loại
tụ, quyển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch" của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam triều :
"Phỏng vũ bắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại thảo đường
của Đỗ Phủ đời Đường có câu : "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền".
Bốc thất : Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ
Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu : "Phiêu phiêu số
niên như nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đại truyện :
"Khả Đại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử".
Bốc vũ : Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công
hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều : "ái nái bốc vũ
Kim Lăng, doanh đới lâm hách" .
Bốc trúc : Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép
rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đền Tống Hy ở
khe suối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện : "Bốc trúc dương tiễn sơn
trung, độc thư thập niên dư"
Bốc lân : Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên : "Thả
Ngạn nói : Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân hề". Đỗ Dự chú
giải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đường có câu
: "Nhất tạc bồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất cư trú,
đồng thời biểu thị với người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ.
Bốc lão : Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định cư. Tịnh danh
trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc
lão ở Đan Đồ".
Chiêm trạch : Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm trạch tức là
quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng
đế trạch kinh : " Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi của cỏ cây mà dự
đoán tình hình họa phúc cát hung"
Tướng trạch : Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành
quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng
cùng hình thế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định
trình tự và ngày giờ xây dựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà.
Thực chất là Phong thủy dương trạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện : "Thư mồ côi từ
nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng
nói : nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển" . Tùy thư. Kinh tịch chí có chép " Tướng
trạch đồ" 8 quyển. Tống sử. Nghệ văn chí có chép " Tướng trạch đồ" 1 quyển.
1) Sinh khí : Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm của toàn bộ
hệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm dương tràn
ngập trời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa,
còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng
đất, hình thức biểu hiện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên
nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy" (Táng kinh dực).
Bởi thế tìm sinh khí trước tiên phải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có
khí. Sinh khí tùy đất mà vận hành, gặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn
phía. Cho nên điều quan trọng nhất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao
quanh, để sinh khí không bị gió thổi tứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà
nuôi dưỡng vạn vật. Loài người được nó nuôi dưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của
nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí , sinh khí ngưng kết
thành cốt cách của con người. Người ta chết đi, máu thịt rứa nát, xương cốt vẫn
còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở nơi sinh khí hội tụ, thì sinh khí sẽ
nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu của họ, cho nên nói : "Mai
táng phải thừa sinh khí vậy" (Táng thư). Đây là cơ sở lý luận của Phong thủy âm
trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói , vì sinh mệnh của con người do sinh
khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí thịnh vượng
mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí dưới
lòng đất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hiệu chậm, cho
nên khác với âm trạch, dương trạch còn phải có được "thiên hạ" (khí trời). Khí trời
trực tiếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh ,
cho nên "Dương trạch dưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí
của trời" (Tướng trạch kinh soạn . quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý
hướng mở cổng, cửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng
khí , loại trừ tà khí.
2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị cố định nào đó
đối lập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt sẽ
thu được hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không giống nhau trong một
năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 độ,
Xem mục nhị thập tứ sơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất;
tháng 5 ở Thìn, Tốn; tháng 6 ở Tỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn;
tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở Dậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở
Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng
hồ mà xoay 1 vòng.
3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh.
4) Chữ "khí" ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là một chất
đặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người.
Ngoại khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên
mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngoại khí chuyển tải, chỉ nội khí mới có
thể tụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước ) ngăn lại mà nội khí
tụ.
Nội khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng
đất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng.
Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng
đất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ
"Long thần" để biểu thị sự kỳ diệu của nó.
Thiên khí:
1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận
hành dưới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi nổi trong không trung thì gọi là
"thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi
ấm thân thể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong thủy
dương trạch coi việc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu.
2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính,
Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí.
Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đất, phát ra mà sinh thành
vạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên
khí.
Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc dương. Thi thể
người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên
phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí.
Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi hoặc chỗ
lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng,
cửa.
Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đất
càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải
lớn mới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh
đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư
khí.
Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (nước) là Hư khí. Nước
càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên nước phải sâu và
chảy xa mới là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì
nước mới cô thể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực
khí.
Hung khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm.
Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong hồn sẽ bị
hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo
hèn, hiếm muộn, tai họa.
Lậu khí : Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong thủy,
Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành chỗ khuyết, sinh khí
từ chỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành.
Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa trước, thì sinh khí
vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có
hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành.
Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài
người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng kết thành xương cốt. Người
ta chết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí
thấm vào xương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa
Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như
san hô, do các cốt trùng nhỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, cốt trùng vẫn
còn, cảm với sinh khí mà ảnh hưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng
học, quyển 3). Thực chất đây là dùng học cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn
toàn vô căn cứ.
Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong
thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Thủy (quan
thủy), Hướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá
mạnh tới lý luận Hình pháp.
Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đưa ra cho phù hợp
với quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là : " Một, Khí mạch, là
cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đẹp xấu; ba, Thủy khẩu, là
cương sinh vượng tử tuyệt" . Ngũ thường là : "Một, Long, long phải chân (thật); hai,
Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao
(ôm); năm, Hướng, hướng phải cát (lành).
Ngũ tính : Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn cứ vào đó
mà dự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào giữa thời
Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ thể như sau :
trước tiên, phối họ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, giốc, chủy, vũ. Phát âm
họ của một người , nếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ
răng là giốc, ở lưỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví
dụ các họ Trương, Vương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là
giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên
quan để biết họ của mình thuộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ
hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ
Trương là âm thương, thì cổng, cử chính không được đặt ở hướng nam, vì thương
thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa khấc kim, không lành. Lại như họ Đồ là âm
chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì chủy thuộc hỏa, mà phương bắc
thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa hướng của phần
mộ, có ca quyết đơn giản như sau : "Thương, giốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung,
vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc địa đắc cung, thứ sử vương công; đắc
địa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, thất địa thất
cung, tuyệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh).
Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm : thọ, phúc, khang ninh, hiếu
đức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm : yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo buồn,
nghèo khổ, độc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho
rằng lục cực cứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên.
Cho nên chọn đất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành,
để trừ lục cực đón ngũ phúc.
Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly tứ biệt, tai nạn
hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong
thuật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, hoặc
dương sơn, dương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể
tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị
Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Giang Tây phái : Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn.
Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương về cuối
đời sống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên
như vậy Thuyết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn
mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định
huyệt vị tọa hướng, chú trọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự
phối hợp long, huyệt, sa, thủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình
thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần
lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tuấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác
của phái này hiện còn rất nhiều, tiêu biểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị
trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng thư người đời Tống mượn danh Quách
Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý luận của phái Giang Tây chú trọng quan
sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui nạp rất nhiều hình thế sông núi, kết tinh
nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm chủ, dương trạch thường
mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng của nhà ở
và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây từ đời Đường Tống
trở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút giảm, nhưng vẫn được xã hội
tiếp thu rộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng.
Hình pháp : 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong thủy do trường
phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho rằng sinh khí vận
hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí vượng mà cát, ắt hình
sẽ đẹp đẽ uyển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn cứ
vào hình mà biết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết
này, lý luận âm trạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan
thủy, lập hướng, tết cả đều xuất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác
định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết
tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Quốc cổ đại trong việc nhận thức quan sát
thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú trọng hình dáng và sự phối hợp
hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhiều hình vẽ và cách thức cố định. Phần lớn khái
niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do
trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và định nghĩa, mà được hậu thế nhất trí
thừa nhận.
Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả giới tự nhiên chân
thực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đối
dễ hiểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất lớn trong xã
hội. Trước tác tiêu biểu của thuyết này là : Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh,
Thập nhị trượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp , Ngọc xích kinh,
Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư.
2) Một học thuyết về thuật số cổ đại. Nội dung bao gồm : xác định hình thế sông núi,
để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng
lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như
chữ Phong thủy.
Loan đầu phái : Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình dạng của núi
sông, nên có tên như vậy.
Phúc hiến phái : Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn của
thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Kiến), nên có
tên gọi như vậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này
chủ yếu căn cứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà
tính toán. Nhấn mạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định
quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý
trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu
(cát hung) âm trạch cũng thường luận về cát hung của tọa hướng, chủ yếu sử dụng
cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm nhiều đến hình dáng cụ
thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc trạch pháp. Thuyết này về sau phát
triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, trước tác cũng không
nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của
ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết
Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây.
Lý pháp : Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý luận Phong thủy
do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý
thuật số như : âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp
và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch
trong lý luận dương trạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch,
phép Tam hợp trạch, Song sơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối
hợp với bát quái, cửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong âm trạch, Tam ban
đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành thủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số
căn cứ vào phương vị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu
như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu
tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính tư biện. Trước tác về lý luận gồm Bát
trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý luận chặt chẽ, kết quả suy lý
gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhiều ít. Lý pháp thịnh hành thời
Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không được tầng lớp dưới
trong xã hội tiếp nhận.
Ốc trạch pháp : Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú trọng
nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên
có tên như vậy.
Đồ trạch thuật : Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này
lấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng phối hợp với
ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác định cát hung
về nhà ở và mộ phần của những người có họ khác nhau. Chương "Khiết thuật thiên"
trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật.
Xem mục Ngũ tính.
Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Thời Hán có Hình pháp gia, là người
xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người hoạt
động Phong thủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia.
Kham du gia : Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đời Hán có
các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện : "Thời Hiếu Võ đế, ông mời các thày
bói đến hỏi : vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được,
các nhà Kham dư nói không được". Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12
thần, tương ứng với khu vực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ
nhất định với Phong thủy. Nên đời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy,
còn nhà Kham Dư tức là Phong thủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời
Thanh viết: "Nhà Kham dư đời xưa, tức là người xem nhà cửa, mộ phần đời nay".
Xem mục Kham dư.
Âm dương gia : Một trong "Cửu lưu" (9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng
có âm dương gia, bao gồm nội dung : can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ
đức chung thủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội
dung Phong thủy, nên đời sau gọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm
dương tiên sinh.
Âm dương tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt
động Phong thủy , vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ
tiên sinh biểu thị sự tôn kính.
Mông nhân : Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần mộ chung, phân biệt
địa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp.
Mộ đại phu : Chức quan thời nhà Chu , chuyên trách quản lý phần mộ trong nước,
vẽ địa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp .
Lư trạch đãi chiếu : Chức quan đời Hán. Trung Quốc cổ đại phần nhiều dùng hệ
thống quan lại "Thái sử lệnh" quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng mộ;
thời Hán thiết chế "Đãi chiếu" 37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là
Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch.
Tư thiên đài học sĩ : Chức quan thời Kim. Các triều Trung Quốc thời xưa dùng hệ
thống cơ cấu quan lại Tư thiên đài để quan sát tượng trời, định lịch pháp. Thời Kim
quy định chức Học sĩ trong phạm vi toàn quốc phải trải 1 hi tuyển mới được bổ vào
chức đó. Khoa mục thi tuyển thiên văn, lịch pháp, chiêm bốc, thuật Phong thủy (Địa
lý tân thư) và thuật hợp hôn an táng. Một khi đã trúng tuyển trở thành Thiên đài học
sĩ, phải đồng thời tham gia sự hoạt động Phong thủy.
Âm dương nhân : chức quan đời Nguyên. Đời Nguyên quy định Tư thiên giám tuyển
chọn âm dương nhân qua thi cử. Khoa mục thi tuyển gồm : chiêm toán, tam mệnh,
Chu dịch, Lục nhâm, Phong thủy dương trạch (thi theo "Chu thư bí áo", "Bát trạch
thông chân luận"), Phong thủy âm trạch (thi theo "Địa lý tân thư", "Doanh nguyên
tổng luận", "Địa lý minh chân luận"). Trúng tuyển sẽ trở thành âm dương nhân thuộc
Tư thiên giám, tham gia tòng sự hoạt động phong thủy. Về sau , đời Minh cũng có
thiết chế âm dương nhân thuộc Khâm thiên giám, tòng sự hoạt động Phong thủy.
âm dương sinh Thời Nguyên, Tư thiên giám thiết lập khoa âm dương học, học sinh
theo học khoa ấy gọi là âm dương sinh, chuyên về thuật số, lấy Chu dịch làm đầu,
thứ đến thiên văn, tinh mệnh, chiêm bốc, tướng trạch, tướng mộ. Tư thiên giám lo
bồi dưỡng nhân tài, học sinh do các địa phương trong cả nước tiến cử, qua thi
tuyển, nếu đỗ sẽ được nhập học. Đời Minh, Khâm thiên giám cũng có thiết lập khoa
Địa lý, dạy phương pháp lý luận Phong thủy; có chức quan nào khuyết, sẽ được bổ
nhiệm.
Phong thủy tiên sinh : Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt
động Phong thủy. Từ đời Đường bắt đầu có tên gọi.này, nó trở nên phổ biến khắp
nơi trong nước cũng có khi gọi là Phong thủy sư.
Phong thủy sư : Tên gọi nhung người chuyên hoạt động Phong thủy. Xem
mục Phong thủy tiên sinh.
Địa lý gia : Tức Phong thủy tiên sinh, vì Phong thủy còn gọi là địa lý, cho nên người
chuyên hoạt động Phong thủy còn gọi là địa lý gia. Vân lộc mạn chung, quyển 4, của
Triệu Nhan Vệ đời Tống, viết : "Nhà địa lý không rõ có từ thời nào . Từ khi Hoàng đế
ra lệnh thay đổi Giáp tí, phối hợp can chi mà phân ngũ hành, nay nhà địa lý tất có
thuyết đại ngũ hành, chẳng hạn Nhâm thuộc thủy, nhà địa lý báo bảo Nhâm thuộc
Hỏa". Dung am bút ký. Dật văn của Tích Phúc Thành đời Thanh: "Người đời rất tin
vào lời nói của nhà địa lý, họ bảo mai táng người thân ở chỗ đất lành, thì con cháu
sẽ được giàu sang phú quí, trái lại sẽ nghèo hèn suy tuyệt"
Địa lý tiên sinh : Người lấy thuật Phong thủy làm chức nghiệp, tức Phong thủy tiên
sinh. Vì Phong thủy còn gọi là địa lý, nên có tên gọi đó. Sơ khắc phách án kinh kỳ,
quyển 16: "Lại cách 2 tháng nữa, mời một địa lý tiên sinh đến chọn đất hoàn tất việc
mai táng Vương thị, từ đó dần dần có người tới cầu thân".
Địa lý sư : Tức địa lý tiên sinh. Sơ đàm tập . Sư hữu. Học đạo của Lý Chí đời Minh :
"ở đây Cưu Thắng là địa lý sư (thầy địa lý). Kiên Hồ tứ tập. phong thủy của Chử
Nhân Hoạch đời Thanh : "Thân phụ của Hồ Sơn Khiêm nói với thầy địa lý rằng,
người đời biết tường tận về huyệt mộ trong núi, há biết đến huyệt mộ trong lòng
người".
Táng sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy âm trạch . Phong thủy chia ra âm
trạch và dương trạch. Âm trạch chuyên nói về việc chọn đất mai táng, nên người ta
gọi người chuyên về hoạt động này là táng sư.
Địa sư : Người tòng sự hoạt động Phong thủy. Phong thủy có tướng địa, bốc địa, lại
còn gọi là địa lý, địa học, nên người ta gọi người chuyên tòng sự hoạt
động Phong thủy là địa sư.
Bốc công : Người tòng sự chiêm bốc. Luận hoành. Cát nghiệm của Vương Sung đời
Hán: "Ban đêm không trăng mà trong phòng tự bừng sáng, vua lấy làm lạ, bèn triệu
Công tào sứ Sung Lan đến để đi hỏi bốc công". Còn chỉ người tòng sự hoạt
động Phong thủy, tức Phong thủy tiên sinh. Hậu Hán thu. Đống Tuyên truyện :
"Công Tôn Đan làm nhà ở, mà bốc công cho rằng nhà này sẽ có người chết". Thái
Bình quảng ký, quyển 137, dẫn sách U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh thời Nam
triều : "Phụ thân của Viên An chết, bà mẹ sai An mang gà rượu đến biếu bốc công,
nhờ chọn đất chôn cất".
Đạo sĩ : Chỉ Phong thủy tiên sinh. Vốn chỉ người theo đạo phương sĩ, tăng lữ, tín đồ
Đạo giáo, trong đó phổ biến chỉ tín đồ Đạo giáo. Vì các phép vu thuật, phù chú của
Đạo giáo cũng giống như các phương pháp tương tự trong thuật Phong thủy, nên
vào một số thời kỳ, ở một số nơi các đạo sĩ cũng tham gia hoạt động Phong thủy,
đồng thời các Phong thủy tiên sinh chân chính cũng được người ta gọi là đạo sĩ.
La bàn : Còn gọi là La kinh. Công cụ quan trọng nhất trong thuật Phong thủy. Do Tư
nam bàn, Lục nhâm bàn diễn hóa mà thành , xuất hiện như một công cụ định hình
chuyên dùng trong thuật Phong thủy vào khoảng cuối đời Đường Năm 1985 đào
được một chiếc la bàn bằng gỗ trong tay bức tượng "Trương Tiên. Nhân" thời Nam
Tống bằng đất nung. Đến đời Minh, Thanh, la bàn được chế tạo khá lớn, chứa dựng
nội dung cũng ngày thêm phức tạp; chiếc la bàn lớn nhất đạt tới hơn 40 lớp, bao
gồm vạn tượng kinh vĩ trời đất, tập hợp cái lý của hai khí âm dương, cái chỉ của bát
quái ngũ hành, cái số của Hà đồ Lạc thư, cái tượng của thiên văn tinh tú, trình tự
của tiết khí bốn mùa, dùng để xác định phương vị, quan sát thiên văn, tính toán
ngày lành, dự đoán họa phúc, trở thành công cụ không thể thiếu trong hoạt
động Phong thủy, biểu hiện nhận thức và hiệu chỉnh góc lệch địa bàn, đồng thời gợi
mở vô số khái niệm mang tính suy lý tổng hợp và liên tưởng triết học. Nhất là khi
ứng dụng cho học thuyết Lý pháp thì nó càng thêm huyền bí khó hiểu.
La kinh: Tức La bàn. Thuật Phong thủy dùng nó để thâu tóm vạn tượng, kể cả kinh
vĩ trời đất, huyền diệu khó đoán. Xem mục La bàn.
La bàn bát kỳ : Chỉ 8 trạng thái của chiếc kim trên la bàn trong những tình huống
khác nhau, đó là : đường, đoái khi, thám, trầm, nghịch, trắc, chính. Đường, chỉ chiếc
kim la bàn run rẩy bất định, không trở lại trung tuyến, chứng tỏ dưới đất có đồ cổ.
Đoái, nghĩa là đột khởi, chỉ chiếc kim cứ nằm ngang la bàn, không trở về trung
tuyến, chứng tỏ dưới lòng đất có khoáng sản hoặc vật bằng sắt. Khi nghĩa là dối trá,
chỉ việc dùng sắt nhiễm tử dẫn kim, khiến nó di chuyển không ổn định. Thám, nghĩa
là chúi xuống, chỉ chiếc kim nửa nổi nửa chìm, hoặc một đầu nổi, đầu kia chìm.
Trầm, nghĩa là chìm, chứng tỏ dưới đất có đồ đồng. Nghịch, nghĩa là không thuận,
chỉ kim nổi mà không có trật tự. Trắc, nghĩa là không thẳng, chỉ kim cứ dao động
sang hai bên, không trở về trung tuyến. Chính, nghĩa là không tà, chỉ kim ổn định,
luôn chỉ hướng Tí Ngọ. Trong bát kỳ, chỉ có Chính là cát; còn 7 trạng thái kia chứng
tỏ đất chỗ ấy không lành, không nén làm nhà, xây mộ.
Thiên trì : Trung tâm la bàn, tức lớp thứ nhất. Nói chung, đường kính là 1 thốn 2
phân, tượng trưng 12 tháng trong 1 năm; sâu 3 phân, ví với 1 tháng có 30 ngày.
Thiên trì trên la bàn dùng để bố trí kim la bàn chỉ hai hướng nam bắc, cũng có loại
vẽ đồ hình Thái cực mà không bố trí kim la bàn.
Phân kim : Phương vị. Tức lấy 60 Giáp Tí phối thuộc ngũ hành, như Giáp Tí, ất Sửu
là kim, bính dần, đinh mão là hỏa, mậu thìn, kỷ ty là mộc, canh ngọ, tân mùi là thổ,
bính tý, đinh sửu là thủy. Vì ngũ hành lấy kim làm đầu, nên gọi là phân kim. Còn gọi
là 60 long, trên la bàn biểu thị phương vị, đồng thời có thể dựa vào đó mà phán
đoán sinh khắc cát hung.
Chính châm : Trên la bàn lấy phương vị nam bắc mà kim nam châm chỉ hướng làm
Chính châm, thực tế là cực nam châm Tí Ngọ. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở
thuộc Chính châm để xác định tọa hướng của nhà cửa, phần mộ. Có thuyết nói
Chính châm dùng để định ô vuông của Lai long.
Địa bàn: Các lớp sở thuộc Chính châm trên la bàn gọi là Địa bàn, thống nhất ở dưới
Chính châm, dùng để xác định tọa hướng. Có thuyết nói vừa để định ô vuông của
Lai vừa để định hướng. Xem mục Chính châm.
Trung châm : Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, ngược chiều kim đồng
hồ (hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Trung châm, thực
tế là cực nam châm Tí Ngọ. Nó có tác dụng hiệu chỉnh góc lệch địa bàn , có tính
chất khoa học, song thuật Phong thủy giải thích là do tác dụng cảm ứng của khí ngũ
hành hoặc hai khí âm dương. Trung châm trên la bàn dùng để định ô vuông Lai
long. Vì Lai long là từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, nên trước tiên phải xác định
tọa hướng của chúng. Có thuyết nói Trung châm dùng để nạp thủy.
Thiên bàn : Các lớp sở thuộc Trung châm trên la bàn gọi là Thiên bàn, thống nhất ở
dưới Trung châm. Tác dụng của Thiên bàn là định ô vuông Lai long. Vì long thuộc
dương, thiên (trời) cũng thuộc dương, nên gọi là Thiên bàn. Lại vì trời thuộc dương,
mà đất thuộc âm, dương động trước mà âm động sau, nên Thiên bàn vận hành
trước nửa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Thiên bàn dùng để nạp thủy. Xem
mục Trung châm.
Phùng châm: Trên la bàn lấy 24 sơn sở thuộc Chính châm, thuận chiều kim đồng hổ
(hướng sang bên phải) thác khai bán cách (nửa ô vuông) làm Phùng châm, thực tế
là cột bóng Tí Ngọ, tức là dùng cột bóng để đo bóng nắng mà biết được phương vị
nam bắc. Thuật Phong thủy dùng các lớp sở thuộc Phùng châm để thu nạp sa, thủy.
Vì sa thủy là tử gần ra xa, tử trong ra ngoài, nên cần vận hành nửa bước mà thu
nạp. Có thuyết nói Phùng châm chuyên để tiêu sa.
Nhân bàn : Các lớp sở thuộc Phùng châm trên la bàn gọi là Nhân bàn, thống nhất ở
dưới phùng châm, dùng để tiêu sa nạp thủy. Vì sa thủy là từ gần ra xa, từ trong
ngoài, nên Nhân bàn vận hành sau nứa bước so với Địa bàn. Có thuyết nói Nhân
bàn dùng để tiêu sa. Xem mục Phùng châm.
Môn xích : Một trong những công cụ chuyên dùng trong thuật Phong thủy. Làm bằng
gỗ, trên cán chia thành từng nấc đều nhau, với các ký tự phân biệt cát hung, để đo
đạc kích thước cổng, cửa và đồ dùng trong nhà. Nếu khớp vào ký tự cát tường thì
là cát (tốt lành), khớp vào ký tự hung thì là hung. Môn xích gồm các loại như Lỗ Ban
xích (thước lỗ ban), môn quang xích.
Lỗ Ban xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Mặt trước và mặt sau
cùng chia thành 8 phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 5 phần nhỏ hơn, với
những chữ khắc ở từng phần lớn nhỏ. Dùng để đo kích thước cổng, cửa đi, cửa sổ,
phòng khách, bếp, các vật dụng trong nhà . Lấy chiều ngang, chiều dọc, hoặc 3
chiều dài, rộng, cao, nếu rơi vào chữ cát tường là cát, rơi vào chữ hung là hung.
Còn tính chi li hơn, như cổng, cửa chính phòng khách nếu rơi vào các chữ "quyền
lộc", "cát khánh" , "quan lộc"
" thiên lộc" là đại cát; cửa đi và cửa sổ từng phòng trong nhà rơi vào các chữ " tử
tôn" , "hoạnh tài" , "tuấn nhã" , " yên ổn" là đại cát; cửa bếp, bệ bếp nếu rơi vào các
chu " thanh quí" , "mỹ vị" là đại cát; cửa đi, cửa sổ thư phòng nếu rơi vào các chữ
"trí tuệ", "thông minh" là đại cát. Do độ dài của thước thời xưa và thời nay khác
nhau, cho nên khó xác định độ dài tổng cộng của thước Lỗ Ban là bao nhiêu. Theo
Hà Hiểu Hân trong sách Phong thủy thám nguyên, thì con số ấy là 29,7 cm.
Môn Quang xích: Một loại môn xích (thước đo). Làm bằng gỗ. Trên mặt chia thành 8
phần đều nhau, mỗi phần lại chia thành 4 phần nhỏ hơn, với những chữ khắc ở
từng phần lớn nhỏ. (Xem hình vẽ ở trang 347 nguyên tác). Dùng để đo kích
thước nhà cửa. Lấy chiều ngang, chiều dọc, nếu rơi vào chứ cát tường (tài, nghĩa,
quan, bản) là cát, rơi vào chữ hung là hung. Theo Hà Hiểu Hân trong
sách Phong thủy thám nguyên, thì độ dài tổng cộng của thước Môn quang là 42, 76
cm.
Sơn tổ : Tổ tiên của các mạch núi. Còn gọi là Tổ Long, tức núi Côn
Nam long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền nam Trung Quốc,
xuất phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến
núi Chung Nam thì tách khỏi Bắc Long mà chạy xuống phía nam, đến Thượng Lạc
(nay là huyện Thường, tỉnh Thiểm Tây), vượt Hán Thủy, đến núi Kinh, men mạch
núi Đại Ba chạy xuống phía đông nam, lại vượt Trường Giang, đến Hoành sơn, men
phía đông Nam Lĩnh, tới Phúc Kiến, Chiết Giang mà ra biển. Thuật Phong thủy cho
rằng mạch núi Nam Long phần nhiều kỳ vĩ, ở Kim Lăng (nay là thành phố Nam Kinh)
tạo thành địa thế hiểm trở, là đất đế vương phát tích.
Bắc long : Một trong 2 đại hành Long, mạch núi chính ở miền bắc Trung Quốc, xuất
phát từ núi Côn Luân, qua núi Tam Nguy, núi Tích Thạch, vượt Hoàng Hà, đến núi
Chung Nam, Hoa sơn, lại vượt Hoàng Hà mà quành lên phía bắc, qua núi Vương
ốc, núi Thái Hành, chạy sang phía đông, đến Liêu Đông thì dừng. Thuật Phong thủy
cho rằng Bắc Long là đất kết tuyệt vời, với các đỉnh núi cao ngất trời, được Hoàng
Hà và sông áp Lục ôm ấp trước sau, cùng với mạch núi Yên sơn tạo nên cơ nghiệp
đế vương ngàn năm.
Trung long : Một trong 3 đại hành Long, chỉ mạch núi nằm ở khoảng giữa Nam
Long và Bắc Long. Phần đầu nó đồng hành với Nam Long, đến Tần Lĩnh thì hướng
sang phía đông, qua mạch núi Đại Biệt mà ra biển. Mạch núi này không có thế liên
tục rõ rệt, chỉ là do vua cha của Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương được an táng tại
Phụng Dương, tỉnh An Huy, nên người đời Minh thần bí hóa Trung Long một cách
khiên cưỡng.
Khiếu lĩnh : Mạch núi. Thuật Phong thủy dùng để đặc chỉ mạch núi ở miền tây nam,
thuộc Nam Long. .
Tái viên : Thời xưa gọi vùng biên giới phía bắc là Tái viên. Thuật Phong thủy dùng
để chỉ mạch núi miền đông bắc, thuộc Bắc Long.
Toàn khu : Hình thế núi. Chỉ mạch núi khởi từ đường chân trời, có đầu có đuôi. Thái
tổ ở nơi xuất phát cao lớn hùng vĩ, đoạn giữa liên tục, nhấp nhô, phần cuối kết huyệt
có tình, triều sơn và án sơn phía đối diện ngay ngắn đoan chính. Chỉnh thể trông
như toàn bộ thân mình đầy đủ của một con rồng, như vậy thì sinh khí tự nhiên thỉnh
vượng, an táng sẽ đại cát.
Phân chi : Hình thế núi. Chỉ mạch núi chính tách ra mấy mạch nhánh, các ngọn núi
nhô cao, xếp đặt có thứ tự lớp lang. Chỉ cần Tổ sơn cao lớn hùng tráng, thì sinh khí
của các mạch nhánh cũng sẽ thịnh vượng, an táng sẽ đại cát.
Ẩn phục : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tuy có ngọn núi không cao to
lắm, nhưng nhấp nhô chạy đến, liên tục không đứt, lúc ẩn lúc hiện, đến ngay trước
mắt. Long ẩn phục có sức mạnh lâu dài, an táng sẽ cát. Thực tế tương đương ẩn
Long. Xem mục ẩn Long.
Lĩnh quần long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở giữa, được các ngọn núi xung quanh
tiền hô hậu ủng, nghiễm nhiên nó trở thành thủ lĩnh, an táng sẽ cát.
Sinh long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi cao đẹp, nhấp nhô lên xuống,
uyển chuyển chạy đến một cách sinh động, đồng thời có khá nhiều mạch nhánh,
giống như cành lá phân bố đồng đều, như con rết lắm chân, hoặc không có mạch
nhánh, nhưng giống như chuỗi ngọc đẹp. Sinh Long có tương ngũ hành thuộc hỏa,
an táng sẽ cát.
Phi long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi sinh động khoáng đạt, có 2 mạch nhánh như
hình chim nhạn giang cánh, phượng hoàng sải cánh ôm ấp huyệt mộ; an táng
sẽ cát.
Đằng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát tương đối thấp, nhưng dần
dần đi cao lên, với các đỉnh núi đẹp, thân núi dày rộng. Phải chọn huyệt tại đỉnh núi,
gọi là định Thiên huyệt; an táng sẽ cát.
Giáng long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi ở nơi xuất phát cao đẹp lạ thường, nhưng
mỗi lúc đi một thấp dần, giống như con rồng từ trên trời mây đáp xuống biển xanh.
Giáng Long có sinh khí cực vượng, an táng sẽ đại cát. Có câu ca rằng "Thế nhược
giáng Long, thủy nhiễu vân tòng, tước lộc tam công" (Thế như rồng đáp, từ mây
cuốn nước, tước lộc sánh ngang chức tam công) (theo sách Quản thị địa lý chỉ
mông).
Hồi long : Hình thế núi. Như Phiên Long. Chỉ mạch núi uốn lượn trở lại, đầu đuôi
tương ứng, giống như con rồng cuộn mình lại. Hồi Long có tượng ngũ hành là mộc,
là đệ nhất Long; an táng sẽ đại cát.
Phiên long : Hình thế núi. Xem mục Hồi Long.
Ngọa long : Hình thế núi. Chỉ mạch núi đường bệ sừng sững, dáng vững vàng, yên
ổn, chân núi thu lại như con hổ dừng chân, con trâu nằm quì. Ngọa Long có sinh khí
lâu bền; an táng sẽ cát, tuy phát tích hơi muộn.
Thụy long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi du dương mà đến, thản nhiên bình dị, khí độ
ung dung, tinh thần bình tĩnh, giống như mắt rồng nhắm lại, mạch khí ẩn phục,
tương tự Ngọa Long, có tượng ngũ hành là thổ; an táng sẽ cát.
Hoành long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tràn ngang qua, tiến thẳng không vòng lại.
Nói chung không nên định huyệt; nhưng nếu sa, thủy có tình, có tả hữu hộ vệ, thì
cũng có thể an táng gần sống núi, gọi là Phán Long định huyệt. Xem mục Phán
Long định huyệt.
Xuất dương long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tứ chỗ đất bằng đột nhiên cao vút lên,
siêu quần xuất chúng một mình đẹp đẽ, uốn lượn như rắn bò, giống ngư mãnh thú
ra cửa rừng. Xuất dương Long có sinh khí thịnh vượng, sức mạnh rộng lớn, chớ
thấy nó đơn độc mà bỏ qua; về tượng ngũ hành, Xuất dương Long là kim, an táng
sẽ cát.
Ẩn long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi bàng bạc từ xa mà đến, mạch lạc không rõ,
tông tích lừ mờ, như có như không, giống như rồng rắn ẩn hiện; thực ra nó uốn
trườn liên tục, sinh khí không hề bị tiết thoát, cứ thế tiến đến thẳng huyệt vị. Ở chỗ
tận cùng, địa thế tựa như bàn tay để ngửa; định huyệt ở nơi hai dòng nước hội tụ;
an táng sẽ cát.
Can long: Hình thế núi. Chỉ một mạch núi chính trong một số mạch núi, cao lớn
hùng vĩ, có nguồn gốc từ xa, giống như thiên mã hành không (ngựa trời phi trên
không trung), khí tượng tôn quí, có vô số núi hai bên hộ vệ. Can Long có sính khí
cực vượng, nếu triều và án sơn có tình, thì an táng đại cát, chủ con cháu đời đời
làm quan to.
Chi long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tương đối nhỏ tách ra từ mạch núi chính, thấp
và ngắn hơn núi chủ. Sinh khí của Chi Long không vượng, nếu an táng ở đó, con
cháu chỉ bình thường mà thôi.
Bình nguyên long: Địa hình. Đồng bằng không có núi, lấy gò đống làm Long. Nếu
không có cả gò đống, thì lấy chỗ đất hơi cao làm Long, như câu "Đất cao 1 tấc cũng
là núi". Nhưng nếu dùng sức người đắp đất cao lên thành gò thì không Phải là Long.
Hoặc lấy thủy đạo làm Long. Xem mục Thủy Long.
Giáp phụ long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi nhỏ hơn ở hai bên mạch núi chính, như
cành lá tách ra tứ thân cây hình thế thâm thúy; an táng sẽ cát.
Ứng long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi đối diện với Lai Long; cần phải ngay ngắn có
tình, hô ứng với Lai Long. Nếu Lai Long không có ứng, thì không phải là Chân Long;
Ứng Long không có chủ thì cũng không phải là Chân ứng.
Sát long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hung dữ, đá cứng sần sùi, nhọn
sắc như lưỡi dao, mũi tên, hiểm ác dị thường; an táng ở đó con cháu sẽ gặp nhiều
tai họa, hung hiểm.
Kiếp long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi tán loạn, không phân chính phụ, sinh khí
không tụ; an táng sẽ đại hung.
Phúc long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn ốc thâm hậu, hình thế tổ tông hoàn
hảo, có các núi hai bên hộ tống. Phúc Long có sinh khí thịnh vượng; an táng được
phúc. Dù tình huống nơi kết huyệt không thật như ý, cũng có thể căn cứ địa hình cụ
thể mà chọn huyệt mộ.
Bệnh long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi uể oải, lúc liền mạch lúc đứt quãng, sạt lở,
nhiều hầm hố, do đó sinh khí bị thất thoát, không nên mai táng. Nếu miễn cưỡng kết
huyệt, chủ con cháu cô hàn.
Tiến long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có nguồn gốc cao lớn, lần lượt thấp dần tổ
tông cha mẹ phân minh, giống như ngựa trời phi xuống ráng mây. Nếu phần cuối
mạch núi thấy các ngọn núi tựa hồ cao dần lên, an táng sẽ khiến con cháu làm quan
to; tương tự Giáng Long.
Thoái long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi sau khi xuất phát cứ từng bước cao dần.
Nếu ở phần cuối mạch núi thấy các ngọn núi cứ tựa hồ thấp xuống, như lúi lại, thì
an táng sẽ hung. Dù được huyệt đẹp, con cháu cũng chỉ phát phúc một đời, khó
tránh khỏi bần cùng.
Thuận long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trập trùng chạy đến, các mạch nhánh hai
bên đối xứng, phía trước có dãy núi bao bọc hộ vệ, bản thân nó nhấp nhô rõ ràng
với nhiều mạch nhánh. An táng sẽ cát.
Nghịch long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi chạy đến không thuận, chạy xéo đi không
ngoảnh lại, các ngọn núi phía trước và hai bên huyệt quay đầu đi mỗi cái mốt
hướng, như anh em chẳng buồn quan tâm đến nhau. Không nên mai táng.
Cường long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi có hình thế hùng tráng, linh hoạt khí khái,
mạch nhánh hai bên có lực. Nếu an táng ở chỗ cuối của mạch núi, con cháu sẽ lập
tức trở nên phú quí.
Nhược long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi trơ trọi đơn bạc, cỏ cây lơ thơ, tựa như con
trâu gày trơ xương, ngã quỵ xuống đất, như con hạc gày không có gì ăn, rụng hết cả
lông. Nhược Long quá ít sình khí, không nên mai táng.
Tử long: Hình thế núi. Chỉ mạch núi lở lói, hình thể lở loét, không thể gượng dậy
nổi, không có mạch nhánh hộ vệ, như cá mắc cạn, như cây không cành lá, chẳng
nên mai táng.
Thái tổ: Hình thế núi. Còn gọi là Tổ sơn, Thái tổ sơn, phát tướng. Chỉ đỉnh núi ở nơi
mạch núi xuất phát, đột nhiên nổi lên cao sừng sững, trấn giữ một phương, là đỉnh
núi cao to nhất trong vùng. Từ đây có một hoặc nhiều mạch nhánh xuất phát mà
trườn đi như rắn bò. Thái tổ phải cao chọc trời, hùng vĩ trang nghiêm, đường bệ
đáng kính. Thuật Phong thủy lấy quan hệ gia tộc thời cổ đại để ví với địa mạo. Nơi
mạch núi xuất phát là Thái tổ. Nơi mạch núi xuất phát là Thái tổ, tiếp đến Thái tông,
Thiếu tổ, Thiếu tông, Phụ mẫu (cha mẹ), Tử tôn (con cháu), trong đó con cháu chỉ
triều và án sơn. Xem các mục bên dưới.
Tổ sơn: Tức Thái tổ. Xem mục Thái tổ.
Phát tướng: Hình thế núi. Tức Tổ sơn. Xem mục Tổ sơn
Thái tông: Hình thế núi. Tức Thái tông sơn. Chỉ đỉnh núi tiếp sau chỗ xuất phát,
thấp nhỏ hơn Tổ sơn một chút, là phần đầu của mạch núi.
Thiếu tổ: Hình thế núi. Tức Thiếu tổ sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau Thái tông trong mạch
núi, là phần hệ trọng của Long. Nếu hai cánh mở ra, cao to đoan chính là cát; nếu
thấp nhỏ cô đơn là ít sinh khí.
Thiếu tông: Hình thế núi. Tức Thiếu tông sơn. Chỉ dãy núi tiếp sau thiếu tổ trong
mạch núi, tiếp cận chỗ của mạch núi, nếu rõ ràng mạch lạc và liên tục là cát.
Phụ mẫu: Hình thế núi. Chỉ nơi nhập thủ của mạch núi, mạch núi tới đó thì dừng.
Phải nguy nga cao đẹp, lại lại có thế đi xuống. Ca quyết nói : "Vấn quân hà giả vi
phụ mẫu, huyệt hậu nga nga tủng nhất sơn" (Xin hỏi thế nào là núi cha mẹ, là sau
huyệt có một ngọn núi cao vút nguy nga). (Theo sách Kham dư mạn hưng).
Tử tôn: Hình thế núi. Tức triều và án sơn. Chỉ dãy núi đối diện với Lai Long. Sau khi
mạch núi đã tận cùng, cần có đất dung nạp huyệt mộ và sa ở hai bên tả hữu. Ngay
phía trước huyệt mộ, phải có núi cao với diện mạo như chào đón, gọi là Tử tôn (con
cháu) của Long.
Giáng thể : Hình thế núi. Chỉ nơi Lai Long nhập thủ phải có hình thế từ cao trải
xuống thấp dần, để địa thế dần dần trở lại bằng phẳng, tiện lợi cho việc
dựng nhà xây mộ.
Chẩm kháo: Hình thế núi. Chỉ đồi núi ở sau lưng nhà ở hoặc phần mộ, nói chung là
nơi tận cùng của Lai Long, cũng chính là Huyền Vũ. Chẩm kháo có nghĩa là đối đầu
dựa vào phía sau.
Tam thoa: Hình thế núi . Tam là 3 , thoa là giao nhau. Chỉ mạch núi ở chỗ nhập thủ
giao nhau như hình chữ "cá" (của tiếng Hán), nên còn gọi là "Cá tự" . Hai mạch
nhánh chạy ở hai bên phía trước là Long, Hổ, huyệt vị nằm ở giữa chỗ giao nhau,
hai bên có dòng nước kèm theo, ví như cái trán trên mặt người.
SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH
Long mạch núi (sơn mạch) : Vốn là tên một con vật mang lại may mắn, theo
truyền thuyết cổ đại Trung Quốc. Thuật Phong thủy mượn để chỉ mạch núi có sinh
khí, nhấp nhô uyển chuyển như hình con rồng, nên gọi mạch núi, thế núi là Long.
Âm dương nhị trạch toàn thư : "Sự vận hành nhấp nhô của mạch đất (địa mạch) gọi
là Long". Sinh khí vận hành trong lòng đất, không thể trực tiếp nhìn thấy, mà chỗ
sinh khí thịnh vượng biểu hiện là mạch núi. Cho nên, Long là sinh khí sớ tại, Long đi
thì khí đi, Long dừng thì khí dừng. Đất là mẹ của khí, khí dày ắt núi cao, khí dài ắt
Long dài. Khí là mẹ của thủy, Long đi ất thủy tùy theo, thủy ngăn lại ắt Long dừng.
Long gắn liền với sinh khí , dòng nước, chẳng thể tách riêng. Long dừng khí tụ, ắt là
đất lành, có thể làm nhà xây mộ. Do mạch núi thiên hình vạn trạng, nên Long có
hàng loạt tên gọi. Các bộ phận của mạch núi cũng có sự phân biệt thành các bộ vị
khác nhau trên thân Long. Mạch núi có đất, đá, cỏ cây, trong đó đất là thịt của Long,
đá là xương của Long, cây cỏ là da lông của Long. Ở vùng đồng bằng không có núi,
thì chỗ hơi nhô cao lên là Long. Ở vùng đất thấp trũng, thì thủy đạo (đường nước) là
Long, gọi là Thủy Long. Để phân biệt với mạch núi, thế núi của mạch núi gọi là Sơn
Long. Thẩm Long hình, biện Long mạch, định vị trí của nhà cửa và huyệt mộ, là nội
dung quan trọng hàng đầu của thuật Phong thủy.
Lấy mạch núi chỉ sinh khí, dùng cha Long cho thêm thần bí, là mặt hạn chế của
thuật Phong thủy. Còn mượn cách tìm Long để lặn lội khảo sát hoàn cảnh địa hình
thích hợp cho việc dựng nhà xây mộ, là mặt có giá trị của thuật Phong thủy.
Địa mạch : Tức mạch khí dưới lòng đất, sự vận hành lên xuống của nó biểu hiện ở
mạch núi trên mặt đất, cũng là "Long" trong thuật Phong thủy vậy.
Long mạch Mạch núi. Nơi sinh khí vận hành. Thuật Phong thủy gọi mạch núi là
Long. Long có mạch khí vận hành trong đó gọi là Long mạch.
Tầm long : Còn gọi là "mịch Long". Tức là khảo sát toàn diện và thăm dò đo đạc
hoạt động của chủ sơn (núi chính), là bước thứ nhất trong nội dung của
thuật Phong thủy. Phương pháp tiến hành cụ thể là : trước hết, phải xem mạch núi
bắt nguồn tử xa hay gần, tổ tông của nó cao to chừng nào, cha mẹ của nó ở đâu,
tiến thoái rõ ràng hay không; hai bên mạch núi có các chi nhánh nhấp nhô như hộ vệ
hay không, nếu có nhiều thì đại (rất) quí; thứ đến trung quí (quí vừa), tiểu quí; cuối
mạch núi cần có thế thoải xuống, đằng trước cần có thủy lưu uốn quanh, hai bên có
dãy núi hộ vệ, như vậy thì sinh khí mới dừng tụ, gọi là Chân Long. Long chia ra âm
dương, đại thể mạch núi chạy sang bên trái (hướng đông) là dương, chạy sang bên
phải (hướng tây) là âm. Lại coi mạch núi thuộc phương vị dương chạy đến là
dương, mạch núi thuộc phương vị âm là âm. Khi tầm Long, phải chú ý điều hòa
phương vị âm dương. Nguyên tắc chung của tầm Long là nó phải tụ, nghĩa là mạch
chính rõ ràng, uyển chuyển tiến về phía trước, không nên phân tán thành nhiều
mạch nhánh khó tìm. Ở chỗ Long dừng lại, tức chỗ cuối mạch núi, cần có thủy ôm
ấp sinh khí tụ tập; nếu không, sinh khí sẽ thoát đi nơi khác, là đất hung. Phương vị
của nơi mạch núi nhập thủ cũng có qui định phức tạp, đại thể nếu từ phương bắc
nhập thủ là cát Tầm Long là nội dung trọng yếu của thuật phong thủy. Những tổng
kết về mạch núi và một số nguyên tắc là kết tinh vốn kinh nghiệm lâu dài.
Lai long : Tức núi chính (chủ sơn). Chỉ mạch núi chủ yếu ở giữa, cao lớn nhất. Lai
Long đồng hành với mạch khí, là nơi sinh khí thịnh vượng, có thể dựng nhà xây mộ,
tức là nhừ Lai Long mà đấc sinh khí. Bởi vậy, trước tiên phải khảo sát phương vị,
hình dáng của Lai Long để định cát hung.
Chủ sơn: Địa hình, tức Lai Long. Chỉ mạch núi hoặc ngọn núi chủ yếu ở phía sau
huyệt mộ hoặc nhà ở, là nơi có mạch khí, sinh khí theo đó mà đến. Xem mục Lai
Long.
Tổ long : Mạch núi. Còn gọi là Sơn tổ. Chỉ nơi xuất phát của mọi mạch núi trong
thiên hạ, tức núi Côn Luân. Côn Luân có hình thế cao lớn hùng vĩ, chúa tể thiên hạ.
Tổ Long tách ra 2 đại hành Long là Nam Long và Bắc Long. Có thuyết nói chia ra 3
đại hành Long, nghĩa là có thêm Trung Long. Tổ Long và hành Long là nơi sinh khí
tổng hội tụ, dựng nhà xây mộ tại đó thì đại cát.
Huyệt : Địa hình. Chỉ huyệt mộ hoặc mảnh đất sở tại, nơi tận cùng của Lai Long,
sinh khí hội tụ, có hai sa tả hữu bảo vệ, có thủy ngăn lại phía trước. Huyệt quan hệ
mật thiết với mạch khí, hơi xê dịch, tức là thoát sinh khí. Phép định huyệt vô cùng
phúc tạp. Trước tiên phái xác định vị trí hai bên cao thấp, tiếp đó nhận đúng tọa
hướng, thứ ba là phải phối hợp với hình thế bốn phía; bốn là xác định độ nông sâu
thích đáng. Nguyên tắc chung là vừa có được sinh khí nuôi dưỡng, vừa tránh ba cái
hại là bị gió thổi, nước xối và kiến đục. Có rất nhiều yêu cầu cụ thể, ví dụ, huyệt ắt
phải có môi, tức Táng khẩu, phải có trán, tức Cầu thiềm; phải có hai thủy giao hợp,
tức thủy Hà tu và thủy Hợp khâm. Do Lai Long, hai sa Long Hổ và ứng án phía
trước có hình dạng khác nhau, huyệt cũng phải có vị trí biến đổi tương ứng, nên có
khi huyệt ở đỉnh núi, ở sườn núi, ở chân núi, lại khác nhau như trực thụ, trắc thụ,
nghịch thụ. Huyệt cao không nên chênh vênh, huyệt thấp không nên lặn mất; huyệt
nổi rõ không nên vội vã; huyệt tĩnh không nên huyên náo. Huyệt của núi cao, ắt phải
ở chỗ hơi lõm; huyệt tại vùng đồng bằng, nên ở chỗ hơi nhô cao. Hình của huyệt
hoặc hiền như hoa, căng như nỏ, hoặc như bàn tay để ngửa, như miệng hổ, hoặc
như vú xệ, như lỗ rốn... Trong một vài trường hợp cũng có thể dùng sức người cải
tạo địa hình cho phù hợp với yêu cầu kết huyệt. Mục đích cuối cùng của hàng loạt
hoạt động Phong thủy âm trạch là tìm cho được huyệt địa lý tương, phương pháp vô
cùng phức tạp, gắn liền với cát hung họa phúc. Ngoài nội dung mê tín, một số
phương pháp rất chú trọng việc báo vệ thi thể và môi trường tự nhiên.
Thổ huyệt : Huyệt mộ trong đất. Còn có huyệt ở núi đất núi đá. Thổ huyệt trên núi
đất, chọn chỗ chất đất mịn nhỏ, chắc chắn là cát (lành), nếu quá ẩm thấp, tơi tả thì
hung; trên núi đá thì mở huyệt ở chỗ có đất màu hồng và màu vàng thì cát.
Thạch huyệt : Huyệt mộ trong đá. Còn có sự khác nhau ở núi đất, núi đá. Thạch
huyệt trên núi đá, chọn chỗ đá mềm, ấm, dễ đào khoét là cát; trên núi đất thì mở
thạch huyệt ở chỗ đá có màu tím và màu trắng, chất đá mềm ấm là cát, nếu chất đá
cứng khô là hung.
Bối tù chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ sườn núi u ám, ẩm thấp. Táng ở đó sẽ bị
kiến đục và nước xối lở, không cát lành.
Đằng lậu chi huyệt : Chỉ huyệt mộ đặt ở chỗ mạch núi xung quanh huyệt bảo vệ
không chu đáo, hoặc trên sống núi có chỗ khuyết. Táng ở đó sẽ bị gió thổi,
không cát lành.
Bất cập chi huyệt : Chỉ huyệt mộ mà ở ngay phía trước không có án sơn, triều sơn,
khiến Ao phong thổi thẳng vào, đời con cháu sẽ bị tuyệt tự, hung.
Bất súc Chi huyệt : Chỉ huyệt mộ nằm ở chỗ không có mạch núi bảo vệ, gió cứ thổi
thốc vào, khiến xương cốt mau bị hủy hoại, hung.
Tứ trấn thập tọa: Huyệt pháp. Tức căn cứ hình thế của Lai Long để xác định chỗ đặt
huyệt mộ. Trấn, nghĩa là trấn thủ; tọa, nghĩa là tọa lạc. Tứ trấn tức là trấn đầu Long,
trấn gáy Long, trấn bụng Long, trấn chân Long (có khi nói là trấn lưng Long). Tức là
căn cứ hình thế hướng đi của mạch núi mà lựa chọn bộ vị tọa lạc của huyệt mộ. Nói
chung, Long chạy thẳng đến, trấn đầu Long, tức là huyệt ở chỗ tận cùng, còn gọi là
Tông Long. Long nằm ngang, trấn gáy Long, tức là huyệt ở chỗ sống núi hơi
nghiêng xuống, nên gọi là huyệt bám vào sống núi, hoặc Phán Long. Long cuộn
khúc, trấn bụng Long, tức là huyệt ở chỗ đầu ngoảnh nhìn lại phía trong sườn núi,
còn gọi là Ky Long. Long cao to bàng bạc, trấn chân Long, tức là huyệt ở chân núi,
còn gọi là Thửa Long. Do "tứ trấn" mà sinh "thập tọa". Trấn đầu Long ắt tọa tai
Long, mũi Long, trán Long, bờm Long; mà tránh đuôi Long, sừng Long, răng Long,
mắt Long. Trấn gáy Long, ắt tọa vai Long, gáy Long; mà tránh lưng Long, cổ Long.
Trấn bụng Long ắt tọa rốn Long, vú Long; mà tránh ngang lưng Long, sườn Long.
Trấn chân Long ắt tọa cổ tay Long , mắt cá chân Long; mà tránh khuỷu chân Long,
móng chân Long. Có nhiều tiêu chuẩn nói về tứ trấn thập tọa khác nhau đôi chút, lại
có thuyết nói thập nhị tọa, thực ra đều biểu thị một cách hình tượng sự lựa chọn bộ
vị tốt nhất để định huyệt.
Tông long : Huyệt pháp. Mạch núi từ xa chạy thẳng tới định huyệt ở chỗ tận cùng
của mạch, thì gọi là Tông Long, hoặc trấn đầu Long. Hình của nó như nhụy hoa,
trông ngay ngắn. Ky phía trước Lai Long không có dãy núi che chở, bị ác phong thổi
thẳng vào làm tiêu tán sinh khí. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Kỵ long : Huyệt pháp. Mạch núi quay đầu ngoảnh lại nhìn phía đuôi, trông như vòng
tròn, định huyệt ở chỗ lõm núi mà đầu Long quay lại, lấy đuôi Long làm án sơn, thì
gọi là Ky Long, hoặc trấn bụng Long. Hình của nó trông như gian chính của tòa nhà,
phía trước huyệt có dãy núi chắn gió. Kỵ đối diện với sơn khẩu, gọi là "Kiềm lưu trực
huyền", nghĩa là dãy núi hai bên dốc thẳng xuống, sinh khí theo đó mà thất thoát
hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Phán long : Huyệt pháp. Mạch núi chạy ngang, thẳng về phía trước, không quay
đầu nhìn lại, định huyệt ở chỗ sống núi hơi nghiêng xuống, thì gọi là Phán Long,
hoặc trấn gáy Long. Hình của nó giống như huyệt Kiên tỉnh lúc thân người đang
nằm. Tối kỵ không có huyệt Kiên tỉnh và Hạ sa không ôm vòng, thủy Bát tự (thủy
hình chữ "bát") không tụ lại, không có sinh khí, hung. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Thừa long : Huyệt pháp. Mạch núi cao to bàng bạc, nhấp nhô tiến tới; định huyệt ở
khoảng giữa chân núi và vùng đồng bằng, thì gọi là Thừa Long, hoặc trấn chân
Long.
Hình của nó như ánh mắt lờ đờ, ngụ ý thế núi đã hết, nhưng mạch khí vẫn còn, ở
chỗ đất bằng tuy khó tìm dấu vết, song vẫn là đất lành. Ky mất thế mất mạch, cô
đơn không chỗ dựa. Xem mục Tứ trấn thập tọa.
Tam đình : Huyệt pháp. Vốn là thuật ngữ khoa xem tướng, chỉ 3 phần trên mặt
người : phần trán là thượng đình, phần mũi là trung đình, phần miệng là hạ đình;
hoặc chi 3 phần trên thân thể người : phần đầu là thượng đình; phần từ vai đến eo
lưng là trung đình; phần tử eo lưng xuống chân là hạ đình. Lý luận Phong thủy cho
rằng tướng núi giống như tướng người, nên lập huyệt Tam đình, gọi là Thiên đình,
Trung đinh, Địa đình. Huyệt thiên đình nằm ở nơi cao nhất, đòi hỏi Lai Long lớn và
xa, thế xuống như mây vờn, hai bên phía trước có hộ vệ nghiêm mật, Minh đường ở
phía dưới . Huyệt trung đình thì mạch núi uốn lượn, trong vuông ngoài tròn, rất chú
trọng hình thế bốn phía xung quanh, đòi hỏi Minh đường phải rộng rãi sáng sủa.
Huyệt hạ đình nằm ở vùng đất bằng, nhưng không được tách khỏi mạch khí, đòi hỏi
Thủy thành phải như hình cầu vồng ôm ấp kín đáo.
Thập nhị trượng pháp : Huyệt pháp. Còn gọi là Thập nhị đảo trượng, là phép Thừa
Long định huyệt do Dương Quân Tùng đởi Đường sáng lập. Phương pháp này căn
cứ thế đến khác nhau của mạch núi mà qui định cách định huyệt khác nhau, như
thuận trượng, nghịch trượng thúc trượng, xuyết trượng, khai trượng, xuyên trượng,
ly trượng, một trượng, đối trượng, phạm trượng, tiệt trượng, đốn trượng; tổng cộng
12 trượng. Ngoài 12 trượng, còn có hình thế núi đặc thù, tạo thành 17 phương pháp
kết huyệt, như thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm thúc, nghịch trượng
kiêm thuận, đại thể lấy thuận trượng và nghịch trượng làm phương pháp cơ bản,
kiêm với phương pháp khác, rất cụ thể tường tận. Thập nhị trượng pháp có ánh
hưởng rất lớn trong Phong thủy âm trạch, một số nguyên tắc trở thành tiêu chuẩn
mà các Phong thủy sư đều tuân theo.
Thuận trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thuận theo
mạch chính của Lai Long. Yêu cầu lực lượng của Lai Long phải hậu trọng, thế đến
hơi hòa hoãn, hơi uốn lượn; định huyệt phải chính giữa mạch khí, dung 4 phép Cái
huyệt, Chương huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt. Huyệt loại này cực quí, chủ con
cháu làm vương hầu, trạng nguyên.
Nghịch trượng : Huyệt pháp. Chỉ sự định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ngược với
mạch chính của Lai Long. Yêu cầu Tổ sơn phải cao vút, nhấp nhô chạy thẳng đến
trước mặt.
Định huyệt thì lấy Tổ sơn làm Triều sơn, dùng 4 phép Niêm huyệt, Tịnh huyệt, Câu
huyệt, Tà huyệt. Mạch núi phía trước không được chĩa thẳng vào huyệt, nên huyệt
phải cách mạch khí vài thước, ngược đón mạch khí. Huyệt loại này phát phúc lâu
dài.
Thúc trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long dài mà kết thế ngắn, khí tụ ở trên đỉnh, định
huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) ở chỗ sống núi co lại. Yêu cầu chỗ tận cùng của đỉnh núi
phải hơi nhô, sinh khí tụ tại đó giống như huyệt Bách hội trên đỉnh đầu con người;
dùng 2 phép Cái huyệt và Thôn huyệt. Do huyệt ở chỗ khá cao, rất sợ gió thổi, nên
bốn phía phải cao tương ứng, Minh đường viễn tụ. Thúc trượng nên cao, không nên
thấp; nếu thấp sẽ bị núi bốn phía lấn át.
Xuyết trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có thế đến hùng vĩ mà lục lượng nhỏ nhẹ,
đến thẳng mà xuống gấp, cần thoát mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt).
Mạch và huyệt lúc liền lúc rời, như thể dùng chỉ khâu áo, nên có tên như vậy (xuyết
nghĩa là khâu). Yêu cầu huyệt phải ở cách mạch khí hoặc 1 - 2 thước, hoặc 3 -4
thước, không cao không thấp; thường dùng 2 phép Niêm huyệt và Trụy huyệt. Nếu
huyệt cách mạch
quá gần, khó tránh bị xung sát, nếu cách quá xa, sinh khí không được tiếp nối.
Khai trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long xộc thẳng đến như kẻ xung sát đáng sợ,
cần né sang hai bên mạch mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt) thành 2 huyệt; dùng
3 phép Ỷ huyệt, Ai huyệt và Tịnh huyệt, để huyệt mộ tránh bị xung sát mà tiếp nhận
sinh khí từ bên cạnh. Yêu cầu phải quan sát xem Minh đường, sa thủy, Triều sơn và
án sơn qui tụ tại phương nào. Huyệt cách mạch 2 - 3 thước, gọi là mượn mạch lập
huyệt, chủ phát đạt mau chóng.
Xuyên trượng : Huyệt pháp. Chỉ mạch núi đến ngang hoặc đến xéo, định huyệt (kết
huyệt, thụ huyệt) tại chính diện, giống như dùng chỉ xỏ lỗ kim, tra cán búa, khí nhập
vào eo lưng. Yêu cầu Lai Long từ xa đến thẳng, không tách thành các nhánh, tứ ứng
đều tốt; dùng 3 phép Sáp huyệt, Chương huyệt, Cái huyệt. Mạch khí chỉ có thể đi
vào từ eo lưng, không được xung não, sau khi mai táng chủ phát phúc lâu dài.
Ly trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long có khí thế hùng vĩ, đang chạy đến thì bỗng
nhiên sững lại, tụt xuống biến mất tại đồng bằng, cần tách khỏi mạch mà định huyệt
(kết huyệt, thụ huyệt). Long mạch đang nhấp nhô chạy về phía trước, đến chỗ kết
huyệt bỗng dàn trải thoáng rộng, tựa như con rắn con ve lột xác, sinh khí không tụ,
cách mạch 2 - 3 thước ở phía trước tất có chỗ lõm đột ngột, sinh khí tụ lại ở đó; định
huyệt tại đây rất tốt.
Dùng 3 phép Cái huyệt, Tịnh huyệt và Trụy huyệt. Huyệt không nén sâu.
Một trượng : Huyệt pháp. Chỉ Lai Long uốn lượn xuống gấp mà chỗ tận cùng lõm
hãm sinh khí đến đó thì hết; định huyệt (kết huyệt thụ huyệt) chỗ lõm, chìm vào
mạch khí. Yêu cầu Lai Long phải có hình thế cao lớn, đến trước huyệt thì uốn lượn
sang hai bên rồi vòng lại, kết thành lõm núi, xung quanh cao, huyệt mộ tàng ẩn ở
sâu bên trong. Dùng 5 phép Chương huyệt, Sáp huyệt, Thôn huyệt, Trầm huyệt, Giá
huyệt. Nếu chỗ lõm quá nhỏ, có thể dùng sức người đục đẽo để tạo huyệt.
Đối trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long cao thẳng to lớn, ở chỗ nhập thủ bỗng nhiên
thấp xuống, trải ra bằng phẳng, không có chỗ lõm, chỗ kẹp, nên định huyệt ( kết
huyệt, thụ huyệt) ở giữa mảnh đất đó, hoặc ở chỗ tiếp giáp giữa phần cao với phần
thấp. Do mạch Đối trượng cao mà gấp, xung sát liên tục, nên nửa cát nửa hung,
khó biết thành bại.
Tiệt trùng : Huyệt pháp. Chỉ mạch khí của Lai Long không mạnh mẽ, chưa đến chỗ
tận cùng thì dừng thâu mạch khí mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Yêu cầu chân
núi của Lai Long phải khá dài, lập huyệt ở chỗ mạch khí chưa tận cùng; huyệt cao ắt
bị gió thổi, huyệt thấp ắt bị băng đè, nên cần ngăn chặn mạch khí, làm cho sinh khí
không bị tiết thoát, đó là điểm cốt yếu của Tiệt trượng.
Phạm trượng: Huyệt pháp. Chỉ Lai Long ngắn nhỏ, hòa hoãn, nên định huyệt (kết
huyệt, thụ huyệt) ở trên mạch; nếu lập huyệt ở chỗ tận cùng thì sinh khí quá yếu,
kém tác dụng, cho nên phải phạm mạch tọa huyệt để lấy vượng khí; thường dùng 4
phép Chương huyệt, Thôn huyệt, Cái huyệt, Sáp huyệt; đồng thời yêu cầu Minh
đường phải rộng, núi sông phải ở phía xa. Có thuyết nói mạch Phạm trượng nguy
hiểm, lập huyệt kiều này rất hung.
Đốn (đột) trượng: Huyệt pháp. Chi Lai Long cao lớn hùng vĩ, Tứ ứng đều thấp, nên
đắp đất thành gò ở chỗ tận cùng mà định huyệt (kết huyệt, thụ huyệt). Do sinh khí
của Lai Long quá vượng, gặp thủy thì dừng mà cuồn cuộn bốc lên, bởi vậy phải đắp
đất tạo huyệt để tiếp nhận sinh khí mà không bị xung. Nếu không đắp đất thành gò,
huyệt mộ sẽ bị mạch khí bắn thẳng tới, mai táng ở đó con cháu sẽ tán gia bại sản.
Oa kiềm nhũ đột: Địa hình. Thuật Phong thủy cho rằng lập huyệt mộ ở chỗ lõm
tròn, là nơi sinh khí hội tụ. Nơi lõm tròn có hình dạng khác nhau, nên có tên gọi khác
nhau, trên tròn dưới nhỏ là Oa kiềm, dưới tròn trên lớn là Nhũ, giữa tròn trên dưới
nhỏ là Đột.
Bào đột : Địa hình. Ở trong chỗ lõm tròn của huyệt mộ có điểm nhỏ nhô lên, trông
như cái bong bóng nước (bào : bong bóng, đột : nhô lên); Nếu trong Oa kiềm có Bào
đột, gọi là La văn, đại quí.
Phù thổ: Chỉ thổ nhưỡng của mặt đất ở chỗ có huyệt mộ. Bên dưới nó là Thực thổ.
Thực thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở sâu dưới mặt đất, chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là Phù
thổ, bên dưới nó là Huyệt thổ.
Huyệt thổ: Chỉ thổ nhưỡng ở rất sâu dưới mặt đất chỗ có huyệt mộ. Bên trên nó là
Thực thổ, trên nữa là Phu thổ. Huyệt thổ ở dưới cùng, như hạt châu dưới vực, như
ngọc trong đá; khi đào huyệt mộ tất phải đào tới Huyệt thổ, không được đào xuyên
sâu hơn. Vì huyệt thổ tàng chứa sinh khí, nếu chưa đào tới đo thì chưa đắc khí, nếu
đào xuyên qua ắt làm tổn thương Long cốt. Phân biệt Huyệt thổ thì căn cứ vào màu
sắc va đường vân của đất. Mà sắc của huyệt thố thì trong và nhuận ẩm, đường vân
của huyệt thổ thì có nhiều dạng, hoặc như đồ hình Thái cực, hoặc như vỏ ốc, hoặc
như lỗ vuông của đồng tiền cổ, vừa vặn dung nạp quan quách; hoặc bao quanh tảng
đá, gỡ bỏ tảng đá đi thì thành huyệt. Còn có cách, khi đào tơi huyệt thổ thì dùng
ngón tay vê thử, nếu đất thành viên tròn, đó chính là chân thổ (đất thực sự). Sâu
dần xuống, đất cứng lại, không thể vê thành viên nhỏ, tức là chân thổ đã hết, nên
san lấp lại dày chừng 2 ~ 3 tấc, rồi hãy đưa quan tài xuống.
Tam hại: Tức gió, nước, kiến. Phong thủy âm trạch cho rằng huyệt mộ bị gió thổi,
nước xối, kiến đục là 3 cái hại, cho nên phải cẩn thận lựa chọn đất lành, tránh bị tam
hại. Nếu chất đất tại huyệt mộ khô vụn, tơi, huyệt mộ không sâu, ắt khó tránh bị kiến
đục. Nếu huyệt mộ ở chỗ đất ám ấm thấp, đào xuống quá sâu, thì khó tránh bị nước
xói lở. Nếâu xung quanh huyệt mộ sông núi bao bọc không kín, ngay phía trước lõm
khuyết, thì khó tránh bị gió thổi. Huyệt bị tam hại thì sinh khí không tụ, xương cốt
khó được bảo tồøn nguyên vẹn, nguời chết không yên, người sống gặp họa, đại
hung.
Tam cát lục hung: Tam cát nói về huyệt mộ, Lục hung nói về phép mai táng.
Tam cát : một là tàng thần hợp sóc, thần đón quỷ tránh; hai là âm dương xung hòa,
ngũ thổ tứ bị , ba là mục lực chi xảo (nhìn vừa mắt), công lực chi cụ (công lực có
đủ ), chu toàn không khuyết, tăng cao ích hạ. Phải chọn đất mai táng sao cho có thể
đón cát tránh hung, điều hòa ngũ hành, bốn phía bảo vệ, dùng sức người tu bổ
được, là cát. Lục hung : một, âm dương sai biệt; hai, ngày tháng sai lạc; ba, sức nhỏ
đòi làm lớn; trông chờ phúc đức lớn; năm, đội trên đạp dưới; sáu, ứng biến quái dị.
Nghĩa là khi mai tang, nếu phạm hung sát, chọn sai ngày giờ cuồng vọng hưởng
phúc, đối xử không đúng với người trên kẻ dưới, phá hoại đất lành, nhiều lần gặp
chuyện kinh dị, đều là hung. Thuật Phong thúy cho rằng huyệt cát mà táng hung thì
chẳng khác gì đem thi thể vứt bỏ đi, rất xấu.
Phong thi : Phép mai táng. phong tục thời cổ, trước khi chôn người chết bèn dùng
thủy ngân rót vào các lỗ trên thi thể để bít kín "thất khiếu", đề phòng thi thể khỏi bị
thối rữa. Thuật Phong thủy cho răng nếu làm như vậy, thi thể sẽ không thể hóa, sinh
khí khó bề nhập vào, chẳng khác gì thủy táng (đem vứt xác xuống sông), đại hung.
Đạo táng : Phép mai táng. Thuật Phong thủy qui định : trước khi đào mộ chôn
người chết, phải đem rượu cúng Thổ thần, rồi cắt cỏ ở khoảnh đất ấy thành 3 đoạn,
rồi mới đào huyệt mai táng, nếu không sẽ là Đạo táng (chôn trộm), thì hung.
Ái khoảng: Phép mai táng. Khoảng, nghĩa là huyệt mộ. Phong tục ngày xưa, sau
khi đào mộ, dùng than hoặc củi đốt nóng để sưởi ẩm trong lòng huyệt, gọi là ái
khoảng. Thuật Phong thủy cho rằng, sinh khí gặp lửa sẽ không đến, việc ái khoảng
sẽ diệt hết sinh khí, chẳng khác gì hỏa táng, đại hung. Đồng thời phản đối việc dùng
gạch nung xây quanh huyệt mộ, vì gạch nung đều được chế tạo qua lò lửa, bên
trong vẫn còn khí hỏa; thứ khí hỏa ấy sẽ tấn công sinh khỉ trong đất, tiêu diệt ngũ
hành, hung.
Hóa huyệt: Phép mai táng. Tức ái khoảng. Xem mục ái khoảng.
Quan thượng gia quan : Phép mai táng. Phong tục xưa đem người chết sau chôn
chung vào huyệt mộ của người đã chết trước, gọi là "quan thượng gia quan", ngụ ý
để lấy phúc. Thuật Phong thủy nghiêm cấm việc đó, vì cho rằng huyệt mộ được mai
táng lần thứ nhất là đất mới, sinh khí thịnh vượng, nếu đào lần thứ hai để mai táng
thì không còn là đất tự nhiên, sinh khí bị tiết thoát, sẽ làm cho cả hai cùng hỏng. Một
mảnh đất cát lành đã có một huyệt đắc khí thì huyệt thứ hai không có sinh khí; cho
nên trong gia tộc đem chôn người chết sau chung huyệt với người chết trước là
hung. Những ngôi mộ danh nhân cũng vậy.
Trạch triệu: Đất huyệt mộ. Hiếu kinh. Táng thân viết : "Bốc kỳ trạch triệu nhi an thố
chi". Đường Huyền Tông chú giải : "Trạch, nghĩa là đất huyệt mộ, triệu, đất mồ mả
vậy". Vị nhân trần tình biểu của Trần Tử Ngang đời Đường có câu "Kim bốc cư trạch
triệu, tương nhập cựu doanh" (Nay bói đất đào huyệt, đem an táng ở ngôi mộ cũ. Về
sau các chữ "Bốc trạch", "Bốc triệu" đều chỉ việc chọn đất an táng, riêng Bốc trạch
còn có nghĩa chọn nơi làm nhà ở. Xem mục Bốc trạch.
Ngưu miên địa: Đất huyệt mộ. Rút từ Tấn thư. Chu Phỏng truyện : "Hồi Đào Khản
còn nhỏ, Đinh Gian chết, sắp mai táng, nhà có con trâu bỗng dưng bỏ đi đâu
không biết. Gặp một ông già nói: Ở cái gò phía trước lão thấy có con trâu nằm ngủ,
nếu mai táng ở đó, sẽ được làm quan to. Ông già lại chỉ tay về phía một quả núi mà
nói, chôn ở đấy cũng tốt, đời này sẽ có người làm quan hưởng lương hai ngàn
thạch, nói đoạn biến đi luôn. Khản tìm thấy trâu, nhân đó đem mai táng ở chỗ ấy".
Về sau người ta bèn dùng hai chủ ngưu miên" (trâu ngủ) để chỉ đất huyệt
mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miên địa, Bình
lập Thái sơn đới vĩ tư".
Giai thành: Đất huyệt mộ. Rút từ Bác vật chí, quyển 7 "Dị văn" : "Đời Hán, Đằng
Công (Hạ Hầu Anh) chết, định mai táng ở bên ngoài thành Đông Đô , các quan đi
đưa tang, chiếc xe tứ mã chở quan tài. Mấy con ngựa không chịu đi, cứ hí thảm thiết
và dùng vó cào xuống đất, hằn thành dòng chữ "Giai thành uất uất, tam thiên niên,
kiên bạch nhật, hu giai Đằng Công cư thử thất" bèn mai táng tại chỗ đó. Về sau
người ta bèn dùng hai chữ "Giai thành" để chỉ đất huyệt mộ. Nhà thơ Đinh Hạc đời
Nguyên có câu "Giai thành dĩ bốc ngưu miện địa, Binh lập Thái sơn đới vĩ tư".
Huyền thất: Nhà mồ. Tư đồ Lã Công lỗi của Trương Hoành đời Hán (xem Nghệ văn
loại tụ, quyến 47): "Khứ thử ninh ngụ, qui ư u đương. Huyền thất minh minh, tu dạ di
trường". Tấn thư. Tá Quí Tần truyện: "Ái định trạch triệu, khắc thành huyền thất".
Thuật Phong thủy bèn dung hai chữ "huyền thất" để chỉ huyệt mộ.
Huyền trạch Huyệt mộ. Trịnh quân mộ chí minh của Hàn Dũ đời Đường (xem Xương
Lê tập, quyển 32), có câu : "Động nhiên hỗn phác tuyệt hà thương, Giáp Tí nhất
chung phản huyền trạch". Đôn Hoàng, quyển Tử Bá 3358 "Mộ huyệt phù": "Thử thư
huyền thất tứ giác, đại cát lợi".
Huyền khư: Huyệt mộ. Quán thị địa lý chỉ mông. Thịnh suy cải độ đệ tứ thập" :
"Đương sơ lũ khảm, cự khoa kim nhật chi huyền khư, huống thử giai thành, ninh
bảo thiên niên chi hoang tần !" với lời chú "Huyền khư, nghĩa là huyệt vậy".
Sinh khoảng : Nhà mồ xây dựng cho mình lúc còn sống. Phong tục này có từ đời
Hậu Hán. Hậu Hán thư. Triệu Kỳ truyện : Lúc còn sống, Triệu Kỳ xây dựng thọ tàng
đúc 4 bức tượng Tử Sản, Án Anh, Lý Trát, Thúc Hướng đặt ở vị trí tân khách, lại tự
vẽ chân dung mình treo ở vị trí chủ nhân, ngụ ý tán tụng". Lý Hiền chú giải : thọ táng
nghĩa là nhà mồ, dùng chữ thọ, ngụ ý mong được lâu bền như chữ thọ quan, thọ khí
vậy". Về sau, vào đời Đường, quan Tư không xây dựng sinh khoảng, mỗi khi đến
ngày lành vào mùa xuân, mùa thu, lại mời quan khách đến đó ngâm vịnh. Ngày nay
vẫn còn có người theo cách ấy, thực là một hủ tục.
Thủy long: Chi thủy đạo (đường nước chảy) ở vùng đồng bằng. Thuật Phong thủy
vốn lấy mạch núi làm Long, sinh khí tùy theo nó mà vận hành trong lòng đất, là Nội
khí, còn thủy lưu thì gọi là Ngoại khí. Ở vùng đồng bằng sông nước, không có núi,
chỉ có thủy, nên lấy thủy lưu làm Long, đồng thòi cho rằng sinh khí vận hành trong
lòng đất mà vô hình, khi dồi dào sung mãn thì tràn lên mặt đất, tức là thủy. Quan sát
thủy tức là quan sát khí, giống như tầm (tìm) Long ở vùng núi. Ca quyết nói: "Hành
đáo bình dương mạc vấn tông, Chỉ khán thủy nhiêu thị chân Long" (Thủy Long kinh
tự ). Thuyết thủy Long lấy dòng sông lưu thông làm Hành Long, tức là Can Long
(thân Long), thân Long uốn lượn. giới định Ngoại khí. Mương ngòi, kênh rạch là các
Chi Long (phân nhánh), Chi Long giao hội, Nội khí thai nghén. Dựa vào thủy Long
mà định huyệt dựng nhà, lấy Chi không lấy Can, nhưng cần có Can Chi tương xứng.
Can Long không có Chi, khí của nó dàn trải, không thiết thân với nhà ở, huyệt mộ.
Chi Long không có Can, tuy phát phúc nhưng chẳng lâu bền. Điều quan trọng là
phải phối hợp Can Chi một cách sinh động. Vùng sông hồ, nước mênh mông trông
như đại Can, dựng nhà có thể hội tụ sinh khí, làm mộ chỉ cần Chi thủy có tình là
được. Trong thuật Phong thủy, thuyết thủy Long căn cứ vào tình hình vùng sông
nước mà được đề ra, có ảnh hưởng rất lớn đối với Phong thủy dương trạch.
Thủy thành : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu uốn quanh như bức tường thành. Sinh khí vận
hành trong lòng đất, gặp thủy thì dừng; thủy lưu uốn lượn như cánh cung, giới hạn
chân núi, ngăn dừng sinh khí, nên gọi là Thủy thành. Huyệt mộ, nhà ở đều cần nằm
ở bên trong Thủy thành; nếu ở bên ngoài Thủy thành sẽ là phản cung, hung.
Ngoại thuỷ : Thủy đạo. Đối ứng với Nội thủy, tức là dòng nước chảy ở bên ngoài
Minh đường. Thuyết thủy Long lấy Can lưu ở bên ngoài Chi thủy làm Ngoại thủy.
Nội thủy: Thủy đạo. Chỉ dòng nước chảy bên trong Minh đường. Nói chung, nó
chảy theo hai bên mạch núi đến Minh đường, hội hợp ở trước huyệt, yêu cầu phải
Bình, Hoành, Nhiêu; có thể dùng sức người cải tạo cho phù hợp với yêu cầu. Thuyết
thủy Long lấy Chi lưu ở bên trong Can lưu sông nước làm Nội thủy.
Nhuế vị : Thủy đạo. Nhuế, nghĩa là chỗ dòng sông uốn khúc. Còn gọi Thủy bắc là
Nhuế. Phần lớn vị trí của huyệt mộ, nhà ở đều tọa bắc hướng nam; vị trí sơn nam
thủy bắc gọi là Nhuế. Nhưng yêu cầu thủy lưu phải ôm vòng lấy phía trong như cánh
cung, thì chỗ đất ấy mới lành.
Nghênh tài: Thủy đạo. Chỉ phía trước huyệt mộ có thủy lưu bốn phía chảy tới hội tụ.
Thủy tượng trưng tiền tài, nên gọi là nghênh tài. Mai táng thì cát.
Kim long: Thủy đạo. Thuật Phong thủy lấy Thìn sơn, Tuất sơn, Mùi sơn, Sửu sơn
làm đất Tứ mộ; thuỷ chảy đi phương vị Tứ mộ là cát. Nếu dòng nước ở phương vị
Tứ mộ thông thoáng, thì nói là Kim Long động; nếu dòng chảy ở đó bế tắc, thì gọi là
Kim Long không động. Kim Long động, thì tại đất huyệt mộ âm dương điều hòa, thư
hùng giao hội, cát lành. Kim Long không động, thì thiếu sinh khí, hung.
Thủy khẩu : Thủy đạo. Chỉ chỗ nước chảy vào chảy ra ở phía trước nhà ở, thôn
xóm hoặc huyệt mộ. Theo lý luận Phong thủy, sinh khí vận hành tùy theo mạch núi,
gặp thủy thì dưng. Nghĩa là Lai Long từ xa đến, ắt cần có thủy lưu ở phía trước để
ngăn Long tụ khí. Bất kể thủy lưu từ phương nào chảy đến và chảy đi phương nào,
chỗ nó đến là nhập khẩu (chảy vào), cũng gọi là Thiên môn; chỗ chảy ra là xuất
khẩu, gọi là Địa hộ. Hai chỗ đó gọi gộp là Thủy khẩu. Yêu cầu Thiên môn phải rộng
rãi, không nên vòng vèo ách tắc; Địa hộ thì phải phong tỏa kín đáo, tối kỵ chảy thẳng
đi một cách vô tình. Do tác dụng của địa hình, nước bao giờ cũng chảy từ chỗ cao
tới, nói chung có thể tự nó tìm cách mở rộng lối đi, nên Địa hộ (chỗ nước chảy ra)
càng trở nên quan trọng. Thuật Phong thủy trong đa số trường hợp nhắc đến thủy
khẩu thì chủ yếu là nói về Địa hộ. Táng kinh dực viết: "Thủy khẩu là một phía mà các
loại thủy cùng chảy ra vậy". Vị trí của thuỷ khẩu nên nằm ở giữa hai bên núi cao
hoặc ở chỗ mạch núi uốn lượn; yêu cầu dòng nước uốn khúc mà chảy đi, không
thấy nó chảy đi là cát Núi ở hai bên bờ thủy khẩu co 4 tên gọi là Sư (sư tử), Tượng
(voi). Qui (rùa), Xà (rắn), lớp lớp che chắn trong thì tụ khí, ngoài thì chắn gió. Nếu
Hanh Long phương khác thích hợp với thủy khẩu, sẽ tạo thành các cục diện
Hoa biểu, Cản môn, Thiên mã đại quí. Xây dựng đô thành, lăng tẩm đế vương, thì
núi ở hai bên thủy khẩu phải sừng sững, cao đẹp, hùng cứ một phương. Cự li của
thủy khẩu có xa và gần. Nhìn chung, đất huyệt mộ cách thủy khẩu tương đối gần,
còn thôn xóm đô thị thì cách thủy khẩu tương đối xa, từ 1 đến 2 ~ 3 dặm, 7 ~ 8 dặm,
thậm chí vài chục dặm, 2 ~ 3 trăm dặm. Cách thủy khẩu xa tất là đại địa. Thủy khẩu
đại chia ra nội, ngoại, đại, tiểu. Ngoại thủy khẩu tức Đại thủy khẩu, là nơi tổng vào ra
của toàn bộ thủy lưu trong vùng, tức Tổng thủy khẩu. Bên trong Tổng thủy khẩu bất
kể Lai Long nhiều hay ít, kết địa nếu là Can, thì sát thân mình cần có Tiểu thủy khẩu,
tức Nội thủy khẩu, yêu cầu Sa phải thành lớp lớp thu thủy. Ca quyết viết "Quan môn
nhược hữu thập trùng tỏa. Tất hữu vương hầu cứ thử gian"; (Táng kinh dực), là đất
đại quí. Trong Phong thủy dương trạch, tại thủy khẩu người ta có thể tiến hành kiến
tạo các công trình che chắn phong tỏa thủy khẩu, như bắc cầu, đắp đê, hoặc xây
dựng trên bờ đình đài, lầu tháp, hoặc đắp gò nổi ngay trong nước. Ở vùng đồng
bằng không có núi che chắn thủy khẩu, thi đòi hỏi thủy lưu phải uốn khúc, đồng thời
phải kiến tạo công trình phong tỏa. Phương vị của thủy khẩu cũng có quy tắc phải
theo; Ở vùng rừng núi, nói chung thủy lưu tùy theo hướng của mạch núi mà định, ở
vùng đồng bằng, thì căn cứ địa thế cao thấp mà quyết. Đặc điểm địa hình của Trung
Quốc là phía tây cao, phía đông thấp, nên các dòng sông chủ yếu chảy từ phía tây
sang phía đông mà ra biển, cho nên thủy khẩu phần lớn cũng phải nằm ở phía
đông, phía nam hoặc đông nam, mà phổ biến là ở phía đông nam. Thuật Phong thủy
tổng kết rằng thủy khẩu ở vị trí Tốn sơn là cát lành. Thủy khẩu có nhiều tên gọi, ví
dụ Phong môn, ngụ ý có gió thổi vào đây; gọi là Lậu đạo, ngụ ý sinh khí thất thoát từ
đây; nên núi ở thủy khẩu có tên gọi Phong thành, Cản môn ngụ ý chắn gió, cản gió.
Thuật Phong thủy cực kỳ coi trọng thủy khẩu". Có lý luận "Nhập sơn quan thủy
khẩu" (vào núi quan sát thủy khẩu), cho rằng một vùng đất có đủ mọi điều kiện tốt
mà thủy khẩu không được phong tỏa, thì rất hung. Tác dụng thực tế của thủy khẩu
là giới định phạm vi bên ngoài của đất huyệt mộ, thôn trấn, đồng thời thủy khẩu
cùng nằm ở chỗ địa thế thấp nhất, thường thường cũng là nút giao thông.
Thuật Phong thủy rất chú trọng thủy khẩu về căn bản là do người ta coi trọng môi
trường bên ngoài của huyệt mộ và thôn trấn.
Kim tinh thủy : Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu uốn cong giống như cánh
cung, như cầu vồng, lấy tọa bắc ôm vòng phía nam làm chính thể cát. Nếu tọa đông,
ôm vòng phía tây, gọi là Hữu Kim, chủ con trai thứ phát phúc; tọa tây mà ôm vòng
phía đông, gọi là Tả Kim, chủ con trai cả phát quí; nếu phản cung quay lưng lại chủ
suốt đời bần cùng. Trên thực tế, nhà ở và huyệt mộ nhất thiết phải co thủy lưu ôm
vòng ở một phương.
Mộc tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu chảy thẳng theo hướng nam
bắc.
Vị trí đối diện thẳng với Mộc tinh thủy là bị bắn thẳng, hung. Mộc tinh thủy phối hợp
với 4 tinh khác cung là hung, duy phối hợp với thổ tinh thủy thì chủ yếu là hung, chỉ
có một chút cát lành.
Thủy tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu hơi uốn lượn như
sóng, cát (lành). Thủy tinh thủy bất kể chảy về phía nào, nếu phối hợp với Kim tinh
thủy đều là cát; nếu gặp Mộc tinh thủy, Hỏa tinh thủy bắn thẳng thì hung.
Hỏa tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu đến xéo đi xéo, hai thủy giao
nhau thành mũi tên, trông thẳng cứng hoặc hơi uốn lên, hung. Chỉ có một thry đến
xéo đi xéo, gọi là Tà phi, cũng hung. Hỏa tinh thủy phối hợp với các tinh khác, cũng
hung.
Thổ tinh thủy: Thủy đạo. Chỉ hình dạng của thủy lưu tràn ngang, theo hướng đông
tây, hung. Các biến thể như Thổ thành thủy, Trung thổ thủy thì cát.
Thanh long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía đông (phía bên trái) nhà ở và huyệt
mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Chu tước thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía Nam (phía trước) nhà ở và huyệt
mộ. Tùy hình dạng và tiếng nước chảy của nó mà xác định cát hung.
Bạch hổ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía tây (phía bên phải) nhà ở và huyệt
mộ. Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Huyền vũ thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía bắc (phía sau) nhà ở và huyệt mộ.
Tùy hình dạng của nó mà xác định cát hung.
Triều thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu chảy đến từ phía trước nhà ở và huyệt mộ. Yêu
cầu nó phải uốn lượn như con rắn trườn mình mà tới, hoặc như dải ngọc quấn
quanh eo lưng, trông dịu dàng hòa hoãn. Ca quyết nói: "Thủy kiến tam loan, phú quý
an nhàn" (Thủy Long kinh). Nếu chảy thẳng đến, gọi là xung xạ, đại hung.
Kiềm thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ôm vòng hai bên tả hữu huyệt mộ như cái kìm,
còn gọi là "Lưỡng thủy hợp". Sau khi mai táng chủ con cháu không phú thì quí. Nếu
bên trong cái kìm có chỗ đất cao, định huyệt tại đó, chủ con cháu văn võ toàn tài.
Đấu thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu có hình dạng tròn, lõm, khuyết như cái đấu. Ca
quyết nói: "Long hổ lưỡng tương đấu, gian nghịch đa hung cữu, phụ tử bất tương
thân, huynh đệ như cừu khấu" (Thủy long king). Hung.
Xung xạ: Thủy đạo. Phàm thủy lưu chảy thẳng đến trước nhà ở hoặc huyệt mộ, đều
gọi là Xung Xạ, đại hung.
Phân phi: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy
đi, gọi là Phân phi. Hung.
Phi thủy: Thủy đạo. Phàm thủy lưu ở một bên nhà ở hoặc huyệt mộ quay lưng chảy
đi, chứ không ôm vòng lấy phía trong gọi là Phi thủy, hung.
Phản thủy : Thủy đạo. Phàm thuỷ lưu ở một bên hoặc cả hai bên nhà ở và huyệt
mộ như cánh cung ôm ra phía ngoài, gọi là Phản thủy, hung. Nếu thủy lưu ở phía
sau nhà ở, huyệt mộ như cánh cung trở ngược, thì gọi là Phản khiếu thủy. Nếu ở
một bên hoặc ở phía sau thoạt đầu uốn lượn ôm lấy phía trong, nhưng sau đó lại
quay lưng chảy đi, thì cũng gọi là Phản phi hoặc Tiên bão hậu phản, đều là hung.
Ất tự thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình dạng
như chữ Ất, chảy vòng qua nhà, qua mộ mà đi, đại cát.
Chi huyền thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía sau nhà ở hoặc huyệt mộ có hình
dạng như chữ Chi, chữ Huyền, uốn lượn mà đến, đại cát. Nếu Chi huyền thủy ở
phía trước nhà ở hoặc huyệt mộ, gọi là Triều thủy.
Thập tự thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Thập, ngang dọc rõ
ràng, mai táng sẽ hung.
Nếu xây nhà ở trong thị trấn thì cát; riêng một nhà thì hung. Nếu thủy lưu giao xéo
nhau thành chữ Thập, bất luận âm dương trạch, đều là hung.
Tính tự thuỷ: Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu giao nhau như hình chữ Tỉnh, ngang dọc rõ
ràng, mai táng sẽ hung. Nếu xây nhà ở trong thị trấn thi cát, riêng một nhà thi hung.
Nếu thủy lưu uốn lượn mà giao nhau như chữ Tỉnh, thì dựng nhà sẽ đại quí.
Song long thủy: Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở hai bên nhà ở hoặc huyệt mộ có hình
dạng uốn lượn như con rồng, đồng thời ôm vòng lấy phía trong, an mộ
dựng nhà đại cát.
Lục kiện thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành thần
đồng, trạng nguyên, Tể tướng.
Nghênh thần thủy: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chỉ con cháu trở thành thần
đồng, trạng nguyên.
Kim ngư yêu đới: Thủy Đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại
phú, đại quý.
Tứ long hí châu: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu trở thành đại
phú, đại quý.
Tiên chưởng phủ cầm: Thủy đạo. Đại quí. An táng tại đây chủ con cháu thi cử đỗ
đạt cao.
Phi phụng thủy : Thuỷ đạo. Đại quí. An táng tại đây, chủ con cháu có kẻ trở thành
phi tần.
Hồi long thủy : Thủy đạo. Chi thúy lưu tử phương đông nam chảy đến, vòng sang
phía tây, ôm lấy nhà ở hoặc huyệt mộ, sau đó chảy về hướng đông bắc, hình dạng
như chữ U nằm ngang, chủ con cháu nhiều đời phú quí, làm quan to. Ca quyết nói :
"Thủy thần lai xứ phục hồi đầu, hồi long khí mạch thâu, phúc lý bao tàng vô thẩm
lậu, phát phúc vĩnh vô hưu" (Thủy Long kinh). Nếu thủy lưu từ phương tây nam chảy
đền ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, sau đó chảy về hướng tây bắc, thì cũng tốt như
vậy.
Qua đằng thủy : Thủy đạo. Chỉ thủy lưu hơi uốn lượn như sóng, từ phía sau chảy
đến ôm vòng lấy nhà ở, huyệt mộ, rồi lại chảy về phía sau mà đi; đại cát. Ca quyết
nói : "Diện tiền nhất chuyển nhất trùng khố, tài bảo đa vô số, đại giang tiện xuất đại
quan vinh, tiểu khê tất chủ gia hào phú" (Thủy Long kinh).
Hoành thủy : Thuỷ đạo. Chỉ thủy lưu từ phía trước hoặc phía sau nhà ở, huyệt mộ
chảy tràn ngang qua, hung.
Thực tế đó là Thổ tinh thủy. Ca quyết nói : "Thất hậu hoành thủy trực lưu thông, tạm
thời vị bại tức bần cùng" (Thủy long kinh).
Đao thương thuỷ : Thủy đạo. Chỉ nơi thủy lưu giao nhau hoặc dừng lại có hình
dạng nhọn như mũi dao, mũi thương, chĩa thẳng vào nhà ở và huyệt mộ, đại hung.
Ca quyết nói : "Lưu lai thủy thế tự đao thương, xạ hiệp xung tâm bất khả đương"
(Thủy Long kinh)
Bát tự phân lưu : 1) Thủy đạo. Chỉ thủy lưu ở phía trước huyệt mộ chảy ra như
hình chữ Bát, chứ không giao nhau, hung. 2) Hình thế bên trong nhà ở. Chỉ rãnh
nước bên trong nhà từ sân giữa chảy ra thành hình chữ Bát cùng gọi là Thiên thần,
hung.
Tam hợp thủy : Thủy đạo. Chi ở 3 chỗ Bát tự, Tiết bao, Cầu thiềm đều có thủy lưu
từ hai bên chảy xuống, chia thành 3 lớp trong ngoài giao hội tại trước huyệt và ở
phía trong hai sa tả hữu, gọi là Tam hợp thủy. Trên thực tế thường thường không
thấy mặt nước, chỉ có rãnh nước rất nông, dòng chảy không rõ. Cách kiểm tra như
sau: đốt cỏ thành tro, rắc tro bốn phía, chờ lúc mưa nhỏ, thấy tro bị dồn thành vệt,
chính là nó. Cũng có Nhị hợp thủy, là Chi long kết mạch. Tác dụng của Tam hợp
thủy là tụ họp sinh khi, nếu không có nó thì không phải đất lành.
Đại bát tự: Thủy đạo. Ở chỗ tam thoa của Lai Long có thuỷ chảy tách ra hai bên
hình dạng như chữ Bát. Vì bên dưới nó lại có Bát tự thủy phân lưu, nên gọi là Đại
bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai vai.
Tiểu bát tự : Thủy đao. Bên dưới tam thoa của Lai Long, ở chỗ Cầu thiềm, có thủy
chảy tách ra hai bên, hình dạng như chữ Bát. Vì bên trên nó đã cỏ Bát tự thủy là Đại
bát tự, nên gọi nó là Tiểu bát tự. Ví với cơ thể người, thì Đại bát tự là hai mắt.
Hà tu thủy : Thủy đạo. Ở hai Sa tả hữu phía trước huyệt mộ có thủy gần như giao
nhau tại phần đầu mút, đó là Hà tu thủy. Ví với cơ thể người, thì Hà tu thủy là ria
mép.
Ngọc tính: Chỉ rãnh, hào chứa nước ở trước huyệt mộ. Nói chung người ta dùng
sức người lát các phiến đá che bên trên rãnh nước cho ngang bằng mặt đất; sau đó
ngầm dẫn nước từ hai bên Lai sơn cho chảy vào Ngọc tỉnh, rồi từ đây cho chảy ra
phương vị lục thế. Thực tế là dùng sức người cải tạo Nội thủy. Ngọc tỉnh có tác
dụng khiến Nội thủy giao hội ở trước huyệt mà không phá hoại địa thế bằng phẳng
của Minh đường Ngọc tỉnh phải là rãnh hoặc hào nước do thiên nhiên tạo nên ở
trước huyệt, không thể do con người đào khoét, nêu không sẽ hứng chịu nhiều tai
họa. Có thuyết nói Ngọc tỉnh là chỗ chứa nước dơ trước huyệt, không nên che đậy
bên trên.
Thủy thanh: Chỉ âm thanh do nước chảy mạnh phát ra. Phàm thủy lưu ở bốn
phía nhà ở, huyệt mộ bất kể từ đâu chảy tới rồi chảy đi đâu, đều phải êm đềm hòa
hoãn mới tốt; nếu chảy xiết réo sôi là hung; nghe rì rào thì được nghe ai oán hoặc
sôi reo, ùng ục như tiếng sấm thì đại hung. Tiếng nước chảy ở trước nhà nghe như
tiếng khóc la thoái tài (tiền tài sa sút).
Thưởng thủy pháp: Phương pháp phân biệt chất lượng tốt xấu của thủy (nước) để
xác định cát hung. Thuật Phong thủy cho rằng vị của nước tốt hay xấu có quan hệ
với cát hung của mạch đất, nên dung Thưởng thủy pháp (phép nếm vị của nước) để
dự đoán tình hình mạch đất. Ở vùng đồng bằng và gò đồi, thì lấy nước giếng, nước
suối hoặc nước mương ngòi; Ở vùng núi thì lấy nước khe suối, đưa lên miệng nếm
thử, nếu thấy vị ngọt, thơm, dịu là cát (lành), nếu thấy vị đắng, chua, cay, nồng là
hung.
Nhị thập tứ sơn: Phương vị. Còn gọi là Nhị thập tứ lộ, Nhị thập tứ hướng, là một
trong những khái niệm quan trọng nhất của thuật Phong thủy. Xuất hiện sớm nhất
trong Ty nam ( kim chỉ nam ) thời cổ, hiện còn giữ được dụng cụ loại đó chế tạo vào
đời Hán. Tức là đem chia vòng tròn 360 độ thành 24 phần bằng nhau, mỗi phần là
15 độ, gọi là 1 sơn và dùng 4 duy 8 can 12 chi để đặt tên. Trong thuật Phong thủy,
phàm nói đến phương vị, hầu như đều đề cập 24 sơn; được ứng dụng rất rộng rãi.
Trên hình vê, đường gạch đứt ( - ) chỉ ranh giới âm dương. Có thuyết nói từ Tuất
sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Ất sơn là dương, từ Thìn sơn thuận chiều kim
đồng hồ đến Tân sơn là âm. Một thuyết khác coi từ Tí sơn thuận chiều kim đồng hồ
đến Bỉnh sơn là dương, từ Ngọ sơn thuận chiều kim đồng hồ đến Nhâm sơn là âm.
Khi nói đến Tọa hướng thủy pháp, lại thường lấy 12 sơn Nhâm, Tí, Quý. Dần, Giáp,
Ất, Thìn, Ngọ, Khôn, Thân, Tuất, Càn làm dương; còn 12 sơn Hợi, Sửu, Cấn, Mão,
Tốn, Ty, Bính, Đinh, Mùi, Canh Dậu, Tân lam âm. Trong phạm vi dương là dương
sơn dương thủy, trong phạm vi âm là âm sơn âm thủy, phái căn cứ qui tắc mà phối
hợp, dương chảy theo dương, âm chay theo âm, âm dương rối loạn thì hung. Mỗi
một trong 24 sơn có tên gọi cát hung khác nhau, âm dương trạch khác nhau. Dương
trạch lấy Càn sơn làm Thiên môn, Thú dương; Hợi sơn là Chu tước, Long đầu (đầu
của long); Nhâm sơn là Đại họa; Tí sơn là Tử táng, Long hưu thủ (tay phải của
Long), đối ứng quẻ Khảm; Quý sơn là Phạt ngục; Sửu sơn là Quan ngục, Huyền
ngục. Cấn sơn là Quỉ môn Trạch ung; Dần sơn là Thiên hình Long bối (lưng của
Long ); Giáp sơn là Trạch hình; Mão sơn là Hình ngục, Long hữu hiệp (sườn bên
phải của Long), đối ứng quẻ Chấn, Ất sơn là Đằng xa, Tụng ngục, Thìn sơn là Bạch
hổ, chân bên phải của Long; Tốn sơn là Địa hộ, Phong môn. Phúc thủ, Tỵ sơn là
Thiên phúc, Trạch cực, đuôi Long; Bính son là Minh đường, Trạch phúc; Ngọ sơn
là Cát xương, chân trái của Long, đối ứng quẻ Ly; Đinh sơn là Thiên thương; Mùi
sơn là Thân phủ; Khôn sơn là Nhân môn, ruột của Long, Phúc nang (Túi phúc);
Thân sơn là Ngọc đường; Canh sơn là Trạch đức. Dậu sơn là Đại (đức, sườn bên
phải của Long, đối ứng quẻ Đoài; Tân sơn là Kim quý, Tuất sơn là Đia phủ, tay trái
của Thanh Long. Tên gọi cát hung của 24 sơn âm trạch thì ngược hướng với dương
trạch, ví dụ Hợi sơn của dương trạch là Chu tước, đầu của Long, thì đối nghịch là Tỵ
sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, vậy Hợi sơn của Âm trạch biến thành Tỵ
sơn, Thiên phúc, Trạch cực, đuôi của Long, âm trạch Ty sơn biến thành Chu tước,
đầu của Long. Những cái khác theo đó mà suy, nhưng Tứ duy thì không biến động,
nghĩa là Càn sơn, Cấn sơn Tốn sơn, Khôn sơn thì âm dương trạch giống nhau. 24
sơn lại có tọa mệnh, như Hợi sơn dương trạch là phụ mệnh (mệnh cha), Nhâm sơn
là Mẫu mệnh (mệnh mẹ ), Tí sơn là mệnh con trai cả, Quý Sơn là mệnh con trai thứ.
Âm trạch thì lấy Tỵ sơn làm mệnh cha, Bính sơn làm mệnh mẹ, Ngọ sơn làm mệnh
con trai cả, Đinh sơn làm mệnh con trai thứ. Phàm xung phạm mệnh tọa, thì tai họa
sẽ ứng vào người tương ứng, đại hung. 24 sơn có quan hệ với ngũ hành, bát quái,
12 cung, cửu tinh, 24 thiên tinh, 24 tiết khí. Xem mục La bàn.
Nhị thập tứ lỗ : Tức Nhị thập tứ sơn. Xem mục Nhị thập tứ sơn.
Tứ chính : Phương vị. Chỉ 4 hướng chính đông, chính tây, chính nam, chính bắc.
Trong 24 sơn đó là Tí sơn (chính bắc), Ngọ sơn (chính nam), Mão sơn (chính đông),
Dậu sơn (chính tây), phân biệt đối ứng 4 quẻ Khảm, Ly, Chấn, Đoài. Tầm Long định
huyệt nhìn chung không coi việc toạ lạc hoặc mặt hướng về tứ chính là cát.
Tứ ngung : Phương vị. Tức 4 góc. Chỉ 4 hướng đông nam, tây bắc, tây nam, đông
bắc. Góc đông nam còn gọi là "Giao", góc tây bắc còn gọi là "Ốc lậu", góc tây nam
còn gọi là "Áo", góc đông bắc còn gọi là "Hoạn". Trong 24 sơn, Tứ ngung là Càn sơn
(tây bắc), Cân sơn (đông. bắc), Tốn sơn (đông nam), Khôn sơn (tây nam). Hạ tang
lấy tọa lạc hoặc mặt hướng về Tứ ngưng là quí. Tứ ngưng còn gọi là Tứ duy.
Tứ duy: Phong vị. Tục Tứ ngung. Xem mục Tứ ngưng.
Bát can : Phương vị. Chỉ 8 thiên can trong 24 sơn là Giáp, Canh, Bính, Nhâm, Ất,
Tân, Đinh, Qúy. Phân biệt lần lượt nằm ở các vị trí: chính đông thiên bắc 15 độ
(Giáp), chính tây thiên nam 15 độ (Canh), chính nam thiên đông 15 độ (Bính), chính
bắc thiên tây 15 độ (Nhâm), chính đông thiên nam 15 độ (Ất), chính tây thiên bắc 15
độ (Tân), chính nam thiên tây 15 độ (Đinh), chính bắc thiên đông 15 độ (Quý). Vì
thiên can không có Sát mà địa chi không có Sinh nên hạ táng lấy tọa lạc hoặc chính
hướng tám Can nói trên là quí. Ca quyết có câu : "Cổ nhân vi hà chỉ hữu bát, trong
dục phùng sinh bất phùng sát" (Quản thị địa lý chỉ mông).
Thiên môn : 1) Phương vị. Chỉ hướng tây bắc. Chính là Càn sơn. Thuyết này xuất
hiện rất sớm. Thuật Phong thủy cho rằng ở phương vị Thiên môn không nên xây lầu
cao, phạm vào chỗ đó sẽ hại cho gia trưởng. Chọn ngày Đinh, ngày Nhâm trong
tháng Năm mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thi cát. 2) Địa hình. Chỗ nước chảy đến
hoặc chảy vào, cần phải rộng mở. Xem mục Thủy khẩu.
Địa hộ : 1) Phương vị. Chỉ hướng đông nam. Chính là Tốn sơn. Còn gọi
là Phong môn. Thuật phong thuỷ cho rằng ở phương vị Địa hộ không nên xây lầu
cao, (chỉ nên mở cửa hoặc xây phòng thấp, để sinh khí khỏi bị bế tắc. Chọn ngày
Bính, ngày Tân trong tháng Mười Một mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. 2) Địa
hình. Chỗ nước chảy đi hoặc chảy ra, cần uốn lượn ngoằn ngoèo. Xem mục Thủy
khẩu.
Nhân môn : Phương vị. Chỉ hướng tây nam. Chính là Khôn sơn. Còn gọi là Long
tràng. Phong thủy dương trạch cho rằng Nhân môn là nơi nên làm chuồng trâu
chuồngngựa. Chọn ngày ất, ngày Canh trong tháng Hai mà tu sửa, xây dựng ở vị trí
này thì cát. Có thuyết nói Nhân môn là "Lý quỉ môn" hoặc "Nữ quỉ môn", không thể
làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí môn : Phương vị. Chỉ hướng đông bắc. Chính là Cấn sơn. Còn gọi là Quỷ Lộ.
Tà khí, Sát khí phần nhiều từ phương này đến, cho nên tuyệt đối không mở cửa
hoặc làm phòng ở. Nên xây tường cao che chắn sát khí. Chọn ngày Giáp, ngày Kỷ
trong tháng Tám mà tu sửa, xây dựng ở vị trí này thì cát. Có thuyết gọi đây là "Biểu
quỉ môn" , không thể làm nhà bếp, nhà xí ở phương vị này.
Quí lộ : Phương vị. Tức Quỉ môn. Xem mục Quỉ môn.
Lục tương : Phương vị. Tương có nghĩa phu trợ. Chỉ trạng thái sinh vượng của ngũ
hành. Thuật Phong thủy lấy Dưỡng, Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế
vượng trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục tương, ở các vị trí lần lượt khác nhau
như : Bính hỏa lấy Ngọ làm Đế vượng. Đinh kim lấy Mùi làm Quan đới. Khôn thổ lấy
Thân làm Tràng sinh, Canh thổ lấy Dậu làm Mộc dục, Tân thủy lấy Tuất làm Quan
đới, Canh mộc lấy Dần làm Lâm quan, Ất hỏa lấy Thai làm Quan đới. Căn cứ
phương vị Lục tương, có thể dự đoán sự cát hung hưu vượng của sơn, thủy. Nói
chung, phàm Long hoặc Thủy đến từ phương vị Lục tương thì đều là cát lợi.
Phương vị sở tại của Lục tương thì biến đổi theo ngũ hành (xem cụ thể ở mục Nhị
thập tứ sơn ngũ hành thủy pháp).
Lục thế : Phương vị. Thế có nghĩa phế bỏ, suy bại. Thuật Phong thủy lấy Suy,
Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai trong Ngũ hành Tràng sinh làm Lục thế, ở các vị trí lần
lượt khác nhau và biến đổi theo Ngũ hành, như Giáp thủy lấy Dần làm Bệnh, Tốn
mộc lấy Thìn làm Mộ, Càn kim lấy Hợi làm Bệnh, Nhâm hỏa lấy Tý làm Thai, Quý
thổ lấy Sửu làm Suy. Từ đó có thể suy ra cát hung của sơn thủy. Nói chung, phàm
sơn, thủy tử phương vị lục thể đi tới thì không cát lợi. Từ phương vị Lục tương đến,
rồi đi tới phương vị Lục thế, thì cát. Phương vị sở tại của Lục thế thì biến đổi theo
ngu hành (xem cụ thể ở mục Nhị thập tứ sơn ngù hành thủy pháp).
Tứ mộ : Phương vị. Chỉ 4 phương Thìn sơn, Tuất sơn, Sửu sơn, Mùi sơn trong 24
sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông nam thiên đông 15 độ (Thìn), tây bắc thiên tây 15 độ
(Tuất), đông bắc thiên bắc 15 độ (Sửu) tây nam thiên nam 15 độ (Mùi). Hạ táng mà
toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ mộ thì chỉ có hung, không có cát. Nêu
thủy lưu chảy đi phương Tứ mộ, thì cát lợi. Xem mục Kim long.
Tứ tuyệt: Phương vị. Chỉ 4 phương Dần sơn. Thân sơn, Tỵ sơn, Hợi sơn trong 24
sơn, lần lượt nằm ở vị trí đông bắc thiên đông 15 độ (Dần), tây nam thiên tây 15 độ
(Thân), đông nam thiên nam 15 độ (Tỵ), tây bắc thiên bắc 15 độ (Hợi). Hạ táng mà
toạ lạc hoặc hoặc quay mặt về phương vị Tứ tuyệt thì đại hung.
Tứ hung : Phương vị. Phong thủy dương trạch coi phương vị sở tại của 4 hung tinh
Lục sát, Ngũ quỉ, Họa hại. Tuyệt mệnh là Tứ hung. Ở vị trí Tứ hung thì phòng ốc nên
thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, nhà xí. Nếu Du niên của chủ nhà định cung Sinh tại
phương vị Tứ hung, thì không nên động thổ sửa chữa.
Sinh khí tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Sinh Khí, một trong Cửu tinh. Tương
ứng sao Tham Lang, ngũ hành thuộc mộc, bát quái là quẻ Cấn. Rất tốt. Âm
trạch phong thủy dùng sao này chi phương vị và hình dạng sơn.
Xem thêm mục Tham Lang. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát
trạch khác nhau mà di chuyển các phương, như Khảm trạch thi Sinh Khí ở phương
vị đông nam Tốn ; Đoài trạch thì Sinh Khí ở vị trí Càn, tây bắc. Tại vị trí có Sao Sinh
Khí nên xây phòng ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước, chuồng gia súc.
Sinh Khí còn là một trong Xuyên cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Diên niên tinh : Phương vị. Thương gọi tắt là Diên Niên, một trong cửu tinh. Tương
ứng Vũ Khúc, ngũ hành thuộc kim, bát quái là quẻ Đoài. Rất tốt. Âm
trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Vũ
khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà
di chuyển các phương, như Càn trạch thì Diên Niên ở vị trí Khôn, tây nam; Chấn
trạch thì Diên Niên ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Diên Niên nên xây phòng
ốc cao lớn, mở cửa, bố trí phòng ở, giếng nước. Diên Niên còn là một trong Xuyên
cung cửu tinh. (Xem mục tương ứng)
Thiên ất tinh: Phương vị. Thường gọi tắt là Thiên ất, còn gọi là Thiên Y, một trong
Cửu tinh. Tương ứng sao Cự Môn, ngũ hành thuộc thổ, bát quái là quẻ Tốn. Tốt
vừa.
Âm trạch phong thủy dùng sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục
Cự Môn. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau
mà di chuyển các phương, như Khôn trạch thì Thiên ất ở vị trí Khảm, chính bắc; Ly
trạch thì Thiên Ất ở vị trí Tốn, đông nam. Tại vị trí có sao Thiên Ất, nên xây phòng ốc
cao lớn, mở cửa; bô trí phòng ở, chuồng gia súc. Thiên ất còn là một trong Xuyên
cung cửu tinh. Xem mục tương ứng.
Thiên y tinh : Phương vị. Tức sao Thiên ất. Xem mục Thiên ất tinh.
Lục sát tinh : Phương vị. Thường gọi tắt là Lục Sát, một trong Cửu tinh. Tương ứng
sao văn Khúc, ngũ hành thuộc thủy, bát quái là quẻ Ly, hung (xấu vừa). âm
trạch phong thủy dung sao này chỉ phương vị và hình dạng sơn. Xem thêm mục Văn
Khúc. Dương trạch phong thủy chuyên chỉ phương vị, tùy Bát trạch khác nhau mà
di chuyển các phương, như Tốn trạch thì Lục Sát ở vị trí Đoài, chính tây; Cấn trạch
thì Lục Sát ở vị trí Chấn, chính đông. Tại vị trí có sao Lục Sát, không nên xây phòng
ốc cao lớn, mà nên bố trí nhà bếp, nhà vệ sinh. Lục Sát còn là một trong Xuyên
cung cửu tinh.
TRẠCH HÌNH
Dung huyệt: 1) Chỉ nền đất của nhà ở, thôn xóm, thành trấn (thành thị,
thị trắn), gọi là huyệt trường của dương trạch, điểm dương huyệt" tức là
xác định nền đất và phạm vi của một địa chi nào đó. 2) Mộ huyệt có phân
ra âm và dương; âm long mà kết huyệt âm thì chủ bị nói xấu, phá hại gia
sản; dương long mà kết huyệt dương, chu sự sinh li tử biệt. Phân biệt âm
dương thì căn cứ vào vị trí âm hay dương mà xác định.
Chính huyệt: Chỉ trung tâm của thành trấn. Tức Chính trung của Dương
huyệt. Đất là nơi xây cất công trình chính, nếu ở kinh đô thì là nội thành
cung điện, hoàng cung; nếu ở tỉnh thành thì đó là dinh tỉnh trưởng, ở
châu huyện là công đường. Cho nên, xây dựng kinh đô thì trước hết phải
xây dựng ở trung tâm (Chính huyệt) tông miếu, cung điện; xây dựng tỉnh
thành thì trước tiên xây dựng dinh thự quan nha; xây dựng châu huyện
thì trước hết chọn Chính huyệt xây dựng công đường chính trị, thứ đến
kho lẫm, nhà lao. Thuật Phong thủy coi đây là bảo đảm thể hiện thể chế
tông pháp phong kiến trong kiến trúc thành trấn, cũng là một đặc trưng
kiến trúc đô thị của Trung Quốc thời cổ.
Trạch hình: Tức hình dáng của nhà ở, chia ra hai loại trong và ngoài.
Hình dáng bên ngoài của nhà ở là chỉ vị trí, hình dạng, địa hình tứ phía
cùng cảnh vật kiến trúc của toàn bộ ngôi nhà. Hình dáng bên trong
của nhà ở thì chỉ hình dạng,vị trí của mọi vật kiến trúc cùng hình thức
phối hợp giữa chúng với nhau. Thuật Phong thủy cho rằng hình dáng bên
ngoài của nhà ở liên quan đến khí thế của mạch đến, nếu không tốt, thì
dù hình dáng bên trong có hay mấy, cũng sẽ không toàn vẹn. Hình dáng
bên ngoài của nhà ở lấy vị trí địa thế của nhà ở làm yếu tố quan trọng
nhất, nói chung nhấn mạnh yêu cầu địa thế bằng phẳng, Minh đường rộng
rãi, trước sau có thủy bao bọc, thủy khẩu cách nhà không quá xa. Kiến
trúc cảnh vật xung quanh cũng rất quan trọng. Tốt nhất là bên trái nhà ở
có dòng chảy, bên phải có đường đi, đằng trước có ao, sau lưng có gò
cao, gọi là đất “Tứ thần tương ứng". Nhà ở không nên nằm ngay giao lộ,
năm cạnh quan nha hầm hố, câu, nhà lao, không nên ở chỗ cây cỏ không
thể mọc nổi, không nên có giếng nước ở ngay trước cổng ... Nhà ở tại các
quần thể kiến trúc, như thôn trấn, thành phố, thì điều kiện tự nhiên chi
phối căn nhà là phụ; chủ yếu phải xem xét mối tương quan hài hòa với
cảnh vật kiến trúc xung quanh, đồng thời so sánh Sa, Thuỷ. Ca nói: “Vạn
ngõa lân lan thị tỉnh trung, cao liên tầng tích thị lai long” (Dương trạch
tập thành; quyển 1), lại nói : “Nhất tầng nhai cù vi nhất tầng thủy, nhất
tầng tường ngõa vi nhất tầng sa. Môn tiền nhai đạo tức thị Minh đường,
đối diện thất vũ tức vi án sơn”. (mỗi đường phố coi như một dòng nước
chảy, mỗi bức tường là một lớp Sa, Đường phố trước cửa tức là Minh
đường đối diện phía trước ngôi nhà tức là Án sơn) (Dương trạch hội tâm
tập ). Nghĩa là các mái nhà liên tiếp nhau tức là Long, căn cứ vào các
đường hẻm để luận khí, còn đường phố là thủy đạo vậy. Qui định về hình
dáng nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều, chỉ nêu ví dụ
vài điều, như hình 198. Hình dáng bên trong của nhà ởchủ yếu là vị trí,
dạng thức, độ cao thấp của các vật kiến trúc trong nhà, ví dụ qui định cột
phòng chính phải dùng số 9, cột sảnh dùng số 7, cứa dùng số chẵn.
Thuật Phong thủy cho rằng mở cửa phía tây là “bạch hổ há mồm" thì
không cát. Cối giã gạo không được nằm cùng một hàng với lai long. Bên
ngoài cổng không được xây dựng thêm phòng ốc; bên trên cổng không
được xây dựng lầu. Trong nhà không nên có phòng ốc hình chữ Đinh,
không nên có đường đi xuyên tâm. Phương vị mở cửa, độ cao thấp của
phòng ốc chủ yếu căn cứ vào phương vị Cửu tinh rnà xác định. Việc bố trí
giếng nước, chuồng gia súc, nhà vệ sinh, nhà bếp cũng vậy. Qui định về
hình dáng bên trong nhà ở cũng rất phức tạp, không dưới một trăm điều,
chi nêu ví dụ vài điều, như hình 199. Phần lập luận trong
Thuật Phong thủy liên quan đến hình dáng nhà ở có một bộ phận là sự
tích lũy và đúc kết kinh nghiệm lâu dài, ví dụ nhà ở không nên hẹp theo
chiều nam bắc. dài theo chiêu đông tây. không nên bốn phía là đường lớn
không năm trên sống núi, chỗ cửa gió...Có một bộ phận mang tính chất
mê tín, còn lại thì liên quan đến tập quán truyền thống dân tộc và quan
niệm thẩm mỹ.
Tam yếu lục sự : Hình dáng nhà. Tổng kết những nhân tố quan trọng
liên quan đến xây dựng nhà ở của Phong thủy dương trạch. Tam yếu
gồm : chủ, môn, táo, tức là mệnh của chủ nhà phối họp với ngôi nhà,
hướng mở cổng và cửa. vị trí của bếp. Lục sự gồm : môn (cồng cửa), táo
(bếp), tỉnh (giếng nước), lộ (lối đi), xí (nhà xí), cối giã gạo, những vị trí
nên hoặc kỵ của các nhân tố đó. Tĩnh trạch : Hình dáng bên trong
của nhà ở. Chỉ nhà ở chỉ có 1 dãy hay 1 phòng. Vì số dãy, phòng ít, nên
phương vị của cửu tinh ngũ hành về cơ bản là cố định, không cần thay đổi
vị trí, độ cao thấp của vật bài trí khi cửu tinh thay đổi.
Động trạch : Hình dáng bên trong của nhà ở. Chỉ nhà ở có từ 2 - 5 dãy
hoặc phòng. Vì số dãy, số phòng nhiều, nên cửu tinh ngũ hành sẽ biến đổi
có qui luật theo dãy phòng và phương vị cổng, phương vị và độ cao thấp
của vật bài trí trong nhà cũng thay đổi tùy theo sự biến động của cửu tinh
ngũ hành.
Bát trạch : Dựa theo phương vị Toạ, Hướng cùng phương vị mở cửa
của nhà ở, chia thành bát quái, cả thảy có 8 loại, gồm : Càn trạch, Ly
trạch, Đoài trạch, Khảm trạch, Cấn trạch, Tốn trạch, Khôn trạch, Chấn
trạch, Cửu tinh sẽ biến động có qui luật theo sự khác nhau của mỗi
loại nhà tại phương vị sở tại, từ đó có thể phán đoán lành dữ, chỉ dẫn xây
dựng, sửa chữa. Thuộc tính bát quái của nhà ở là cố định, phương vị của
Tọa Hướng và cửa cũng theo đó mà xác định, nhưng do có thể đặt cửa ở
hai bên trái phải của bốn quẻ Ngẫu : Càn, Khảm, Tốn, Cấn , nên nhà ở
thực ra có tới 12 Toạ hướng và cửa khác nhau, đó là: Tọa nam Hướng bắc
cửa Khảm, Tọa bắc Hướng nam cửa Ly, Tọa đông hướng tây cửa Đoài, Tọa
tây Hướng đông cửa Chấn, Tọa nam Hướng bắc cửa Càn, Tọa đông Hương
tây cửa Càn, Tọa bắc Hướng nam cửa Khôn, Tọa đông Hướng tây cửa
Khôn, Tọa nam Hướng bắc cửa Cấn, Tọa tây Phương đông cửa Cấn, Tọa
bắc Hướng nam cửa Chấn, Tọa tây Hướng đông cửa Chấn.
Đông tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Chấn trạch, Tốn trạch,
Khảm trạch và Ly trạch là Đông tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của
chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung
Chấn, Tốn, Khảm, Ly thì nên sống ở ngôi nhà Đông tứ trạch.
Tây tứ trạch : Đem bát trạch phân làm 2 nhóm, Càn trạch, Khôn trạch,
Cấn trạch, Đoài trạch là Tây tứ trạch. Đối chiếu xem cung mệnh của
chủ nhà ký gửi ở đâu (theo phép tính Tam nguyên), nếu nằm ở bốn cung
Càn, Khôn, Cấn, Đoài thì nên sống ở ngôi nhà Tây tứ trạch.
Khảm trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa
nam hướng bắc, mở cửa ở chính hướng bắc Khảm, thích hợp với người
thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Khảm trạch theo
chiều thuận lần lượt là Khảm (Phúc đức), Ngũ quỉ (đông bắc )- Thiên ất
( chính đông ), Sinh khí (đông nam), Diên niên (chính nam), Tuyệt mệnh
(tây nam), Hoạ hại (chính tây), Lục sát (tây bắc ). Cửu tinh xuyên cung
bên trong trạch này tinh từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp
đến Lục sát, Sinh khí Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc
bên ngoài nhà ở thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở
cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; Ở phương hung
tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã
gạo, nhà xí. ..Xem mục đông tứ trạch.
Ly trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa bắc
hướng nam, mở cửa ở chính phương nam Ly, thích hợp với người thuộc
Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Ly trạch theo chiều thuận
lần lượt là Ly (Phúc đức), lục sát (tây nam), Ngũ quỷ (chính tây), Tuyệt
mệnh (tây bắc), Diên niên (chính bắc), Hoạ hại (đông bắc), Sinh khí
( chính đông), Thiên ất (đông nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch
này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến
Lục sát, Sinh khí Ngũ quì, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc bên
ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở
cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung
tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã
gạo, nhà xí...
Chấn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa
tây hướng đông, mở cửa ở chính hướng đông Chấn, thích hợp với người
thuộc Đông tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Chấn trạch theo
chiều thuận lần lượt là Chấn (Phúc đức), Diên niên (đông nam), Sinh khí (
chính nam), Hoạ hại (tây nam), Tuyệt mệnh (chính tây), Ngũ quỉ (tây
bắc), Thiên ất (chính bắc), Lục sát (đông bắc). Cửu tinh xuyên cung bên
trong trạch này tính từ Bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ
nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất. Bất kể trong hoặc bên
ngoài nhà này thì ở phương bị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở
cổng cửa, bố trí giường ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung
tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã
gạo, nhà xí . .
Tốn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc đông tứ trạch. Tốn trạch do toạ
hưởng khác nhau mà chia làm hai; một là ngôi nhà tọa tây phương đông,
mở cửa ở hướng đông nam Tốn: hai là ngôi nhà toạ bắc hướng nam và
mở cửa ở hướng đông nam Tốn; thích hợp với người thuộc Đông tứ trạch.
Phương vị sắp xếp Cửu tinh của Tốn trạch theo chiều thuận lần lượt là Tốn
(Phúc đức), Thiên Ất ( chính nam), Ngũ quỉ (tây nam), lục sát ( chính
tây), Hoạ hại (tây bắc), Sinh khí (chính bắc), Tuyệt mệnh ( đông bắc),
Diên niên ( chính bắc ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ
Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Diên niên, Lục sát,
Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ bắc hướng nam mở cửa
hướng Tốn thì sắp xếp Cửu tinh cung giống như nhà toạ tây hướng đông,
lần lượt tính từ ngăn thứ nhất là Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí,
Ngũ quỉ . Bất kể toạ tây hay toạ bắc, bên trong hoặc bên ngoài nhà này
thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí
phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm
phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí...
Càn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Càn trạch do toạ
hướng khác nhau nên chia làm 2; một là ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở
cửa ở hướng Càn tây bắc, và hai là ngôi nhà toạ đông phương tây cũng
mở cửa ở hướng Càn tây bắc; thích hợp với người thuộc Tây tứ
trạch. Nhà toạ nam hướng bắc thì phương vị sắp xếp Cửu tinh của Càn
trạch theo chiều thuận làn lượt là Càn (Phúc đức), Lục sát ( chính bắc),
Thiên ất ( đông bắc), Ngũ quỉ ( chính đông), Hoạ hại ( đông nam), Tuyệt
mệnh ( chính nam), Diên niên ( tây nam), Sinh khí ( chính tây ). Cửu tinh
xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn
thứ nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên. Nhà toạ
đông hướng tây mở cửa hướng Càn thì Cửu tinh sắp xếp cũng giống như
ngôi nhà toạ nam hướng bắc mở cửa hướng Càn, còn Cửu tinh xuyên cung
bên trong là Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên
trong hoặc bên ngoài loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng
ốc to cao, nên mở cổng cửa bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc;
ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp,
cối giã gạo, nhà xí. . .
Đoài trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Chỉ ngôi nhà tọa
đông hướng tây, mở cửa ở hướng chính tây Đoài thích hợp với người thuộc
Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của trạch theo chiều thuận lần
lượt là Đoài (Phúc đức), Sinh khí (tây bắc), Hoạ hại (chính bắc), Diên niên
( đông bắc), Tuyệt mệnh ( chính đông): Lục sát (đông nam), Ngũ quỷ
(chính nam), Thiên ất ( tây nam ). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch
này tính từ bản cung (Phúc đức) là dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến
Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên. Bất kể bên trong hoặc
bên ngoài nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây phòng ốc to cao, nên
mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; ở phương
hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố trí nhà bếp, cối giã
gạo, nhà xí .. .
Khôn trạch : Một trong bát trạch. Thuộc Tây tứ trạch. Khôn trạch do tọa
hướng khác nhau nên chia làm hai loại; một là ngôi nhà tọa đông hướng
tây, mở cửa hướng Khôn tây nam, và hai là nhà tọa bắc hướng nam, mở
cửa ở hướng Khôn tây nam, thích hợp với người thuộc Tây tứ trạch.
Phương vị sắp xếp Cửu tinh của ngôi nhà toạ đóng hướng tây, mở cửa
hướng Khôn tây nam theo chiều thuận lần lượt là Khôn (Phúc đức), Thiên
ất (chính tây), Diên niên ( tây bắc), Tuyệt mệnh ( chính bắc), Sinh khí
( đông bắc), Hoạ hại ( chính đông), Ngũ quỹ ( đông nam ), Lục sát (chính
nam). Cửu tinh xuyên cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là
dãy nhà hoặc ngăn thứ nhất, tiếp đến Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Sinh
khí, Ngũ quỷ, Thiên ất. Nhà tọa bắc hướng nam mở cửa hướng Khôn tây
nam cũng sắp xếp Cửu tinh giống như nhà tọa đóng hướng tây nói trên,
còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ dãy hoặc ngăn thứ nhất lần
lượt là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỷ Thiên ất, Diên niên, Lục sát. Bất kể bên
trong hoặc bên ngoài hai loại nhà này thì ở phương vị cát tinh nên xây
phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng nghỉ, giếng nước, chuồng
gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên bố
trí nhà bếp, cối giã gạo, nhà xí...
Cấn trạch : Một trong bát trạch . Thuộc Tây tứ trạch. Cấn trạch chia ra
hai loại, một là nha toạ tây phương đông mở cửa ở hướng Cấn đông bắc,
hai la ngôi nhà tọa nam hướng bắc, mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thích
hợp với người thuộc Tây tứ trạch. Phương vị sắp xếp Cửu tinh của
ngôi nhà toạ tày hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn, Dần sơn, đông bắc,
theo chiều thuận lần lượt là Cấn (Phúc đức). Lục sát ( chính đông), Tuyệt
mệnh (đông nam), Hoạ hại (chính nam), Sinh khí ( tây nam), Diên niên
( chính tây). Thiên ất (tây bắc), Ngũ quỉ ( chính bắc). Cửu tinh xuyên
cung bên trong trạch này tính từ Bản cung là dãy nhà hoặc ngăn thứ
nhất, tiếp đến Lục sát, Sinh khí, Ngu quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục
sát. Nhà tọa nam hướng bắc , mở cửa ở hướng Cấn đông bắc, thì sắp xếp
Cửu tinh cũng giống như nhà tọa tây hướng đông, mở cửa ở hướng Cấn
đông bắc, còn Cửu tinh xuyên cung bên trong tính từ ngăn thứ nhất lần
lượt là Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát, Sinh khí.
Bất kể bên trong hoặc bên ngoài thì hai loại nhà này ở phương vị cát tinh
nên xây phòng ốc to cao, nên mở cổng cửa, bố trí phòng ngủ, giếng nước:
chuồng gia súc; ở phương hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, nên
bố trí nhà bếp, cói giã gạo, nhà xí... Đặc thù của Cấân trạch là ở Cấn là
Quỉ môn, mở cửa không tốt; chỉ nên mở cửa ở Dần sơn, Sửu sơn là hai
bên phải trái của Cấn son, chứ không thể ở chính Cấn sơn.
Chu địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa
thấp, gọi là Chu địa . Còn có tên khác là đất Địa tàng. Quân tử cư trú ở
đây tốt, chủ phú quí liên tục. Tiểu nhân mà cư trú ở đất này thì hung. Câu
ca nói : “Trung ương chính diện tứ diện cao, tu cái trung trạch phúc hữu
dư. Ngưu dương lục súc đa hưng vượng, gia đạo cao quí xuất anh hào".
(Dương trạch thập thư).
Hàn địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở rìa phía bắc cao, rìa
phía nam thấp, gọi là Hàn địa . Còn có tên là đất Trạch tàng. Cư trú ở đây
cực tốt.
Tề địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông có lưu
thủy thì gọi là Tề địa. Cư trú ở đây tốt.
Ngụy địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía nam có lưu
thủy thi gọi là Ngụy địa. Cư trú ở đây tốt.
Cung địa : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa
thấp, lại có vũng nước. Cư trú ở đây tốt.
Lương thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bằng phẳng, không
lồi lõm hoặc ở giữa hơi lồi lên một chút thì gọi là Lương thổ. Cư trú ở đây
tốt.
Tấn thổ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước thấp sau cao thì
gọi là Tấn thổ. Cư trú ở đây tốt.
Lỗ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở mà phía đông thấp, phía
tây cao, thì gọi là Lỗ thổ. Con trai cả sống ở đất này thì hưng vượng, phú
quí anh hào. Nếu địa thế âm trạch mà phía đông thấp, phía tây cao, thì lại
không Tốt.
Tề thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở trước cao sau thấp thì
gọi là Tề thổ. Cư trú ở đây không tốt
Vệ thổ: Địa hình bên ngoài nhà ở. Địa thế nhà ở bốn phía cao, ở giữa
thấp thì gọi là Vệ thổ. Cư trú ở đây không tốt
Tú thần tương ứng: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm phía đông nhà có
dòng chảy là Thanh long, phía tây nhà có đường đi là Bạch hổ, phía nam
có ao hồ là Chu tước, phía bắc có gò đống là Huyền vũ. Có đủ 4 thủ đó
gọi là cách tứ thần tương ứng, là đất đại cát đại quí. Cư trú ở đây cực tốt
Huyền vũ thú: Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía sau (phía bắc) nhà ở có gò
đống hoặc công trình kiến trúc cao thì gọi là Huyền vũ thủ ( Huyền vũ
trấn giữ). Cư trú ở đây đại cát
Chu tước môn : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phía trước (phía nam) nhà ở
địa thế trải rộng ra gọi là Chu tước môn. Cư trú ở đây đại cát.
Tứ phương vị : Địa hình bên ngoài nha ở. Bốn phía nhà ở bị các con
đường bao vây, gọi là đất Tứ phương vị. Cư trú ở đây rất xấu. Câu ca nói :
"Tứ diện giao đạo chủ hung tàn, họa khởi nhân gia bất khả đương, nhược
bất tôn tài tai họa tử, đầu hà tự vẫn tỉnh trung vong" (đường vây bốn phía
chủ hung tàn, tai họa ập đến người ta kho bề chống đỡ, nếu không tốn
tiền thì cũng chết người, nhảy xuống sông xuống giếng mà tự vẫn)
(Dương trạch thập thư).
Huyết bàn chiếu kinh : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phong thủy dương
trạch lấy phía trước nhà ở có ao hồ hình vuông là “Huyết bàn chiếu kính".
Cư trú ở đây rất xấu. Có thuyết nói rằng phàm phía trước nhà mà có đào
ao hồ mới thì đều là Huyết bàn chiếu kính, không tốt. Câu ca nói : “Nhược
hữu thử đường đương diện tiền, đại đại lao tật bất thậm ngôn. Nhất
đường tiện đoạn nhất nhân táng, hà sủng bất dữ ngoại nhân truyền"
(nếu nhà có ao vuông ở ngay phía trước, thì đời nọ tiếp đời kia bị bệnh
lao, mỗi ao làm chết một mạng người).
Tây ích trạch : Địa hình bên ngoài nhà ở. Tức là làm thêm phòng ốc vào
phía tây ngôi nhà cũ. Phong tục cổ của người Trung Quốc cho rằng Tây ích
trạch là không tốt.
Phong tục này có từ thời Xuân thu Chiến quốc, rất thịnh hành vào đời
Hán, là một trong điều đại kỵ. Sách Phong tục không giải thích :
"Phong tục coi phía tây là cao nhất, làm thêm phòng ốc ở phía đó sẽ hại
cho chủ nhà, nên mới có sự cấm ky đó". Có thuyết nói Đông ích trạch
(làm thêm phòng ốc vào phía đông nhà cũ) cũng không tốt.
Xung hạng : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính
của nhà ở bị đường hẻm đâm thẳng vào. Cư trú ở đây không
tốt. Phong thủy dương trạch coi đường hẻm là thủy đạo (dòng nước ),
Xung hạng chẳng khác gì bị dòng chảy xối, bắn thẳng vào, cho nên phải
tránh. Cách né tránh là làm cổng chếch đi hoặc dùng bùa trấn áp.
Chúng để sát : Địa hình bên ngoài nhà ở . Ch ỉ ngôi nhà nằêm trái ngược
với hướng của các công trình xây dựng xung quanh. Không tốt.
Thuật Phong thuỷ mượn cách này để nhấn mạnh tính nhất trí, hài hòa của
cả quần thể kiến trúc.
Địa đài : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ khoảng đất trống đằng trước nhà,
tức Minh đường. Yêu cầu Địa đài của nhà này không được cao hơn Địa đài
của hai nhà bên phải bên trái: nếu hói thấp mọt chút nhưng đừng trũng
thì tốt.
Đột khuy : Địa hình bên ngoài nhà ở. Phàm một trong 4 phía nhà có chỗ
vết lõm vào hoặc lồi ra thì gọi là Đột khuyết. Cổ nhân mê tín cho rằng nếu
phần lõm vào dài không quá 2/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Khuyết, hung
(xấu); nếu lồi ra không quá 1/3 chiều dài phía đó, thì gọi là Đột, cát (tốt).
Song nếu Đột (lồi ra) ở hai hướng đông bắc và tây bắc thì cát biến thành
hung. Ngoài ra, đột tuy là cát, Khuyết tuy là hung, nhưng còn phải xem
năm sinh của chủ nhà phối với phương vị Cửu tinh, có thể cát biến thành
đại cát, hung biến thành đại hung tại phương vị có đột khuyết.
Kiều lương : Địa hình bên ngoài nhà ở. Nói chung Thuật Phong thủy
nghiêm cấm làm cầu ở 4 phía nhà ở, vì cho rằng bốn phía có cầu là bị bắn
thẳng, ở nhà đó con cháu sẽ khiếp nhược, gia sản lụn bại. Hung. Câu ca
nói : “Nhất kiều cao giá trạch sảnh tiền, tả hữu tương đồng hậu diệc
nhiên, bất xuất tam niên tịnh ngũ tái, gia tư đãng tận mại điền viên"
(Dương trạch thập thư) (trước nhà hai bên nhà mà có một chiếc cầu thì
chỉ trong vòng ba năm gia sản sẽ khánh kiệt phải bán cả ruộng vườn).
Nếu nhà ở bên cạnh cầu thì phải trấn yểm thường dùng bia đá dựng ngay
trước cầu. Một thuyết khác nói rằng nếu quanh nhà có cầu, thì cân
phân biệt cầu ở phương nào, phương suy hay phương vượng; phương suy
mà có cầu thì hung, phương vượng mà có cầu thì cát. Nếu Chu tước (phía
nam) có cầu, không kỵ; nếu Thanh long (phía đông) có cầu, gia đình bình
an. Đối với làng xóm, thị trấn, có khi người ta sử dụng cầu ở thủy khẩu
để phong toả sinh khí, ngăn chặn gió thổi, là một yếu tố quan trọng
của Phong thủy nơi đó. Phong thủy âm trạch thì không coi trọng lắm sự
hiện diện hay không của những cây cầu.
Văn bút tháp : Kiến trục hình tháp. Vì hình dáng giống cây bút, lại cĩ quan
hệ tới sự đỗ đạt, nên có tên gọi đó. Còn gọi là “Văn phong tháp".
Thuật Phong thủy cho rằng, nếu một thành phố hoặc thôn trấn nào đó mà
việc văn chương khoa cử yếu kém, thì tại 4 phương vị là Giáp sơn (chính
đông thiên bắc), Tốn sơn (đông nam), Bính sơn (chính nam thiên đông),
Đinh sơn (chính nam thiên tây ) nên chọn mảnh đất tốt mà xây Văn bút
tháp. Bất kể địa thế nơi ấy thế nào, tháp đều phải cao hơn mọi công trình
kiến trúc khác, thì sẽ có những người đỗ cao. Có khi người ta đắp đất đá
làm hòn giả sơn, cũng được gọi là Văn bút phong, Văn bút sơn.
Ngũ hư ngũ thục : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ 5 trạng thái cát hung của
kết cấu bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy coi 5 điều sau là "Ngũ hư
“: nhà lớn mà ít người cư trú, cổng lớn mà nhà nhỏ, tường rào không trọn
vẹn, giếng và bếp bố trí sai phương vị, nhà rất lớn mà ít phòng ốc; 5 điều
sau là “ngũ thực" : nhà nhỏ mà đông người, nhà lớn mà cổng cửa nhỏ,
tường rào hoàn chỉnh, nhà nhỏ nhưng nhiều gia súc, nước ở phía trước và
phía sau nhà chảy về phía đông nam. Ngũ hư làm cho nghèo hèn, còn
Ngũ thực làm cho người ta phú quí. Thực ra đó là khuynh hướng xây dựng
những ngôi nhà cỡ vừa và nhỏ, đồng thời khuyên người ta chú ý hoàn
thiện kết cấu không gian bên trong nhà ở.
Xuyên cung cửu tinh : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác định
tình trạng cát hung của các ngăn hoặc dãy phòng, để chỉ đạo việc tu sửa
và xây dựng nhà ở. Tuy mang tên Cửu tinh (9 sao), nhưng thực ra chỉ sử
dụng 5 sao là Lục sát, Sinh khí, Ngũ quỉ, Thiên ất, Diên niên, tương ứng
với ngũ hành hỏa, thổ, kim, thủy, mộc, sắp xếp theo trật tự thuận cố
định, không thay đổi, trong đó Lục sát, Ngũ quỉ là hung tinh, dãy hoặc
ngăn phòng ốc nào có hai sao đó thì nên làm nhỏ, thấp, con ba sao Sinh
khí, Thiên ất, Diên niên là cát tinh, phòng ốc nào có 3 sao ấy thì nên làm
cao rộng. Phương pháp sắp xếp cụ thể phải kết hợpvới phương vị Bát
trạch cửu tinh. Trước tiên, xem cửa chính của ngôi nhà mở về hướng nào,
là sao nào, lấy sao ấy làm đại diện cho ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất,
sau đó lần lượt 4 sao kia theo trật tự cố định, thì có thể biết ngăn nào là
sao gì. Ví dụ, ngôi nhà toạ đông hướng tây, mở cửa về hướng Khôn tây
nam, chính giữa phương mở của, tức phương chính tây, là sao Thiên ất;
vậy Thiên ất là ngăn (hoặc dãy phòng) thứ nhất nên làm cao, rộng. Trong
trật tự cố định, Thiên ất ở vị trí thứ tư tiếp sau nó là sao Diên niên. Vậy
Diên niên là người thứ hai, phòng này cũng nên cao rộng. Tiếp sau Diên
niên sẽ trở lại từ đầu, là sao lục sát, ngăn thứ ba, với sao này, phòng nên
thấp nhỏ. Ngăn thứ tư là sao Sinh khí, phòng này nên cao to. Ngăn thứ
năm là Ngũ quỉ, nên thấp nhỏ. Ngăn thứ sau lại là Thiên ất nên làm cao
to. Ví dụ khác, ngôi nhà tọa tây hướng đông, mở cửa hàng Cấn. Chính
giữa phương mở cửa tức đông bắc là sao Lục sát, thì lấy Lục sát làm ngăn
thứ nhất, tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỹ, Thiên ất, Diên niên, Lục sát.
Nếu ngôi nhà mở cửa ở phương vị Tứ chính, thì ngăn thứ nhất là Hán cung
Phúc đức phòng ốc nên làm cao to hoặc vừa phải. Ngăn thứ hai là Lục sát,
tiếp đến Sinh khí, Ngũ quỷ, Thiên ất, Diên niên. Ví dụ, ngôi nhà toạ nam
hướng bắc, mở cửa tại phương Khảm chính bắc, thì Khảm là Bản cung
Phúc đức, lấy đó làm ngăn thứ nhất, tiếp đến Lục sát, là dãy thứ hai, Sinh
khí là dãy thứ ba; Ngũ quỷ là dãy thứ tư; Thiên ất là dãy thứ năm, Diên
niên là dãy thứ sáu. Bất kể nhà nào, nếu cửa của dãy thứ nhất mở ra phía
ngoài, thì từ dãy thứ hai tính là Lục sát, mà không tính đến Cửu tinh theo
phương vị tứ chính nữa. Xuyên cung Cửu tinh gặp sao Sinh khí (Tham
lang, Mộc) cư ở Trung cung, còn gọi là Cát tinh đương hung, phòng ốc
không nên cao to, là một trường hợp ngoại lệ. Phương vị sắp xếp Bát
trạch cửu tinh hữu quan, xin xem thêm các mục Bát trạch.
Tài lộ phân phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phương pháp xác
định cát hung của từng ngăn (hoặc dãy) phòng ốc trong một toà nhà. Căn
cứ Đại du niên biến hào pháp và tam nguyên pháp có thể tính toán cung
Phúc đức của chủ nhà nằm ở đâu và từng người nên ở loại nhà nào;
nhưng trong cùng một toà nhà, cỏ rất nhiều nhân khẩu, già trẻ, trai gái,
mệnh rất khác nhau. Cho nên Phong thủy dương trạch lại có phép Tài lộ
phân phòng để giải quyết tình trạng đó. Phép này tính Cửu tinh cho từng
ngăn (hoặc dãy) phòng ốc , theo toạ hướng và phương mở cửa của chúng.
Trình tự sắp xếp Cửu tinh có thể biết nhờ phép Đại du niên biến hào pháp.
Ví dụ, nhà toạ nam hướng bắc, cửa Khảm, chủ nhà là người thuộc Đông
tứ trạch. Trong nhà đó ngăn thứ nhất mở cửa Khảm, thích hợp cho người
thuộc Đông tứ trạch cư trú. Ngăn thứ hai được ngăn cách bằng tường
vách, mở cửa Đoài (chính tây) , ắt thành nhà toạ đông hướng tây, cửa
Đoài, là Tây tứ trạch, thích hợp cho người nào mạng thuộc Tây tứ trạch cư
trú. Trình tự sắp xếp Cửu tinh của ngăn này giống như ở ngôi nhà toạ
đông hướng tây mở cửa Đoài, ở phương vị cát tinh nên làm phòng ốc cao
to, còn ở phương vị hung tinh thì nên làm phòng ốc thấp nhỏ, người chủ
nên ở phương vị cát tinh. Lại còn phải chú ý kết hợp phương vị cát hung
tinh từng ngăn (hoặc dãy) trong nhà với toàn bộ toà nhà; nếu phương
vị cát tinh của một ngăn trùng với cát tinh của cả tòa nhà, thì đương
nhiên là đã tốt càng thêm tốt; ngược lại, nếu hung tinh của ngăn ấy cũng
là hung tinh của cả toà nhà, thì đã xấu càng thêm xấu; nếu cát tinh lẫn
lộn với hung tinh, thì nên làm phòng thấp nhỏ hoặc vừa phải, tùy tình
hình cụ thể mà xác định. Trong một nhà, vợ chồng không nên ở hai dãy
khác nhau, nếu cung Phúc đức khác nhau, thì lấy của chồng làm chính.
Thuyết tài lộ phân phòng nhằm chứng minh một đại gia đình có thể đoàn
tụ ở một nơi.
Khai môn : Địa hình bên trong nhà ở. Xác định phương vị, ngày giờ tu sửa
hoặc làm và kích thước của cổng và cửa các phòng của ngôi nhà là một
nội dung quan trọng của phong thủy dương trạch. Thuật Phong thủy cho
rằng người sống trong nhà bị cách biệt với sinh khí, phải dựa hoàn toàn
vào sự thông thoáng khí, nên Khai môn rất quan trọng. Câu Ca nói: “Ninh
dữ nhân gia tạo thập phần, bất dữ nhân gia tu nhất môn" (Thà làm cho
người ta mười cái mộ còn dễ hơn sửa một cái cửa) (Dương trạch thập
thư). Trình tự Khai môn cụ thể như sau : trước hết, xác định phương vị
Bát trạch. Thường lấy phương vị cung Phúc đức của chủ nhà hoặc
phương cát tinh làm phương vị Khai môn, nếu nhầm lẫn thì rất xấu. Trước
cổng không nên có Sa, Thuỷ xối thẳng vào, không nên là đường gập
ghềnh nguy hiểm, không nên có cây khô, đền miếu, không nên đối diện
hoàn toàn với cổng nhà khác, không nên bị đường hẻm đâm thẳng tới.
Trên cổng không được xây lầu, chủ bất lợi cho chủ nhà. Cổng lớn và cửa
từng dãy, từng ngăn trong nhà không được nằm trên một đường thẳng,
để sinh khí khỏi bị tiết thóat đi mất. Thứ nữa, tu tạo cổng cửa phải chọn
ngày lành tháng tốt, mùa xuân không được Khai môn ở Phía đông, mùa
hạ ở phía nam, mùa thu ở phía tây, mùa đông ở phía bắc. Làm cổng, cửa
kỵ các sao như Cửu lương, Đại hao, Tiểu hao, Khưu công sát, cộng cả
thảy hơn 10 điều cấm kỵ. Lại có Môn quang pháp tính toán ngày lành hợp
thì tốt, không hợp mà làm thì xấu. Thứ ba kích thước của cổng, cửa phải
theo qui định, không được tùy tiện. Nội dung luận thuật của Phong thủy
dương trạch về Khai môn có phần phù hợp yêu cầu bảo đảm ánh sáng và
sự thoáng khí, là có giá trị. Còn qui định kích thước tỉ mỉ là mang tính
chất mê tín.
Khí khẩu : Địa hình trên trong nhà ở. Chỉ cổng hoặc cửa chính.
Thuật Phong thuỷ cho rằng ngôi nhà tiếp nhận khí ở cổng, cửa, giống như
người hít thở bằng miệng, nên gọi là khí khẩu. Yêu cầu kiến tạo ở phương
vị cát tinh để đón khí tránh hung.
Phúc đức môn : Địa hình bên trong nhà ở. Thuật Phong thủy qui định
rằng phàm là chùa chiền (của Phật giáo) tọa ở 7 phương vị là Khảm
(chính bắc), Cấn (đông bắc), Chấn (chính đông), Tốn (đông nam), Ly
(chính nam), Khôn ( tây nam), Đoài ( chính tây), đều có thể mở cổng cửa
ở chính giữa. Duy tọa ở phương vị Càn (tây bắc) thì không được Khai môn
ở Thìn, Tốn, Ty sơn, tức ở chính hướng đông nam đối diện; mà phải thiên
sang ất sơn, như thế gọi là Phúc đức môn, đại cát.
Thanh long môn : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ ngôi nhà tọa bắc hương
nam mở cổng hoặc cửa ở phương vị đông nam (vị trí Tốn), gọi là Thanh
long môn, cực tốt. Theo thuyết Bát trạch, toạ bắc hướng nam có 3
loại nhà, một toạ bắc hướng nam Ly môn, hai, toạ bắc hướng nam Tốn
môn, ba, toạ bắc hướng nam Khôn môn. Hai loại đầu thi vị trí Tốn chính
là cát tinh Thiên ất, Phúc đức; còn loại thủ ba vị trí Tốn là sao Ngũ quỉ, rất
xấu.
Nội lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ lối đi trong nhà. Trong nhà có một
cưa thì chỉ có một lối đi. Yêu cầu lối đi trong nhà không được xuyên thăng
từ cổng vào đến cuối cùng.
Ngoại lộ : Địa hình bên ngoài nhà ở. Chỉ các con đường bên ngoài không
nên đâm thẳng vào cổng không nên vây quanh tứ phía hoặc kèm hai bên.
Hỏa yên : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc. Thuật Phong thủy cho
rằng khói lửa là vật không lành, cho nên nhà bếp nên bố trí ở phương vị
có hung tinh trong nhà để hun khói hung thần sát khí. Nếu đặt ở phương
vị cát tinh, thì sẽ làm ô uế thần phúc sinh khí, cực hung. Câu ca nói :
"Càn Bính Cấn ất vị hỏa yên, Khôn Đoài Quý thượng thị căn nguyên, Chấn
Tốn hỏa yên Canh thượng thị, Khảm Ly Giáp thượng bất hư truyền"
(Dương trạch thập thư ), nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính
sơn, Cấn trạch thì bếp ở ất sơn; Khôn trạch và Đoài trạch thì bếp ở Qúy
sơn; Chấn trạch và Tốn trạch thì bếp ở Canh sơn; Khảm trạch và Ly trạch
thì bếp ở Giáp sơn, đều là phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm,
Ly là ở phương vị cát tinh. Có thuyết nói Hoả yên là hương hỏa từ đường,
hướng coi đó là Phục vị Phúc đức, đều là dị thuyết về Phong thủy dương
trạch, không đáng tin.
Hóa lộ : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ bếp núc, tức Hỏa yên. Câu ca nói :
“Càn trạch toạ Bính Chấn toạ Canh, Đoài trạch Qúy vị Tốn trạch Tân.
Khảm trạch toạ Giáp Ly tu Ất, Cấn trạch tọa ất Khôn trạch Nhâm"
( Dương trạch thập thư) nghĩa là đối với Càn trạch thì bố trí bếp ở Bính
sơn. Chấn trạch thì bếp ở Canh sơn; Đoài trạch thì bếp ở Quý sơn, Tốn
trạch thì bếp ở Tân sơn, Khảm trạch thì bếp ở Giáp sơn; Ly trạch thì bếp ở
Ất Sơn. Cấn trạch thì bếp ở Ất sơn. Khôn trạch thì bếp ở Nhâm sơn, đều là
phương vị hung tinh sở tại, trừ hai trạch Khảm, Ly là ở phương vị cát tinh.
Thuyết này câu ca hơi khác so với Hỏa yên.
Phóng thủy : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ việc xả nước
của nhà ở. Phong thủy dương trạch rất coi trọng Phóng thủy. Lôi xả nước
có qui định hết sức nghiêm ngặt, theo nguyên tắc chung là dương sơn thì
xả dương, âm sơn thì xả âm. Nghĩa là nước của phương vị dương sơn phải
chảy ra từ dương sơn, mà nước của phương vị âm sơn thì phải chảy ra từ
âm sơn. Trong 24 sơn, thì Càn, giáp, khôn, ất, tý, qúy, thân, thìn, nhâm,
dần, ngọ, tuất là dương sơn, còn Cấn, bính, tốn, tân, dậu, đinh, tỵ, sửu,
canh, hợi, mão, mùi là âm sơn. Cưả xả nước lại chỉ được ở phương vị
Thiên can, cái gọi là “Phóng thủy chỉ tòng thiên thượng khứ" (Dương trạch
thập thư ). Từ dương sơn chảy ra dương thủy, chủ phú quí tột bậc. Từ âm
sơn chảy ra âm thủy, chủ có nhiều con cháu. Nêu lẫn lộn âm dương, tai
họa sẽ dồn dập. Phóng thủy còn phải liên quan tới phương vị Cửu tinh.
Phương vị Tham lang, Văn Khúc, Vũ khúc, thủy chảy đến thì đại cát, thủy
chảy đi thì hung. Phương vị Cự môn, Phụ bật, thủy đến và đi đều cát.
Phương vị Lộc tồn, Liêm trinh, Phá quân, thủy nên chảy đi, không nên
chảy đến. Thủy chảy đến hoặc chảy đi trên phương vị Cửu tinh sẽ có ảnh
hưởng không giống nhau tới chủ nhà. Ví dụ thủy Tham lang chảy đến thì
chủ con trưởng hưng vượng, thủy Cự môn chảy tới, thì con thứ phát triển;
thủy Lộc tồn chảy đến, chủ trong nhà sẽ có quả phụ; thủy Văn khúc chảy
đến, chủ con thứ bị suy kém. Phóng thủy ngoài việc phải theo qui định về
phương vị chảy đến và chảy đi, còn có những điều nên hoặc không nên,
chẳng hạn kỵ chảy thẳng, xuyên ngang, phân nhánh hình chữ Bát; kỵ
chảy ngầm bên dưới phòng ốc, tối kỵ chảy xuyên qua cổng. Nên chảy
vòng, men bên cạnh. Tốt nhất là uốn lượn ngoằn ngoèo mà chảy đi.
Phóng thủy (xả nước, thoát nước) là yếu tố tất nhiên phải suy tính khi xây
dựng nhà ở. Thuật Phong thủy đề ra hàng loạt yêu cầu hoàn chỉnh về mặt
này, có nhiều điều đáng tiếp nhận, chẳng hạn cống thoát nước không nên
chảy xuyên qua sân, không nên chảy qua dưới lòng nhà, không để
trong nhà qua mức ẩm thấp, nhưng về mặt phương vị cát hung thì mang
màu sắc mê tín.
Thủy phá Thiên tâm: Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước
trong nhà chảy xuyên thẳng hoặc tràn ngang qua nhà, hung. Nếu xuyên
thẳng qua nhà còn gọi là “Bão thương sát".
Bão thương sát : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ cống thoát nước
trong nhà chảy xuyên thẳng qua giữa nhà; còn gọi là “Thủy phá Thiên
tâm", hung. Xả nước xéo qua nhà cũng gọi là Bão thương sát. Hung.
Khốn tự : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm làm nhà mà xây tường rào vày
xung quanh trước, sau đó mới xây phòng ốc, gọi là “khốn tự", vì giống
hình chữ "Khốn". Chủ nhà này sẽ không thể phát đạt, hưng vượng nổi.
Đình táng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà đã làm xong, lại làm thêm
một phòng ốc nhỏ ở phía sau, gọi là Đình táng, không tốt. Ai sống trong
căn phòng làm thêm ấ thì đại hung.
Long đốn trạch : Địa hình bên trong nhà ở. Sau phòng ở làm nhà kho,
gọi là Long đốn trạch. Vì phía sau nhà là Lai long, nên có tên như vậy.
Xuyên tâm sát : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm lối đi bên trong hoặc
đường đi bên ngoài đâm thẳng vào cổng nhà thì gọi là Xuyên tâm sát.
Qui đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà tọa bắc hướng nam mà
làm thêm phòng ốc ở phía trước, gọi là Qui đầu, vì giống con rùa thò đầu
ra. Được giải thích là nhà đó sẽ bị hao tài tốn của.
Thanh long đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Chỉ nhà ở có phòng ốc phía
bắc, phía đông, mà không có phòng phía tây, gọi là Thanh long đầu;
ngược lại thì gọi là Bạch hổ đầu. Bạch hổ đầu Câu ca nói : “Thử ốc danh vi
Thanh long đầu, tất chủ trưởng phòng y thực sầu. Tại gia cô quả chủ
trưởng bại, xuất khứ bất hồi không ỷ lâu” (nhà kiểu Thanh long đầu thì
con trưởng suy bại, nghèo khổ). "Thử ốc danh vi Bạch hổ đầu, tất chủ tiểu
phòng y thực sầu. Ấu nam cô quả tất tổn bại, tiện kiến nguyên nhân tại lí
đầu” (nhà kiểu Bạch hổ đầu thì con thứ suy bại, nghèo khổ) ( Dương trạch
thập thư ).
Thanh long phệ đầu tháp vĩ : Địa hình bên trong nhà ở. Căn phòng phía
đông mà đầu nam nối với một phòng nhỏ, gọi là ."Thanh long phệ đầu”,
đầu bắc nối với một phòng nhỏ, gọi là "Thanh long tháp vĩ". Câu ca nói:
"Thanh long tháp vĩ cộng phệ đầu, nhất niên lục độ trưởng tử sầu, tiền tài
phá tán nhân tật bệnh, thời thời ương quái chí môn đầu” (ở nhà kiểu
Thanh long co đầu rụt đuôi thì con trưởng trong một năm sáu lần gặp
chuyện buồn, như hao tài tốn của, bệnh tật, tai ương dồn dập) (Dương
trạch thập thu ). Ngoài ra, nếu trong nhà mà phòng phía bắc, phòng phía
tây, phòng phía nam nối với một phòng nhỏ, thì gọi là Huyền vũ phệ đầu
tháp vĩ, Bạch hồ phệ đầu tháp vĩ, Chu tước phệ đầu tháp vĩ, đều là những
kiểu không lành, cần giỡ bỏ hoặc trấn yểm.
Đằng xà cử đầu : Địa hình bên trong nhà ở. Tại gốc đông bắc của nhà ở
xây thêm một phòng nhỏ, gọi là Đằng xà cử đầu. Câu ca nói : " Đằng xà
cử kỳ đầu, cư gia đa hữu ưu, lục súc gia tài tan, tật bệnh sự bất hưu”
(Ở nhà kiểu Đằng xà ngóc đầu thì gặp nhiều chuyện lo buồn như hao tài
tốn của, bệnh tật liên miên, gia súc chết) (Dương trạch thập thư).
Tả hữu tích xạ : Địa hình bên trong nhà ở. Góc nhọn của nóc phòng
chính chĩa thẳng sang phòng phía đông và phòng phía tây ở hai bên phải
trái thì gọi là Tả hữu tích xạ. Câu ca nói : “Oác tích xạ tả phòng, trưởng tử
mệnh tiêu vong. Oác tích xạ hữu phòng, ấu tử chủ li hương, nhược hoàn
tề lai xạ, xạ đắc lãng đãng quang" (Phòng phía đông chủ con trưởng,
phòng phía tây chủ con út. Góc nhọn nóc nhà chĩa sang phòng bên trái thì
con trưởng chết trước, chĩa sang phòng bên phải thì con út phải rời bỏ quê
hương) (Dương trạch thập thư)
Trùng âm phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Phàm nhà chỉ có phòng phía
nam hoặc phòng phía tây mà không có phòng phía bắc, phía đông, thì gọi
là Trùng âm phòng. Câu ca nói : " âm thịnh dương suy tối bất cường, nữ
nhân hưng vượng nhi bất trưởng. Đạo tặc quan sự đô vô số, tuyệt liễu
hậu đại thiểu nhi lang" (Âm thịnh dương suy thì nữ mạnh, nam yếu,
ở nhà này sẽ gặp kiện tụng, trộm cướp và không có con trai nối dõi)
(Dương trạch thập thư)
Cô dương phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Nhà chỉ có phòng phía bắc
gọi là Cô dương phòng. Câu ca nói : “Chỉ hữu nhất bắc phòng, nam vượng
nữ tao ương, tiền tài chủ phá tán, niên niên hữu bất tường" ( Nhà chỉ có
phòng phía bắc, thì nam vượng, nữ gặp tai ương, hao tài tốn của, năm
nào cũng có tai họa) (Dương trạch thập thư).
Giang thi phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Bất kể phòng nào, phàm ở
giữa cao lớn mà hai bên phòng xép thấp nhỏ, thì gọi là Giang thi phòng
( Phòng gánh xác chết). Câu ca nói : “Xung thiên lạc địa lưỡng đầu đê,
tam niên lưỡng độ tổn nam nữ. Hựu chủ giang thi tịnh ngoại tử, thái tuế
đương môn vô cải di" ( Nhà kiểu Gánh xác chết thì ba năm gặp hai cái
tang, một nam một nữ) (Dương trạch thập thư)
Đơn nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ơû đầu phía đông của căn
phòng phía bắc làm thêm một phòng xép thì gọi là Đơn nhĩ phòng. Câu ca
nói : “Đường ốc đông đầu tiếp tiểu phòng, trạch trung tiểu khẩu tu tao
ương, tam niên lưỡng độ ứng nan miễn, nhân khẩu lục súc hữu tổn
thương" ( Nhà kiểu Đơn nhĩ phòng thì dễ bị tai họa, ba năm hai lần bị tổn
hại về người và gia súc) (Dương trạch thập thư).
Song nhĩ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở cả hai đầu của căn phòng
phía bắc đều làm thêm phòng xép, thì gọi là Song nhĩ phòng. Câu ca nói :
"Bắc phòng lưỡng đầu đô hữu phòng, trạch trung lão thiếu thường bệnh
ương, ám phong huyết khí tịnh hoàng thũng, hạch thấu sinh phong chủ
ôn hoàng" (Ở nhà kiểu Song nhi phòng thì già trẻ đều dễ bị các loại bệnh
như ho lao, phù thũng...) (Dương trạch thập thư).
Tiểu tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Đằng trước nhà lại xây một
phòng chính chắn ngang, gọi là Tiểu tự phòng. Câu ca nói : " Mạc cái Tiểu
tự phòng, dương nhân hữu tai ương. Nhân khẩu đa hữu bệnh, nhất niên
lưỡng độ vong" (chớ nên làm nhà kiểu chữ Tiểu mà nam giới bị bệnh, một
năm có hai người chết) (Dương trạch thập thư).
Thủy tự phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Ở hai bên phòng chính lại có
phòng, gọi là Thúy tự phòng. Câu ca nói : “Mạc cái Thủy tự phòng, âm
nhân hữu tai thương, đa phục cổ độc tử, nhất niên lưỡng độ vong ( chớ
nên làm nhà kiểu chữ Thủy mà nữ giơi bị bệnh cổ trướng, một năm có hai
người chết ) ( Dương trạch thập thư).
Vương tụ phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Từ phòng chính nhô ra hai
bên đông tây hai phòng như hình chữ Vương, gọi là Vương tự phòng. Câu
ca nói : "Mạc cái Vương tự phòng, gia trương tất tai ương, thũng khí tịnh
cước tật, âm nhân tất tổn thương” ( chớ nên làm nhà kiểu chữ Vương mà
gia trưởng bị tai ương, bệnh phù thũng, phù chân, nữ giới bị tổn thương) (
Dương trạch thập thư).
Lộ cốt phòng : Địa hình bên trong nhà ở. Khi làm nhà để lộ ra các đầu
keo bằng gỗ ở mái hiên, gọi là Lộ cốt phòng. Câu ca nói : “Nhưọc cái Lộ
cột phòng, lão gia bệnh trước sàng, sổ niên tần tần khổ, bất miễn mại
điền trang" (chớ nên làm nhà kiểu lộ xương mà người già sẽ ốm liệt
giường mấy năm, phải bán sạch ruộng vườn ) (Dương trạch thập thư).
Trạch thần : Thần cai quản nhà ở. Có thuyết lấy thần thổ địa làm Trạch
thần, có thuyết lấy ông Táo làm Trạch thần.
Chủng thụ thuyết : Qui định của Thuật Phong thủy về việc trồng cây.
Nhin chung có thể chia ra hai loại, khung cảnh lớn và khung cảnh nhỏ.
Trong khung cảnh lớn, để bảo vệ cây cối là chính, Thuật Phong thủy cho
rằng cây co là da và lông của Long, mà lai long là mạch máu sở tại
của nhà ở và mộ phần, chặt cây ắt Long bị tổn thương. Hơn nữa, cây mọc
ở phương vị tốt, chặt cây tức là trừ bỏ điều lành ; cây mọc ở phương vị
hung, chặt cây tức là kích động sự hung hãn. Do đó nghiêm cấm chặt cây.
Có khi chủ trương trồng cây một cách có chủ đích, ví dụ nếu hậu sơn Lai
long và Sa hai bên tả hữu thưa thớt cây cỏ, thì có thể dùng sức người
trồng cây cho khói thưa thớt. Bờ thủy khẩu và trên núi cũng có thể trồng
cây để bảo đảm tính kín đáo của thủy khẩu.
Trong khung cảnh nhỏ, chủ yếu trong phạm vi nhà ở, thì có nhiều thuyết
phức tạp, trồng cây ở vị trí nào phải theo qui định rất nghiêm ngặt. Chẳng
hạn, ở phía đông trồng cây hạnh, chủ nhà sẽ say mê tửu sắc, toàn gia ly
tán, hung. Tại phía bắc có cây mận, phía tây có cây đào, thì người nhà ấy
dâm tà, hung. Bốn phía quanh nhà đều có hoa hồng, thì chủ nhà nát
rượu, hung. Còn trồng đào, liễu ở phía đông, cây du, cây quất ở phía tây,
cây mai cây táo ở phía nam, cây hạnh cây thị ở phía bắc, thì cát. Trước
cửa giữa trồng hoè, ba đời phú quí; sau nhà có cây du, ma quỉ chẳng dám
bén mảng. Tùng, trúc cũng là những thứ cây lành. Câu ca nói : “Thanh
tùng úc úc trúc y y, khí sắc quang dung hảo trú cơ" ( tùng xanh trúc vàng
từng khóm làm đẹp cảnh sắc nhà cửa) ( Dương trạch thập thư). Nếu địa
hình làm nhà trái qui tắc, dẫn tới hung họa, cũng có thể trồng cây để biến
hung thành cát. Thuật Phong thủy rất coi trọng cây cối ở trước cổng. Qui
định rằng trước cổng không được cò cây lớn, không được có một cây độc
nhất, không được có cây rỗng ruột, không được có cây cành sứt sẹo,
không được trồng bụi mây song ... Thuyết trồng cây trong
Thuật Phong thủy tuy có yếu tố mê tín, song cũng có tính khoa học của
nó.
Biện thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để
phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định
làm nhà, ta đào một cái hố vuông, mỗi chiều 1 thước 2 tấc, độ sâu cũng
vậy. Đất đào lên đem đập vụn, sàng qua, rồi đổ xuống hố, lấp đầy thì
thôi, không được nén. Sáng sớm hôm sau ra đó quan sát, nếu thấy đất
trong hố lồi lên, chứng tỏ sinh khí dồi dào, làm nhà rất tốt; nếu thấy hố
lõm xuống, chứng tỏ sinh khí suy kiệt, làm nhà ắt là hung. Biện thổ pháp
giống như Xứng thổ pháp, là phương pháp khảo sát xác định chất đất thời
cổ cua Trung Quốc.
Xứng thổ pháp : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để
phân biệt chất đất tốt xấu. Cách làm cụ thể như sau. Tại nền đất định
làm nhà, ta lấy một cục đất vuông, mỗi chiều 1 tấc. Đem cân lên, nếu
nặng 9 lạng là đất tốt, nặng 5 - 7 lạng là đất tốt vừa, nên làm nhà; còn
chỉ nặng 4 lạng trở xuống là đất dữ, không nên làm nhà. Hoặc đào đất,
đập nát, dùng đấu mà đong rồi cân. Nếu mỗi đấu cân nặng 10 cân là rất
tốt, nặng 8 - 9 cân là tốt vừa, nặng 7 cân cũng tốt. Phương pháp này là
sự tổng kết kinh nghiệm lâu đời mà có, xác định độ bền của nền đất xây
dựng khá chính xác.
Thổ sắc : Phương pháp mà Thuật Phong thủy sử dụng để phân biệt chất
đất tốt xấu. Người ta quan sát màu sắc của đất nơi đào mộ hoặc làm nhà,
chia ra 5 loại màu : đỏ, vàng, trắng, xanh, đen. Ba màu đỏ, vàng, trắng
là tốt nhất, màu xanh kém hơn, xấu nhất là màu đen.
Tục khí : Tức là tiếp tục sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng nhà ở sau
một thời gian sẽ hết sinh khí, cần được tiếp tục bồi bổ sinh khí. Cũng có
phân biệt Bát trạch mà qui định thời hạn khác nhau. Ví dụ, Càn trạch sau
40 năm hết sinh khí , Khôn trạch sau 50 năm... Khi đó phải Tục khí (hoặc
Hoán khí, nghĩa là dùng gạch mới, đất mới tu tạo nhà ở).
CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM
Mệnh chủ : Chủ nhân của ngôi nhà. Cổ nhân cho rằng nam sinh của mỗi
người khác nhau, nên cung mệnh sở thuộc cũng khác nhau. Phong thủy
dương trạch yêu cầu căn cứ cung mệnh của chủ nhà mà tính toán thuộc
tính của ngôi nhà để xác định phương vị lành dữ và ngày khởi công, nên
gọi là Mệnh chủ. Mệnh chủ có phân biệt nam nữ.
Đông tứ mệnh : Thuật Phong thuỷ cho rằng, phàm cung Phúc đức của ai
ký gửi ở 4 quẻ Chấn, Tốn, Khảm, Ly, thì là người sinh Đông tứ vị, thuộc
Đông tứ mệnh. Theo lý luận Phong thủy dương trạch, người sinh Đông tứ
mệnh chỉ có thể ở tại Đông tứ trạch, ví dụ đối với người Khảm mệnh trong
Đông tứ trạch, Phúc đức tại Kham, thì nhà toạ bắc hướng nam là cực
tốt, nhà toạ nam hướng bắc là rất tốt, nhà toạ tây hướng đông cũng tốt,
còn toạ đông hướng tây thì hung. Cũng có thể áp dụng phương pháp Tài
lộ phân phòng. Phòng ngủ ở phòng phía nam dãy đông là cực tốt, ở phòng
phía đông dãy nam là rất tốt, ở phòng phía bắc dãy giữa cũng tốt. Cổng
nếu mở ở phương đông nam Tốn sơn, tỵ sơn, thìn sơn, là cực tốt; tại
phương chính bắc Khảm sơn sẽ là cổng Phúc đức, rất tốt; tại phương
chính nam Ly sơn cũng tốt. Giếng nước nếu ở phương vị đông nam thìn
sơn, ty sơn thì đại cát. Bếp nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần
sơn. Cối giã gạo nên đặt ở phương đông bắc, Giáp sơn, Dần sơn và
phương chính tây Đoài sơn. Chuồng gia súc nếu bố trí ở phương đông
nam thì đại cát. Phong thủy (thoát nước) nên bố trí tại Giáp sơn, ất sơn.
Mệnh Chấn, mệnh Ly, mệnh Tốn qui định còn phức tạp hơn. Thực ra đều
có qui luật phải theo, đó là căn cứ trật tự sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở
phương vị cát tinh thì bố trí tọa hướng, mở cổng của, làm phòng ngủ,
giếng nước, chuông gia súc, còn ở phương vị hung tinh thì bố trí bếp
núc, nhà xí, cối giã gạo.
Tây tứ mệnh : Thuật Phong thủy cho rằng, phạm cung Phúc đức của ai
ký gửi ở 4 quẻ Càn, Khôn, Cấn, Đoài, thì là người sinh Tây tứ vị, thuộc
Tây tứ mệnh. Theo lý luận Phong thuỷ dương trạch , người sinh thuộc Tây
tứ mệnh chỉ có thể ở tại Tây tứ trạch, ví dụ Càn mệnh lấy cung Càn làm
cung Phúc đức, thì ở ngôi nhà toạ bắc hướng nam Khôn môn, hoặc
ngôi nhà toạ nam hướng bắc Càn môn là rất tốt, ở ngôi nhà toạ đông
hướng tây Càn môn, Khôn môn, Đoài môn cũng tốt, nhà toạ nam hướng
bắc phong Cấn Sửu sơn. toạ tây hướng đông phương Cấn Dần sơn cũng
tốt. Cổng nhà nên mở ở phương Tây bắc Càn sơn, Hợi sơn, Tuất sơn; ở
phương tây nam Khôn sơn, Mùi sơn, Thân sơn, thì rất tốt. Cổng ở phương
chính tây Tân sơn, đông bắc Dần sơn, Sửu sơn, cũng tốt. Nhưng không
được ở chính cấn sơn vì đó là Qui môn. Phòng ngủ thì lấy lầu trên phòng
phía tây là tốt nhất; cũng có thể ở phòng phía bắc dãy tây, dãy đông,
phòng phía nam dãy tây. Giếng nước, chuồng gia súc mà đặt ở phương
chính tây thì đại cát. Bếp ở phương nam Bính sơn, cối giã gạo ở phương
chính đông, đông nam là đại cát Phóng thủy (thoát nước) ở phương đông
Giáp sơn, Ất Sơn, phương bắc Nhâm sơn, Qúy sơn là đại cát. Khôn mệnh,
Cấn mệnh, Đoài mệnh cũng theo nguyên tắc tương tự đó là căn cử trật tự
sắp xếp Bát quái cửu tinh, ở phương vị cát tinh thì bố trí toạ hướng, mở
cổng cửa, làm phòng ngủ, giếng nước, chuồng gia súc; còn ở phương vị
hung tinh thì bố trí bếp núc, nhà xí, cối giã gạo.
Phúc đức : Còn gọi là cung Phúc đức. Chỉ nơi ký gửi năm mệnh của
chu nhà, phương vị của nó dùng Bát quái thay thế. Ví dụ, nếu Phúc đức
của một người chủ nhà nào đó là Càn, ắt người đó thuộc Tây tứ vị, nên ở
Tây tứ trạch, mở cổng ở vị trí Càn (tây bắc). nếu Phúc đức của một người
chủ nhà nào đó là Chấn, ắt người đó thuộc Đông tứ vị, nên ở Đông tứ
trạch, mở cổng ở vị trí Chấn ( chính đông). Muốn biết cung Phúc đức ở
quẻ nào, có thể dùng Tam nguyên pháp mà tính. Biết nó ở quẻ nào rồi,
thì dùng Đại du niên biến hào pháp sẽ tính ra tình trạng lành dữ của 8
phương vị (Tứ chính và Tứ ngung).
Du niên biến trạch pháp : phương pháp tính lành dữ năm làm nhà căn cứ
tuổi của chủ nhà. Cần phối hợp với Tam nguyên pháp, Cửu cung kiến
trạch pháp, Đại du niên biến hào pháp. Cách tính như sau. Nam nữ đều
khởi tính từ Đoài là 10 tuổi, nam thì đến Ly 20 tuổi, đến Chấn 30 tuổi đến
Khảm 40 tuổi. đến Càn 41 tuổi, đến Đoài 42 tuổi. Theo Tam nguyên pháp,
nữ sinh năm Bính Ngọ, trung nguyên, thì cung Phúc đức nằm ở quẻ Cấn.
Theo Cửu cung kiến trạch pháp, định cung Sinh của người này là Chấn;
rồi theo Đại du niên biến hào pháp tính ra các phương vị sắp xếp Cửu tinh
cho Chấn trạch như sau : Phúc đức ( Chấn), Diên niên (Tốn), Sinh khí
(Ly), Hoạ hại ( Khôn ), Tuyệt mệnh ( Đoài ), Ngũ quỉ ( Càn ), Thiên ất
( Khảm ), Lục sát ( Cấn ). Đã biết Du niên của người ấy ở Đoài, vị trí đó là
Tuyệt mệnh, thì năm Đinh Hợi 42 tuổi tuyệt đối không được làm nhà, đại
hung.
Theo Du niên biến trạch pháp, sẽ biến được tình trạng cát hung Cửu tinh
diên niên của chủ nhà như sau. Biến được Thiên ất, chỉ trong một
năm nhà ấy có người đỗ cao; biến được Sinh khí, chủ nhân khâu và gia
súc tăng nhiều, phú quí liên tục; biến được Diên niên, chủ trong vòng 180
ngày có tin vui, hỉ sự; biến được Phúc đức (Phục vị), chủ người nhà đi xa
trở về đoàn tụ. Đó là 4 cát tinh, gặp chúng thì nên khởi công tu tạo nhà ở.
Câu
ca nói : "Sinh khí Diên niên kiêm Phục vị, Thiên ất tứ lộ hảo hưng công"
( Dương trạch thực thư). Biến được Lục sát, chủ người nhà bị chết trong
vòng một năm có tai họa lớn; biến được Ngũ quỉ, thì trong vòng 200 ngày
sẽ có tang; biến được Tuyệt mệnh, chủ hai năm sau, con trai giữa sẽ bị
chết; biến được Hoạ hại, hao tài tốn của. Đó là 4 hung tinh, gặp chúng thì
không nên động thổ làm nhà
Cứu cung biến trạch pháp : phương pháp tính cung Định sinh căn cứ vào
nơi ký gửi cung Phúc đức của chủ nhà. Cần kết hợp với Tam nguyên pháp.
Trình tự cụ thể như sau. Theo Tam nguyên pháp mà tính ra xem cung
phúc đức của chủ nhà nằm ở quẻ nào; tiếp đó theo hình bàn tay Dã mã
khiêu động đồ mà khởi tính số 1 từ cung ấy, bấ kể nam nữ, theo chiều
nghịch lùi lại 5 cung, tức là cung Định Sinh. Ví dụ, chủ nhà là nam, sinh
năm Canh Tý, thượng nguyên. Theo Tam nguyên pháp, tính ra cung Phúc
đức (bản cung) nằm ở Khảm, lùi ngược lại là Ly, lùi tiếp 5 cung đến 5
trung là vị trí Ngọ, nam giới thì 5 cung ky gửi tại Khôn, ta biết cung Định
Sinh của anh ta là Khôn. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Giáp Tuất,
hạ nguyên. Dùng Tam nguyên pháp tính ra Bản cung nằm tại Ly, lùi lại
sau Ly là Cấn, từ Cấn lùi trên ngón tay 5 cung là Tốn, ắt ta biết cung Định
Sinh của người này là Tốn. Sau khi biết cung Định Sinh, có thể dùng
phương vị Bát trạch cửu tinh cùng Du niên biến trạch pháp mà tính được
Du niên sở tại, tử đó sẽ biết cát hung của việc khởi công tu tạo nhà ở.
Hành niên hiên trạch pháp : Phương pháp mê tín lấy hành niên của
chủ nhà để tính cát hung cho việc làm nhà. Đem 12 thần phối với 12 địa
chi, qui định rằng năm Tý là Thần hậu, năm Dần là Công tào, năm Ngọ là
Thắng Quang, năm Thân là Truyền Tống; 4 năm đó gọi chung là năm Đại
thông, tu tạo nhà ở sẽ đại lợi. Năm Hợi là Đăng Minh, năm Sửu là Đại Cát,
năm Mùi là Tiểu Cát Ba năm này gọi chung là năm Tiểu thông, nên tu
tạo nhà ở. Năm Mão là Thái Xung, năm Dậu là Tòng Khôi, năm Ty là Thái
ất; ba năm này là năm tiểu hung, không nên tu tạo nhà ở. Năm Thìn là
Thiên Canh, năm Tuất là Hà Khôi, hai năm này đại hung, làm nhà sẽ gặp
tai hoạ. Câu ca nói : " Tý Ngọ Dần Thân vi Đại thông, Tiểu thông Sửu Hợi
Mùi Đăng Minh, Thái ất Mão Dậu bất kham tạo, Thìn Tuất Thiên Canh vị
đại hung (Dương trạch thập thu ). Đã biết cát hung 12 năm, sẽ phân ra
nam nữ để tính hành niên của chủ nhân để định lành dữ. Đầu tiên giở
xem bảng Lục thập Giáp tý. Từ năm Giáp tý trở xuống 10 năm là tuần
giáp tý, từ năm Giáp tuất trỏ xuống 10 năm là tuần Giáp tuất, tương tự là
tuần giáp thân, tuân Giáp ngọ, tuần Giáp thìn, tuần Giáp dần. Mệnh nam,
người sinh vào tuần Giáp tý, 1 tuổi khởi tính từ Bính dần, 11 tuổi là Bính
tý, 21 tuổi là Bính tuất, 31 tuổi là Bính thân, 41 tuổi là Bính ngọ, 51 tuổi
là Bính thìn, 61 tuổi là bính dần. Người sinh vào tuần giáp tuất 1 tuổi khởi
bính tý, 11 tuổi là Bính tuất. Người sinh vào tuần Giáp thân 1 tuổi khởi
Bính tuất, 11 tuổi là Bính thân. Người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi
Bính thân, 11 tuổi là Bính ngọ. Người sinh vào tuần giáp thìn, 1 tuổi khởi
Bính ngọ, 1 1 tuổi là Bính thìn. Người sinh vào tuần Giáp dần, 1 tuổi khởi
Bính thìn, 11 tuổi là Bính dần. Mệnh nữ thì người sinh vào tuần Giáp ty, 1
tuổi khởi Nhâm thân, 11 tuppri là Nhâm tuất 21 tuổi là Nhâm tý, 31 tuổi
là Nhâm dần, 41 tuổi là Nhâm thìn, 4l tuổi là Nhâm ngọ, 5l tuổi là Nhâm
thân. Người sinh vào tuần Giáp tuất, 1 tuổi khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là
Nhâm tý; người sinh vào tuần Giáp thân, 1 tuổi khỏi Nhâm tý, 11 tuổi là
Nhâm dần; người sinh vào tuần Giáp ngọ, 1 tuổi khởi Nhâm dần, 11 tuổi
là Nhâm thìn; người sinh vào tuần Giáp thìn 1 tuổi khỏi Nhâm thìn, 11
tuổi là Nhâm ngọ; người sinh vào tuần Giáp dần 1 tuổi khởi Nhâm ngọ, 1
1 tuổi là Nhâm thân. Khi tính toán, cần chú ý đối vơi nam , theo chiều
ngang tính nghịch, theo cột dọc tính thuận, còn đối với nữ, theo chiều
ngang tính thuận, theo cột dọc tính nghịch. Tức la nam tính từ phải sang
trái theo chiều ngang hết hàng ngang thì chuyển xuống dưới 1 hàng; nữ
thì tính từ trái sang phải theo chiều ngang, đến cuối thì chuyển lên 1
hàng. Vi dụ, chủ nha là nam, sinh năm Tân Sửu, đến nam Mậu Tuất là 58
tuổi ( tuổi mụ). Tân Sửu thuộc tuần Giáp Ngọ, 1 tuổi khởi tính từ Bính
thân, 11 tuổi là Bính ngọ, 21 tuổi là Bính thân, 3l tuổi là Bính dần, 41 tuổi
là Bính tý, 51 tuổi là Bính tuất, theo chiều ngang lùi lại là ất Dậu 52 tuổi,
Giáp thân 53 tuổi, theo cột dọc tính thuận, chuyển xuống 1 hàng là Qúy
mão 54 tuổi, Nhâm dần 55 tuổi, tân sửu 56 tuổi, Canh tý 57 tuổi đến Kỷ
hợi 58 tuổi. Thuận với hành niên của chủ nhà tài lợi, Hợi là Đăng Minh, là
năm Tiểu thông, có thể làm nhà, vậy thì biết rằng năm ông này 58 tuổi
mà làm nhà thì tốt. Ví dụ khác, chủ nhà là nữ, sinh năm Đinh sửu, đến
năm Tân dậu là 45 tuổi (tuổi mụ). Đinh sửu thuộc tuần Giáp tuất, 1 tuổi
khởi Nhâm tuất, 11 tuổi là Nhâm tý , 21 tuổi là Nhâm dần, 31 tuổi là
Nhâm thìn, 41 tuổi là Nhâm ngọ, chiều ngang tính thuận đến Qúy mùi 42
tuổi, cột dọc tinh nghịch, chuyển lên 1 hàng là Giáp tý, 43 tuổi, tiếp đến
ất sửu 44 tuổi, Bính dần 45 tuổi, thuận với hành niên của bà này tại Dần,
Dần là Công Tào, là năm Đại thông, làm nhà thì đại lợi. Vậy ta biết bà này
mà làm nhà vào năm 45 tuổi thì rất tốt.
Mệnh tiền ngũ thần pháp : phương pháp tính năm làm nhà cát hung căn
cứ năm sinh của chủ nhà và Thái tuế sở tại Ngũ thần tức là đem 10 thiên
can chia ra 5 nhóm, mỗi nhóm 1 thần, cộng là 5 thần, cát hung khác
nhau. Giáp, ất là Thanh Long; Bính, Đinh là Minh Hỷ; Mậu, Kỷ là Thương
Khố; ba thần ấy là thần hành. Thương khố chủ lúa thóc đầy kho. Minh hỷ
chủ hỉ sự dồn dập. Thanh long chủ đại phú đại quí, đều nên tu tạo nhà ở.
Nhâm, Qúy là Đạo tặc, chủ chuốc họa trộm cướp, hao tài tốn của. Canh,
Tân là Bạch hổ, chủ tai họa, tang tóc; đó là 2 hung thần, xung phạm thì
đại hung, không nên tu tạo nhà cửa. Đem 5 thần trên phối với năm sinh
của chủ nhà, tức là Mệnh tiền ngũ thần. Người sinh năm Tý ngũ thần ở
Tỵ. Người sinh năm Sửu ngũ thần ở Ngọ. Người sinh năm Dần ngũ thần ở
Mùi. Người sinh năm Mão ngũ thần ở Thân. Người sinh năm Thìn ngũ thần
ở Dậu. Người sinh năm Tỵ ngũ thần ở Tuất. Người sinh năm Ngọ ngũ thần
ở Hợi. Người sinh năm Mùi ngũ thần ở Tý. Người sinh năm Thân ngũ thần
ở Sửu. Người sinh năm Dậu ngũ thần ở Dần. Người sinh năm Tuất ngũ
thần ở Mão. Người sinh năm Hợi ngũ thần ở Thìn. Khi tính cụ thể thì phối
hợp với Thái tuế sở tại và phép “Ngũ hổ độn". Thái tuế sở tại : năm Giáp
tý tại Tý, năm ất sửu tại Sửu, năm Bính dần tại Dần, các năm khác cứ thế
mà suy. Khẩu quyết “Ngũ hổ độn" là : Giáp, Kỷ chi niên Bính tác thủ, ất
Canh chi tuế Mậu vi đầu, Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng, Đinh Nhâm
chi vị thuận hành lưu, Mậu Quý chi tuế hà phương khởi, Giáp dần chi
thang hảo suy cầu” (Dương trạch thập thư). Nghĩa là năm Giáp, năm Kỷ
thì khởi tính từ Bính dần; năm ất, Canh khỏi từ Mậu dần, năm Bính, tân
khởi từ Canh dần; năm Đinh, Nhâm khởi từ Nhâm dần; năm Mậu Qúy
khởi từ Giáp dần. Lại tham chiếu bảng Lục thập Giáp tý để biết Mệnh tiền
ngũ thần sở tại của chủ nhà. Ví dụ, một người sinh năm Ngọ muốn biết
năm Mậu Tuất tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là Mậu Tuất. Theo
Ngũ hổ độn, năm Mậu, Qúy khởi Giáp dần, ở bảng Lục thập giáp tý ta
hướng sang bên phải thuận đến Qúy hợi. Người sinh năm Ngọ, ngũ thần
tại Hợi, cho nên phải đếm từ Giáp dần trở đi, tới năm Hợi thì dừng. Qúy là
Đạo Tặc, vậy Mệnh tiền ngũ thần năm mậu Tuất của ông tuổi Ngọ nói
trên là Đạo Tặc, không nên tu tạo nhà cửa. Ví dụ khác, người sinh năm
Tuất muốn biết năm ất sửu tu tạo nhà ở lành dữ thế nào. Thái tuế là ất
Sửu. Theo Ngũ hổ độn, năm ất, Canh khởi Mậu dần, ở bảng Lục thập giáp
tý ta hướng sang bên phải thuận đến năm Mão. Người sinh năm Tuất thì
ngũ thần ở Mão. Mậu, Kỷ là Thương Khố, chủ tiền của đầy kho, vậy người
ấy làm nhà vào năm ất Sửu thì đại lợi.
Định tinh : Tức sao Doanh Thất, còn gọi là sao Doanh, một trong Nhị thập
bát tú (28 sao). Phong tục thời xưa lấy phương vị sao Định sở tại để khởi
công động thổ cho rằng đó là lành. Phương vị sao Định trong 12 tháng
không giống nhau, tháng Giêng nhìn thấy nó ở Thìn, tháng hai nhìn thấy
nó ở Mão, tháng ba nhìn thấy nó ở Dần, tháng tư nhìn thấy nó ở Sửu,
tháng năm nhìn thấy nó ở Tý, tháng sáu nhìn thấy nó ở Hợi, tháng bảy
nhìn thấy nó ở Tuất, tháng tám nhìn thấy nó ở Dậu, tháng chín nhìn thấy
nó ở Thân, tháng mười nhìn thấy nó ở Mùi, tháng 11 nhìn thấy nó ở Ngọ,
tháng Chạp nhìn thấy nó ở Tỵ. Phương vị sở tại của sao Định cùng phương
vị hai sơn tả hữu là có lợi cho việc khởi công động thổ. Ví dụ, tháng Giêng
thấy sao Định ở Thìn, thì tại 3 phương vị Tốn sơn, Thìn sơn, ất sơn đều có
thể động thổ; tháng hai thấy nó ở Mão, thì tại ba phương vị ất sơn, Mão
sơn, Giáp sơn đều có thể đọng thổ. Tiếp theo các tháng khác cứ theo đó
mà suy.
Thần sát xuất du nhật : Chỉ các ngày mà Thái tuế cùng các Thần sát khác
rời vị trí sở tại đi tuần du 5 phương. Trừ phương vị mà các thần Sát đến
tuần du, các phương còn lại đều có thể khởi công động thổ. Ví dụ nếu các
thần đi tuần ở trung ương, thì bốn phương còn lại không hề bị cấm kỵ.
Các thần đi tuần lấy Thái tuế làm đầu, trong 5 ngày giáp tý, ất sửu, bính
dần, đinh mão mậu thìn đi tuần ở phương đông, trong 7 ngày kỷ tỵ, canh
ngọ, tân mùi, nhâm thân, qúy dậu, giáp tuất, ất hợi thì các thần trở về vị
trí cũ; trong 5 ngày bính tý, đinh sửu, mậu dần, kỷ mão, canh thìn đi tuần
ở phương nam, trong 7 ngày tân ty, nhâm ngọ, qúy mùi, giáp thân, ất
dậu, bính tuất, đinh hợi thì các thần trở về vị trí cũ; trong 5 ngày mậu tý,
kỷ sửu, canh dần, tân mão, nhâm thìn các thần đi tuần ở trung ương,
trong 7 ngày quý tỵ, giáp ngọ, ất mùi, bính thân, đinh dậu, mậu tuất, kỷ
hợi thì các thần trở về vị trí cũ ; trong 5 ngày canh tý, tân sửu, nhâm dần,
quý mão, giáp thìn các thần đi tuần ở phương tây, trong 7 ngày ất tỵ,
bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, kỷ dậu, canh tuất, tân hợi thì các thần trở
về vị trí cũ; trong 5 ngày nhâm tý, quý sửu, giáp dần, ất mão, bính thìn
các thần đi tuần ở phương bắc, trong 7 ngày đinh tỵ, mậu ngọ, kỷ mùi,
canh thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi thì các thần trở về vị trí cũ; cứ thế
mà xoay vòng mãi mãi.
Môn quang tinh : Sao Môn Quang theo Phong thủy dương trạch là những
ngày trong tháng mà có sao này chiếu rọi thì tốt lành đối với việc đặt cửa,
làm cửa và mở cửa. Có 2 cách tính sao Môn Quang. Một, theo khẩu
quyết : "Thiêm thiêm tiêu tạc dạ vũ lâm ly vũ quá trường sa mãn động
đình đao tại giang hồ lưu bất tận đắc trừng thanh xứ thị trùng thanh"
( tổng cộng 30 chữ, những chữ nào có bộ "Chấm thủy" tức là ngày có sao
Môn Quang, như các chữ thiêm, tiêu, lâm, ly, sa, mãn, động, giang, hồ,
lưu, trừng, thanh, là ngày lành, còn lại là ngày dữ. Tháng nào đủ thì dùng
câu đó, tháng thiếu (có 29 ngày) thì bỏ chữ thứ ba, chữ “Tiêu”; tháng đủ
hay tháng thiếu thì đều đếm từ ngày mồng 1 trở đi theo chiều thuận. Ví
dụ, ngày 20 tháng đủ, đếm gặp chữ “Lưu” là lành; ngày 20 tháng thiếu,
bỏ chủ thứ ba, nên đếm ngày ấy gặp chữ “Bất” là hung. Cách thứ hai, dựa
vào ký hiệu sắp xếp cố định để tìm sao Mơn Quang
Tháng đủ 30 ngày thì tính ngược từ phía sau lên phía trước; tháng thiếu
chỉ có 29 ngày, thì tính thuận từ trước ra sau, gặp ký hiệu O là ngày lành,
gặp hai ký hiệu H và X là ngày hung ( X thì hại cho gia súc, H thì hại cho
người). Ví dụ, ngày 21 tháng đủ, tính từ sau ngược lên trước, gặp ký hiệu
H, là hung. Tháng thiếu, ngày 21, đếm thuận từ trước ra sau, cũng gặp ký
hiệu H là hung.
Bốc nhật : Bói để biết ngày giờ lành dữ. Cũng chỉ việc chọn ngày tốt để
chôn cất, làm nhà hoặc chuyển nhà. Thuật Phong thủy cho rằng việc chôn
cất, dựng nhà, chuyển chỗ ở nếu không chọn năm, thang, ngày, giờ tốt,
đất tốt thì sẽ hóa thành hung; cho nên rất coi trọng Bốc nhập Sách Duyệt
vi tháo đường bút ký của Kỷ Vân đời Thanh có chép : "Nhà họ Mã nọ
trong nhà bỗng nhiên xuất hiện những điều quái gở, khó tin, bèn "Bốc
nhật"chuyển chỗ ở thì mọi việc trở lại yên lành".
Phù trấn pháp : Phương pháp mê tín ma nghìn xưa sử dụng bùa chú và
các vật đặc định khác để trấn yểm nhà cửa, mộ phần hoặc công trình kiến
trúc khác, đồng thời tiến hành nghi thức tương ứng đặng giải trừ điều dữ.
Tục này có nguồn gốc rất sớm, thới kỳ Tiên Tần đã xuất hiện các hoạt
động trấn yểm như người ta thấy về sau. Thời kỳ Hán Đường bùa chú
thịnh hành khắp nơi với những hình thức vô cùng phức tạp. Phép trấn
yểm liên quan đến âm dương trạch chủ yếu là viết, vẽ bùa, cử hành nghi
thức nhất định, rồi đốt, treo hoặc chôn sâu lá bùa để ngăn chặn nhưng
điều chẳng lành. Đồng thời tục chôn đá cũng rất thịnh hành, mà nội dung
bao hàm từ việc bảo đảm sự bình yên cho ngôi nhà, đến việc đề phòng
chuột cắn quần áo, nội dung trấn yểm trong Thuật Phong thủy cũng rất
đa dạng, bao hàm đủ thứ ăn mặc, ở, đi lại, chủ yếu nhằm ngăn chặn các
hiện tượng quái gở, bằng các hình thức như vẽ bùa, chôn đá, trát bùn đất,
khắc gỗ làm tượng. . phép trấn yểm của Thuật Phong thủy, bùa chú của
Dạo giáo sử dụng các biến thể Giáp cốt văn, Kim văn cùng phù hiệu vô ý
nghía tạo nên, mang màu sắc kỳ bí là nhám an ủi tinh thần người khác.
Tục chôn đá có liên quan đến sự sùng bái đá thời cổ. Có bùa chú sử dụng
dược liệu, cũng có công dụng trừ tà chữa bệnh nhất định . Tuy nhiên,
những nghi thức và vật phẩm đặc định chứng tỏ màu sắc thần bí quá rõ
rệt của phép trấn yểm.
Tam giáo cứu trạch thần phù: Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho
rằng phàm gia quyến thân thích gặp nhiều tai ương là vì khi làm nhà gặp
phải hung tinh cao lớn, cần làm nhà khác. Nếu không làm nhà khác, thì
phải cấp tốc sử dụng “Tam giáo cứu trạch thần phù”, gồm 8 lá bìa, dùng
bút bằng gỗ hồng đào mà viết vẽ, rồi đem dán ở 8 phương, vài tháng sau
tai họa sẽ bớt dần.
Trấn lão trạch họa hoạn bát chỉ pháp : Một trong các phép trấn yểm.
Cổ nhân cho rằng phạm nhà làm đã lâu năm, sinh khí sắp kiệt, người và
tiền của đều tổn thương. Cần lấy 5 thăng đất ở phương vị Bản cung Phúc
đức của chú nhà, 5 thăng đất ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức trộn với
bùn nước chảy về phía đông mà trát lên phương vị Thái tuế của
ngôi nhà ấy. Tiếp đó dùng bút mực son vẽ bùa mà yểm. Mỗi trạch trong
Bát trạch có số năm nhất định. Ví dụ càn trạch 40 năm là hết sinh khí;
Khôn trạch thì 50 năm; nếu không làm nhà thác thì phải trấn yểm như
trên.
Trấn trạch trung yêu tà pháp : Một trong các phép trấn yểm. Chủ ngăn
chặn yêu tà trong nhà. Dùng bút mực son vẽ bài vị Phong Đô đại đế để
thờ, tiếp đó dùng thanh bùa bằng gỗ bách dài 1 thước hai tấc mà trấn
yểm trong nhà.
Trấn phòng ốc tụ hướng pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân
cho rằng đây là cách trân yểm để giải trừ hiện tượng phòng ốc tự dưng vô
cớ phát ra âm thanh kỳ dị Dùng Bạch Chi, phèn trắng và một hòn đá xanh
nặng 60 cân, Chu Sa 1 tiền, Hùng Hoàng 1 tiền rưỡi, cọng cỏ 7 cái, lấy
đất và nước ở phương vị Thiên đức, Nguyệt đức, mỗi thứ 1 thăng, hoà với
bùn mà trát lên chỗ có âm thanh lạ.
Trấn thủy tinh pháp : Một trong các phép trấn yểm. Cổ nhân cho rằng
nếu người ta đào giếng không ở phương vị tốt, thì sẽ gặp hung họa. Khi
đó phải dùng hai phiến gỗ bách dài 1 thước rưỡi, dùng bút mực son vẽ hai
tấm bùa “Ngũ phương thần chú” đính ở miệng giếng. Lại thả một hòn đá
và 1 thăng ngũ cốc vào trong giếng, miệng niệm chú câu sau 7 lần :
“Thần giếng năm phương, hãy ở yên chỗ mình".
Trấn lân cư động thổ xung phạm pháp Một trong các phép trấn yểm. Cổ
nhân cho rằng phàm bốn phía quanh nhà mình mà người ta động thổ
làm nhà sẽ đều xung phạm nhà mình, là hung. Phải lấy 3 phiến gỗ dai 3
thước 6 tấc hoặc 1 thước 2 tấc, dùng bút mực son vẽ ba tấm bùa rồi treo
ở giữa nhà mình.
Mộ huyệt phù : Một trong các phép trấn yểm. Chuyên dùng ở huyệt mộ.
Lấy 4 phiến gỗ đào dài 1 thước, vẽ và viết trên đó như rồi cắm ở 4 góc mộ
huyệt, để giải trừ hiện tượng nhà cửa không yên, tiền tài hao tán.
Giải thổ : Tức cúng Thổ thần để giải trừ hung họa. Thời trước, sau khi
ngôi nhà được làm xong, chủ nhà phải làm lê cúng tạ ơn Thổ thần, vì
động thổ làm nhà e xúc phạm đến quỉ thần tứ phương. Thường là dùng
đất nặn tượng quỉ thần, mời thày cúng tới làm lễ, niệm chú.
Thạch thu đường : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà mình đối
diện với đường hẻm, cầu, thì dùng tấm bia đa, trên khắc ba chủ "Thạch
thủ đường" hoặc năm chữ “Hoàng đế thạch thủ đương” chôn ngay trước
cổng để trấn yểâm. Có nhiều thuyết nói về nguồn gốc phong tục này. Có
thuyết nói nó xuất hiện từ thời Hoàng đế đánh nhau với Si Vưu; có thuyết
nói nó bắt nguồn từ thời Tây Chu, có thuyết bảo từ thời Ngũ đại Văn tự
nhắc đến “Thạch thủ đương" sớm nhất là trong sạch Cấp tựu chương của
Sử Du đời Hán. Nhan Sư Cổ đời Đường chú giải: “Thạch là họ, thủ đương
là mượn tên gọi mà thôi; ý nói là không có gì địch nổi". Phong thủy dương
trạch dùng “Thạch thủ đong" để trấn yểm khi có đường hầm hoặc cây cầu
đâm thẳng vào phía cổng nha. Đa cần được khắc vào 10 ngày sau giết
Đông chí, là các ngày Giáp thìn, Bính thìn, mậu thìn, canh thìn, nhâm
thìn, giáp dần, bính dần, mậu dần, canh dần, nhâm dần, tức là vào “các
ngày Long (thìn), Hổ (dần). Bia làm xong đêm Trừ tịch dùng ba miếng thịt
sống ma cúng, rồi vào giờ Dần thì đem cắm ở cổng.
Sơn trấn hải : Một trong các phép trấn yểm. Khi cổng nhà bị đường hẻm
đâm thẳng vào, thì dùng một tấm bia đá có khắc ba chữ “Sơn trấn hải"
cắm ở trước cổng để trấn áp điều xấu. Tương tự “Thạch thủ dương", song
không được phổ biến rộng rãi bằng.
Sủ Lý Tử: (300 trước CN). Tên là Tật, em trai của Tân Huệ Vương, từng
nhiều lần đem quân Tần đi chinh phạt các nước Triệum Ngụy, Sở;
được phong tước Nghiêm Quân. Khi Tần Vũ Vương lên ngôi ông làm Tả
thừa tướng.
Là một người túc trí đa mưu, biệt hiệu “Trí Nang" (túi khôn). Sắp chết đa
chọn trước cho mình mộ huyệt ở phía nam Vị Thuỷ và nói : “Trăm năm
sau, sẽ có cung tiến từ bên mộ của ta”. Đến đời Hán hưng thịnh, ngươi ta
đã xây dựng cung Trường Lạc ở phía đông ngôi mộ và cung Vị Ương ở
phía tây ngôi mộ, kho vũ khí thì ở ngay chỗ ngôi mộ. Việc này không
đáng tin lắm, nhưng các nhà phong thủy dựa vào đó coi Sù Lí Tử
là nhà địa lý nổi danh đầu tiên.
Thanh Ô tiên sinh : Tức Thanh Ô Tử, người đời Hán. Có thuyết nói ông
là người thời Hoàng đế. Tương truyền tinh thông Thuật Phong thủy. Hiện
có Thanh Ô tiên sinh táng kinh, 1 quyển, nghi là do người thời Tấn -
Đường mạo danh viết ra. Lại có Cựu đường thư Kinh tịch chí chép Thanh
Ô Tử, 3 quyển, đã thất lạc.
Quản Lộ : ( năm 207 - 256 ), tự Công Minh, người nước Ngụy, ở Bình
Nguyên (nay là tây nam huyện Bình Nguyên, tỉnh Sơn đông). Nổi tiếng
thần đồng. Từng được thái thú Thanh Hà tên là Hoa khen có tài văn
chương, lại được thứ sử Ký châu cho giữ chức Văn học tòng sự, sau đỗ tú
tài, làm quan đến chức Thiếu phủ thừa. Quản Lộ tinh thông Chu Dịch, bói
toán, Phong thủy, đoán gì đúng nấy. Từng qua chỗ mộ Vô Khưu Kiệm, tựa
gốc cây buồn bã nói "Cây cối rậm rạp như rừng, nhưng vô hình chẳng thể
sống lâu; bia mộ tuy đẹp, nhưng không có mặt sau để giữ. Huyền vũ rụt
đầu, Thương long không chân, Bạch hổ ngậm xác, Chu tước than khóc, 4
cái nguy đều có cả, đó là cái họa giết cả họ" (Tam quốc chí, quyển 29.
Đây là thuyết Tứ linh của Thuật Phong thủy được thể hiện lần đầu bằng
văn tự.
Hiện còn sách Quán thị địa lý chí mông, 1 quyển, thực ra là của người đời
sau mạo danh. Xem thêm mục Quán thị đều lý chi mông).
Quách Phác : ( năm 276 - 324), tự Cảnh Thuần, người cuối thời Tây Tấn,
huyện Văn Hỷ, Hà Đông (nay là huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây), tránh loạn
đến Giang Đông, lúc đầu được Thái thú thành Tuyên cho làm Tham quân,
sau làm Trước tác tá lang, rồi mượn cớ mẹ mất mà từ chức. Sau lại được
Vương Đôn ban chức Ký thết tham quân, nhưng vì không theo Đôn mưu
phản nên bị Đôn giết. Quách Phác thuở nhỏ yêu thích kinh thuật thơ phú
nổi danh một thời, sau theo Quách Công học Dịch lý, địa lý, thiên văn, bói
toán , được Quách Công tặng Thanh nang thư. Từng chọn đất mai táng
cho mẹ ở bãi sông, người ta báo sao lại chôn dưới nước, ông nói rồi nơi
đây sẽ thành đất khô. Quả nhiên về sau nơi đó được cát bồi thành nương
dâu. Lại từng chọn mộ cho người khác. Tấn Minh đế từng tới xem, hỏi chủ
nhân vì sao chôn ở đất “Long giác", dễ thành tai họa cả họ bị giết. Chủ
nhân đáp rằng Quách Phác bảo táng ở tai rồng thì sẽ được nhà vua hỏi
tới. Huyền thoại này e của người đời Đường, khó tin. Hiện có sách Táng
thư còn gọi là Táng kinh. 1 quyển, đề của Quách Phác, có lẽ do người đời
Đường mạo danh viết nên.
Tiêu Cát : Tự Văn Hưu, người Lan Lăng (nay là tây bắc thành phố Thường
Châu, tỉnh Giang Tô), cháu của Lương Vũ Đế. Nhà Lương diệt vong, ông
vào Bắc Ngụy làm Nghi đồng. Sau khi nhà Tùy thống nhất, ông làm quan
đến chức Thượng nghi đồng, Thái thường; Tùy Dạng Đế lên
ngôi, phong ông chức Phủ thiếu khanh. Chết khi đang làm quan.
Tiêu Cát là người uyên bác, tinh thông âm dương, thuật đoán mệnh ,
Thuật Phong thủy. Nhân Thái tử ở Đông cung hay thấy ma quỉ, ông đã lập
đàn thần trấn yểm. Lại chọn mộ cho Văn Đế hoàng hậu. Trước tác
về phong thủy có Trạch kinh, ý quyển, Táng kinh 6 quyển ; nay đều thất
truyền. Song trong trước tác của các nhà phong thuỷ đời sau thường dẫn
lời của Tiêu Cát.
Thư Xước : Người Đông Dương (nay thuộc tỉnh Chiết Giang),
đời nhà Tùy. Giỏi thuật số địa lý. Tể tướng Dương Cung Nhân muốn dời
mộ tổ, bèn mời năm sáu ông thày nổi tiếng trong nước tới, lấy đất ở 4 góc
ngôi mộ, mỗi góc 1 đấu, vẽ địa hình ngôi mộ rồi bỏ vào phong bì dán kín
lại, đoạn đưa đất ra cho các thày phán. Duy chỉ có Thư Xước nói rằng đất
ấy có phúc và miêu tả hình thế giống hệt như thực địa. Thiên hạ nhân đó
tôn ông là thánh phong thủy. Đây là một ví dụ điển hình về phép nhìn
đạt biết phong thủy thời cổ .
Lã Tài : ( 665 ), ngươi đời Đường, ở Thanh Bình, Bác Châu ( nay là huyện
Liêu, tỉnh Sơn Đông). Giỏi âm dương, thiên văn, phương thuật, địa lý, âm
luật học. Thời Trinh Quán vào cung Huyền Văn, làm Lụy thiên thái thường
bác sĩ, Thái thường thừa. Từng được triều vào triều san định sách âm
dương để ban hành cho thiên hạ. Còn làm “Phương vực đồ”. Các trước tác
phần lớn nay đã thất truyền. Hiện còn Tự trạch kinh , Tự táng thư, Tự
trạch kinh chuyện bàn về cách phối ngũ tính với ngũ hành để xác
định cát hung của nhà ở và huyệt mộ. Táng táng thư thì nói đại ý rằng
Táng thư có đến 120 nhà, với đủ thứ thuyết cát hung, cấm kỵ. Song thời
thượng cổ chôn cất có ai chọn lựa gì năm tháng ngày giờ chẳng ai tin
chuyện lành dữ, cũng không phân biệt họ tên, tước vị, quan chức. Như
vậy táng thư chỉ làm bại hoại phong tục, làm những chuyện vô bổ. Lã Tây
là người đầu tiên thời cổ đi sâu vào Thuật Phong thủy mà phê phán các
yếu tố mê tín.
Lý Thuần Phong : ( năm 602 - 670), người đời Đường ở đất Ung, Kỳ
châu ( nay là phía nam huyện Phụng Tường tỉnh Thiểm tây). Đầu thời
Trinh Quăn, từ chức Tướng sĩ lang vào thẳng Thái sử cục, chế ra máy Hỗn
thiên nghi, dần dần được thăng đến chức Thái sử lệnh. Trước
tác phong thuỷ có Trạch kinh, Aâm dương chính yếu, nay không rõ bao
nhiêu quyển, ngờ rằng do người đời sau mượn tên soạn nên.
Khâu Diên Hàn : Tự Dực Chỉ, người đời Đường, ở đất Văn Hỷ ( nay là
huyện Văn Hỷ, tỉnh Sơn Tây ). Thuở nhỏ nổi tiếng về văn thơ. Truyền
thuyết kể rằng Khâu từng du ngoạn Thái Sơn, gặp thần trong hang đá.
nhận “Hải giác kinh", nhờ đó thông hiếu âm dương, phong thủy.
Khoảng năm Khai Nguyên ( 7 1 8 - 714 ) có chọn mộ cho viên tri huyện,
có khí thiên tử bốc lên trên mộ. Triều đình kỵ điều đó, sai phá bỏ mộ,
đồng thời hạ chiếu bắt giữ Khâu Diên Hàn, nhưng ông trốn được. Sau
triều đình tha tội, Khâu đem dâng Thiên cơ thư. Đường Huyền
Tông phong làm Á đại phu và cất sách kia vào hộp ngọc. Cuối đời Đường
thì sách ấy bị Dương Quân Tùng, Tăng Cầu Kỷ lấy trộm. Trước tác có
Ngọc hàm kinh , 1 quyển, Hoàng nang đại quái quyết 1 quyển, Nội truyện
thiên hoàng biết cực trấn thế thần thư 3 quyển. Theo Địa lý chính tông,
Khâu Diên Hàn là đệ tử của Phạm Việt Phụng, mà Phạm Việt Phụng là cao
túc của Dương Quân Tùng. Dương là người thời Hi Tông, Khâu là người
thời Cao Tông, như vậy là lẫn lộn về thời gian, chứng tỏ truyền thuyết về
sự việc và trước tác không đáng tin, là do người đời sau tạo ra.
Dương Quân Tùng : Vốn tên là ích, tự Thúc Mậu, hiệu Cứu Bần, người Đậu
châu ( nay là phía nam huyện Tín Nghi tỉnh Quảng Đông ) đời Đường.
Thời Hi Tông, ông làm Quốc sư, làm quan đến chức Kim tứ quang lộc đại
phu, phụ trách công việc địa lý của Linh Đài. Năm Quảng Minh ( năm
880 ), khi nghĩa quân Hoàng Sào tiến đánh kinh đô, Dương Quân Tùng
thửa cơ rối ren đã lấy trộm sách Thiên cơ thư cất trong hộp ngọc của
hoàng thất rồi trốn đến núi Côn Luân, sau đến Kiền châu hành nghề địa
lý phong thủy, sáng lập nên phai Giang Tây, được đời sau tôn là tổ sư
chính tông của Thuật Phong thủy. Học thuyết của ông lấy hình pháp làm
chính, chú trọng hình thế sông núi, phối hợp Long – Huyệt – Sa – Thủy,
chú trọng bám sát thực địa , mà ít dung phép suy lý. Về sau do học
thuyết này lấy hình pháp làm chỗ dựa, bởi vậy chủ yếu được áp dụng
cho Phong thủy âm trạch, mà ít cho phong thủy dương trạch. Trước tác có
Hám Long Kinh 1 quyển , Nghi long kinh 1 quyển, Táng pháp chế trượng
còn gọi là Thập nhị trượng pháp 1 quyển, Thanh nang áo ngữ 1 quyển,
Thên ngọc kinh 1 quyển, Hắc nanh kinh, Tam thập lục long. Nhưng việc
và sách của ông không thấy chép trong sử truyện; duy Trực trai thư lục
giải đề của Trần Chấn Tôn và Tống sử. Nghệ văn chí có chép 12 trước tác
đề là của Dương Cứu Bần soạn. Các chuyện về ông phần lớn la do
các nhà phong thủy lưu truyền.
Tăng Văn Siêm : Có khi viết la Tăng Văn Thuyên hoặc viết lầm thành
Tăng văn Địch . Người Ninh Đô (nay là tỉnh Giang tây) đời Đường. Cha là
Tăng cầu Kỷ đã cùng Dương Quân Tung lấy trộm Thiên cơ thư trong hộp
ngọc của hoàng thất mà chạy đến Giang Nam. Ông là đệ tử giỏi nhất của
Dương Quân Tùng, nổi tiếng không kém gì thầy; sau đem thuật học được
truyền cho Trần Đoàn. Những điều đó lẫn lộn về thời gian, không đáng
tin. Trước tác có Thanh nang tự 1 quyển.
Hà Phổ: Tự là Lệnh Thông, người thời Ngũ Đại, Nam Dường; quê quán,
lai lịch không rõ. Có Linh thành tinh nghĩa, 2 quyển, thực ra la của người
đời Minh mượn tên soạn nên. Xem mục Linh thành tinh nghĩa.
Ngô Cảnh Loan : ( 1068 ). Tự Trọng Tường, người Đức Hưng (nay là tỉnh
Giang Tây ) đời Tống. Tương truyền cha ông là Ngô Khắc Thành từng theo
học Trần Đoàn, được thầy truyền hết nghề. Loan từ bé thông minh đĩnh
ngộ, được cha truyền lại cái học của Trần Đoàn. Năm Khánh Lịch thứ nhất
( năm 1041), triều đình hạ chiếu tuyển dụng các nhà âm dương. Ngô
Cảnh Loan được tiến cử vào kinh đô, ứng đối trôi chảy được giữ chức Tư
thiên giám chính. Sau do trái ý Tống Nhân Tông, bị hạ ngục. Nhân Tông
chết,
ông được phóng thích, bèn gọt tóc giả điên, đi ẩn cư. Mất năm Trị Bình
thứ nhất (l068 ). Cái học của ông được truyền cho con gái, sau truyền cho
Liêu Vũ. Trước tác có Lý khí tâm ấn, Ngô Công giải nghĩa. Tiếp tục viết
xong 2 cuốn sách cha mình viết dở là Thiên ngọc kinh ngoại truyện, Tứ
khố toàn cục đồ.
Liêu Vũ : Tự Nghiêu Thuần, lại có tự là Vạn Bang, người Vu Đô ( nay là
huyện Vu Đô, tỉnh Giang Tây ) đời Tống. Có thuyết nói lầm ông là người
đời Đường. Thuở nhỏ thông minh, 15 tuổi thông thuộc ngũ kinh, dân làng
nhân đó đặt cho biệt hiệu “Liêu Ngũ kinh". Khoảng năm Kiến Viêm ( 1127
- 1 130 ) đi thi không đỗ. Ông được truyền thụ cái học từ con gái của Ngô
Cảnh Loan, tinh thông Thuật Phong thuỷ. Sau ẩn cư ở núi Kim Tinh, do
vậy có biệt hiệu “Kim Tinh sơn nhân". Trong giới phong thủy, nổi tiếng
ngang với Dương Quân Tùng, Liêu Văn Xiêm, Lại Văn Tuấn thành tên gọi
gộp “Dương, Tăng, Liêu, Lại". Trước tác có Cửu tinh huyệt pháp, 4
quyển, Biết cực kim kinh (không rõ mấy quyển, nghi là do người đời sau
mạo danh ).
Thái Nguyên Định : (năm l]35 – 1198) Tự Quý Thông, người Kiến Dương (
nay là tỉnh Phúc Kiến ). Cha vốn là nhà Lý học, thuở nhó ông theo học cha
mình, sau thành học trò của Chu Hy, cùng Chu Hy biện luận ý nghĩa các
kinh đến tận đêm khuya. Học trò bốn phương đến học, nếu hỏi gì thì Chu
Hy bao giờ cũng trao đổi trước với Thái Nguyên Định . Khi Hàn Thái Trụ
nêu việc “Cấm ngụy học” ông bị đày đi Đạo châu. Đến Xuân Lăng, học trò
theo học càng đông. Ông chết ở đó, sau khi chết được truy tặng thụy hiệu
Địch công lang, Văn Tiết. Trước tác rất nhiều, về phong thủy có Phát vi
luận 1 quyển, dùng học thuyết Nho gia giải thích lý luận phong thủy. Xem
thêm mục Phát vi luận.
Vương Cấp : Tự Triệu Khanh, còn có tự là Khổng Chương, người thời
Nam Tống. Tổ tiên vốn ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà
Nam ), sau di cư đến Cán châu (nay là tỉnh Giang Tây). Vương Cấp chịu
khó học hành, nhưng đi thi hai lần không đỗ, bèn bỏ nhà đi ngao du sơn
thủy. Sau ông yêu thích phong cảnh núi Long Tuyền mà định cư tại Tùng
Nguyên ( nay là huyện Tùng Khê, tỉnh Phúc Kiến ). Ông đọc các
sách phong thủy của Quản Lộ, Quách Phác, nắm vững và vận dụng vào
việc chọn huyệt mộ cho người ta, sao cho con cháu họ quí hiển, thường
thường linh nghiệm. Lập luận của ông coi trọng lý pháp và các nguyên lý
thuật số để định cát hung của phương vị tọa hướng, mà coi nhẹ hình thế
sông núi, nên ông trở thành nhân vật tiêu biểu cho trường phái Phúc Kiến
( thiên về Lý pháp). Trước tác có Tam kinh và các ghi chép vấn đáp, được
môn nhân là Diệp Thúc Lượng biên soạn thành sách.
Lại Văn Tuấn : Tự Thái Tố, hiệu Bố Y Tử, nên còn có tên Lãn Bố Y, người
Xử châu (nay là huyện Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang) đời Tống. Có thuyết nói
ông người Ninh Đô ( nay là tỉnh Giang Tây) đời Đường là nhầm. Theo
truyền ngôn của các nhà phong thủy, Lại Văn Tuấn là con rể Tăng Văn
Siêm, đệ tử đời thứ ba của Dương Quân Tùng. Làm quan đến chức Kiến
Dương lệnh, sau mê thuật phong thủy nên từ quan mà hành nghề địa lý.
Hiện nay một dải đất Quảng Đông có rất nhiều truyền thuyết về ông.
Trước tác có Thiệu Hưng đại địa bát kiềm, đã thất truyền. Chỉ còn Thôi
quan thiên, 2 quyển.
Lưu Binh Trung : (năm 1216 - 1274). Thoạt đầu tên là Khản, tự Trọng
Hối. Tổ tiên vốn là người Thụy châu (nay ]à thành phố Hình Đài tỉnh Hà
Bắc ). Năm 17 tuổi làm Tiết độ sứ phủ lệnh sử Hình Đài, sau bỏ quan vào
rừng đi tu, đổi tên thành Tư Thông. Hốt Tất Liệt (Nguyên Thế tổ) triệu vào
dinh cùng bàn việc cơ mật, nên người ta gọi ông là “Thông thư ký". Sau
khi Hốt Tất Liệt lên ngôi , liền phong cho ông chức Quang lộc đại phu,
Thái bảo, Tham dự trung thư tỉnh sự và ban cho cái tên Bỉnh Trung. Ông
tham gia bàn tính nhiều kế sách lớn trong thiên hạ. Ông tinh thông cái
học âm dương địa lý, từng giám sát việc xây dựng Thượng Đô (hiện ở Nội
Mông) và Đại Đô (nay là thành Bắc Kinh ), dùng Thuật Phong thuỷ để xác
định qui mô hai Đô ấy. Cuối đời lại có hiệu Tàng Xuân Tản Nhân, khi chết
được truy phong tước Thường son vương, thụy Văn Chinh. Trước tác có
Ngọc Xích kinh 4 quyển, thực ra là của người đời sau mạo danh soạn nên.
Lưu Cơ : (năm 1311 – 1875) Tự Bá ôn, người Thanh Điền ( nay là tỉnh
Chiết Giang ) đời Minh. Đỗ tiến sĩ cuối đời Nguyên, bỏ quan đi ẩn cư. Sau
phò tá Chu Nguyên Chương dựng nước, giữ chức Khanh sử trung thừa,
Thái sử lệnh, tước Thanh Yù bá. Khi mất được phong thụy Văn Thành. Lưu
Cơ tinh thông âm dương, thiên văn, thuật số; người đời sau tạo các đồ
thư thường mượn tên ông. Hiện còn Phệ can lộ đởm kinh. Kham dư mạn
hung cùng nhiều bản chú.
Cung trạch địa hình : Tên sách. Không rõ tác giả. 20 quyển, đã thất
truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào phái Hình pháp. Sửù ký khảo
chứng nói sách này bàn về phương vị phong thủy". Hán chí viết : “Thuộc
loại Hình pháp, bàn về hình thế 9 châu đề xây dựng nhà cửa thành
quách". Đủ biết sách này là trước tác phong thủy sớm nhất chuyên bàn
về phong thủy dương trạch.
Kham du kim quí : Tên sách. Không rõ tác giả, 14 quyển, đã thất
truyền. Hán thư. Nghệ văn chí xếp vào loại ngũ hành. Sử ký khảo chứng
nói sách này bàn về “phương vị phong thủy". Theo Sử ký. Nhập giả liệt
truyện, các nhà Kham dư (địa lý) từng tham khảo phần bàn về ngày lành
cho việc cưới vợ, thuộc về “Chiêm gia” (thày bói), đủ biết đây không chỉ là
sách phong thủy. Lai theo Luận hoành, Chu Lễ chú, Hoài Nam Tử, Thuyết
văn giải tự, thì hai chữ Kham dư là tên vị thần, có thuyết nói la tên gọi
chung trời đất, không phù hợp hoàn toàn với những gì phong thủy đề cập.
Cho nên nghĩ rằng sách nay là sách bói toán, trong đó có phần bàn
về phong thủy.
Thanh Ô tiên sinh táng kinh : Tên sách. Trước đề là do Thanh Ô tiên
sinh (Thanh Ô Tử) đời Thanh soạn Kim thừa tướng Ngột Khâm Trắc chú, 1
quyển. Trong lời tựa viết: “Táng thư của họ Quách thường dẫn "Kinh viết”
chính là sách này vậy”. Khảo cứu văn của Kinh viết trong Táng thư với
Thanh ô tiên sinh táng thư, thì thấy có nhiều điểm giống nhau, song cũng
có chỗ khác nhau. Tứ khố toàn thư tổng mục viết : “Văn sách này thiển
cận, kinh với chú như của cùng một người viết ra, hẳn là người đời sau
mạo danh kinh vậy”. Khảo cứu các sách như Văn tuyển, Sơ học ký, Thái
bình ngự lãm có Sách Tướng chủng thư ( sách xem mộ) của Thanh Ô Tử
thì nghi là sách này. Sách Táng thư ~ của Quách Phác đời Đường thì mãi
về sau này (mấy trăm năm sau) mới xuất hiện, trong khi Tướng chủng
thư thì đã sớm thất truyền cho nên nghi là người đời sau mạo danh viết
ra. Nội dung Táng kinh khá tỉ mỉ, chuyên bàn về cát hung của hình thế
sơn thủy, lại đưa ra những qui tắc thế nào là đất công hầu, đất tể tướng,
đất phú quí, đất văn sĩ mà không có lý luận kèm theo.
Đồ trạch thuật : Tên sách. Tác giả là người thời Đông Hán, khuyết danh.
Sách này nay đã thất truyền, chỉ còn hai đoạn văn nói sơ qua về lành dữ
trong cách phối hợp ngũ tính ngũ hành nhà ở, thuộc loại văn tự sớm nhất
về phong thủy còn giữ được đến ngày nay.
Quán thị địa lý chỉ mông : Tên sách. Trước đề là của Quản Lộ đời Tam
Quốc nước Ngụy Soạn. Tổng cộng 100 thiên. Thực ra là sách của ngưđời
đời Minh viết ra. Chuyên ban về hình pháp âm trạch là chính, văn từ
thanh nhã, chú giải rõ ràng. Thuyết hình pháp đến đây đã hầu như hình
thành quá nửa. Duy sách trình bày thành 100 thiên là gò ép miễn cưỡng,
rắc rối khó đọc.
Táng thư : Tên sách. Còn gọi là Quách Phác táng thư, 1 quyển. Trước đề
là do Quách Phác đời Tấn soạn; nhưng sách này xuất hiện lần đầu trong
Tống sử. Nghệ văn chí khảo sát nội dung, thì sách này hẳn do người đời
Đường viết, mạo danh Quách Phác. Sau khi sách ra đời
các nhà phong thủy thêm thắt vào, thành ra hơn 20 thiên. Thái Nguyên
Định đời Tống mới san định lại còn 8 thiên; Ngô Trứng san đinh lại còn 2
thiên nội, ngoại tức bản hiện hành. Sách này nêu các thuyết, như thuyết
Sinh khí, thuyết Tam cát lục hung, thuyết Hình thế, thuyết Ngũ bất táng
phát triển hoàn thiện thuyết Tứ linh; đồng thời đề xuất định
nghĩa Phong thủy, tôn định hệ thống lý luận của Thuật Phong thủy, là tiêu
chí hoàn toàn chín muồi của phong thủy âm trạch, trở thành một trước
tác lý luận rất quan trọng của học thuyết phong thủy. Đời sau tôn sùng
gọi là “Táng kinh". Trong Táng thư có nhiều chỗ viết hai chữ “Kinh nói”,
đủ hiểu trước sách này từng có một bộ Táng kinh, sách nay chi la tiếp tục
phát triển học thuyết kia mà thôi.
Thanh nang Hải giác kinh : Tên sách. Tên đầy đủ là Cửu thiên Huyền
nữ thanh nang hải giác kinh, trước đề do Quách Phác đời Tấn tu chỉnh,
đòng thời có lời tựa của Trương Sĩ Nguyên đời Tống và Ngô Thiên Tước đời
Minh, 4 quyển. Sách này nửa đầu nói về Lý khi, nửa sau về Hình pháp,
chuyên luận âm trạch, nội dung cực kỳ rắc rối. Tam ban đại quái, Long
huyệt sa thủy, nào ngũ tinh cửu tinh, chính thể biến thể, đều tập hợp ở
sách này. Có thiên chuyên bàn về huyệt pháp, lại được nhắc lại phía sau,
văn từ lúc nhã lúc thô, dưới chính văn có chú văn, không rõ của ai. Ngờ
rằng sách này là do người từ đời Minh trở đi mạo danh Quách Phác mà
soạn nên.
Trạch kinh : Tên sách. Thời Tùy Đường có rất nhiều sách Trạch kinh lưu
truyền, không dưới vài ba chục loại; theo người đời sau chép lại, thì có
Hoàng đế nhị trạch kinh, Địa điển trạch kinh, Tam nguyên trạch kinh, Văn
vương trạch kinh, Khổng tử trạch kinh, Thiên lão trạch kinh, Lưu căn trạch
kinh, Huyền nữ trạch kinh, Tư Mã Thiên sư trạch kinh, Hòai nam Tử trạch
kinh, Vương Vĩ trạch kinh, Tư tối trạch kinh, Lưu Tấn Bình trạch kinh, Lục
thập tứ quái trạch kinh. Hữu bàn long trạch kinh, Tả bàn long trạch kinh,
Lý Thuần Phong trạch kinh, Ngũ kinh trạch kinh, Lã Tài trạch kinh, Phi âm
loạn phục trạch kinh, Tử Hạ trạch kinh, Điêu Đàm trạch kinh, Huyền Ngộ
trạch kinh, Ngũ Phi trạch kinh, Bát Quái trạch kinh, Tiêu Cát trạch
kinh .v.v… trong đó có một số là cùng một sách mà đề tên khác nhau, nay
đã không thể khảo cứu, vì hiện chỉ còn Hoàng đế nhị trạch kinh, các sách
khác đã thất truyền. Sự xuất hiện nhiều trạch kinh như vậy chứng tỏ
trước tác phong thủy rất thịnh hành vào đời Tùy đường.
Hoàng đế trạch kinh : Tên sách. Còn gọi là Hoàng đế Nhị trạch kinh.
Không rõ người soạn. 2 quyển. Nhị trạch tức là dương trạch và âm trạch.
Sách chia ra 24 phương vị, khu biệt âm dương, qui định cát hung, xác
định hưu cữu. Điều cơ bản là âm dương tương đắc, phương vị không loạn.
Không khảo sát hình dạng cụ thể và địa hình xung quanh nhà ở, cho nên
có học giả coi đây là trước tác đại biểu cho trường phái Lý pháp
trong phong thủy. Sách bàn nhiều về việc chọn ngày có ảnh hưởng lớn tới
việc chọn lựa ngày giờ của Thuật Phong thủy đời sau. Tứ khố toàn thư cho
rằng sách này “rất có nghĩa lý” lại viết rằng trong Tổng sử có chép Tướng
trạch kinh 1 quyển, chính quyển sách này. Nhưng khảo sát văn hiến Đôn
Hoàng, thấy đã có văn bản Hoàng đế trạch kinh đủ giết sạch đã được lưu
hành rộng rãi từ đời Đường, và hoàn toàn không phải là bản Tướng trạch
kinh chép trong Tống sứ. Nghệ văn chí.
Thập nhị trượng pháp : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng
soạn, 1 quyển. Sách này chuyên bàn về phép điểm huyệt căn cứ hình thể
bối hướng của Lai long, sự thuận nghịch mạnh yếu của khí mạch mà chia
ra 12 loại huyệt pháp là : thuận trượng, nghịch trượng, túc trượng, xuyết
trượng, khai trượng, xuyên trượng, cao trượng, một trượng, đối trượng,
tài trượng, phạm trượng, đốn trượng. Tiếp đó lại phân ra 17 loại trượng
kiêm như: thuận trượng kiêm nghịch, thuận trượng kiêm túc, thuận
trượng kiêm xuyết, thuận trượng kiêm xuyên, thuận trượng kiêm cao,
thuận trượng kiêm đốn, thuận trượng kiêm một, thuận trượng kiêm đối,
thuận trượng kiêm tài, thuận trượng kiêm phạm, nghịch trượng kiêm túc,
nghịch trượng kiêm xuyết, nghịch trượng kiêm khai, nghịch trượng kiêm
xuyên, nghịch trượng kiêm cao.. Mỗi loại đều có đồ hình, mỗi đồ hình có
thuyết minh, căn cứ trượng pháp định huyệt có thể tránh hung đón cát.
Nguyên tắc chung là phân liệt từng li từng tấc để thụ khí. Dương Quân
Tùng lại có Táng pháp đảo trượng, thực ra là Thập nhị trượng pháp, mà
cuối sách kèm theo 1 thiên “24 sa táng pháp"' Thập nhị trượng pháp là
trước tác quan trọng của trường phái Hình pháp của Thuật phong thùy, có
ảnh hưởng rất lớn.
Nghi long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1
quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này gồm 3 thiên thượng, trung,
hạ. Thiên thượng bàn về Can long tìm chi, lấy “thủy khẩu quan cục" làm
chính; thiên trung bàn về phép tìm phần tận cùng của long, phép nhìn
triều ứng trước sau, thiên hạ bàn về hình thế kết huyệt. Cuối sách kèm
theo “Nghi long thập vấn" đề giải thích những chỗ khó. Là trước tác lý
luận quan trọng, được lưu hành rộng rãi , của trường phái Hình pháp
trong Thuật Phong thủy. Sách Trưc trai thư lục giải đề của Trần Chấn Tôn
đời Tống co chép sách này, nhưng không nói ai là tác giả, nên Tứ khố
tòan thư tống mục viết : “Bản này không biết của ai".
Hám long kinh : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn, 1
quyển. Lý Quốc Mộc đời Minh chú. Sách này chuyên luận về hình thế của
sơn long mạch lạc, chia ra 9 sao : Cự môn, Tham lang, Lộc tồn, Văn khúc,
Vũ khúc, Liêm trinh, Phá quân, Hữu Bật để nhận biết hình dạng sơn và
phân biệt cát hung. Là trước tác tiêu biểu của trường phái Hình pháp
trong Thuật Phong thủy.
Thanh nang áo ngữ : Tên sách. Trước đề là do Dương Quân Tùng soạn,
1 quyển. Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này chuyên bàn về hình thế sông núi
phân ra âm dương thuận nghịch, cửu tinh thất diệu để phân biệt cát hung
quí tiện. Khảo sát sách Quận trai độc thư chí của Triệu Hy Biền đời Tống
có chép Thanh nang bản chỉ, 1 quyển, không đề người soạn sách Trực trai
thư lục giải đề có chép Diệu kim ca, Tam thập đồ tượng của Dương Quân
Tùng, 1 quyển; sách Thông chí. Nghệ văn lọc của Trịnh Tiêu lại có chép
Thanh nang kinh của Dương Quân Tùng, Tăng Văn Xiêm, 1 quyển
không biết có phải là sách này chăng. Bản này được lưu hành đồng thời
với Thanh nang tự của Tăng Văn Siêm.
Kim cương toàn bản hình pháp táng đồ quyết : Tên sách. Tên đấy đủ
là Dương Tái Thương tiên nhân Dương công Kim cương tòan bản hình
pháp táng đồ quyết, 1 quyển. Đầu sách có lời tựa, nói là của Dương Quân
Tùng, rằng “Long hung mà huyệt cát, vô tình mà có tình vậy, tuy có phúc
nhưng không lâu bền; còn long cát mà huyệt hung, có tình mà là vô tình
vậy, tuy hung nhưng lại có phúc", cho nên sách bàn về cách dùng sức
người cải tạo địa hình Long cát mà huyệt hung, để tránh hung đón cát.
Sách có 24 bản hình, 24 pháp táng, kèm theo thuyết minh. Phàm Lai
Long mà có tình, thì dù thuỷ thế nào, mạch ra sao, Minh đường rộng hay
hẹp, đều có thể dùng nhân công cải tạo làm cho huyệt trở nên cát (lành ).
Thanh nang tự : Tên sách. Trước đề là do Tăng Văn Siêm soạn, 1 quyển.
Lưu Cơ đời Minh chú. Sách này lưu hành đồng thời với Thanh nang áo ngữ
của Dương Quân Tùng. Sách lấy ngũ hành phối hợp với 8 Can, khởi tính
Tràng sinh theo từng hành. Tiếp đó lấy hợi mão mùi làm mộc cục, dần
ngọ tuất làm hỏa cục, tỵ dậu sửu làm kim cục, thân tý thìn làm thủy cục,
cứ thế diễn dinh, cộng thành 48 cục, dương nghịch âm thuận, dùng để
phán đoán cát hung của phương vị thủy lưu toạ hướng. Thực ra là “Song
sơn ngũ hành" đón sau. Tứ khố toàn thư tổng mục cho rằng các sách đời
sau như Ngô Công giáo tử thư, Ngọc xích kinh, Trục chí nguyên chân đều
là sự tiếp tục phát triển thuyết này mà thành, cho nên Thanh nang tự là
trước tác quan trọng của trường phái Lý pháp trong Thuật Phong thủy là
khởi đầu của sáng lập pháp . Song Tứ khố toàn thư tổng ngục lại nói Tăng
Văn Siêm là đệ tử của Dương Quân Tùng, nhân vật trung kiên tiêu biểu
cho trường phái Hình pháp, chứ không phải cho trường phái Lý pháp.
Khảo cứu sách Thông chí. Nghệ văn lược của Trịnh Tiêu thấy có chép
Thanh nang tử ca, 1 quyển, của Tăng Văn Xiêm và Thanh nang kinh của
Dương Quân Tùng, Tăng Văn Siêm, 1 quyển: không có Thanh nang tự nên
sách này có lẽ do người đời sau soạn ra, mạo danh Tăng Văn Siêm cho
thêm vẻ kỳ bí.
Linh thành tinh nghĩa: Tên sách. Trước đề do Hà Phố đời Nam đường
soạn Lưu Cơ đời Minh chú. 2 quyển. Quyển thượng nói về hình thế sơn
thủy, biện Long định huyệt chủ theo thuyết Hình pháp. Quyển hạ bàn về
thiên tinh quái lệ, cát hung sinh khắc, để định huyệt lập hướng, lại theo
thuyết Lý pháp pha tạp hai phái Hình và Lý. Thuyết “nguyên vận" dùng
trong sách nay vốn xuất hiện từ đầu đời Minh nên chắc bằng sách nay
hẳn phải do người đời Minh soạn mới đúng.
Cửu tinh huyệt pháp : Tên sách. Trước đề do Liệu Vũ đời Tống soạn, 4
quyển. Sách này chuyên nói lấy Cửu tinh phân biệt hình dạng huyệt. Cửu
tinh là Thái dương, Thái âm, Kim thủy, Tử khí, Thiên tài, Ao não, Thiên
Canh, Bình não, Song não; mỗi sao lại phân 9 thể : Chính thể (ngay
ngắn), Khai khẩu (há miệng), Huyền nhũ (treo vú), Cung cước (cong
chân), Song tí (hai cánh tay), Đơn cổ (một đùi), Trắc não (đầu), Một cốt
(khung xương), Bình diện (bằng phẳng). Mỗi thứ đều có đồ hình và thuyết
minh. Là trước tác quan trọng cua thuyết Hình pháp liên quan đến việc
định huyệt. Sách còn nói nếu hình sơn không đẹp có thể dùng sức người
san lấp tăng giảm.
Phát vi luận : Tên sách. Thái Nguyên Định đời Tống soạn. Nội dung chủ
yếu nói về Địa đạo một âm một dương, một cương một nhu, phàm sự
động tĩnh, tụ tán, hợp phân, hướng bối, thư hùng (đực cái), thuận nghịch,
mạnh yếu, sinh tử, vi trước (nhỏ, rõ), phù trầm (chìm nổi), sâu
nông .. .của sơn thủy đều có thể từ đó mà phân biệt rõ ràng, nghĩa là
theo trường phái Hình pháp. Cuối sách có kèm một thiên nhan đề
“Nguyên cảm ứng” muốn dùng học thuyết Nho gia mà nghiên cứu và đề
cao địa vị phong thủy. Thái Nguyên Định là học trò Chu Hy, quan điểm
của ông phản ánh thái độ Lý học tán dương Thuật Phong thủy. Có thuyết
nói sách này do Thái Thu Đường soạn. Thái Thu Đường tức Thái Phát, hiệu
Thu đường lão nhân, là cha của Thái Nguyên Định, cũng tinh thông địa lý.
Thôi quan thiên : Tên sách. Lại văn Tuấn đời Tống soạn. 2 quyển. Gồm
4 thiên Long, Huyệt, Sa, Thủy, mỗi thiên có ca quyết và chú giải. Long thì
lấy 24 sơn chia âm dương, lại phân ra tam cát lục tú, mà thay đổi thụ
huyệt. Huyệt thì lấy Long làm chủ, nhưng tùy theo khí mạch mà phân tả
hữu. Sa, Thủy thì lấy phương vị phán đoán cát hung theo cái lý sinh khắc
chế hóa của âm dương ngũ hành. Tuy nhiên có nhiều điều vô căn cứ ví dụ
cho rằng Đoài Long Thìn thủy chủ đời con có sẽ bị bệnh sâu răng, hư
răng, bởi lẽ Thìn có kim sát, Đoài là miệng lưỡi, răng lợi bị kim sát thì
răng gãy, răng hư.
Ngọc xích kinh : Tên sách. Trước đề Lưu Bỉnh Trung đời Nguyên soạn,
Lưu Cơ đời Minh chú. 4 quyển. Thực ra người soạn và người chú đều là
cuối đời nhà Minh. Sách nói về các mạch núi lớn trong thiên hạ, Côn Luân
là tổ của vạn ngọn núi. Ngũ nhạc cùng Trương Giang, Hoàng Hà phối với
24 sơn. Nói rằng toạ hướng Long, Huyệt cát hung lấy thủy làm chính,
không hề tính đến hình thế của sơn, cường điệu cát hung của thủy khẩu,
coi Giang Nam là địa hình chính tông. Tưởng Bình Giai nói rằng sách này
"sao chép cách phân chia Long thành thuận nghịch và Sa thành quí tiện
của hai nhà Dương, Lại; lập luận theo kiểu ức thuyết, nông cạn" (Địa
lý biện chính).
Kham dư mạn hưng : Tên sách. Trước đề do Lưu Cơ đời Minh soạn. 1
quyển. Sách toàn dùng ca quyết thất ngôn tứ cú, tổng cộng 150 đề, luận
Long, Huyệt, Sa, Thủy lấy Hình pháp làm chính. Lời văn ý tứ sáng sủa,
tuy trước sau hay lặp lại, rất ít ví dụ.
Địa lý đại toàn : Tên sách. Lý Quốc Mộc đời Minh soạn. 2 tập, 55 quyển.
Tập hợp rất nhiều trước tác phong thủy của Quách Phác, Khâu Diên Hàn,
Dương Quân Tùng, Liêu Vũ, Thái Nguyên Định, Lưu cơ, Tăng Văn Siêm,
Lưu Bỉnh Trung, Lại Văn Tuấn, Ngô Khắc Thành, có đến hơn 10 loại Kèm
theo phụ đồ, phụ thuyết của Lý Quốc Mộc, chiêm đến một nửa bộ sách
Tập chuyên luận về Hình pháp, tập 2 luận về Lý pháp. Tuy việc tuyển
chọn không tinh, nhưng phải nói là dày công.
Táng kinh dực : Tên sách. Mậu Hy Ung đời Minh soạn. 1 quyển. Nửa
sách này nói về Táng thư của Quách Phác, phần giữa giải thích “Thập nhị
trượng pháp" của Dương Quân Tùng; phần cuối tạp giải Tam hợp, Bát tự,
kèm theo “Nan giải 24 thiên". Lấy Hình pháp làm chính. Lời văn rõ ràng,
tinh tế.
Thuỷ long kinh : Tên sách. Không rõ soạn giả, 5 quyển. Đầu sách có lời
Tựa của Tưởng Bình Giai là người ở buổi giao thời Minh - Thanh, viết năm
"Hạ nguyên Quý Mão" (tức năm 1663), người Tùng Giang, Giang Tô, một
người tinh thông Thuật Phong thủy. Quyển 1 nói về đại thể Hành long kết
huyệt, chi long can long tương thửa; quyển 2 nói về chính thể và biến thể
ngũ tinh, thẩm biện cát hung; quyển 3 nói về cách cục của thủy - long;
quyển 4 nói về tượng thủy - long thác vật tỉ loại; quyển 5 nhan đề "Thân
ngôn". Trước sau tuy có mâu thuẫn, nhưng thể lệ về cơ bản như của một
tác giả, nên ngờ rằng sách này là do Tưởng Bình Giai tham khảo các trước
thuật liên quan mà soạn ra, chứ không chỉ viết lời Tựa. Nội dung sách là
vấn đề làm nhà xây mộ ở vùng đồng bằng sông nước, nhiều hình vẽ mà ít
lời văn, căn cứ hình dạng để định cát hung. Lại kèm theo thuyết Sơn long,
lấy Can thủy làm Hành long, Chi thủy làm Chi long, Can Chi tương phối,
nội ngoại hợp khí. Lại tạo Ngũ tinh thủy hình, Tinh tú thủy hình, nhưng
dựa vào hình để nhận biết cách, không nói đến Lý pháp; ca quyết thì thô
kệch vụng về.
Dương trạch thập thư : Tên sách. Không rõ soạn giả. 10 quyển. Cuối
sách có lời Bạt, với câu “Vương Tử đã soạn xong Dương trạch thập thư”
chứng tỏ soạn giả họ Vương. Nội dung rất phức tạp, bao gồm những gì
liên quan đến lý luận, phương pháp của Phong thủy dương trạch. Sách có
10 thiên là : Luận trạch ngoại hình, Luận phúc nguyên, Luận đại du niên,
Luận xuyên cung cửu tinh, luận huyền không trang quái quyết, Luận khai
môn tu tạo môn, Luận phóng thủy, Luận trạch nội hình, Luận tuyển trạch,
Luận phù trấn. Do vậy có tên Dương trạch thập thư.
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển.
Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng .
Sơn pháp toàn thư : Tên sách. Diệp Thái đời Thanh soạn. 19 quyển.
Chép lại các sách địa lý của tiền nhân, nhất là của Dương Quân Tùng và
Ngô Cảnh Loan, kèm với lời bình chú của soạn giả.Nguồn : Nguyên Vũ -
http://vanhoaphuongdong.com
Còn một số những Ðịnh nghĩa khác ,nhưng dienbatn xin cùng các bạn đi
tiếp vì sợ rằng bài viết trở thành cuốn từ điển thì chán lắm.
Trong các Trường phái Phong thủy hiện đang lưu hành truyền bá thì hiện
nay nổi lên những Trường phái sau :
1/Phái BÁT TRẠCH MINH CẢNH do Thái Kim Oanh chủ xướng.
2/Phái DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU do Triệu Cửu Phong và sau này có thêm
cuốn Dương cơ chứng giải của tác giả Lộc Dã Phu.
3/Phái CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG HỌC .Theo các sách cổ ghi chép lại thì
Huyền Không Học ban ðầu do Quách Phác đời nhà Tấn phát minh ra, sau
được các nhà Phong Thuỷ Học như Dương Quân Tùng đời Ðường, Tưởng
Ðại Hồng đời Minh, cuối cùng là Thẩm Trúc Nhưng nhà Thanh hoàn thiện
lại toàn bộ học thuyết.
4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY.Hiện nay tại Việt nam có tác giả DƯ QUANG
CHÂU và nhiều người nữa đang phát triển rất mạnh ,đi kèm theo đó là Lý
thuyết về Năng lượng Sinh học.
5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Trường phái này có từ rất xa
xưa,thường được truyền trong dân gian qua cách Gia truyền,bí mật.Ngày
nay nhiều chi phái Ðạo giáo đang thực hiện ðể giải phá những Long mạch
bị trấn yểm,Khai mở những Huyệt đạo ,dùng năng lượng của nó cứu dân
độ thế.
Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác ,nhưng dienbatn chỉ xét đến
những Trường phái nổi bật nhất hiện nay.Các Trường phái như :BÁT
TRẠCH MINH CẢNH,DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU,CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG
HỌC,hiện nay có rất nhiều tài liệu cho các bạn nghiên cứu và trên Diễn
đàn cũng đã thảo luận rất nhiều và tưõng đối đầy đủ.dienbatn chỉ xin
điểm lại những nét chung nhất của ba Trường phái này,và mong các bạn
hiểu rằng ,cả ba trường phái trên ,thực chất chỉ là một vấn đề ,nhìn từ
những góc độ khác nhau của môn Phong thủy.Trọng tâm của bài viết
này ,muốn đưa các bạn đến với những gì hiện nay chưa phổ biến,chưa có
nhiều tư liệu,ngõ hầu giúp các bạn hiểu thêm về Phong thủy và có cách
sử lý chính xác những khiếm khuyết của ngôi nhà mình đang ở.Những tư
liệu trong các Trường phái CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN
THUẬT PHONG THỦY,dienbatn trong qua trình đi Ta bà ,được các Cao
nhân chỉ giáo,xin chép lại để hầu các bạn.Có những cái thấy mới
tin ,nhưng một người Thày của dienbatn dạy rằng :"PHÚC CHO NHỮNG AI
KHÔNG THẤY MÀ TIN ".Và các cụ có câu "LINH TẠI NGÃ -BẤT LINH TẠI
NGÃ ".Có những cái tưởng là vững chắc mà thật ra ,sẽ đổ lúc nào chẳng
hay.dienbatn xin điểm lại những Trường phái thông thường tạm gọi là
những Trường phái HỮU VI : PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH;DƯƠNG
TRẠCH TAM YẾU và DƯƠNG CƠ CHỨNG GIẢI;CỔ DỊCH HUYỀN KHÔNG
HỌC.Sau đó dienbatn đi tiếp vào những Trường phái tạm gọi là VÔ
VI :CẢM XẠ PHONG THỦY VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY.Ðiều mong
muốn của dienbatn là các bạn phải nhớ câu này trước khi lên
đường :"NHẤT BỔN TÁN VẠN THÙ -VẠN THÙ QUY NHẤT BỔN ".Ðó chính là
hai mặt của Âm -Dương đối lập cùng tồn tại trong mọi vật thể,trong Vũ
trụ.
Trong phần này, dienbatn chỉ xin điểm lại những vấn đề chính mà bất cứ
người nào khi bước chân vào nghiên cứu Phong thủy cũng phải bước
qua.Phần này được tạm gọi là PHẦN PHONG THỦY HỮU VI vì nó có tính
chất trực quan hơn, gần gũi với người sử dụng hơn.Trong phần này,như
đã trình bày ở các phần trước,dienbatn coi các Trường phái Phong thủy
đều có chung một nguồn gốc và đó chính là những mảnh bị tán lạc của
một nền Văn minh cổ đã bị diệt vong do bản tính xu cát tỵ hung của loài
người cách đây khoảng 7.000- 14.000.Vấn đề này dienbatn sẽ trình bày
kỹ khi có dịp.Có một bài thơ nói về vấn ðề này xin chia sẻ cùng các bạn:
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Cố GS-TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG trong cuốn TÍCH HỢP ÐA VĂN HÓA
ÐÔNG TÂY CHO MỘT CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC TƯƠNG LAI cũng đã cảnh
báo về cuộc chiến này.Trong cuộc chiến tranh Tâm linh này,vũ khí nguyên
tử chỉ là những trò chơi trẻ con và sự tàn phá không chỉ tính là một vài
Ðất nước mà là cả một nền Văn minh của Nhân loại.Cái thuộc tính
xu cát tỵ hung của con người, sẽ dần dần đẩy Văn minh Nhân loại vào
cuộc chiến tự hủy diệt và bắt đầu một nền Văn minh mới được thành lập
dưới THỜI ÐẠI DI LẶC THÁNH ÐỨC.
Con người có khả năng làm những điều tốt đẹp nhất cho đồng loại và
đồng thời cũng có thể làm những điều tồi tệ nhất mà không có một giới
hạn nào có thể cản ngăn.Ðó cũng chính là hai mặt Âm Dương đối lập
nhưng cùng tồn tại song song.Cứu cánh cho việc đó chính là công việc của
các Tôn giáo đang thực hiện là hướng con người vào CHÂN- THIỆN-
MỸ.dienbatn xin được trình bày vấn đề này khi có dịp thích hợp.
Trở lại vấn đề Phong thủy.Thực ra nói đến thuật Phong thủy thực ra cũng
chỉ là một bộ môn của nền Văn minh tối cổ đã bị hủy diệt do chính con
người.
Cái gốc của Phong thủy cũng như tất cả các vấn đề khác của TRIẾT HỌC
ÐÔNG PHƯƠNG như KINH DỊCH,Y THUẬT,TỬ VI LÝ SỐ,BÁT TỰ HÀ
LẠC,THÁI ẤT,ÐỘN GIÁP,TỬ BÌNH vv đều dựa trên cơ sở chặt chẽ của
THUYẾT ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Ðây chính là một siêu công thức Vũ
trụ,có thể lý giải những vấn đề từ vi mô đến Vĩ mô và đồng thời có khả
năng dự báo.Ðây cũng chính là công thức mơ ước của các nhà Khoa học
hiện đại.Tuy nhiên, đây cũng chính là công thức của Tâm linh,của những
chiều không gian khác.Thuyết ÂM DƯƠNG - NGŨ HÀNH có thể lý giải
tuyệt vời những vấn đề của Khoa học hiện đại, nhưng Khoa học hiện đại
không thể lý giải những vấn đề về Tâm linh.Khoa học của Không gian ba
chiều không thể lý giải được những vấn ðề của Không gian nhiều hơn ba
chiều;Nhưng Tri thức của không gian nhiều hơn ba chiều lại có thể lý giải
được những vấn đề của Không gian ba chiều.Nói theo Toán học thì Không
gian ba chiều nằm trong Tập của không gian đa chiều.Cái tối ưu là sự kết
hợp giữa Tâm linh và Khoa học sẽ làm cho con người tiến rất mau
vào biển tri thức ðã có sẵn.
Bây giờ ta trở lại những vấn đề đơn giản hơn của những thuật Phong thủy
cụ thể.
Trong Phong thủy,cái quan trọng nhất vẫn là vấn đề trường Khí.Khí ở đây
không phải là Không khí hay một chất khí cụ thể nào cả.Ở nước ngoài
người ta dịch Khí là SHA,hay Qi,tuy nhiên cũng chưa gọi đúng bản chất
của nó.Thực ra ,nói theo từ của Khoa học,KHÍ là một dạng của Năng
lượng,có vô số dạng thù hình khác nhau ,tùy theo điều kiện cụ
thể.Trong Phong thủy người ta nói :"Tụ là hình- Tán là Khí" hay "Nhất bổn
tán vạn thù- Vạn thù quy nhất bổn". Ðó chính là những khái niệm về bản
chất của Khí.Theo Ðịnh luật bảo toàn năng lượng đã khái quát : "NĂNG
LƯỢNG KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA VÀ CŨNG KHÔNG TỰ NHIÊN MẤT
ÐI,NĂNG LƯỢNG CHỈ BIẾN ÐỔI TỪ DẠNG NÀY SANG DẠNG KHÁC".Các
dạng thù hình của Khí thật là muôn hình vạn trạng nhưng bản chất của nó
vẫn là dạng Năng lượng.Khí cũng không thoát khỏi quy luật của siêu công
thức ÂM DƯƠNG- NGŨ HÀNH.Tức là Khí cũng có những tính chất âm
dương - Ngũ hành cụ thể cho từng dạng thù hình.Những tính chất này tùy
theo tương sinh hay tương khắc mà tác động lên các vật thể khác mà đem
lại sự tốt hay xấu,thuận hay không thuận cho sự vận động của những vật
thể khác.Nhiệm vụ của thuật Phong thủy là tìm ra điều kiện tối ưu cho
cuộc sống của con người phù hợp với môi trường sống của mình.Tất cả
các Trường phái Phong thủy đều phải tuân theo quy luật đó.
CHƯƠNG 1 /
KHẢO QUA TRƯỜNG PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH :
Thực ra Bát Trạch Minh Cảnh cũng mới xuất hiện bằng văn bản trong vài
chục năm gần đây . Tác giả là Thái Kim Oanh . Không thấy nói rõ nguồn
gốc tự ở đâu mà ra . Tuy nhiên đây là một phương pháp khảo
sát Phong Thủy tương đối thuận tiện và dễ xử dụng . Trong các tác phẩm
của Thái Kim Oanh có những cuốn như : Bát Tự Lữ Tài , Bát Môn Thần
Khóa , Bác Lãm Quần Thơ , Bát Trạch Minh Cảnh ...
Các bạn mới bắt đầu học Phong thủy có thể đi từ trường phái này . Trong
Bát Trạch Minh Cảnh , người ta xét đến mối quan hệ giữa tuổi chủ
chủ nhà và hướng nhà . Để có thể tự lập cho mình các hướng tốt xấu theo
cung phi Bát trạch , các bạn dùng chương trình của Vietshare rất thuận
tiện .
Đây là đường Link :
http://tuvi.vietshar...ly/battrach.asp .
Các bạn chỉ cần điền giới tính , năm sinh và hướng nhà chính xác tới từng
độ là có thể tự in cho mình những hướng tốt xấu để lựa chọn khi
mua nhà hay xây dựng nhà mới .
Có một cuốn sách điện tử dạng pdf của Kép Nhật bên TUVILYSO cũng rất
hay , các bạn có thể lấy về tham khảo . Đây là đường link của cuốn sách
đó :
http://www.tuvilyso....
BatTrach.pdf
Dùng hai công cụ mà dienbatn vừa dẫn , các bạn đã có thể tự coi nhà cho
mình theo phái bát Trạch Minh Cảnh rồi . Tuy nhiên , dienbatn cũng xin
cảnh báo : Phái bát Trạch Minh Cảnh chỉ là một phần nhỏ trong công việc
khảo sát Phong thủy của Dương trạch . Muốn giởi Phong thủy cần phải
học tiếp những phần ở sau .
Trong phần Bát trạch Minh Cảnh này , chúng ta cần lưu ý một số bước
sau :
1/ Việc quan trong khi đo hướng nhà : các bạn phải đo chính xác tới
từng độ một . Ví du Tọa Dậu - Hướng Mão - thuộc cung Chấn - Đông tứ
cung . Chính Mão là 90 độ . Từ tâm của đường chỉ hướng nhà , mỗi bên
không quá 3 độ là còn nằm trong cung này và được tính toán cho Tọa Dậu
- Hướng Mão . Khi quá cung 3 độ trở lên ( 87 93 độ ) tức là cung hướng
Kiêm , các bạn phải tính toán theo hướng Kiêm mới chính xác .
2/ Khi đặt La Kinh có vòng Phúc Đức xoay được thì khởi đầu như sau :
Tùy theo hướng cửa chính, sao Phước-đức của sơn được bày bố ở vị trí
sau đây:
1. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-bắc: sao Phước-đức được bày bố
ở sơn Thân.
2. Cửa chính của nhà quay về hướng Bắc: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Dần.
3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Giáp.
4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Tỵ.
5. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-nam: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Tỵ.
6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Thân.
7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Hợi.
8. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây: sao Phước-đức được bày bố ở
sơn Hợi.
Các sao kế tiếp được bày bố tiếp tục đến các sơn kế tiếp theo đó cho đến
hết vòng.
3. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông-bắc: sao Phước-đức được bày
bố ở sơn Giáp.
4. Cửa chính của nhà quay về hướng Ðông +Cửa chính của nhà quay về
hướng Ðông-nam : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Tỵ.
6. Cửa chính của nhà quay về hướng Nam +Cửa chính của nhà quay về
hướng Tây-bắc: sao Phước-đức được bày bố ở sơn Thân.
7. Cửa chính của nhà quay về hướng Tây-nam +Cửa chính của nhà quay
về hướng Tây : sao Phước-đức được bày bố ở sơn Hợi.
PHÚC ĐỨC : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt. Sản xuất chăn nuôi đều
thịnh đạt , giàu sang, con cái hiển đạt.
ÔN HOÀNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, bệnh tật làm ăn thua lổ, thị
phi, quan sự bất lợi.
TẤN TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt ,tăng nhân khẩu, điền trạch thịnh
đạt, lợi công danh, sản xuất thịnh đạt.
TRƯỜNG BỆNH : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu, nhiều bệnh tật, con cái
hư hỏng, làm ăn thua lổ, thị phi,gia trưởng bị thủ túc bất nhân.
TỐ TỤNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,gia tài bị tranh chấp, tiểu nhân
hãm hại, sản xuất chăn nuôi thua thiệt, cuốc sống không yên ổn.
QUAN TƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, quan lộc tăng tiến, tăng nhân
khẩu, sản xuất chăn nuôi phát đạt.
QUAN QUÍ : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, sinh quí tử, chức vị cao, điền
trạch thịnh vượng, chăn nuôi kinh doanh phát tài, giàu có.
TỰ ẢI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,thiệt nhân khẩu,quan sự bất lợi,
nam ly hương, nữ tật bệnh, chăn nuôi thua thiệt.
VƯỢNG TRANG : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, điền trang gia tăng, nhân
khẩu thịnh đạt, sản xuất kinh doanh phát đạt, Lợi cho chủ mệnh.
HƯNG PHƯỚC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt,trường thọ anh khang thịnh
vượng, trai gái thanh lịch, quan chức gia tăng, chăn nuôi thịnh vượng, lợi
cho con thứ.
PHÁP TRƯỜNG : Đặt cửa vào sơn vị này là rất xấu , đoản thọ, kiện cáo tù
đày, tha phương cầu thực.
ĐIÊN CUỒNG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , dâm loạn rượu chè, hao
tổn tài sản, con caí bạo ngược, nhân khẩu bất an.
KHẨU THIỆT : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,bị vu oan giáng họa, con cái
ngổ nghịch, huynh đệ bất hoà, chăn nuôi thất bại.
VƯỢNG TÀM : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, gia đạo nghiêm túc, điền sản
thịnh vượng , tiền của nhiều, nhiều con cháu, cần kiệm, chăn nuôi phát
đạt.
TẤN ĐIỀN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phúc lộc lâu dài, con cái hiền
tài, tiền bạc, ruộng vườn sung túc.
KHỐC KHẤP : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia đình luôn bị tai hoạ,
đoản thọ, nhiều bệnh tật, tiền tài bị phá hại, chăn nuôi bất lợi.
CÔ QUẢ : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , quả phụ, tha phương cầu thực,
phá sản, chăn nuôi bất lợi.
VINH PHÚ : Đặt cửa vào sơn vị này là rất tốt, vượng nhân khẩu, gia đình
vô tai hoạ, phú quí vinh hoa, tôt nhứt cho người co mệnh hỏa.
THIẾU VONG : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,hại nhân khẩu, rượu chè,
háo sắc, nhiều bệnh tật.
XƯỚNG DÂM : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu ,dâm loạn, nam nữ tửu sắc
hại gia phong, hoài thai, chăn nuôi bất lợi.
THÂN HÔN : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, vuợng nhân khẩu, chăn nuôi
thịnh vượng, buôn bán phát tài,lợi người mệnh hoả.
HOAN LẠC : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, phát tài, vượng điền, chăn nuôi
hưng thịnh, lợi cho người mạnh Thuỷ.
TUYỆT BẠI : Đặt cửa vào sơn vị này là xấu , gia tài phá bại, cha con
không quan tâm đến nhau.
VƯỢNG TÀI : Đặt cửa vào sơn vị này là tốt, kinh doanh buôn bán phát tài,
phú quí, con cái hiều thảo,lợi cho người mạng hỏa.
4/TÍNH CHẤT CÁC SAO TRONG HỆ NHỊ THẬP BÁT TÚ.
1. Sao Giác :Là Mộc tinh mang tên con Giao ( Cá Sấu ) . Là một sao tốt,
chủ về vinh hiển, đỗ đạt, gặp Quý nhân, lơi cho việc hôn thú, con cái tốt
lành. Kỵ mai táng và xây cất mộ phần.
2. Sao Cang : Là Kim tinh, mang tên con Rồng. Là một sao xấu, chủ mọi
việc phải giữ mình, đừng làm liều. Ky hôn thú.
3. Sao Đê : Là Thổ tinh mang tên con cầy hương. Là một sao xấu, chủ
phải đề phòng mọi chuyện. Kỵ động thổ, Kinh doanh, xuất hành.
4. Sao Phòng :Là sao Thái dương, mang tên con Thỏ. Là một sao tốt, chủ
về vượng tài sản, ruộng vườn, giầu sang,xây cất, cưới xin hài hòa vui vẻ.
5. Sao Tâm : Là sao Thái âm,mang tên con hổ. Là một sao xấu, chủ xấu
về chung thủy, hôn nhân bất lợi, kinh doanh thua lỗ, kiện tụng.
6. Sao Vĩ : Là hỏa tinh mang tên con Hổ. Là một sao tốt, chủ tốt về
làm nhà, giá thú, xuất ngoại, kinh doanh đều tốt.Thăng quan, tiến chức,
sự nghiệp hưng vượng.
7. Sao Cơ : Là Thủy tinh, mang tên con Báo. Là một sao tốt, chủ tốt về sự
nghiệp, tương lai sang sủa, nhà cửa khang trang, giầu sang.
8. Sao Đẩu : Là Mộc tinh, mang tên con Giải. Là một sao tốt, chủ hôn
nhân, sinh đẻ tốt đẹp. Chăn nuôi, sản xuất tốt. Xây dựng nhà cử tốt đẹp.
9. Sao Ngưu : Là Kim tinh, mang tên con Trâu, là một sao xấu. Chủ tổn
sức lực, tài sản, cưới xin, kinh doanh bất lợi, sản xuất bất lợi, xa nhà phải
thận trọng.
10. Sao Nữ : Là Thổ tinh, mang tên con dơi. Là một sao xấu, chủ xấu về
bị mắc lừa, bất lợi khi sinh đẻ, hao tốn tiền của,
11. Sao Hư : Là Nhật tinh mang tên con chuột . Là một sao xấu về quan
hệ vợ chồng.
12. Sao Nguy : Là Nguyệt tinh mang tên con én. Là một sao xấu, kỵ xây
cất nhà cửa, kinh doanh bất lợi, dễ bại sản.
13. Sao Thất : Là Hỏa tinh mang tên con lợn. Là một sao tốt, chủ về công
danh , sự nghiệp, buôn bán, kinh doanh, xây dựng đều cát lợi.
14. Sao Khuê : Là Mộc tinh mang tên con sói. Sao Khuê nử a tốt nửa xấu.
Tốt về quan hệ vợ chồng hòa thuận, phúc lộc. Xấu về khai trương động
thổ, an táng.
15. Sao Lâu : Là Kim tinh, mang tên con chó. Là sao tốt, chủ về hôn thú,
sinh đẻ, con cái tốt. Thăng quan tiến chức , người của hưng thịnh.
16. Sao Vĩ : Là Thổ tinh , mang tên con chim trĩ. Là một sao tốt, chủ về
Vinh hoa , phú quý, buôn bán , hôn nhân, xây dựng đều cát lợi.
17. Sao Mão : Là Nhật tinh mang tên con gà. Là một sao xấu, chủ về
chăn nuôi, xây dựng đều xấu, hôn thú bất lợi,công danh trục trặc.
18. Sao Tất : Là Nguyệt tinh mang tên con quạ. Là một sao tốt, chủ về
được mùa,chăn nuôi phát đạt, nhà cửa khang trang, hôn nhân, sinh đẻ tốt
đẹp.
19. Sao Chủy : Là Hỏa tinh, mang tên con Khỉ. Là một sao xấu, chủ về
kiện tụng, mất của, bất lợi cho công danh.
20. Sao sâm : Là Thủy tinh mang tên con vượn. Là một sao tốt, chủ về
Vinh hoa phú quý,mưu cầu sự nghiệp cát lợi, buôn bán phát tài, xây dựng
tốt, an táng cát lợi.
21. Sao Tỉnh : Là Mộc tinh mang tên con hươu. Là một sao tốt, chủ về lợi
cho việc thi cử, công danh, trồng trọt, chăn nuôi được mùa, xây
dựng nhà cửa, hôn nhân tốt đẹp. Sao này kỵ an táng.
22. Sao Quỷ : Là Kim tinh, mang tên con dê. Là một sao xấu, chủ về bất
lợi cho việc xây cất nhà cửa, hôn nhân bất lợi. Riêng việc an táng tốt.
23. Sao Liễu : Là Thổ tinh mang tên con hoẵng, Là một sao xấu, chủ về
hao tài tổn sức, tai nạn, không được yên ổn.
24. Sao Tinh : Là Nhật tinh mang tên con ngựa. Là một sao xấu, chủ xấu
về quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Riêng về xây dựng thì tốt.
25. Sao Trương : Là nguyệt tinh, mang tên con hươu. Là một sao xấu,
chủ về xấu trong xây dựng, tai nạn, quan hệ nam nữ .
26. Sao Dực : Là Hỏa tinh, mang tên con rắn. Là một sao tốt, chủ về
vượng tài lộc, con cháu giầu sang, xây dựng, hôn thú tốt đẹp.
27. Sao Chẩn : Là Thủy tinh, mang tên con giun. Là sao tốt, chủ về thăng
quan tiến chức, tăng tài lộc, kinh doanh phát tài, hôn nhân, an táng tốt
đẹp.
28. Sao Bích : Là một sao tốt .
Hai vòng này được dùng khi xác định tốt xấu của các vị cửa : Chính Môn ,
Tả Thiên Môn , Hữu Thiên Môn .
5/ CÁCH ĐẶT BẾP THEO PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH .
Ngoài ra những đồ thiết khí hay vật cứng, trang bị cho bếp cũ, vì e hung
khí chưa tan, nên để nơi trống trải, đúng 100 ngày có thể dùng lại mà vô
hại. Riêng những vật dụng thường dùng như chén bát, đũa, muỗng… đều
không kỵ. Trái lại chỉ kỵ đồ dùng bằng sắt, sau 5 ngày mang đi bỏ ở nơi
xa, đúng 5 ngày là lấy theo ý nghĩa phá Ngũ quỷ.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Nghi thức cúng vào giờ Hợi (22 giờ) các ngày : 7 , 13 , 23 , 24 âm lịch
hàng tháng , lể vật gồm :3 chung nước , 1 bình bông , trái cây , giấy vàng
bạc cúng Táo Quân (có chử ĐỊNH PHÚC TÁO QUÂN )
Thắp 7 ngọn đèn cầy để trên đĩa cúng nơi bếp và 7 ngọn đèn cầy để trên
dỉa cúng trên bàn thờ ông Táo theo hình sau đây :
23
14567
6 / XÁC ĐỊNH TÂM NHÀ : Theo cách thông thường chúng ta xác định
tâm nhà bằng cách lấy tâm cân bằng trọng lực của căn nhà . Tức là chúng
ta lấy trọng tâm về lực của căn nhà theo hình dạng của nó bất kỳ . Các
căn nhà chữ nhật , hình vuông lấy tâm bằng cách đơn giản là điểm giao
nhau của đường chéo . Các căn nhà có dạng bất kỳ phải lấy tâm theo cân
bằng lực . Tuy nhiên , khi người Thày Phong thủy có tu tập Mật Tông ,
đến một mức nào đó có thể có sự Linh thông với Thần Linh Thổ địa , chính
lúc đó , nếu Phong thủy sư bắt ấn triệu Thổ Địa , với sự Linh thông , Thần
Thổ địa sẽ chỉ cho người đó đâu là trong tâm của Dương trạch và rất
nhiều khi trọng tâm này khác với trọng tâm hình học mà chúng ta đã thực
hiện .
dienbatn .
7/ Cung Tài của một căn nhà .
Thông thường theo Bát quái của PT thì Các Cung được kể như sau theo
phương hướng (do La bàn xác định) . Cách này tại Đài loan rất hay được
áp dụng .
Trong bất kể trường hợp nào , chúng ta họp hội nghị , thảo luận nên ngồi
ở góc Đông Nam của căn nhà hay cái bàn để chiếm cung Tài để có lợi
thế , quay mặt về một trong 4 hướng tốt của mình , nhường khách ngồi
vào cung Quý nhân ( Tây bắc ) . Nếu làm ngược lại , tức là mình ngồi ở
Tây Bắc , khách ở Đông Nam là hiện tượng " Phản khách vi chủ " - Phần
thiệt hại hay bị động lập tức về phía mình . Cung Đông Nam tức cung tài
tuyệt đối không để WC vì mỗi lần giật nước , tiền bạc sẽ bị cuốn trôi đi .
Khu vực cung Tài nên đặt Tủ chứa tiền , bàn thờ hay chỗ làm việc của
mình . Người Đài Loan thường dùng những cung này để cải biến tình hình
trong nhà . Ví dụ tự nhiên thấy trong nhà vợ chồng hay bị xào xáo , gây
gổ , người ta xem lại góc phía Đông hay Tây Nam của ngôi nhà tức là
cung Gia đình và Phu thê . Người ta quét dọn khu vực này cho sạch sẽ ,
gắn thêm đèn sáng hoặc đặt thêm một cái Phong Linh . Chỉ ít bữa sau
hiện tượng lục đục trong gia đình sẽ hết . dienbatn thử cách này thấy rất
hiệu quả .
dienbatn .
8 / LƯU Ý VỀ BÁT SÁT : Bát sát là quan hệ hung hại giữa phương vị của
Long và Thủy chảy vào Minh đường , của Long và Hướng nhà , giữa
Hướng nhà và hướng của Thủy chảy vào Minh đường , giữa Hướng nhà và
phương vị của cửa chính , giữa Hướng nhà và ngày tháng khởi công xây
dựng .
Bát sát là các kiêng cữ rất nghiêm ngặt trong việc lập hướng , lập Thủy
Pháp Trường Sinh , chọn ngày khởi công xây dựng trong cả Âm trạch và
Dương trạch . Nếu vi phạm vào bát sát thì chắc chắngia chủ không tránh
khỏi tai họa cho gia đình và con cháu .
Bát sát bao gồm : Ngọ sát càn , Thìn sát Khảm , Dần sát Cấn , Thân sát
Chấn , Dậu sát Tốn , Hợi sát Ly , Mão sát Khôn , Tỵ sát Đoài .
Ý nghĩa của bát sát rất phức tạp , song các bạn chỉ cần lưu ý những điều
cơ bản sau :
HƯỚNG BỊ SÁT : Cửa nhà hướng Càn mà ở Ngọ vị ( ta đặt la kinh trên
tâm điểm của ngôi nhà , phóng các cung tới bức tường đối diện ) là bị
sát . Nhà hướng Đoài mà cửa ở Tỵ vị là bị sát . Nhà hướng Khôn mà cửa ở
mão vị là bị sát . Nhà hướng Ly mà cửa ở Hợi vị là bị sát . Nhà hướng Tốn
mà cửa ở Dậu vị là bị sát . Nhà hướng Chấn mà cửa ở vị Thân là bị
sát . Nhà hướng Cấn mà cửa ở vị Dần là bị sát . Nhà hướng Khảm mà cửa
ở vị Thìn là bị sát .
NGÀY BỊ SÁT : Tương tự như vậy Nhà hướng càn không được khởi công
hay để cửa ra vào , cửa ngõ , cửa sổ hay dòng nước tới từ vị Ngọ , ngày
Ngọ . nếu để vào vị đó , ngày đó tai họa sẽ ập đến liền . Khi làm nhà , các
bạn hết sức lưu ý vấn đề này .
Trong Địa lý cổ truyền,phương pháp căn cứ vào các dòng nước chẩy chảy
đến,tụ lại chảy đi ở xung quanh cuộc đất để xác định hướng và vị
trí nhà gọi là Thủy pháp.Phương pháp căn cứ vào các dòng nước
chảy,nuớc tụ và hướng nhà nằm vào cung nào của hệ trường sinh thì gọi
là Thủy pháp trường sinh.Vậy phương pháp kết hợp Thủy pháp với các
phương vị của thiên bàn và phương sinh thái của hệ trường sinh để xác
định hướng và vị trí nhà để đón cát tránh hung gọi là Thủy pháp trường
sinh.Trong Địa lý cổ truyền Thủy pháp trường sinh là quan trọng nhất,ở
vùng đồng bằng và Thành phố các điều kiện về Sơn mạch,Long mạch rất
khó phát hiện ,do vậy Thủy pháp trường sinh càng quan trọng.Khi làm
đúng Thủy pháp trường sinh rồi ,đã đón được cát tránh được hung rồi.
Thủy pháp:
Hướng vượng gặp nước là vượng thủy. Hướng suy gặp nước thì lại suy
hơn. Trái lại, Tọa vượng gặp nước thì lại rất xấu nhưng Tọa suy gặp nước
thì lại rất tốt. Do đó, các bố trí về thủy như bồn tắm, bồn rửa mặt, hồ cá,
hồ bơi, vòi nước, máy giặt... đều cần phải đặt đúng vị trí để làm cho suy
vượng.
Phía bên ngoài nhà nếu có thủy nơi các Hướng, Tọa vượng, suy như sông
ngòi, hồ ao... có thể thấy được từ nhà nhìn ra thì cũng có ảnh hưởng quan
trọng đến những người cư ngụ trong căn nhà này.
Thủy pháp được dùng rất nhiều trong phái Huyền-không để làm vượng
thêm các cung có Hướng đương vượng và cũng để làm vượng các cung có
Tọa đương suy. Khi dùng Thủy-pháp phải chú ý tránh việc làm vượng
hướng có thể làm suy tọa hay ngược lại. Phối hợp Ngũ-hành, Thu sơn xuất
xát và Thủy-pháp nhiều khi có thể giúp làm giãm sự sui sẻo mà lại tăng
thêm may mắn.
Ngoài ra, hình thể của sông ngòi theo phái Loan-đầu cũng rất quan trọng
dù rằng thủy ở đúng phương làm cho vượng. Như dòng nước chảy vòng
cung rồi bắn thẵng trở lại hay thuận thủy (còn gọi là tống thủy) tức là
thủy khí đi từ gần nhà xa ra thì xấu cho tài lộc. Còn trường hợp nghịch
thủy là nước chãy ngược tới thì rất tốt cho tiền tài.
Nghịch thủy hay Thuận thủy là căn cứ theo phương hướng của cửa chính
và dòng nước hay con đường phía trước cửa chính. Trong vị thế cửa chính
như đón hướng đi của dòng nước hay hướng đi của dòng xe cộ lưu chuyễn
thì như là đón thủy khí vào nhà, tức là nghịch thủy. Trong vị thế cửa
chính quay xuôi theo dòng nước hay chiều đi của xe cộ trước nhà thì coi
như là thủy khí từ nhà theo dòng này mà thoát ra nên đây là tống thủy
khí đi, là thuận thủy, là mất thủy khí.
Thủy Pháp Tường Sinh rất quan trọng khi thiết kế xây dựng nhà mới . Nó
chính là việc điều tiết dòng Khí ra vào của căn nhà nhờ vào dòng nước cho
phù hợp với Thiên Môn - Địa Hộ của căn nhà . Đây chính là hướng đường
cấp , thoát khi tiến hành tính toán cụ thể khi thiết kế .
10 / Tam sát:
1/ THIÊN LỘC :
Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan
tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo
sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá . Lộc là
cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra
chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến ,
điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại
khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng
cần phải lánh xa Sinh - Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu
Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc
cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi
là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai
tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong
gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất
yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể
đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường
ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là
Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp .
2/ THIÊN MÃ :
Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu .
Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời ,
phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra
người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy
nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh - Vượng , tránh Không vong , Tử ,
Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao
quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu
sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự
nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc
chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp
Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh - Dương suy ,
con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại
Gia phong .
Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt
cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ
đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt
phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ .
3/ QUÝ NHÂN :
Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể
chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận ,
hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần
giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách
có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh
thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt
đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên
, tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không
thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không
vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn
cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn
thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà
suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ
Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc ,
nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và
trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình .
Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt ,
ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng
khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ
đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh
phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì
như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con
dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm ,
cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có
người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền
miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp
khó lường .
4/ THIÊN HÌNH : Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng , vì Hình chủ tù ,
ngục , kiện tụng , là tượng của chém giết , mổ xẻ , châm chích . Hình gia
Môn thì Gia đạo thường xuyên gặp tai họa , tai bay m họa gió từ đâu đưa
đến . Những người sống trong nhà này , tuổi thọ bị triệt giảm . Trong
người hay mang thương tật , lại dễ xảy ra kiện tụng , hoặc những việc liên
quan đến ngục hình . Trai khắc vợ , gái sát chồng . Hình gia Môn cũng
thường sinh ra người có tính khí hung bạo , liều lĩnh , bướng bỉnh , ngang
tàng và gian trá , lại hay mang tật trong mình , lớn lên ắt phá tán Tổ
nghiệp , tha phương cầu thực .
Thiên hình gia cung nào cũng hung , nếu nó thất hãm còn đỡ , chứ nếu
Miếu , Vượng thì vô cùng nguy hiểm . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ
, nếu để vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi
thi cử , điểm số không cao . Thiên Hình mà đóng ở cầu thang , lại gặp Mã
thì ra Mã què , chủ gặp khó khăn trong công việc , nhất là các thủ tục liên
quan đến giấy tờ , thủ tục hành chính . Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai
nạn Giao thông , tai nạn thương tích chân , tay . Hình , Lộc đi cùng nhau ,
chủ hay bị mất cắp , làm ăn đổ bể , thất tài , phá sản , hoặc do làm ăn
bất chính mà dính dáng tới Pháp luật . Thiên Hình chỉ nên đặt
tại nhà WC , phòng tắm , để yểm , trấn là tốt . Khi ấy Hình không còn
hiệu lực tác phát , trở thành vô họa .
5/ ĐẠI SÁT : Đại sát là sát của Âm Khí , đó là loại đặc biệt độc . Đại sát
thường đóng ở tứ Quý . Đất của Tuế sát không thể phạm vào , phạm vào
ắt thương tổn .
Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất , chủ tai nạn
chết chóc , ốm đau , bệnh tật . Tai nạn giáng xuống liên miên . Nặng thì
mất mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm , khủng khiếp .
Nhẹ thì cũng Quan trường bãi miễn , gia sản lụng bại , bần cùng . Tuế Sát
mà Gia Môn thì thường sinh ra người yểu tử ( Hữu sinh vô dưỡng ) , hoặc
sinh ra người tính tình ương ngạnh , hiếu thắng , hung tơn , nham hiểm ,
bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh , thủ công , mỹ nghệ . Tuy nhiên
vẫn suốt đời vất vả , thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên
công cán gì . Loại nhà này chẳng thể ở lâu , phải mau chóng sửa , trị kịp
thời .
Đại Sát là một sao đại hung họa , nên vào cung nào cũng hung . Giường
ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để ở cung Đại Sát , được Sinh , Vượng
Khí , thì học tài thi phận , thi cử không may . nếu gặp Tử , Tuyệt thì
lười biếng , ham chơi lại hay nói dối .
Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát , lúc đó sẽ có người điện
khùng , hoảng loạn , cũng có thể sinh ra người cờ bạc , nghiện hút , đổ
đốn , hư hỏng . Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi .
6/ ĐỘC HỎA : Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng , là Hỏa khí do sự biến đổi
của Âm - Dương tạo ra . Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát
khí . Độc Hỏa lâm môn thì Hỏa khí vượng , khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa
khí bốc lên đầu , mà sinh ra bệnh tật , đồng thời khiến cho những người
sống trong nhà hay bị hồ đồ , lỗ mãng . Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra
những người nóng tính , liều lĩnh , hung bạo , thường làm những chuyện
rồ dại . Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài , nghèo khổ .
Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt . Tuy vậy ,
Độc Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát , Thiên Hình .
Do vậy , Độc Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay
bếp . Những trường hợp khác có thể châm chước được . Bàn thờ và bếp là
hai cung phát hỏa nên không bao giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc
Hỏa .
Huyệt vị đào hoa , theo quan niệm của Khoa Phong Thủy Trung Hoa gồm
có ba hệ thống tính toán . Hệ thống đầu tiên là Lý Khí lại được chia làm
hai . Phái Bát Trạch thì lấy cung Diên Niên của phi cung mỗi người làm
căn cứ để thúc đẩy Đào Hoa hoặc căn cứ theo cửa để tính . Tức là Tý ,
Ngọ , Mão , Dậu tức là bốn vị trí của Đào Hoa , tức là chính Bắc, Nam,
Đông ,Tây . Tất cả những nhà cửa lớn hướng Dần , Ngọ , Tuất , Đào Hoa
nằm ở chính Đông . Cửa lớn hướng Thân , Tý , Thìn , Đào hoa tại hướng
Nam . Cửa lớn hướng Hợi ,Mão ,Mùi Đào Hoa nằm chính Bắc .
Phái Cửu Tinh huyền không thì lấy sao Nhất Bạch thủy tinh làm Đào Hoa
tinh , căn cứ cung vị nó đóng ở mỗi nhà , hoặc bay đến hàng năm để kê
đặt cho đúng . Tuy nhiên phái này cũng coi Sao Nhất Bạch này là tán tài ,
giống như chúng ta ngày nay thường hay đùa nhau rằng : “Yêu là tốn
trong nhà một ít !” .
Hệ thống tính dựa trên Sinh Tiêu ( Tuổi con gì ) thì đặc biệt coi trọng tính
khác biệt của mỗi người , dù cùng chung một nhà nhưng tôi có Đào Hoa
của tôi , anh có Đào Hoa của anh , “Hồn ai nấy giữ !” . Cách tính như
sau :Năm sinh thuộc Thân Tý Thìn Đào Hoa Tại Tây Phương .
Năm sinh thuộc Dần Ngọ Tuất Đào Hoa tại Đông Phương .
Năm sinh thuộc Tỵ Dậu Sửu Đào Hoa tại Nam Phương .
Năm sinh tại Hợi Mão Mùi Đào Hoa tại Bắc phương .
Căn cứ vào tuổi của mỗi người , có thể bù đắp làm tốt thêm cho Đào Hoa
vị , Đào Hoa chỉ thích hợp dùng cho người có cùng tuổi phù hợp càng quý
hơn ( Nghĩa là đối tượng cùng vị trí Đào Hoa thì việc thành công càng dễ
hơn ) .
Hệ thống cuối cùng thì đơn giản hơn nhiều . Bạn chỉ cần đứng
trong nhà nhìn ra cửa bên tay trái của bạn sẽ là Thanh Long ứng với nam
tính , bên tay phải là Bạch Hổ ứng với nữ tính . Nếu bạn là Nam thì dùng
Bạch Hổ , Nữ thì dùng Thanh Long . Chia mỗi bên làm ba khoảng cách
bằng nhau nếu bạn là con trai thứ 1, 4 , 7 thì dùng phần đầu bên Bạch Hổ
, 2 , 5, 8 thì dùng vị trí thứ hai 3, 6, 9 thì dùng vị trí thứ ba . Nữ cũng thế
mà suy ra cho bên Thanh Long . Xin lưu ý là tính thứ tự của mình thì tính
anh em nam riêng , chị em nữ riêng .
Vậy trong ba cách tính Đào Hoa này thì nên chọn cái nào !? Theo tôi trước
hết các bạn nên sử dụng theo cách tính của Bát Trạch và Cửu Tinh trước
rồi sau đến sử dụng hướng của Sinh Tiêu , hướng cửa . Nếu các vị trí đó
đều không thuận tiện để kê đặt thì sử dụng tới Thanh Long , Bạch Hổ .
Để sử dụng phép thúc đẩy Đào Hoa này các bạn có thể sử dụng các Bảo
Khí dùng trong Phong Thủy hoặc sử dụng ngay các vật có sẵn
trong nhà như giường ngủ , bình hoa , bề cá để kê đặt tăng cường cho
Đào Hoa vận .
1. Giường Ngủ : Đây là phương pháp đơn giản mà không dễ , bạn chỉ cần
căn cứ theo các phép tính toán như trên rồi kê giường nằm quay đầu và
đặt trong cung vị đó là được . Tuy nhiên cần lưu ý tránh đừng để phạm
vào các tiêu chuẩn khác của Khoa Phong Thủy . Song nếu bạn là người
yêu mãnh liệt thì không ngại ! Tất cả cho tình yêu !
2. Bình Hoa : Tại các vị trí Đào Hoa đặt một bình nước trong , cắm hoa
tươi . Đây là một biện pháp giản tiện , mà hiệu quả . Tuy nhiên có mấy
điều các bạn cần lưu ý như sau :
- Bình Hoa nhất định phải có nước sạch và hoa tươi ! Nếu chỉ có bình
không bạn sẽ phải đối đầu với sự bất hạn trong tình cảm , như yêu đơn
phương , hoặc yêu mà không lấy được .
- Rất cần sử dụng hoa tươi , các loại hoa nhựa , hoa pha lê , hoa khô đều
không có kết quả gì . Số cành tốt nhất là 4 vì tượng cho 4 vị trí Đào Hoa
làm tăng thêm cơ hội cho bạn .
- Hoa tươi khi khô héo nhất định bạn phải thay hoa khác , nếu không nó
tượng trưng cho tình yêu của bạn nửa đường đứt gánh , hoặc miễn cưỡng
trong hôn nhân .
Màu sắc của bình hoa cũng nên phối hợp tốt với phương vị sẽ đặt . Như
Đông , Đông Nam sử dụng màu xanh . Nam sử dụng màu đỏ , hồng . Bắc
dùng màu lam , màu đen . Tây và Tây Bắc dùng màu kim , trắng . Tây
Nam , Đông Bắc dùng màu vàng , màu cam . Nếu sử dụng theo cách tính
Thanh Long , Bạch Hổ thì Thanh Long dùng màu xanh , Bạch Hổ dùng
màu trắng .
Bình Hoa có thể sử dụng các chất liệu thuộc hành thổ như Gốm , Sứ , Pha
Lê …v…v… bởi hoa vốn sinh trưởng trong đất !
Dùng hoa tốt nhất là dùng các màu sắc diễm lệ như đỏ thắm , phấn
hồng , vàng , tím , các màu đen trắng rất kỵ .
Còn một vật dụng cũng rất quen thuộc nữ cũng dùng thúc đẩy lương
duyên mà khoa phong thủy hay dùng đó là bể cá cảnh . Đương nhiên
trong bể nhất định phải thả cá thật . Ngày nay do một số người ngại chăm
sóc nên dùng bể cá điện tử , trường hợp này cũng tương tự như dùng hoa
giả vậy . Mầu sắc của cá cũng khá quan trọng , nói chung là nên sử dụng
các loại cá có màu sắc rạng rỡ , tươi tắn , cũng có thể dùng loại cá nhiều
màu tha thướt . Tốt nhất là các loại có ánh kim . Xin các bạn lưu ý là
không nên nuôi các loại cá thuộc dòng cá chép , bởi cá chép ( Lý Ngư )
chủ về thúc đẩy tài vận , sự nghiệp còn đối với Đào Hoa vận lại vô hiệu .
Cá rồng thì càng không nên vì cá rồng sát khí quá mạnh , chủ về trấn
sát , trừ tà .
Xin gợi ý với các bạn một chút về mầu sắc : Đối với những người thuộc
phi cung Khảm ,Chấn , Tốn các bạn có thể dùng các có sắc xanh , lam ,
đỏ . Đối với người có phi cung Ly các bạn có thể dùng màu đỏ , xanh ,
vàng . Đối với người có phi cung Càn , Đoài nên dùng trắng , bạch kim ,
vàng . Phi cung Cấn , Khôn nên dùng đỏ , vàng , kim .
Có một điều mà sẽ ít người để ý đó là số lượng cá ; thật ra có nhiều
thuyết đưa ra để tính số cá cần thiết ; tuy nhiên có hai điều cần chú ý :
Tuyệt đối không thả một con ; nên có cặp đôi trống mái . Vì theo quy luật
thiên nhiên thì nam nữ kết hợp mới sản sinh vạn vật .
Trên đây là một số cách thúc đẩy tình yêu theo quan niệm triết lý của
Khoa Phong Thủy Á Đông . Mùa xuân về chính là mùa của vạn vật sinh sôi
kết thành đôi lứa , chuẩn bị cho một mùa sinh sản mới . Tất cả bừng tỉnh
sau một mùa đông dài lạnh giá . Còn các bạn hãy lạc quan cho tình yêu
của mình và thử áp dụng thêm các cách trang trí này xem . Hiệu quả đến
đâu tự các bạn sẽ chiêm nghiệm , nhưng có một điều quan trọng là các
bạn còn yêu và muốn được yêu .
Có một điều nói khẽ là các biện pháp này chỉ dùng cho các bạn chưa có
gia đình . Đối với người đã có gia đình thì không có lợi , lại còn hại , vì bạn
sẽ vô tình đẩy bạn đời của mình vào tay người khác , hoặc tự chuốc cho
mình những rắc rối về tình cảm . Xin hãy cẩn thận !
Tuy nhiên nếu để bảo vệ hạnh phúc của gia đình mình thì bạn cũng nên
nắm rõ vị trí Đào Hoa của mọi người trong gia đình mình để hóa giải , bảo
vệ hạnh phúc gia đình . Với chủ đề này xin hẹn một dịp khác
Bây giờ, chúng ta xem xét đến phần quan trọng nhất của Phong thủy , được xây dựng bởi
Dương Công. Đó là sự phân loại 60 Khí ( hay Khí huyệt hoặc Long khí ) theo Can, Chi, có thể
gọi đó là Long khí Can, Chi.Long khí Can, Chi chia thành 3 loại sau :
1/ HỆ KHÍ BẢO CHÂU : Hệ khí này là một hệ khí cát, gọi là Hệ khí Bảo châu gồm 24 phần tử.
2/ HÊ KHÍ HỎA KHANG : Hệ khí này là một hệ khí hung. Khí Hỏa khanh còn gọi là Sát diệu
gồm 12 phần tử.
3/ HỆ KHÍ KHÔNG HƯ : Những hệ khí khác nói chung không cát gọi là Hệ khí Không hư gồm
24 phần tử.
Trong phần này có sử dụng một số thuật ngữ là Xuyên sơn và Thấu địa.
XUYÊN SƠN : Xuyên sơn là khả năng định được Nguyên khí hay Long đi đến Huyệt từ
phương hướng nào, tính theo thuật ngự Can, Chi.Khả năng này gọi là khả năng Địa kỳ.
THẤU ĐỊA : Là khả năng dẫn được Nguyên khí hay Long vào quan tài tại nơi Huyệt kết. Khả
năng này là khả năng Thiên Kỷ.
NGŨ TỬ : Như ta đã thấy, mội chi đều tường ứng với 5 Khí Can , Chi. Ví dụ chi Tý ứng với 5
Khí Can, Chi như sau :
mạch khí vượng là tướng; từ Nhâm Tý một vòng đến Quý Hợi là mạch khí
thoái là hư .
1/ CHI TÝ .
1-Khí Giáp Tý 7 phân Nhâm 3 phân Hợi là tiểu thác; là Giáp Tý xung quan
mà sanh ra
các bệnh: hoàng sũng, điên dại, phong, lao, tê liệt, cùi hủi, gái câm, trai
ngọng v.v… Nếu thấy thủy ở phương Bính lại, thì trong quan tài có bùn
nước đọng sinh ra thưa kiện v.v… sẽ ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu.
2-Khí Bính Tý ở chính Nhâm long thì rất tốt thêm người, gia của phú quý
song toàn, mọi việc đều tốt. Nếu thấy thủy ở phương Mùi lại và phương
Khôn thì chung quanh quan quách là cái lọ chứa nước, rất xấu, ứng vào
các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu, Sửu.
3-Khí Mậu Tý, 5 phân Tý, 5 phân Nhâm là hỏa khanh thì sinh ra người du
đãng, bại
nhân luân, không những quan tài bị rễ cây xuyên vào mà còn kiến, mối
đục nữa. Không những quan tài bị rễ cây xuyên vào , mà kiến, mối còn
đục khoét nữa.
Hiện tượng rễ cây đâm vào quan tài sẽ gây ra nhiều hậu quả cụ thể .
Chẳng hạn rễ cây đâm vào hốc mắt của hài cốt , thì gia đình đó tất có
người đau mắt , không tài nào chữa được nếu không đào mả rút rễ cây đó
ra. Ta cũng thấy tương tự như vậy, nếu rễ cây đâm qua sọ dừa ( có người
trong nhà đau đầu) hay quấn xung quanh xương sống ( gia đình có người
đau xương sống )...Đây cũng là một biểu hiện của cơ chế cộng hưởng
hình thái huyết thông.
Nếu thấy thủy ở phương Tốn lại thì trong quan tài có 2,3 phần nước, bùn
thì hỏng, sẽ ứng vào những năm: Dần, Ngọ, Tuất, Thân, Tý, Thìn.
4-Khi Canh Tý ở chính Tý long được phú quý song toàn, phúc lộc thịnh
vượng lâu bền. Nếu thấy thủy ở Tốn lại là trong quan tài có bùn thì xấu
hay dở sẽ ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn.
5-Khí Nhâm Tý, 7 phân Tý, 3 phân Quý là dương nhận, sinh ra người hay
chết non và bị trộm cướp, tổn thê, hại tử, gặp nhiều tai nạn. Nếu thấy
thủy ở Canh Tân lại thì trong quan tài có đầy bùn nước, ứng vào các năm
Thân, Tý, Thìn.
2/ CHI SỬU .
6-Khi Ất Sửu 7 phân Quý, 3 phân Tý thì người của đều được thịnh vượng,
sang giàu.
Nếu thấy thủy ở phương Ngọ, Đinh thì quan tài có đầy bùn nước; tốt hay
xấu đều ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu
7-Khí Đinh Sửu ở ngay Quý long, sinh ra người thông minh, lanh lợi, phú
quý lâu bền;
mọi sự vui vẻ. Nếu thấy thủy ở phương Mùi đến, thì trong quan tài có
nước như ao thì hỏng; tốt hay xấu đều ứng vào những năm Thân, Tý,
Thìn
8-Khi Kỷ Sửu có 5 phân Sửu, 5 phân Quý là hắc phong, thì con gái bị chết
non, con trai bệnh tật; mọi sự đều xấu, thường sinh ra bệnh điên khùng
và thất bại đau đớn. Nếu thấy thủy ở phương Hợi lại thì trong huyệt có
nước và sâu bọ, là vì thủy ở trong hỏa khanh sinh xuất, sẽ ứng vào các
năm Dần, Ngọ, Tuất
9-Khí Tân Sửu ở chính Sửu long, thì 30 năm sau mới giàu sang Đinh tài,
đại vượng; mọi sự cát tường, sinh ra người nhân từ hiếu thảo, khác
thường. Nếu thấy thủy ở phương Dần lại, trong quan tài có bùn nước là
xấu.
10-Khí Quý Sửu, 7 phân Sửu, 3 phân Càn là phạm cô hư, sau khi tọa táng
xong có nhiều tai họa xảy ra; mọi sự không vừa ý, cả gia đình đều lủng
củng, khẩu thiệt sẽ ứng vào những năm Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy thủy ở
phương Kiền thì có rễ cây xuyên vào quan tài
3/ CHI DẦN.
11-Khí Bính Dần, 7 phân Cấn, 3 phân Sửu thì huyệt bình thường, phát
phúc, nhưng
không bền sẽ ứng vào các năm Dần, Ngọ, Tuất; mọi sự đều cát tường.
Nếu thấy thủy ở
phương Hợi lại thì quan tài bị bùn vào nát hư
12-Khí Mậu Dần chính Cấn long thì phú quý vinh hoa đời đời thịnh vượng,
ứng vào các
năm Thân, Tý, Thìn đậu đạt; chỉ sợ thủy ở phương Mão lại xung quan thì
hung.
13-Khí Canh Dần, 5 phân Càn, 5 phân Cấn là cô hư, hỏa khanh,
hắc phong, không vong. Sau khi táng 3, 6, 9 năm thấy sinh ra bệnh tật,
gia tộc bại tuyệt, rất đau buồn. Lại thấy Thân thủy lại xung thì trong
huyệt có bùn vào
14-Nhâm Dần khí ở chính long Dần, thì phú quý, phúc trạch dồi dào, lắm
ruộng nhiều
vườn, sẽ ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu. Nếu thấy thủy ở phương Ngọ
xung thì quan tài có bùn là hỏng.
15-Giáp Dần khí có 7 phân Dần, 3 phân Giáp thì được bình an, một đời
phát phúc, qua
đời sau bị mắc bệnh đau mắt. Nếu thấy thủy ở Khôn xung vào thì quan tài
bị mối, kiến đục thì xấu.
16-Đinh Mão khí có 7 phân Giáp, 3 phân Dần là bình thường, sinh ra
người hay tửu sắc, phiêu lưu, lười biếng, ứng vào các năm Dần, Ngọ,
Tuất. Nếu thấy thủy ở Hợi xung vào thì huyệt có nhiều bùn nước là họa
bại
4/ CHI MÃO.
17-Kỷ Mão khí ở chính Giáp long, Đinh tài đều phát đạt, ăn
mặc phong lưu. Nếu thấy
thủy ở Tốn xung vào thì có chuột bọ đục khoét hài cốt, con cháu đau
buồn, không nghi hoặc gì nữa.
18-Tân Mão khí có 5 phân Tân, 5 phân Mão là hắc phong, hỏa khanh sanh
ra trộm cướp, ngành thứ 3 bị bại tuyệt trước, rồi đến cả các ngành khác;
sau bị thưa kiện, xảy ra nhiều sự hung dữ. Nếu thấy thủy ở Canh Thân lại
thì quan tài có đầy bùn ngập. Mộ này chậm không chịu di cải thì bị bại
tuyệt không tránh khỏi.
19-Quý Mão khí ở chính Mão long thì phú quý song toàn, sinh ra người
thông minh,
khỏe mạnh, mọi sự tăng tiến. Nếu thấy thủy ở Tị phương xung vào thì có
rễ cây đâm vào quan tài, lành dữ đều ứng vào các năm Tị, Dậu, Sửu
20-Ất Mão khí, 3 phân ất, 7 phân Mão, hay sinh ra người cô quả, yểu tử,
đời sau sinh ra người khòng lưng, khèo chân, tuy có người cũng khó giữ
thân thế an toàn. Nếu thấy thủy ở phương Tuất xung vào thì trong huyệt
có nhiều bùn nước nuôi cá tốt.
5/ CHI THÌN.
21-Mậu Thìn khí, 7 phân ất, 3 phân Mão, thì được người trường thọ, giàu
sang, danh giá nêu cao. Nếu thấy thủy ở phương Thân, Dậu xung vào thì
trong quan tài có kiến, bọ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu
22-Canh Thìn khí ở ngay ất long, thì an nhàn phát phúc vĩnh cửu vô cùng;
7 đời giàu
sang, sanh ra người tuấn tú, anh hùng, siêu quần quán thế, ứng vào
những năm Hợi, Mão,Mùi; chỉ sợ Đinh thủy xung vào thì sinh hỏa tai.
23-Nhâm Thìn khí, 5 phân Thìn, 5 phân ất là hắc phong, hỏa khanh, bại
tuyệt, hay què chân, sinh khẩu thiệt, thưa kiện, ly hương, tu đạo, biệt
tông. Nếu thấy thủy ở phương Tuất lại thì quan tài có bùn, bọ, kiến ở
trong.
24-Giáp Thìn khí ở chính Thìn long thì 75 năm phát giàu sang thịnh
vượng. Nếu thấy
Tý, Quý thủy đến thì trong huyệt có bùn ngâm
25-Bính Thìn khí, 7 phân Thìn, 3 phân Tốn, thì người ngoài được phát
phúc no ấm, yên ổn, rước con rể vào phòng (rước họa vào nhà) đời sau
bại tuyệt vô tử, ứng vào những năm Thân, Tý, Thìn. Nếu thấy Dần, Thân
thủy xung vào, thì bị rễ cây đâm vào quan, vong nhân bất an.
6/ CHI TỴ.
26-Kỷ Tị khí, 7 phân Tốn, 3 phân Thìn thì phú quý ngang nhau, ứng vào
những năm
Hợi, Mão, Mùi. Nếu thấy phương Kiền thủy xung, thì thây cốt chôn bùn
27-Quý Tị khí, 5 phân Tị, 5 phân Tốn là hắc phong, hỏa khanh thì bại
tuyệt, bách sự
hung dữ, sau khi táng 5 hoặc 7 năm thì già trẻ, lục súc tan như gió bay.
Nếu thấy thủy ở phương Sửu đến xung thì có chột làm tổ ở trong huyệt.
28-Ất Tị khí ở chính Tị long, được vinh hoa, phú quý, phúc lộc hưng long,
ứng vào
những năm Dần, Ngọ, Tuất có nghiệm. Nếu Quý thủy xung vào thì quan
tài có bùn đầy.
29-Đinh Tị khí, 7 phân Tị, 3 phân Bính, thì sau 3 hoặc 7 năm thì khẩu
thiệt đều. Nếu
thấy Mão thủy đến thì trong quan tài có bùn và nước ở ngoài xâm nhập
30-Tân Tị khí ở chính Tốn long thì quá nguyệt là phát vinh hoa phú quý
cho con cháu
dòng họ, ứng vào những năm Tị, Dậu, Sửu; chỉ sợ là Ngọ Đinh thủy lại
xung thôi .
7/ CHI NGỌ.
31-Canh Ngọ khí, 7 phân Bính, 3 phân Tị thì nhân hưng tài vượng sẽ hẹn
được đời đời
tăng tiến hạnh phúc, ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn, Dần, Ngọ, Tuất;
chỉ kỵ thủy ở Giáp Dần lại thì tổn Đinh.
32-Nhâm Ngọ khí ở chính Bính long thì sinh xuất anh hung, phú quý song
toàn, được 3
đời, sau cháu chắt vẫn còn thịnh vượng, ân hưởng bằng sắc huy chương.
Kỵ thấy thủy ở phương Thân lại thì hỏng.
33-Giáp Ngọ khí, 5 phân Bính, 5 phân Ngọ là hỏa khanh, năm Tị, Dậu,
Sửu gia trung bị
bại khuynh. Lại thấy Đinh, Ngọ thủy lại thì đáy quan tài nát như bùn.
34-Bính Ngọ khí ở chính Ngọ long thì gia nghiệp bình bình, sinh ra người
thông minh,
mọi mưu sự đều thành tốt lành; gặp vào các năm Thân, Tý, Thìn, Tị, Dậu,
Sửu. Nếu thấy Sửu, Cấn thủy lại xung thì trong quan tài bùn nước vào thì
hỏng.
35-Khí Mậu Ngọ, 7 phân Ngọ, 3 phân Đinh thì quan tụng, khẩu thiệt rắc
rối, người của
bình thường, hằng năm hay sanh ra hoành sự bất ngờ. Nếu thấy thủy ở
Quý, Tý xung thì ứng vào những năm Dần, Ngọ, Tuất không sai
8/ CHI MÙI.
36-Tân Mùi khí, 7 phân Đinh, 3 phân Ngọ thì sinh người tuấn kiệt, phát
phúc mạnh như sấm động, tiền nát, thóc mục đầy kho. Nếu thấy Ngọ
phương thủy xung, thì quan tài bị rễ cây xuyên vào thì rất xấu.
37-Quý Mùi khí ở chính Đinh long, thì sinh ra người phú quý, thọ khảo
mộc đầu. Nếu
thấy phương Canh thủy xung vào thì người chết về tai ách, ứng vào các
năm Hợi, Mão, Mùi
38-Ất Mùi khí, 5 phân Đinh, 5 phân Mùi là phạm cô hư, hỏa khanh thì bại
tuyệt rất đau đớn. Lại thấy Tị phương thủy xung, thì thây xương nát rã
thành đất bùn, ứng vào các năm Tị, Dậu Sửu.
39-Đinh Mùi khí ở chính Mùi long thì gặp được phú quý song toàn, lâu dài,
ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn. Còn gặp hung sự vào những năm Dần,
Ngọ, Tuất. Nếu thấy Sửu, Cấn phương thủy xung vào thì bùn nước đầy
trong quan tài là hỏng.
40-Kỷ Mùi khí, 7 phân Mùi, 3 phân Khôn là phạm cô hư thì bị tai họa phá
bại không sai. Đến hạn những năm Dần, Ngọ, Tuất thì sinh ra
bệnh phong mê cuồng độc. Nếu thấy thủy ở phương Hợi, Nhâm xung vào
thì nhi tôn có sự tai họa bất ngờ.
9/ CHI THÂN.
41-Nhâm Thân khí, 7 phân Khôn, 3 phân Mùi thì phá gia tài, bại sản,
bệnh tật, đau đớn liên miên đáng buồn khổ, ứng vào những năm Tị, Dậu,
Sửu, thuốc thang khó điều trị. Nếu gặp thủy ở phương Ngọ xung thì quan
tài có đầy nước.
42-Giáp Thân khí ở chính Khôn long, được sinh ra người thông minh, tuấn
tú, phú quý
thanh nhàn, điềm ứng vào các năm Thân, Tý, Thìn; đời đời vui vẻ vô
cùng. Nếu thấy thủy
phương Càn lưu xung thì quan tài bể nát làm hư thì hỏng bại
43-Bính Thân khí, 5 phân Thân, 5 phân Khôn là hắc phong, hỏa khanh bị
bại tuyệt bần
cùng. Nếu thấy Tý, Quý thủy xung thì huyệt có bùn nước, thực không sai.
44-Mậu Thân khí ở chính Thân long thì sinh ra người thông minh trường
thọ, phú quý
song toàn. Nếu thấy Giáp thủy xông vào thì quan tài đầy bùn nước, là tối
hung.
45-Canh Thân khí, 7 phân Thân, 3 phân Canh thì phạm cô hư, có nhiều
tai nạn xảy ra.Lại thấy Kiền thủy lai xung, thì người bị về tai nạn áp bức
chết.
Tám cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Ðoài còn được chia ra
làm 24 sơn tức là mổi cung được chia ra 3 sơn như sau đây:
Như các cung trong nhà không đều nhau thì các cung nhõ tượng trưng
cho sự bất lợi của những cái nó đại biểu. Thí dụ như cung Tốn là cung
khuyết , tượng trưng cho sự bất lợi về người con gái cả.
PHONG THỦY LUẬN . BÀI 5.
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
1/ Nhà khuyết cạnh NAM - BẮC : Nam - Bắc là 2 phương thuộc hành
Thủy và Hỏa. Ứng với tai họa , bệnh tật , bất hòa kiện tụng, . Cách hóa
giải : Nam đặt các vật có màu đỏ, hồng , tía. Bắc đặt các vật có màu lam,
đen.
2/ Khuyết cạnh ĐÔNG - TÂY : Đông thuộc Mộc , Tây thuộc Kim, khuyết
cạnh các góc này ứng với Khó khăn trong công việc, làm ăn, công danh.
Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu lục như chậu cây cảnh...Tây đặt
các vật có màu vàng, trắng.
3/ Nhà khuyết góc Đông Bắc : Hại sức khỏe, đường tiêu hóa . Cách hóa
giải : Đông đặt các vật có màu đất, cà phê. Đặt bếp lò.
4/ Nhà khuyết góc Đông Nam : Bất lợi cho con gái đầu , hay bị các bệnh
gan , mật, thần kinh . Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu xanh lục.
5/ Nhà khuyết góc Tây Nam : Hành Thổ . Hay mắc các bệnh đường tiêu
hóa, hại cho nữ. Cách hóa giải : Đông đặt các vật có màu vàng, màu cà
phê.
6/ Nhà khuyết 4 góc : Hay bị bệnh vặt, khó làm ăn, hay bị kiện tụng .
1/ NÊN NHÀ : Phải hình vuông hoặc chữ nhật, có 4 góc = 90 độ. Không
nên có góc nhọn.
2/ MÓNG NHÀ : Khi có nước mới đóng cọc tre để tránh mối và cọc tre bị
ải. Không có nước phải ép cọc. Chỗ nào ép xuống được bao nhiêu phải ép
xuống đủ từng đó.
3/ CỐT NỀN : Nền nhà phải giữ một cốt để đảm bảo tính thống nhất, có
thể khu vực bếp hay phần đằng sau giật cấp lên một chút để tạo thế
dựa. Nhà vệ sinh phải có cốt thấp hơn nền nhà.
4/ TÂM NHÀ : Phải xác định tâm điểm và tâm tuyến ngôi nhà Khu vực
trung cung là chủ nên không được bố trí bể phốt và cầu thang. Cầu thang
nếu đặt ở tâm tuyến nó sẽ cắt âm dương của ngôi nhà.
Khi xem Phong thủy , ngoài việc xem cách cục của ngôi nhà còn phải xác
định tọa hướng và phương vị.
Cách đặt La bàn : Đặt la bàn ở vị trí chính giữa nhà ( một gian thì đặt ở
chính giữa thiên tỉnh, nhà 2 gian trở lên thì đặt ở chính giữa khu nhà. Để
la bàn song song với mặt đất ( thường sử dụng mâm gạo hay cát rồi để la
bàn lên đó ) . Khi đo , cần phải dọn dẹp tất cả các vật bằng kim loại
quanh đó để tránh ảnh hưởng đến độ chính xác của từ tính .
Xác định trung tuyến và tọa hướng : Xác định trung tuyến của
ngôi nhà tức là xác định đường thẳng chỉ tọa hướng của nhà và hướng cửa
. Lúc đó cần để la bàn ở trung tâm của công trình kiến trúc , dùng dây
chăng thành hình chữ thập kéo qua vị trí trung tâm của mặt bằng kiến
trúc , sao cho trùng với thiên tâm thập đạo ( hai dây vuông góc trên la
bàn ) đường chữ thập phải song song với tường công trình kiến trúc Như
vậy khi chuyển động nội bàn ta có thể xác định được tọa, hướng của công
trình.
Hướng nhà : là đường thẳng từ trung tâm thiên tâm thập đạo của la bàn
vuông góc với cửa chính , hướng từ trong tâm nhà ra cửa . Đường thẳng
này nằm trong cung nào của la bàn thì hướng nhà mang tên cung đó.
Đường thẳng góc với cửa chính nằm trong cung nào của bát quái thì dùng
tên của cung bát quái đó đặt tên cho nhà . Muốn xác định hướng nhà thì
ta đặt la bàn tại tâm nhà sao cho số 0 của la bàn vào đúng cung Tý của la
bàn, số 180 độ vào đúng cung ngọ của la bàn. ( Tức là đầu Bắc của kim
chỉ vào 0 độ, đầu Nam chỉ vào 180 độ ). Đường thẳng góc với cửa nằm ở
cung nào thì cung đó chính là hướng nhà.
Vị của cửa là đường thẳng nối từ tâm nhà đến tâm cửa. Đường thẳng này
nằm trong cung nào thì cung đó là vị của cửa. Tâm cửa là điểm giữa của
cửa. Như vậy mỗi cửa có hai tiêu chí để xác định là Hướng và Vị của cửa.
5/ CỔNG NHÀ : Cổng nhà là nơi đưa Sinh khí và tà khí
vào nhà. Nhà không có cổng thì khí thiểu ( kém ), cổng xa nhà thì khí tốt
càng tốt lên , khí xấu càng xấu thêm . Cổng phải đặt vào vị trí cát khí của
ngôi nhà ( các cung tốt trên vòng phúc đức ) và các cung Phúc đức, Sinh
khí, Thiên y sẽ được sinh vượng. Tâm của cổng không được phạm vào các
đường tuyến Đại, tiểu Không vong ( 16 đường phân tuyến giữa các sơn ).
Lạc quái nằm vào sát đường phân tuyến của các quẻ : Giáp Dần - Đinh
Mão; Đinh Tỵ - Canh Ngọ; Canh Thân - Quý Dậu ; Quý Hợi - Giáp Tý. Âm
dương sai thác nằm đúng vào vị trí bát Long : Bính Thìn - Kỷ Tỵ; Kỷ Mùi -
Nhâm Thân; Nhâm Tuất - Ất Hợi; Quý Sửu - Bính Dần.
Cổng không nên có con đường đâm thẳng vào . Nếu gặp phải trường hợp
này nên có treo tấm gương bát quái với các quẻ như đã viết ở các phần
trên hoặc đặt một Thái sơn cảm đương thạch- Thạch cảm đương
Đây là Vật Hóa Sát khá phổ biến trong Phong Thủy, nhất là ngoài miền
Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xưa ở núi Thái có 1 vị đạo sĩ tên Thạch
Cảm Đương, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi được yêu quái chuyên quấy
nhiễu các khuê nữ, nên người ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn tà
khí, giải trừ uế khí.
Lối từ cổng vào nhà nên rộng rãi , uốn lượn.
6/ CỬA NHÀ : Cửa là yếu tố quan trọng nhất của ngôi nhà , nó dẫn Sinh
khí và Tà khí vào nhà. Cửa nhà phải tương ứng với kích thước ngôi nhà.
Các cụ ngày xưa dạy : Nhà cao - Cửa rộng là vậy. Cửa trước không được
thông thẳng với cửa sau sẽ bị thoát khí. Trước cửa không nên để non bộ
cao hơn cửa, không vày nhiều gạch đá trước cửa. Cửa chính không được
đối diện với hướng xuống của cầu thang trong nhà sẽ tán tài. Gặp trường
hợp này ta hóa giải bằng một tấm gương đặt trên cánh cửa đối diện với
cầu thang sao cho cầu thang lọt vào trong tấm gương. Lúc này
trong nhà có 2 cầu thang : Cầu thang thật và cầu thang ảo trong tấm
gương, âm - dương sẽ hài hòa hóa giải hiện tượng cầu thang đổ ra đường.
Cửa chính không nên đối diện với cao ốc lớn. Nếu phạm nên hóa giải bằng
cách dùng vật này đặt trước cửa hoặc cổng.
Cửa chính kỵ đối diện với đòn dông nóc nhà ở phía trước, hoặc một cây
lớn đơn độc , cột điện, trụ cao thế , cây thập tự, câu cầu lớn. Nếu phạm
thì dùng cái này hóa giải .
7/ PHÒNG TẮM , NHÀ VỆ SINH :
Không đặt ở trung tâm ngôi nhà , không đặt đối diện cửa chính , không
đặt đối diện nhà bếp, không đặt đối diện phòng ngủ hoặc cửa đối diện
giường ngủ. Phòng ngủ không được đặt vào cung tình duyên và tài lộc cửa
ngôi nhà ( góc Tây Nam và Đông Nam ). Trung tâm của nhà vệ sinh
không đặt vào các phương vị Tý, Cấn, Mão , Tốn, Ngọ, Dậu, Càn. Phải
đặt nhà vệ sinh vào cung xấu của tứ trạch , khuất , kín và thoáng
gió. Nhà vệ sinh không nên cải tạo thành phòng ngủ. Nền nhà vệ sinh
phải thấp hơn nền nhà.
8/ BẾP : Bếp hành hỏa. Bếp có 3 tiêu chí để xác định :
• Hướng Bếp :Phải quay về hướng tốt của Gia chủ.
• Vị trí đặt Bếp :Phải đặt tại cung tốt của Gia chủ.
• Sơn (lưng ) của Bếp phải đốt về hướng xấu chủ.
Kỵ cửa nhà nhìn thẳng vào miệng bếp . Kiêng đặt bếp sát giường ngủ. Không đặt
bếp trên rãnh thoát nước . Kiêng có xà gồ trên bếp. Không để các góc nhọn đâm
vào cửa ( miệng ) bếp . Trước mặt bếp không đặt thùng nước, bồn rửa bát, thùng
giác, đồ dơ bẩn, không được khỏa thân trước mặt bếp.
9/ PHÒNG NGỦ : Phòng ngủ phải hợp với mệnh người ngủ ( Thường quay chân về
các cung Phúc đức, Thiên Y, Sinh khí ). Cửa phòng ngủ và giường phải hợp với bản
mệnh. Phòng ngủ tránh đối diện với cửa chính , tránh đối diện phòng tắm. Không
đặt phòng ngủ vào các cung Tình duyên và hôn nhân bị khiếm khue61t ( góc Tây
Nam ) .Không làm la phông đầu cao đầu thấp trong phòng ngủ.
Cửa phòng ngủ : Kiêng gương chiếu thẳng vào cửa phòng. Phòng ngủ không đặt
tượng các Thần linh. Cửa ra vào ( cửa chính ) không đối diện với cửa phòng ngủ .
Giường ngủ : Nên đặt giường vào cung Phục vị của bản mệnh, chân quay về các
cung tốt ( Phước đức, Thiên Y, Sinh khí ). Đầu giường phải không có xà ngang, xà
dọc đè lên. Đầu giường không được đối diện với cửa ra vào. Với nhà tầng, giường
không đặt trên hoặc dưới bếp và nhà vệ sinh. Đầu giường không đối diện với gương
soi.
10/ PHÒNG KHÁCH : Nền gạch của phòng khách nên sinh vượng cho mệnh chủ.
Chỗ ngồi của chủ nhân nên đặt vào hướng Đông Nam ( cung tài ) , chỗ ngồi của
khách nên đặt vào cung Quý nhân ( Tây Bắc ). Nếu ngược lại sẽ phạm vào Phản
khách vi chủ - Chủ nhà dễ bị người ngoài lấn át.
11/ BỒN NƯỚC TRÊN SÂN THƯỢNG ( SATADO ) : Không được đặt trên bàn thờ,
bếp . giường ngủ.
12/ CẦU THANG : Không đặt cầu thang ở trung tâm nhà. Cầu thang nên đặt ở
cuối nhà theo hướng lên là hướng tốt của gia chủ. Bậc cầu thang nên có số lẻ ( 4n +
1 ) kể cả chiếu nghỉ và mặt sàn . Cầu thang phải để ở vị tốt ( theo cửu cung ) và
hướng tốt ( theo bát quái ). Không để bể nước, bể phốt dưới gầm cầu thang, cầu
thang đi theo chiều thuận của âm dương ngũ hành ( theo chiều kim đồng hồ ).
Cầu thang chính là Khí khẩu ( đường nạp khí ) của tầng trên. Cầu thang nên rộng ít
nhất là 1m, và chiều cao bậc khoảng 15 cm sẽ giúp người già và trẻ nhỏ lên xuống
không mệt.
Trong phép đặt cầu thang có câu : Nhất Vị - Nhị Hướng.
Nhất vị ( Theo cửu cung ) Không phụ thuộc vào mạng chủ, ảnh hưởng tốt xấu đến
70 %.
Nhị Hướng ( Theo bát quái ) , Phụ thuộc vào mệnh của thân chủ. Anh hưởng tốt xấu
đến 30 %.
Lưu ý : Tất của cầu thang, bàn thờ , giường ngủ , chỗ an tọa và vị trì, quay mặt ảnh,
hay miệng lò đó là hướng.
Tọa theo đầu ảnh hưởng 70%, hướng theo chân ảnh hưởng 30 %.
Cầu thang được chia làm 2 phần * Động khẩu : Chỉ làm 3 bậc.
* Phần còn lại là lai mạch : Từ 4-5 bậc.
( Tất cả các tài liệu dẫn trong bài này đều là tài liệu sưu tầm, dienbatn chỉ
xin tóm lược lại ).
Cổ dịch Huyền không học là môn Địa lý bí truyền có từ rất lâu đời , nhưng
cũng vì bí truyền nên những người được truyền thụ chân truyền rất ít, do
vậy mà các kiến thức lọt ra bên ngoài khá muộn. Theo truyền lại bắt đầu
do Quách Phác đời nhà Tấn , sau đó nối tiếp là Dương Quân Tùng đời
Đường, Tưởng Đại Hồng cuối đời Minh , Ngô Cảnh Loan đời Tống và mãi
đến đời Thẩm Trúc Nhưng cuối đời Thanh tác phẩm này mới lọt ra bên
ngoài. Cổ dịch Huyền không học có 3 đặc điểm quan trọng :
1/ Dùng lý luận Dịch học hậu thiên làm cơ sở.
2/Lấy phương pháp sắp xếp sao theo Lường Thiên xích làm công cụ.
3/ Lấy phân bố trường khí và môi trường tự nhiên làm căn cứ.
Môn học này có tính lý luận cao, rất linh hoạt nên còn được gọi là " Hoạt
dịch học " . Về mặt lý luận , nó lấy Khí và trường khí làm căn bản. Cái mà
người đời gọi là cát hay hung đều do sự biến đổi âm dương và quan hệ
sinh khắc của ngũ hành mà tạo nên. Cổ dịch Huyền không chính là nghiên
cứu quy luật biến đổi của hai khí Âm - Dương cùng tính chất sinh khắc
của ngũ hành trong môi trường tự nhiên , ngõ hầu tìm ra những quy luật
vận động và hiểu rõ chúng để phục vụ co con người mưu cầu xu cát tỵ
hung. Trong môn học này, người ta dùng La kinh làm công cụ , lấy sự sắp
xếp cửu tinh , Lạc thư để xác định lý khí , lấy bố cục sông núi địa hình làm
căn cứ , kết hợp cả hai mặt đó lại để xác định sự vượng suy.
" Theo sách cổ để lại “Khí” gặp gió thì tán, nghĩa là “Khí” nhẹ, lẫn vào
không khí nên bị gió cuốn đi. Nếu gió nhẹ vừa phải sẽ có tác dụng dẫn khí
lưu thông, được coi là tốt. Còn gió mạnh làm tán khí, mất khí lại là không
tốt.
Sách cũng ghi “Khí” gặp nước thì dừng. Thường thì khí trong tự nhiên vận
động dựa theo sức mang của không khí, khi gặp vật cản sẽ đổi hướng
theo dòng khí. Khí gặp nước thì dừng nghĩa là nước có khả năng giữ khí
lại , khái niệm chuyên môn của phong thuỷ là “Tụ khí”. Hay nói một cách
mang tính hình tượng hơn là nước có khả năng hút khí, hòa tan khí. Nước
chảy chậm rãi, có chỗ dừng là rất tốt vì mang được khí tươi mới đến và
lưu lại ở đó. Đó là nguyên nhân để các chuyên gia phong thuỷ nhìn dòng
nước chảy để dự đoán khí vận trong lòng đất mà từ chuyên môn gọi là
“Long mạch”. Tính chất của khí sẽ khác nhau tuỳ theo sự tụ thuỷ, sức
chảy mạnh yếu trong lưu thông của dòng nước…..
Như vậy trong mô hình cơ học chất lưu đề nghị để nghiên cứu sự vận
động, “Khí” được mô phỏng như là một chất lưu có các đặc tính sau:
* Có tính tụ hoặc tán.
* Có khối lượng quán tính nhỏ, dễ bị gió cuốn đi
* Có thể coi như độ nhớt động học thấp
* Có thể coi như có tính dính ướt mạnh với các vật thể có độ ẩm và nhiệt
độ phù hợp, đặc biệt là vật thể sống, sinh vật.
“Khí” cần lưu động nhẹ nhàng, bình ổn mới có tác dụng tương tác tốt.
Cũng giống như với các chất lưu khác, dòng chảy tầng bình ổn là dòng
chảy lý tưởng. được coi là mang sinh khí đến.
Dòng chảy hỗn tạp, chảy rối, dòng xoáy hay các dạng dòng chảy hẹp, vòi
phun, dòng xung kích đều không tốt, gây nguy hiểm.
Chúng ta có thể hình dung tính chất thủy khí động học của
“Khí phong thủy” gần giống của nước, trừ tác dụng của trọng lực, để dễ
dàng cho việc khảo sát. Dòng nước chảy siết, nước xoáy mạnh cũng tạo
ra xung khí, tạp khí. Nếu dòng nước bẩn thỉu, hôi hám thì khí cũng sẽ bị
uế tạp, không còn mang được năng lượng sống cho con người nữa."
( Thạc sỹ Hà Mạnh Hùng ).
Theo thiển ý của dienbatn tất cả những tính chất đã nêu ở trên chỉ là
những dạng thù hình cụ thể của Khí mà chưa đi vào đúng bản chất của
Khí. Với câu : " Nhất bản tán vạn thù - Vạn thù quy ư nhất bổn " - Đó
chính là tính chất đặc trưng của KHÍ mà chúng ta đang xem xét , dienbatn
cố gắng gượng gạo thử định nghĩa về Khí trong Phong thủy như sau,
mong rằng các cao nhân bổ xung cho hoàn chỉnh.
Khí trong Phong thủy là một dạng năng lượng cơ bản để sinh ra mọi hình
thức thù hình của vũ trụ và có quy luật vận động tuân theo quy luật vận
động của Vũ trụ. Một tập hợp các dòng năng lượng sẽ tạo nên một Trường
năng lượng có mật độ năng lượng thay đổi cả về độ lớn và
chiều chuyển động. Trường năng lượng là dạng tồn tại của vật chất mà
các tương tác cơ bản được thực hiện thông qua nó. Năng lượng tạo ra
trường năng lượng này không phải do các hạt cơ bản như điện tử,
proton... mà là những hạt có cấu trúc từ các quark với điện tích phân số.
Chúng vẫn chưa được tìm ra. Tuy chưa tìm ra bản chất của chúng nhưng
bằng nhiều cách, chúng ta vẫn có thể đo được chúng . Trong một không
gian vật lý, có thể tồn tại nhiều trường năng lượng và các trường năng
lượng này đều tuân theo Định luật bảo toàn năng lượng. Đối với thuyết
Tương đối Einstein, chúng ta có thể vắn tắt như sau: Mỗi hệ quy chiếu
quán tính đều tương đương nhau và vận tốc ánh sáng là tối đa. Trong
khuôn khổ lý thuyết Einstein, đó là tiền đề. Nên trong một hệ tiền đề
khác, thế giới khác rất có thể tồn tại vật chất nào đó có vận tốc nhanh
hơn ánh sáng. Ví dụ: Chúng ta có một Hạt có khối lượng ảo thì tự nhiên
nó chuyển động nhanh hơn ánh sáng. Trường năng lượng của chúng ta
đang xem xét có chiều không gian >= 3. Tùy theo số chiều không gian
càng lớn thì tính chất của trường năng lượng này càng tinh khiết ( nhẹ,
trong ). Quy luật vận động của chiều không gian lớn bao gồm toàn bộ quy
luật của chiều không gian nhỏ và quy luật vận động của chiều không gian
nhỏ không bao gồm toàn bộ quy luật vận động của chiều không gian lớn
hơn. Trong các chiều không gian > 3 thì không còn tồn tại khái niêm
không gian, thời gian và vận tốc ánh sáng không phải là lớn nhất. Thời
gian trong các chiều không gian lớn hơn 3 có thể co lại hay kéo dài, có thể
chồng quá khứ và tương lai lên với nhau và có thể thắng được lực hấp dẫn
bằng ý chí của mình. Như vậy tại đó không có khái niệm về Thời gian.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, tất cả mọi dạng vật chất mà chúng ta
có thể nhận biết đều là những dạng thù hình của KHÍ - Trường năng lượng
đặc biệt tuân theo quy luật Âm - Dương , Ngũ hành.
Octonion và lý thuyết hạt cơ bản của GS.TSNguyễn Hoàng Phương.
" Vũ trụ là một hệ thống sinh học cần phải có 2 phần không thể thiếu
được : 1/ Phần cứng : Vật lý học với tính chất duy lý của nó . 2/ Phần
mềm : Kinh dịch với tính Minh triết của nó . Ý đồ thống nhất Đông - Tây
của nhà Phật là không phải loại trừ một trong hai phía khoa học trên mà
là tìm cách gộp cả hai phía trong một sơ đồ chung "
2/ Âm - Dương đối lập và thống nhất là trạng thái cơ bản của Khí :
Một vật là một Thái cực nên thái cực chia thành âm dương. Do vậy mọi
vật đều do hai khí âm - dương cấu thành. Sự đối lập và thống nhất của
Khí biểu hiện thành trạng thái vật chất . Âm - dương đối lập và thống
nhất là quy luật vận động của vũ trụ , nhưng giữa âm khí và dương khí
không phải lúc nào cũng cân bằng nhau. Chúng có thể biểu hiện nhiều
hơn hoặc ít hơn, hoặc biểu hiện thành bao dung nhau.
Âm - dương chuyển hóa gọi là biến. Cực dương sinh âm , cực âm sinh
dương. Âm dương vận hành gọi là thông - Cùng tắc biến - Biến tắc thông.
Âm - dương không biến , không thông thì trời đất không tồn tại . Sự biến
hóa của âm - dương trên gọi là Đạo, dưới gọi là Khí . Nói về vạn vật là nói
về Đạo, nói về hình của vạn vật là nói về Khí. " Nhất âm - Nhất dương chi
vi Đạo " là cái lý này. Trong Phong thủy, phần mộ gọi là âm
trạch, nhà cửa gọi là dương trạch. Địa lý Phong thủy lấy âm - dương trạch
làm đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên là chúng ta thực hiện trong hệ tọa độ
Đề các - Tức là trong không gian 3 chiều. Tuy nhiên nhiều trường hợp ,
chúng ta vẫn cần phải có kiến thức về những chiều không gian >3 mới
giải quyết chính xác công việc nghiên cứu. Các phương vị trong không
gian đều là âm - dương đối lập - thống nhất. Hậu thiên Bát quái chia
thành 24 sơn và hướng . Sơn và hướng lại được chia thành âm và dương,
giới hạn của chúng rất rõ không thể lẫn lộn . Sự vận hành của Khí cũng
chia ra âm - Dương , âm vận hành nghịch, dương vận hành thuận. Tọa
Sơn và lập hướng đều phải căn cứ theo sự vượng, suy của hai khí âm -
dương.
Lưu ý của dienbatn : Qua các phần trên chúng ta phải hiểu rõ định nghĩa
của Khí trong phong thủy với những tính chất tổng quát. Chúng ta không
thể nhầm lẫn giữa Khí và gió mặc dù gió cũng là Khí ...nhưng lại không
hoàn toàn là Khí !!!! Có như vậy chúng ta mới không dẫn đến những kết
luận sai lầm đến tức cười ví như cầu thang không có lan can sẽ rơi mất
Khí...hoặc như sau khi dẫn khí vào nhà mà có một con mẹ mập nào đó cỡ
...dienbatn ngồi chắn trước cửa sẽ che mất đường khí lưu thông. Khí vận
hành không thô thiển như vậy đâu các bạn ạ - Xin lưu ý điều này.
PHONG THỦY LUẬN BÀI 9 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Nhà Địa lý Thái Cửu Thăng nói: Người đời nay nói về Lý Khí ở trong miền
Bình dương, đại để là không ngoài hai môn: Cửu Cung và Bát Sơn. Cửu
Cung thì lấy Bản cục tinh nhập Trung Cung, phi ra 8 phương, lấy phương
Sinh Khí và Vượng kHí làm phương tốt lành. Bát Sơn thì lấy Bản cục quái,
khởi sao Liêm Trinh, lấy Tham Lang, Cự Môn, Vũ khúc là 3 sao ở ba
phương đó làm tốt lành.Về định cục và biện quái của hai môn thì cùng
như nhau, nhưng so sánh cái Cát và cái Hung ở 8 phương thì không giống
hệt như nhau. Tức là bất đồng. Xem ra thập Can thì chỉ có 1,2 cái là đồng
còn 8,9 cái là bất đồng. Vì thế nên người theo môn Cửu Cung thì bảo Cửu
Cung là phải; người theo phái Bát Sơn thì cho Bát Sơn là phải. Hai bên
mâu thuẫn và tranh cãi rất nhiều, NHƯNG, thực ra, thì do cả hai phái đều
chưa thấu đáo cái LÝ bên trong. Họ có biết đâu Địa Vận có lúc Thịnh, lúc
Suy; đắc Vận thì Hưng Vượng, thất Vận thì suy bại. Nếu không tường môn
Cửu Cung thì không biết khi nào hưng thịnh, khi nào suy bại, vì Cửu Cung
chính là cách xem Khí Vận của Địa cục. Phương vị thì có tinh thuần, có
bác tạp.Cho nên mới có câu:
" Âm, Dương tương kiến nhi cát
Âm, Dương tương thừa nhi hung"
( nôm na là có khi Âm, Dương gặp nhau thì Cát; có khi Âm, Dương gặp
nhau lại Hung)
Và không có Bát Sơn thì không thể biết khi nào Cát, khi nào Hung vậy.
Bát Sơn là cách xem Thủy định Hướng, nếu không thông tỏ Bát Sơn thì
không biết phương vị đó là Cát hay Hung được. Không am hiểu Cửu Cung
thì không biết lúc nào Vận Vượng, lúc nào Vận Suy.
Vậy cả hai môn hỗ tương cho nhau, cùng dùng cả, chẳng thể thiếu một.
Nên khi xét phương hướng định vị thì lấy Bát Sơn làm chủ, lấy Cửu Cung
để hỗ trợ. Tỷ như Bát Sơn có Cát Địa, Cát Thủy cũng phải đợi đến lúc Vận
Vượng mới ứng nghiệm mà phát được.
Nói vậy cũng có nghĩa là: Khi xem xét Khí Vận phải lấy Cửu Cung làm
chủ, mà Bát Sơn hỗ trợ thêm. Tỷ như Cửu Cung đã gặp Vận Hưng, nhưng
cũng phải có Cát Sơn, Cát Thủy thì mới phát Phú Quý được.
Cho nên, cả hai môn cũng như Thể, Dụng đi đôi với nhau, không thể tách
rời.
Xét về ứng dụng thì thế, xét về phạm vi thì Cửu Cung luận cái Tổng Quát,
đại lược của bố cục thôi; còn Bát Sơn thì phải đến trên Huyệt mà định 8
quẻ, mỗi quẻ phân ra ba sơn, xem Thủy, xét phương một cách chi tiết
hơn. Cả hai môn không thể trộn lẫn mà dùng một cách hỗn tạp, mà phải
có từng cái Dụng riêng, do đó không có tình trạng dẫm chân nhau như
người của hai phái này thường tranh luận. Vậy ta cũng thấy hai môn đâu
hề mâu thuẫn nhau, chỉ có người học không đến nơi, hiểu không đến chốn
mới bình phẩm cái này đúng, cái kia sai, không hề có việc cái này phải,
cái kia trái khi xét một cuộc đất giửa hai môn này.
Đại sư Lại Bố Y cho rằng: Bát Sơn dụng Ngũ Quỹ quái, ở trong cái Âm,
Dương thuần tịnh có Liêm Trinh; ở cái Âm , Dương bác tạp có Phụ Tinh;
chỗ thuần tịnh chẳng phải lúc nào cũng toàn Cát, chỗ bác tạp chẳng phải
lúc nào cũng toàn Hung. Âm, Dương cùng gốc, họa phúc cùng chịu. "Cực
tắc bất biến" chính là "Thiên đạo chi diệu dã" vậy (Vật đến chỗ cùng cực
tất sẽ biến đổi, đó mới đúng là đạo thật hay). Lý này của Ngài chẳng khác
nào Ý Dịch mà NCD mình đã nhiều lần nói với các anh chị, các bạn "Dịch
không có tốt, không có xấu, mà tốt xấu cùng một chỗ", cũng như vòng
tròn Lưỡng Nghi, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, khi đến Thái
Dương tất sẽ sinh Thiếu Âm, đến Thái Âm tất sẽ sinh Thiếu Dương vậy.
Theo Ngọc Xích Kinh nói thì miền Bình dương (đồng bằng) chỉ có Tiểu vận
thôi, cho rằng ở miền Bình Dương chỉ có Địa cuộc nhỏ sẽ không đắc Đại
vận được, nên chỉ luận Tiểu vận. Nếu các anh chị, các bạn còn nhớ, trong
bài "Thánh vật sông Tô Lích", NCD mình đã từng nói ở miền Bình dương
đa phần là Huyệt Phú, ít có Huyệt Quý, nhưng nếu có thì Huyệt kết sẽ lớn
không kém miền sơn cước. Bởi ở vùng đồng bằng cũng có Đại Cán
Longkết Huyệt vậy, chẳng những thế, Lực của nó rất lớn, Khí dồi dào,
phải lấy Đại vận mà suy xét sự Hưng, Suy của nó vậy.
Tiểu Vận thì lấy 20 năm, đổi thay một sao vào giửa Trung Cung mà phi đi.
Đại Vận thì lấy 60 năm ( tương đương một Nguyên) cũng lấy một sao chủ
Đại Vận nhập vào Trung Cung mà thuận phi đi.
Muốn luận đất là Đại địa hay Tiểu Địa phải xem xét cái Địa Cục đó lớn hay
nhỏ, dày hay mỏng mà quyết định Sao vào Trung Cung là của Tiểu Vận
hay Đại Vận, có vậy mới khỏi lầm lạc khi quyết đoán sự Cát Hung khi 8
sao phi đến tám phương.
Đến bất kỳ Hình cục nào, thấy có Sơn thì xem theo Sơn, thấy có Thủy thì
xem theo Thủy. Sơn thì xem theo cái thế nó dẫn lại, phải định rõ được
đâu là Tổ Sơn (trong Dương Trạch đô thị, thì xem những Cao Ốc lớn là Tổ
Sơn), có thế mới xác định được Mạch đi theo Hướng nào đến. Thủy thì
xem chỗ nó triều lại, hay nơi nước hội tụ, hay nơi gần Thủy.
Sơn tuy là gốc khởi phát Tinh-phong, nhưng Bản cục mà ta chọn thường
xem chỗ kết cục, tức Long dẫn vào. Nếu gần nơi Hình cục không có
sơn phong khởi chỏm lên, thì lấy chỗ Lai Long, tức là lấy hướng Mạch lại
Huyệt trường. Nếu có sơn phong (núi cao lên) thì Bản cục phải theo
chỗ phong khởi mà định.
Thủy tuy gốc ở chỗ Lưu nguyên (phát xuất của nguồn nước), nhưng Bản
cục định ở chỗ góc nó triều vào, không có Hợp thủy thì lấy chỗ Thủy
hoành nhiễu (quấn quanh ngang mặt). Nếu có chổ Thủy hội họp, thì bản
cục lấy ở chỗ hội họp ấy mà quyết.
Vậy thì ở chốn đồng bằng, đô thị lấy chỗ cao hơn làm Sơn, chỗ thấp hơn
làm Thủy. Chỗ Sơn khởi phong cao lên gọi là Kiến, chỗ Thủy gặp nhau gọi
là Phá. Kiến làm Chủ, Phá làm Khách, Chủ-Khách phối với nhau thì ra
quẻ.
Sau khi biết được quẻ gì, sao gì thì lấy đó nhập Trung Cung, phi thuận ra
8 phương để xem Sinh, Vượng, Quan Sát và đoán Cát Hung.
Nói thì khó hiểu, nhưng để mình ví dụ cho dễ hiểu hơn : Tỷ như phương
Ly có Thủy thì ta định là Khảm Sơn, phương Càn có Thủy thì ta định là
Tốn Sơn
Dịch nôm na đại ý thế này: Núi, sông, Kiến, Phá phải rõ ràng, tinh tường.
Ở phương Kiến cần phải thanh, sảo, không nên thô ngạnh; phương Phá
cần yên tĩnh. Nếu như phương chủ sơn (quẻ, cục) ấy không bị phương ấy
khắc sát. Thì lúc chủ sơn đắc vận, tai họa khó mà xâm hại đến được.
Ở nơi núi cao thì lấy chỗ cao làm Kiến, chỗ thấp làm Phá. Nơi đất bằng thì
lấy Tọa sơn làm Kiến, hướng triều vào làm Phá. Kiến là Chủ thì nên triều
vào và tú lệ, thanh quang. Phá là Khách thì nên vòng cong ôm lại.
Nếu thấy phương Sinh có Cao Sơn mà Thủy uốn vòng quanh, thì con cahú
có phước lộc, nếu được chủ Kiến đắc Vận thì đại phát phú quý.
Cũng phân như Cửu Cung trong Huyền Không :
Tức là : Nhất Bạch sao Tham Lang là Khảm Thủy, Nhị Hắc sao Cự Môn
thuộc Khôn Thổ, Tam Bích sao Lộc Tồn thuộc Chấn Mộc, Tứ Lục sao Văn
Xương thuộc Tốn Mộc, Ngũ Hoàng sao Liêm Trinh chiếm Trung cung Thổ,
Lục Bạch sao Vũ Khúc thuộc Càn Kim, Thất xích sao Phá Quân thuộc Đoài
Kim, Bát Bạch sao Tả Phù thuộc Cấn Thổ, Cửu Tử sao Hữu Bật thuộc Ly
Hỏa.
Trên là phần giới thiệu về Cửu tinh và cách lập cục, tiếp đến chúng ta tìm
hiểu thế nào là Sinh, Sát, Thoái, Tử, Vượng Khí của Cửu tinh
Tức là : Nếu nó sinh ta thì đó là Sinh Khí, nó khắc ta là Sát Khí, ta sinh nó
là Thoái Khí, ta khắc nó thì đó Tài Khí tuy nhiên đó là phương Tử Khí thì
cũng chẳng ích lợi gì, cùng ngũ hành với ta đó là Vượng Khí.
Khi đến Cuộc thế đất, ta xem phương khởi phong (núi cao lên), xem nơi
nào gần nước thì lấy chỗ đó mà định quái cục Quái cục đã định được rồi
thì lấy Sao bản quái đó nhập vào Trung cung, thuận phi 8 phương, xem
phương nào Sinh , Khắc,...
Ví dụ : Ta có phương Ly gần nước, tức lấy Bản quái cục là Khảm. Xem
trên kia thì thấy " Nhất Bạch Tham Lang, Khảm Thủy Thần", vậy thì ta lấy
Nhất Bạch nhập Trung Cung thuận phi đi 8 phương, Nhị Hắc ở Càn là Sát
Khí phương, Tam Bích ở Đoài là Thoái Khí phương, Tứ Lục đến Cấn cũng là
Thoái Khí phương, Ngũ Hoàng đến Ly là Sát Khí phương, Lục Bạch đến
Khảm là Sinh Khí phương, Thất Xích đến Khôn là Sinh Khí phương, Bát
Bạch đến Chấn là Sát Khí phương, Cửu Tử đến Tốn là Tử Khí phương.
Sao tại Trung Cung làm chủ, các sao phi đến các phương đều so đối với
nó mà xét sự Sinh, Khắc, Sát, Tử, Thoái. Cho nên khi so đối ra, Nhị Hắc
đến Càn không phải so với bản cung Càn Kim đó, mà so với Nhất Bạch ở
Trung Cung, Thổ khắc Thủy, nên đó mới là phương Sát Khí. Các cung ,
sao khác cũng tương tự vậy mà tính.
***Riêng bản thân mình nhìn thấy nhiều cuộc mộ Tốn cục vẫn phát phúc
lâu dài, không như Tiền nhân luận định trong sách, mình không dám Vọng
Ngữ phê phán các bậc tiền nhân là sai lầm, chỉ đưa ra để các anh chị, các
bạn để ý xem thử thế nào hầu rút kinh nghiệm.
Khí hoá lưu hành suốt trong bầu trời, quả đất và các vì tinh
tú chuyển vần...vv... hết thảy đều do Cửu Tinh chủ trị cả.
Danh hiệu của Cửu Tinh:
_ Thiên Hoàng Đại Đế tức Tôn Tinh.
_ Tử Vi Đại Đế tức Đế Tinh.
_ Bắc Đầu thứ nhất tức Tham Lang Tinh.
_ Bắc Đẩu thứ nhì tức Cự Môn Tinh.
_ Bắc Đẩu thứ ba tức Lộc Tồn Tinh.
_ Bắc Đẩu thứ tư tức Văn Khúc Tinh.
_ Bắc Đẩu thừ năm tức Liêm Trinh Tinh.
_ Bắc Đẩu thứ sáu tức Vũ Khúc Tinh.
_ Bắc Đẩu thứ bảy tức Phá Quân Tinh.
Hai vị Tôn Tinh và Đế Tinh lại hoá ra hai sao Tả Phù và Hữu Bật, hai sao
kèm ở hai bên ngôi Vũ Khúc, đều là ở ngoài ngôi cao của Tử Vi Viên mà
làm chủ tể cả Thiên Địa, quay chuyển Tạo Hoá, dưới thì thi hành ở Địa cầu
hoá sinh muôn vật. Tất cả những việc liên quan đến Thỏ, Yểu, Cùng,
Thông trong sinh mệnh của con người đều hệ thuộc ở đó mà ra cả. Cái
Địa Khí tuy phát sinh dưới lòng đất, nhưng thực ra nó cũng hợp nhất với
Thiên Khí trên trời. Do vậy, cái hay, dỡ của đất đai địa cục phải theo ở
Cửu Tinh mà xét đoán, cho nên mới gọi là Huyền Không Bát Quái Ngũ
Hành pháp. Như Kiền, Khôn, Cấn Tốn, Khảm, Ly, Chấn, Đoài cái thứ tự
hào quái của nó tự nhiên đã có như thế, không phải người tạo ra mà
được. Tuy thấy điên đảo thác loạn mà cùng hợp bên trong, trong cái bất
đồng lại có cái qui hợp đại đồng (điều này cũng tương ứng trong Ý Dịch,
trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, thấy tốt mà ẩn cái xấu, thấy xấu
mà tàng chứa cái tốt, tốt xấu cùng một lúc, "vạn thù qui nhất bổn, nhất
bổn tán vạn thù").
Quái thì lấy Kiền Khôn làm Phụ Mẫu, lấy lục hào làm Tử tôn. Hai mươi bốn
phương vị lại lấy Bát Quái làm Phụ Mẫu, lấy Can Chi nạp giáp vào mà làm
Tử tôn vậy.
Bởi Long Mạch là Địa Khí, mà Địa Khí thì nặng và đục, nên ba phương vị
qui vào một quái. Tinh là Thiên Khí, mà Thiên Khí thì nhẹ và trong, nên
hai mươi bốn phương vị tự phân hành đi nhưng vẫn lệ thuộc vào quái nạp
giáp, lấy cách một cung làm Địa Mẫu Quái. Mà Địa và Mẫu vốn mang tính
chịu đựng, thu nạp (như chúng ta đổ nước hoa xuống đất, đất có khen
thơm chăng? Chúng ta xả rác xuống đất, đất cò chê hôi hay phiền trách
chăng?), nên Lập Hướng lấy Nạp Thuỷ làm chủ yếu.
Lấy bản cung đối xứng làm Thiên Phụ Quái, Thiên và Phụ vốn là tính trải
ra, phản hồi (như chúng ta thả khói ô nhiễm vào bầu trời, tất lãnh ngay
hậu quả phản hồi "lỗ thủng tầng ô zôn"), nên Tiêu Thuỷ làm chủ yếu.
Tham, Cự, Vũ, Phụ ở Thiên Phụ Quái. Văn, Lộc, Phá, Liêm ở Địa Mẫu Quái.
Người biết Thu được cái Thuỷ của Tam Cát (Tham, Cự, Vũ), biết tiêu được
cái Ác khí của Tứ Hung (Phá, Lộc, Văn, Liêm) thì bất kỳ cục địa nào cũng
có thể trở nên tốt lành. Vậy ở hai bên trái phải của quái như có Sa,
Thuỷ Cát tú thì nên ở phía trước, không nên ở đằng sau. Điều này cũng ví
như bầy tôi với vua chúa vậy, hướng chầu vào vua là kẻ phò tá, trung
thần; quay lưng vào vua là phản bội, gian thần vậy. Sa, Thuỷ, Long,
Hướng chỉ nên thu cái tam Cát và Phụ Bật thôi, không nên làm phạm vào
phương vị của Tứ Hung.
Cái Thuỷ Lai ở những phương Cát ấy phải cực thanh. Nếu cả hai cái
Thuỷ Cát Hung cùng đến Huyệt, thì cái Thuỷ Cát ứng Cát, cái Thuỷ Hung
ứng Hung. Nếu cả Cát và Hung cùng hợp vào một cung mà dẫn vào
Huyệt, thì trong cái tốt có cái xấu, bán Cát bán Hung.
Còn cái Ảnh diệu, tức cái bóng ánh nước chiếu, nếu không trông thấy
nước ở Nội Minh Đường, hay ngắn gọn hơn, không thấy ánh nước chiếu
vào Huyệt, là ẩn mà không thấy, thì cái Phước, cái Hoạ chưa ứng nghiệm.
Chính vì Thuỷ là cái gốc gây ra Phước, Hoạ cho Địa Huyệt vậy.
Thường có cái nhà nhỏ, thấp của người nghèo lại phát phước dần dần; mà
cái nhà lầu cao của người giàu lại thoái bại dần, là do bới thấy cái Hung
Thuỷ ở bên ngoài vậy. Có nhiều cái Huyệt thuở ban đầu không phát, sau
trồng cái cây cao, hay tự nhiên có cây cao mọc lên mà phát quý, đó là do
cái Cát Thuỷ bên ngoài ứng chiếu vào vậy.
Còn cái Chuyển diệu, là cái sao luân chuyển đi, khiến sinh có cái
Hướng Cát mà trở thành Hung, có cái Hướng Hung mà phản lại thành Cát.
Trong cái Hướng mà có Thuỷ Lai là hướng Thực, trong cái Hướng mà có
Thuỷ Khứ là hướng Hư, nên cái Cát mà thành Hung, cái Hung mà
thành Cát là vì thế.
Vậy cái Tinh quái ở chỗ Khứ Thuỷ phải lấy ở chỗ cửa khẩu Tiêu Thuỷ gần
với Nội Minh Đường, lấy chỗ Thuỷ gẫy khúc lần thứ nhất là đúng. Sau chỗ
Thuỷ gẫy khúc đã chảy đi rồi, mà trong chỗ Huyệt kết lại thấy cái bóng
của Thuỷ Khứ nữa, cái ấy gọi là chỗ Ngoại lưu. Còn cái Khứ Thuỷ mà tiêu
đi không hết, là ở chỗ cửa nước tiêu đi, lại khai ra cái vũng chứa nước,
hoặc cái đầm, ao để làm cho cái Khứ Thuỷ ấy chứa lại, thì cái Cát Hung
tất nhiên cũng có sự điên đảo, nên xem xét cẩn thận, bởi chỗ ấy là
Nguyên khí thịnh vượng, nước tiêu đi mà còn trở lại ( Cái này trong Dương
Trạch thường rất hay gặp, nhiều nhà hay làm hố ga chưa nước lại trước
khi thoát đi ra, cần phải chọn vị trí cho đúng, không khéo mà gặp hoạ .
Cẩn thân! Cẩn thận!).
Đây chính là dụng pháp của Ai Tinh, là cái bí quyết ẩn tàng của Thiên Địa.
Xưa có câu: Hữu nhân đắc thức Ai Tinh quyết, chiêu thị phàm phu mộ thị
Tiên. Nghĩa là: Có người nào biết được phép Ai Tinh thì buổi sớm là kẻ
trần tục, buổi tối đã là bực Tiên rồi. Tức là người nào biết sử dụng được
phép Ai Tinh, thì Tạo Hoá ở cả trong bàn tay rồi, hô hấp quán thông đến
tận cả trời xanh. Cổ nhân truyền cho cái hay mà không truyền cho cái
thuyết, thật là bí hiểm, có lẽ còn theo về Duy Tâm, sơ e Thiên nộ vì tiết
lậu Thiên cơ.
Còn những chổ gần biển, có nước biển dâng lên, rút xuống, thì lấy chỗ
cửa ra biển là nơi Thuỷ Khứ. Nghĩa là cái nước Hải Triều chảy ngược lên,
không phải là cái Thuỷ Lai. Đó là Lạc Thuỷ Quy Nguyên, ở khoảng đó là
Lưu Tinh, đạo lý tự nhiên của Thiên Địa, do sự hô hấp của Âm Dương mà
thăng giáng như vậy.
ĐOÀI CỤC:
_ Đoài, Chấn, Khôn, Khảm, Tốn, Cấn, Ly, Kiền.
_ Kiền, Ly, Cấn, Tốn, Khảm, Khôn, Chấn, Đoài.
CHẤN CỤC:
_ Chấn, Đoài, Khảm, Khôn, Cấn, Tốn, Kiền, Ly.
_ Ly, Kiền, Tốn, Cấn, Khôn, Khảm, Đoài, Chấn.
KHÔN CỤC:
_ Khôn, Khảm, Đoài, Chấn, Ly, Kiền, Tốn, Cấn.
_ Cấn, Tốn, Kiền, Ly, Chấn, Đoài, Khảm, Khôn.
KHẢM CỤC:
_ Khảm, Khôn, Chấn, Đoài, Kiền, Ly, Cấn, Tốn.
_ Tốn, Cấn, Ly, Kiền, Đoài, Chấn, Khôn, Khảm.
TỐN CỤC:
_ Tốn, Cấn, Ly, Kiền, Đoài, Chấn, Khôn, Khảm.
_ Khảm, Khôn, Chấn, Đoài, Kiền, Ly, Cấn, Tốn.
CẤN CỤC:
_ Cấn, Tốn, Kiền, Ly, Chấn, Đoài, Khảm, Khôn.
_ Khôn, Khảm, Đoài, Chấn, Ly, Kiền, Tốn, Cấn.
LY CỤC:
_ Ly, Kiền, Tốn, Cấn, Khôn, Khảm, Đoài, Chấn.
_ Chấn, Đoài, Khảm, Khôn, Cấn, Tốn, Kiền, Ly.
KIỀN CỤC:
_ Kiền, Ly, Cấn, Tốn, Khảm, Khôn, Chấn, Đoài.
_ Đoài, Chấn, Khôn, Khảm, Tốn, Cấn, Ly Kiền.
Chẳng lẽ mỗi lúc cần xem lại lấy bảng này ra xem, hay phải nhớ thứ tự
của cả bảng 8 cục với hai cách tính, thật là khó khăn, nên NCd sẽ chỉ công
thức cho cả hai cách phiên quái này, các anh chị, các bạn chỉ cần biết
cách tính, còn nhớ thì chỉ cần nhớ thứ tự sao theo thứ tự mỗi lần biến là
đủ.
1/. Cách tính cho quẻ Thiên Định:
Lần thứ nhất biến hào thượng.
Lần thứ nhì biến hào trung.
Lần thứ ba biến hào hạ.
Lần thứ tư biến hào trung.
Lần thứ năm biến hào thượng.
Lần thứ sáu biến hào trung.
Lần thứ bảy biến hào hạ.
Lần thứ 8 biến hào trung trở về Nguyên vị.
Ví dụ: Càn cục khởi quái: Lần thứ nhất biến hào thượng thành quẻ Đoài,
lần thứ nhì biến hào trung thành quẻ Chấn, lần thứ ba biến hào hạ thành
quẻ Khôn, lần thứ tư biến hào trung thành quẻ Khảm, lần thứ năm biến
hào thượng thành quẻ Tốn, lần thứ sáu biến hào trung thành quẻ Cấn, lần
thứ bảy biến hào hạ thành quẻ Ly, lần thứ tám biến hào trung trở về
Nguyên vị là quẻ Càn.
TỬ KHÍ QUYẾT
Thuỷ lộ, Sơn cương phạm Tử thần
Gia môn tịch tịch chủ cô bần
Lãnh thoái, tai truân, tần nhạ hoạ
Khan khan hậu đại tuyệt vô nhân.
Nghĩa là: Nước và núi đồi phạm vào phương Tử khí nên cửa nhà vắng vẻ,
bị cô quả, bần hàn, lạnh lẽo, thoái bại cả người lẫn của, tai hoạ gây ra
luôn luôn, xem thấy đời sau tuyệt tự không sai
THOÁI KHÍ QUYẾT
Thoái khí nguyên lai tối bất lương
Thời nhân phạm chước hoạ nan đương
Doanh mưu tất bản, đồ ta thán
Gia đạo tiêu điều, khởi hoạ ương
Nghĩa là: Phương Thoái Khí nguyên là phương rất xấu, không lành, người
nào bị phạm ứng vào thì tai hoạ khó tránh khỏi, mưu sự buôn bán thì mất
cả vốn, luống những than phiền, gia đạo bị tiêu điều, đầy dẫy tai nạn,
thiệt hại khởi lên.
Hai phương Tử Khí và Thoái Khí đều là bất lợi cả, nhưng Sơn củng, Thuỷ
nhiễu thì cũng còn không đến nỗi. Tuy không phát quý, nhưng tài lộc còn
khá, không bị tuyệt sản nghiệp. Vậy nên Sơn, Sa phải đê phục, bình thản,
Thuỷ khộng nên chảy đi ở phương Thoái khí, nếu Trực khứ thì tiết hết cục
khí, tức là Ngã thân Tuyệt khí, cực kỳ hung hại. Cẩn thận!
TỔNG LUẬN
NIÊN, NGUYỆT BẠCH QUYẾT
Nghĩa là:
Sao Nhất Bạch vốn thuộc Thuỷ, về phương Chấn và phương Tốn tu tạo
(đặt táng hay làm nhà) thì tốt đẹp. Xem thấy tháng 7, tháng 8, tháng 9
liền lại, thì có ngoại tài ở phương Nam tiến tới.
Sao Nhị Hắc vốn thuộc Thổ, về phương Đoài và phương Kiền, gặp được
lúc tu tạo thì tốt, và đợi đến tháng 2 và tháng 8 khí giao lai, thì có của ở
phương Đông Bắc và phương Tây tiến đến.
Sao Tam Bích vốn thuộc Mộc, các cung khác không nên tạo tác. Chỉ có
phương Nam mà dụng làm thì có của cải ở phương Tây đưa đến, chỉ 60
ngày là đưa đến => Mau phát. (Sao Tứ Lục cũng như sao này).
Sao Ngũ Hoàng thuộc Thổ, là sao tôn trọng ở Trung cung, phương Tây
Bắc chính là tương thân. Sao này chỉ nên tu tạo ở hai phương Kiền và
Đoài, các tháng 7, 8, 9 thì có ngoại tài đến (sao Bát Bạch gặp cũng tốt
lành).
Sao Lục Bạch nguyên thuộc Kim, phương Khảm mà gặp được, tạo tác thì
phước càng lâu bền, to dầy. Nhưng đợi tháng 4, 6, 7 giao khí đến, thì có
vui mừng ở phương Đông Nam đến (sao Thất Xích cũng như sao này).
Sao Cửu Tử vốn thuộc Hoả, gặp hai phương Khôn và Cấn thì nên tu tạo.
Đợi đến tháng hoặc năm Dần, Tị, Ngọ thì tốt, sẽ có tài sản ở phương Bắc
đem đến, chẳng phải khoá cửa.
THÁI TUẾ SƠN ĐẦU BẠCH TINH QUYẾT
Tý niên Nhất Bạch nhập Trung cung.
Ngọ tái tương phùng Cửu Tử đồng.
Mẹo tuế Trung cung Tam Bích hội.
Dậu niên Thất Xích thị tinh tông.
Mùi, Thân nhị niên câu Nhị Hắc
Thìn, Tị hồi lai Tứ Lục trung.
Tuất, Hợi Trung cung khởi Lục Bạch.
Sửu, Dần Bát Bạch chính tương phùng.
Bạch đáo sơn đầu nghi tác dụng
Âm phần, lập Trạch, tử tôn vinh.
Bạch trung hữu sát nghi hồi tị.
Phạm giả tu giao lập kiến hung.
Nghĩa là: Năm Tý thì sao Nhất Bạch nhập Trung. Năm Ngọ thì sao Cửu Tử
nhập Trung. Năm Mẹo thì sao Tam Bích nhập Trung. Năm Dậu thì sao
Thất Xích nhập Trung. Năm Mùi và năm Thân thì lấy sao Nhị Hắc nhập
Trung. Năm Thìn và năm Tị thì lấy sao Tứ Lục nhập Trung. Năm Tuất và
năm Hợi thì khởi sao Lục Bạch nhập trung.
Năm Sửu và năm Dần thì sao Bát Bạch nhập Trung. Những sao Bạch đến
cung Tọa, Hướng thì nên làm nhà, hay làm mộ phần thì con cháu được
hiển vinh. Ở trong phương mà sao Bạch phi đến lại bị Sát thì nên tránh đi
không dùng, nếu phạm vào thì lập tức thấy ngay cái Hung.
Trên đây là 12 năm, năm nào lấy sao gì nhập Trung cung để phi ra Bát
phương. Tìm 3 sao Bạch đến phương nào thì phương ấy tốt, nên tu tạo.
Nhưng bị Sơn sát thì tránh không nên làm.
Ví dụ như năm Tý, ta lấy Nhất Bạch nhập Trung cung, thì Tứ Lục đến Cấn,
là Mộc khắc Thổ, nếu làm tại Cấn Sơn, Phương (Động Thổ, Tu Tạo) thì 4
người bị thương. Phạm Nhất Bạch sát thì bị thương 1 người, phạm sao Nhị
Hắc sát thì bị thương 2 người... Lấy số của sao mà suy đoán.
Cốt là biết ứng vào thời điểm nào. Như sao Tứ Lục thì có thể là 40 ngày,
là 4 tháng; xa thì lấy năm Thìn, năm Tị hoặc năm tương xung là năm
Tuất, năm Hợi sẽ ứng..
Cần biết là người nào bị tổn thương, thì lấy Địa Chi ở phương phạm ấy,
ứng vào đó. Như Cấn phương là Sửu, Dần thì ứng vào người tuổi Sửu, tuổi
Dần...
Phép đoán tháng cũng cùng như năm. Như năm Dần lấy Bát Bạch nhập
Trung. Bạch trung sát giả, là Ám Kiến Sát, Lục Tiệp Sát, Xuyên Tâm Sát,
Đấu Ngưu Sát, Giao Kiếm Sát, Thụ Khắc Sát, những phương phạm Sát
đều chẳng nên phạm.
Trong 216 bảng sắp xếp sao để lập quẻ, mỗi bảng đều ghi thời gian dài
ngắn của Địa vận.Thời gian địa vận này được xác định nghư thế nào ?
Người ta quan niệm : độ dài ngắn của Địa vận là do mối quan hệ giữa Sao
ở trung cung và sao Hướng quyết định . Trong 24 Sơn và Hướng , mỗi cặp
sao Sơn và Hướng đều có quan hệ giữa sao nhập trung cung và sao
Hướng riêng biệt.
Vào ngục: cũng có thể nói là khí vận hành tận. Nếu một ai đó phạm pháp phải vào tù, thì
không thể nói đến chuyện người đó có thể làm được gì, bởi họ đã bị khống chế trong một
không gian cố định. Đinh tinh vào ngụ, nhân đinh không vượng. Hướng tinh vào ngục, tức là
một loạt các tai hoạ sẽ xảy ra, chủ nhà phá sản, chết chóc thương tâm. Nếu vận vào ngục, thì
thường nhìn thấy những người trong gia đình phải chết. Đối với thế cục mà song tinh hội
hướng, dựa vào hướng phi tinh di chuyển tới vận của toạ sơn là thời điểm phải vào tù.
Ví dụ : Sơn Tý - Hướng Ngọ : tại vận 1, sao Nhất bạch thủy nhập trung
cung , sao Hướng là Ngũ Hoàng , trong đó các vận 1,2,3,4 cứ mỗi vận 20
năm, tổng cộng là 80 năm. Tứ đó về sau : Bất cứ sao nào nhập trung
cung , địa vận đều là 80 năm.
Các địa vận :
*Sơn Tý - Hướng Ngọ - Địa vận 80 năm.
* Sơn Quý - Hướng Đinh - Địa vận 80 năm.
* Sơn Nhâm - Hướng Bính - Địa vận 80 năm.
* Sơn Ngọ - Hướng Tý - Địa vận 100 năm.
Sơn Đinh - Hướng Quý - Địa vận 100 năm.
* Sơn Bính - Hướng Nhânm - Địa vận 100 năm.
* Sơn Càn - Hướng Tốn - Địa vận 160 năm.
* Sơn Hợi - Hướng Tỵ - Địa vận 160 năm.
* Sơn Tuất - Hướng Thìn - Địa vận 160 năm.
* Sơn Tốn - Hướng Càn - Địa vận 20 năm.
* Sơn Tỵ - Hướng Hợi - Địa vận 20 năm.
* Sơn Thìn - Hướng Tuất - Địa vận 20 năm.
* Sơn Dậu - Hướng Mão - Địa vận 20 năm.
* Sơn Tân - Hướng Ất - Địa vận 140 năm.
* Sơn Canh - Hướng Giáp - Địa vận 140 năm.
* Sơn Mão - Hướng Dậu - Địa vận 40 năm.
* Sơn Ất - Hướng Tân - Địa vận 40 năm.
* Sơn Giáp - Hướng Canh - Địa vận 40 năm.
* Sơn Khôn - Hướng Cấn - Địa vận 60 năm.
* Sơn Thân - Hướng Dần - Địa vận 60 năm.
* Sơn Mùi - Hướng Sửu - Địa vận 60 năm.
* Sơn Cấn - Hướng Khôn - Địa vận 120 năm.
* Sơn Dần - Hướng Thân - Địa vận 120 năm.
* Sơn Sửu - Hướng Mùi - Địa vận 120 năm.
Như vậy ta thấy rằng, khi phân kim điểm hướng, bất kể các hướng tốt
như Vượng Sơn - Vượng Hướng, Toàn cục hợp Thập hay các hướng xấu
như thượng sơn - Hạ Thủy thì các tính chất tốt xấu chỉ nằm trong thời
gian của Địa vận . Vượt quá thời gian của Địa vận thì Hướng tinh sẽ nhập
trung cung và nó sẽ bị mất tác dụng.
Ví dụ : Nhà lập sơn Tý - Hướng Ngọ vận 1. Hướng tinh của nó là Ngũ
Hoàng.
Đến vận 5, Ngũ Hoàng nhập trung cung, lúc đó hướng mà nó xác lập ban
đầu không còn ý nghĩa nữa. Hiện tượng này gọi là " Vô khả hướng " -
Nghĩa là không còn hướng nào có thể chọn làm hướng được nữa.
Hiện tượng này còn gọi là " Hướng tinh nhập tù" . Nhà mà hướng tinh
nhập tù thi cả Đinh ( người ) và tài đều suy, khó cứu vãn nổi. Chỉ có một
trường hợp nhập tù mà nếu môi trường bên ngoãi tốt đẹp thì tuy nhập tù
không bị suy bại.
Ví dụ : Nếu trên phương để lập hướng có sông , hồ lớn, hoặc lối đi trước
cửa rông thênh thang, luốn lượn có tình thì nhập tù cũng không hãm nổi.
Còn có trường hợp là Hướng vượng được xác lập khi vận 5 , Ngũ Hoàng
nhập trung cung . Hướng này tất yếu Ngũ Hoàng là hướng tinh của hướng
đó. Bởi vì Ngũ Hoàng Thổ thuộc trung ương , uy nghiêm, cao nhất nên
không xem là nhập tù. Trường hợp này chỉ có tại vận 5 với 12 sơn -
Hướng sau "
Vận 5.
* Sơn Tý- Hướng Ngọ.
* Sơn Quý - Hướng Đinh.
* Sơn - Ngọ - Hướng Tý.
* Sơn Đinh - Hướng Quý.
* Sơn Tuất - Hướng Thì,
* Sơn Thìn - Hướng Tuất.
* Sơn Sửu - Hướng Mùi.
* Sơn Mùi - Hướng Sửu.
* Sơn Mão - Hướng Dậu.
* Sơn Dậu - Hướng Mão.
* Sơn Ất - Hướng Tân.
* Sơn Tân - Hướng Ất.
Tất cả các sơn hướng trên tại vận 5 đều có hướng tinh là Ngũ Hoàng.
Các địa vận thời gian dài nhất là 160 năm, ngắn nhất là 20 năm. Tổng
hợp lại 160 + 20 = 180 năm gọi là Địa vận Tam nguyên nhỏ. Nếu địa
mạch kéo dài liên miên , khí thế bao la hùng vĩ , trong 8 phương có 2
cung thành môn , tả hữu đầy đủ , lại là toàn cục hợp thập thì Địa vận có
thể kéo dài 540 năm hoặc 1080 năm. Thông thường nhà chỉ cần địa vận
tốt , vượng trong khoảng 100 năm là đủ. Tuy nhiên nếu là mồ mả thì phải
cần địa vận có thời gian dài hơn. Để có thể kéo dài Địa vận lên tới 1080
năm như trường hợp Long mạch mộ Tổ Vũ Hồn của dòng họ Võ - Vũ Việt
Nam , cần hội tụ rất nhiều điều kiện. Đây cũng chính là nguyên nhân
dienbatn hay làm các mộ có hình bát quái hoặc tròn kết hợp với Trận đồ
bát quái . Việc này dienbatn sẽ giải thích rõ ràng ở phần Phong thủy
Huyền môn .
Quẻ Thành môn có 2 loại : Thành môn chính và Thành môn phụ.
Về lý Khí , Thành môn chính hỗ trợ cho chính hướng 60 % Khí.
Thành môn phụ hỗ trợ cho chính hướng 40 % Khí.
Dựa vào Lạc thư, khi biết hướng nhà thì 2 quẻ 2 bên hướng là quẻ Thành
môn.
Thành môn chính là quẻ kết hợp được với số của Hướng sẽ phù hợp tạo
thành hành.
VÍ DỤ : Hướng số 1.
1 Thủy, 6 Kim . Kim sinh Thủy nên cung 6 là quẻ Thành môn chính.
1 Thủy , 8 Thổ . Thổ khắc Thủy nên cung 8 là quẻ Thành môn phụ.
Dựa theo nguyên vận khác nhau để xây dựng nhà ở , tọa Sơn lập Hướng
là phải tìm được " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , làm cho gia nghiệp thịnh
vượng . Nếu lập được " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , sẽ co được một loại
vượng Khí phụ trợ , giúp đỡ thêm thì đã vượng lại càng thêm vượng.
Nếu nhà lập được không phải " Vượng Sơn - Vượng Hướng " , nhưng được
Khí của 2 bên hướng trợ giúp , thì dù hướng không đẹp vẫn có thể phát
đạt, giống như đang khó khăn nhận được sự giúp đỡ. . Sức mạnh phụ trợ
này chính là tìm được vượng Khí của thành môn bằng phương pháp Thành
môn.
Vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ của 2 bên hướng .
* Lập hướng Ly , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Khôn và quẻ Tốn.
*Lập hướng Khảm , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Càn và quẻ Cấn
.
* Lập hướng Đoài , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Càn và quẻ
Khôn.
* Lập hướng Chấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Cấn và quẻ
Tốn.
* Lập hướng Cấn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ
Khảm.
* Lập hướng Khôn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Ly và quẻ Đoài.
* Lập hướng Càn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Khảm và quẻ
Đoài.
* Lập hướng Tốn , vượng Khí của Thành môn đến từ quẻ Chấn và quẻ Ly.
Bát quái có tất cả 24 Sơn, Hướng , mỗi quẻ có 3 hướng , mỗi hướng phải
chọn 2 bên nó làm Thành môn . Lập Hướng theo Nguyên long nào thì quẻ
Thành môn phải chọn 2 bên thuộc nguyên long đó .
Ví dụ : Lập Hướng thuộc Thiên nguyên long thì phải chọn 2 bên Thiên
nguyên long đó làm Thành môn.
Có như vậy mới giữ được " Khí thuần cùng nguyên " . Khí phải thuần nhất,
cùng nguyên , không pha tạp mới có hiệu quả , nếu không dễ gặp tai họa.
* Lập hướng Tý, Thành môn chính ở Càn , Thành môn phụ ở Cấn.
* Lập hướng Quý, Thành môn chính ở Hợi, Thành môn phụ ở Dần.
* Lập hướng Nhâm , Thành môn chính ở Tuất , Thành môn phụ ở Sửu.
* Lập hướng Càn , Thành môn chính ở Tý , Thành môn phụ ở Dậu.
* Lập hướng Hợi , Thành môn chính ở Quý , Thành môn phụ ở Tân.
* Lập hướng Tuất , Thành môn chính ở Nhâm , Thành môn phụ ở Canh.
* Lập hướng Dậu , Thành môn chính ở Khôn , Thành môn phụ ở Càn.
* Lập hướng Tân , Thành môn chính ở Thân, Thành môn phụ ở Hợi.
* Lập hướng Canh , Thành môn chính ở Mùi, Thành môn phụ ở Tuất.
* Lập hướng Khôn , Thành môn chính ở Dậu , Thành môn phụ ở Ngọ.
* Lập hướng Thân , Thành môn chính ở Tân , Thành môn phụ ở Đinh.
* Lập hướng Mùi , Thành môn chính ở Canh , Thành môn phụ ở Bính.
* Lập hướng Ngọ , Thành môn chính ở Tốn , Thành môn phụ ở Khôn.
* Lập hướng Đinh , Thành môn chính ở Tỵ, Thành môn phụ ở Thân.
* Lập hướng Bính , Thành môn chính ở Thìn , Thành môn phụ ở Mùi.
* Lập hướng Tốn , Thành môn chính ở Ngọ , Thành môn phụ ở Mão.
* Lập hướng Tị , Thành môn chính ở Đinh , Thành môn phụ ở Ất.
* Lập hướng Thìn , Thành môn chính ở Bính , Thành môn phụ ở Giáp.
* Lập hướng Mão , Thành môn chính ở Cấn , Thành môn phụ ở Tốn.
* Lập hướng Ất, Thành môn chính ở Dần , Thành môn phụ ở Tị.
* Lập hướng Giáp , Thành môn chính ở Sửu , Thành môn phụ ở Thìn.
* Lập hướng Cấn , Thành môn chính ở Mão , Thành môn phụ ở Tý.
* Lập hướng Dần , Thành môn chính ở Ất , Thành môn phụ ở Quý.
* Lập hướng Sửu , Thành môn chính ở Giáp , Thành môn phụ ở Nhâm.
c/ Không phải hai bên của hướng nào cũng có Thành môn đáng chọn.
Về nguyên tắc, 2 bên của một Hướng xác định , đều tốn tại Thành môn
chính và Thành môn phụ. Nhưng vì âm , dương của Hướng tinh Thiên bàn
bay đến 2 bên khác nhau sẽ tạo ra 3 tình hướng :
* Một là hai bên của Hướng tồn tại Thành môn chính và thành môn phụ.
* Hai là Chỉ có 1 bên của Hướng có Thành môn chính hoặc phụ, còn bên
kia không có .
* Ba là 2 bên đều không có Thành môn nào có thể chọn .
Tại sao lại xuất hiện 3 tình hướng này ? Đó là do nguyên nhân tương quan
của 2 bên tạo nên.
a/ Thứ nhất là do Tam nguyên của Hướng được xác lập tạo nên . Hướng
được lập có tam nguyên là một trong cac nguyên ( Thiên - Địa - Nhân
nguyên long ) . Nếu hướng là Thiên nguyên long cũng sẽ đòi hỏi Thành
môn 2 bên Hướng là Thiên nguyên long. Các trường hợp Hướng là Nhân
nguyên long và Địa nguyên long cũng tương tự như vậy.Chỉ khi đạt được
yêu cầu đó mới có thể giữ được một thứ khí cùng nguyên..
b/ Thứ 2 là do tính chất âm - dương của cung gốc Hậu Thiên bát quái của
phi tinh Thiên bàn hai bên quyết định.
Ví dụ : Lập sơn Tuất - Hướng Thìn , Thành môn 2 bên hướng Thìn là Giáp
và Bính , cùng là Địa nguyên long đảm bảo chắc chắn được một loại khí
cùng nguyên.
Tính Thành môn vượng hay suy .
Ví dụ : Nhà tọa Canh - Hướng Giáp - Vận 3.
Thành môn chính đưa số 6 nhập trung cung.
Thành môn phụ đưa số 2 nhập trung cung.
Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng khí.
Luận : 1/ Thướng Sơn - Hạ Thủy ( xấu ).
2/ Phục ngâm Sơn tinh.
3/ Hướng thủ đoạt hồn( gây chết chóc ).
4/ Nhà này muốn tốt cần phải mở cửa tại cung Tốn ( 2 ) , xung quanh có
đường đi để khí vào vì Thành môn chính và Thành môn phụ đều vượng
khí, để hỗ trợ cho hướng chính.
Thành môn ngầm : Hướng có số 5 ở bên phải hoặc bên trái hướng nhà gọi
là Thành môn ngầm.
Thành môn quyết: là thông qua tứ vị khởi cha mẹ, nhìn ra cách bí mật
của mạch để lập toạ hướng. Quyển sách này vốn dựa vào hướng thượng
tả và hữu hai cung, những vận phi lâm khác có thể dựa vào nghịch ái
đương lệnh vượng khí đến cung này, tức là có thể dùng " Thành môn
quyết". Phương pháp này là dùng để bổ cứu cho sơn hướng mà không
phải đương nguyên; âm trạch dùng để thu nhân thuỷ, dương trạch dùng
để mở cửa, an phúc thần, bàn làm việc. Nếu sử dụng những điều này thì
phát tài rất nhanh chóng. Căn cứ vào kinh nghiệm của tác giả, lấy vượng
khí và sinh khí của hướng tinh, những phương của nước mà sao
di chuyển tới có, mới là " Thành môn quyết" chuẩn nghiệm nhất. "Thành
môn quyết" thực sự là tác giả dùng để khảo cứu long mạch, định toạ
hướng. Người đọc cần suy nghĩ cẩn thận " Ngọc chiếu kinh". "Ngũ tinh
nhất quyết phi chân thuật, thành môn nhất quyết tối vi Cấn; Khi
nhận biết được ngũ tinh Thành môn quyết, thì việc xây dựng nhà cửa hay
yên phần mồ mả mới là cát.
Đoạn sau đây của Vanhoai - https://huyenkhonglyso.com dienbatn thêm
vào.
Đối với những nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh có hướng bị kiêm hướng,
hướng không có vượng khí tới hướng hoặc có vượng khí tới hướng nhưng
muốn mở thêm cửa phụ tại những cung có hướng tinh là sinh, tiến khí thì
ta cần dùng “thành môn quyết” còn gọi là "bí quyết thành môn" để mở
cửa.
Điều cần lưu ý là khi dùng “ thành môn quyết”để mở cửa phụ là vấn đề
hoà hợp âm dương. Thí dụ: cửa chính tại sơn dương thì cửa phụ tại sơn
âm và ngược lại. Có như thế thì mới được lâu dài, bằng không thí chỉ được
lúc đầu mà thôi.
Ngoài ra còn một số trường hợp sau:
1)_ Nhà bị kiêm hướng hoặc hướng không có vượng khí. Thí dụ: nhà GIÁP
hướng CANH vận 8. Khi an hướng bàn thì tử khí tam bích(3) tới hướng.
Nếu mở cửa tại CANH thì gặp tử khí. Nay dùng bí quyết thành môn xét
cung DẬU: Vận tinh 1 nhập trung cung, DẬU là thiên nguyên, thiên
nguyên của 1 là TÝ, TÝ tính chất là âm nên 1 đi nghịch, vượng khí 8 tới
DẬU. Vậy nếu mở cửa tại dậu thì sẽ có vượng khí tới cửa. Điều này sẽ làm
vượng những nhà có hướng không vượng hoặc bị kiêm hướng. Cần lưu ý
cửa chỉ để trọn trong cung đó mà thôi, không nên cho lấn qua cung khác
vì lúc đó âm dương lẫn lộn mà mất đi cái tốt đẹp.
2)_ Nhà qua vận sau không còn vượng khí. Thí dụ: Nhà TUẤT hướng THÌN
vận 7 có cửa tại TUẤT được vượng sơn vượng hướng, nay qua vận 8 thì 7
trở thành thoái khi. Nếu có đổi vận thì cũng không tốt đẹp vì tinh bàn vận
8 tử khí 6 tới hướng. Nay không dùng cửa tại THÌN nữa mà mở cửa khác
tại TỐN (hoặc TỴ), dùng bí quyết thành môn với vận bàn 8 nhập trung
cung, vận tinh tại TỐN là 7, TỐN là thiên nguyên, thiên nguyên của 7 là
ĐOÀI, ĐOÀI âm nên 7 đi nghịch, vượng khí 8 tới TỐN
3)- Nhà có hướng tinh là sinh vượng khí nhưng mở cửa không đúng cách
thì cũng không nhận được vượng khí vào nhà mà làm ăn suy bại. Thí
dụ: nhà tọa Càn hướng Tốn. Thay vì mở cửa ở Tốn hay Tị, nay lại mở ở
Thìn. Xét cung Đông Nam vận 8 có vận tinh 7. Thìn là địa nguyên long,
Địa nguyên long của thất xích là Canh. Canh dương nên đi thuận thì tử khí
lục bạch đến cung Thìn. Vậy nhà không nhận được vượng khí.
4)- Nhà Tuy không được vượng khí đến hướng nhưng nếu mở cửa có khí
thành môn thì vẫn không đến nỗi suy bại. Thí dụ nhà tọa Thìn hướng Tuất
vận 8. bị Thướng sơn hà thủy, có hướng tinh 1 đến hướng. 1 tuy là tiến
khí nhưng còn xa. Nếu mở cửa tại cung Càn hoặc Hợi thì vẫn tốt đẹp một
thời.
5)_ Nhà đã được cửa có vượng khí nay muốn mở thêm cửa phụ tại hướng
có hướng tinh là sinh hoặc tiến khí. Thí dụ: Nhà SỬU hướng MÙI vận 8.
Tinh bàn có vượng tinh 8 tới hướng, sao sinh khí 9 tới hướng BẮC. Nay
muốn mở cửa tại BẮC ta áp dụng bí quyết thành môn. MÙI thuộc địa
nguyên long, địa nguyên long tại hướng BẮC là NHÂM. Vận tinh tại BẮC là
4, lấy 4 nhập trung cung bay nghịch (địa nguyên long của 4 là THÌN, tính
chất của THÌN là âm) vượng khí 8 tới NHÂM. Để ý ta thấy tính chất của
MÙI là âm và tính chất của NHÂM là dương
Để tìm cung có vượng khí trong nhà hầu đặt bếp hoặc đặt thủy kích tài,
Ta cũng cần dùng "bí quyết thành môn".
Trong vận 8 này các cung có vượng khí theo "thành môn quyết" là:
- Hướng Nam: Ngọ, Đinh
- Hướng Tây Nam: Mùi
- Hướng Tây: Dậu, Tân
- Hướng Tây Bắc: Càn, Hợi
- Hướng Bắc: Nhâm
- Hướng Đông Bắc: Sửu
- Hướng Đông: Giáp
- Hướng Đông Nam: Tốn, Tị
Thí dụ: Nhà Nhâm hướng Bính vận 8. Cung Đông Bắc có (1-6), nay muốn
đặt nước kích tài thì cung đặt nước có tác dụng mạnh nhất là trong cung
Sửu. Hướng Bắc có cặp (8-8), nay muốn đặt bếp thì vị trí tốt nhất là cung
Nhâm. Đối với các vật khí khác cũng vậy...
PHONG THỦY LUẬN BÀI 11 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
( Những tài liệu ở đây do dienbatn sưu tầm và tổng hợp- Vì quá nhiều
nguồn nên dienbatn không ghi nguồn - Xin cảm ơn các tác giả -
dienbatn )
* Quẻ Tam ban phụ mẫu như : 1-4-7 ; 2-5-8 ; 3-6-9 ; Các loại quẻ Tam
ban này lấy sự sinh thành của Sơn và Hướng làm cơ sở , bao hàm hợp
thành 10 trong đó. Phụ mẩu Tam ban quái là các bộ 3 số cách khoảng
nhau là 3: Nhất Tứ Thất, Nhị Ngũ Bát hay Tam Lục Cửu. Khi các cung Ly
với Càn Chấn, Khảm với Tốn Ðoài đều có Phụ mẫu Tam ban quái tới thì
gọi là đồng liệt. Như Hướng ở cung Ly có Nhất-bạch, ở cung Càn có Tứ-lục
và ở cung Chấn có Thất-xích chứ không phải ở mổi cung Ly, Càn, Chấn
đều phải có Vận, Tọa và Hướng tạo thành Phụ mẫu Tam ban quái làm
thông khí trong cả Tam Nguyên Cửu Vận. Loại quẻ này lấy hợp số sinh
thành của tọa và hướng của các cung Ly và Khảm làm cơ sở. Như Nhất Tứ
Thất là khí của vận 1, 4 và 7 thông nhau nên đương vận có thể rút mượn
khí của 2 vận kia để dùng trước...
Sau đây là giảng giải rỏ hơn về Phụ mẫu Tam ban quái:
Cung Càn là Thiên-môn, cung Tốn là Ðịa-hộ là 2 cung quan trọng trong
phép đả kiếp. Trong trường hợp vượng tinh đáo hướng:
a) Phi tinh ở cung Càn và cung Ly tương hợp với cung Chấn thành Phụ
mẫu Tam ban quái gọi là chân đả kiếp. Tức là chân hợp thì tự phát vì lệnh
tinh ở đầu hướng.
b) Phi tinh ở cung Tốn và cung Khảm tương hợp với cung Ðoài thành
Phụ mẫu Tam ban quái gọi là giả đả kiếp. Tức là giả hợp.
Số ở Trung-cung là số sinh (còn gọi là số lập cực), trong khi số thành là:
a) số ở cung Khảm trong các vận 1, 2, 3, 4 và
b) số ở cung Ly trong các vận 6, 7, 8, 9.
Hợp số sinh thành là số sinh hợp với số thành tạo thành một trong các
cặp sau đây:
a) Nhất Lục (cùng họ),
b) Nhị Thất (đồng đạo),
c) Tam Bát (bạn bè),
d) Tứ Cửu (bằng hửu),
Ðây còn gọi là các cặp số đồng một khí vì là “cùng họ” hoặc “đồng đạo”
hoặc “bạn bè” hoặc “bằng hửu” nên hợp nhau. Các cặp số này là các cặp
số sao của các chòm sao của 4 hướng của Hà-đồ.
Sau đây là những phân tích từ thấp đến cao về phép này:
1. Bất cứ ở vận nào, số của Vận ở Trung-cung đều hợp với cung Ly hay
cung Khảm thành cặp số có cùng một khí vì Vận-bàn được bày bố theo
chiều thuận của Lường-Thiên-Xích. Cho nên số sinh thành của tiên thiên
bát quái là số của Trung cung hợp với cung Khảm hoặc với cung Ly.
2. Nếu số ở Hướng (hay Tọa) của Trung-cung có thể hợp với số ở
Hướng (hay Tọa) của cung Ly và Tọa (hay Hướng) ở Trung-cung có thể
hợp với Tọa (hay Hướng) của cung Khảm cùng một lúc thì 3 cung hợp
thành số của Tiên-thiên Bát-quái. Như vậy tọa và hướng cùng thông khí
với Trung-cung. Trường hợp tổng số của Hướng (hay Tọa) ở cung hướng,
cung tọa hay Trung-cung là 10 (hợp thập) cũng được coi là thông khí giửa
các cung này.
3. Khí của quẻ trước, giửa và sau liên thông nhau sẻ xuất hiện sự liên
thông khí của Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên nên các
nguyên đều dùng được. Như những cuộc mà ở cung hướng có các sao ở
Tọa và Hướng là Nhất + Nhất có thể dùng để thông khí của vận 4 và 7,
tức là hợp thành quẻ Tam ban Nhất Tứ Thất. Nhị + Nhị có thể dùng để
thông khí của các vận 5 và 8 tức là hợp thành quẻ Tam ban Nhị Ngủ
Bát...
4. Muốn biết ba loại quẻ Phụ Mẫu Tam ban là Nhất Tứ Thất, Nhị Ngũ
Bát, Tam Lục Cửu xuất hiện ở các cung vị nào thì phải xem cung có song
tinh đáo hướng. Nếu song tinh đáo hướng xuất hiện ở cung Ly 9 tức là
Cửu, là vận 9 Hạ-nguyên nên nguyên và vận mà nó đối ứng là vận 3
Thượng-nguyên (cung Chấn) và vận 6 Trung-nguyên (cung Càn). Tức là
Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở các cung Chấn Càn Ly. Như vậy:
a. Khảm 1 hay Tốn 4 hay Ðoài 7 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở
các cung Khảm Tốn Ðoài. Còn gọi là Khảm cung đả kiếp.
b. Khôn 2 hay Trung-cung 5 hay Cấn 8 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất
hiện ở các cung Khôn Trung-cung Cấn. Còn gọi là Khôn Cấn đả kiếp hay
Tam-ban xảo quái.
c. Chấn 3 hay Càn 6 hay Ly 9 thì Phụ Mẫu Tam ban quái xuất hiện ở
các cung Chấn Càn Ly. Còn gọi là Ly cung đả kiếp.
Ngoài ra còn có trường hợp toàn cuộc hợp thành quẻ Phụ Mẫu Tam ban
tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Phụ Mẫu Tam
ban quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí
dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng Khôn.
5. Trong cách tuyễn chọn hướng thì sau đây là các cách tuyễn chọn có
công dụng tốt từ cao xuống thấp:
a) Phụ Mẫu Tam-ban xảo quái: có thể thông khí cả 3 nguyên nên có
được tốt lành lâu đời, phồn vinh, hưng thịnh mà không bị giới hạn Thướng
Sơn Há Thủy. Nếu có thể đảo ngược cách kỵ long thì càng tuyệt diệu.
b) Toàn cuộc hợp thập.
c) Phụ Mẫu Ly cung đả kiếp.
d) Vượng sơn vượng hướng (Ðáo sơn đáo hướng) có 2 cung Thành-
môn.
e) Vượng sơn vượng hướng.
f) Phụ Mẫu Khảm cung đả kiếp.
g) 2 cung Thành-môn.
I/ Từ vận 1 đến vận 9 , bất cứ sao nào nhập vào trung cung đều hình
thành với Khảm hoặc Ly một số sinh thành Tiên thiên bát quái . Nhất
nhập trung cung hợp với Khảm thành Nhất - Lục, Nhị nhập trung cung
hợp với Khảm thành Nhị - Thất , Tam nhập trung cung hợp với Khảm
thành Tam - Bát, Tứ nhập trung cung hợp với Khảm thành Tứ - Cửu , Lục
nhập trung cung hợp với Ly thành Lục - Nhất Thất nhập trung cung hợp
với Ly thành Thất - Nhị , Bát nhập trung cung hợp với Ly thành Bát -
Tam , Cửu nhập trung cung hợp với Ly thành Cửu - Tứ. Do vậy số sinh
thành của Thiên tiên bát quái phải là cung chính giữa với cung Khảm hoặc
cung chính giữa với cung Ly cùng hợp với nhau.
II/ Nếu cung chính giữa hợp với cung Khảm lại hợp với cung Ly , 3 cung
hợp lại thành số Tiên thiên bát quái thì Sơn và Hướng nhất quán với khí
quẻ của trung cung , cùng thông Khí trước sau. .
III/ Sự liên thông Khí của quẻ trước, quẻ giữa và quẻ sau sẽ xuất hiện
việc liên thông Khí của Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên , do
đó các Nguyên đều dùng được.
IV/ Ba loại quẻ Tam ban 1-4-7; 2-5-8, 3-6-9 gọi là quẻ Tam ban xảo số.
Ba sao nói trên ( 1-4-7; 2-5-8, 3-6-9 ) đóng cùng một cung giống như
một chuỗi ngọc đính liền nhau nên người ta gọi là " Tam châu liên thành
cách " , tạo thành cách tốt đẹp , rực rợ.
Trong trạch bàn mà cung nào tam thông như vậy gọi là quẻ Tam ban xảo
số.
Tam ban xảo số ở cung nào thì cung đó đại cát. Tam ban xảo số toàn bàn
thì toàn bàn đại cát.
Trong 1944 cục của Huyền không phi tinh chỉ có 16 cục có Tam ban xảo
số toàn bàn . Tam ban xảo số toàn bàn đẹp hơn rất nhiều cục Cung Ly đả
kiếp và cục cung Khảm đả kiếp .
Theo sắp xếp của Huyền không học như sau :
1/ Tam ban xảo số . ( Đẹp gấp 3 mục 2 )
2/ Đáo Sơn đáo Hướng. ( Đẹp gấp 2 mục 3 ).
3/ Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp .
Ví dụ : Nhà tọa Sửu - Hướng Mùi vận 6.
Nhà này được Tam ban xảo số toàn bàn.
5-8-2; 1-4-7; 3-6-9; 4-7-1; 6-9-3; 8-2-5; 9-3-6 ; 2-5-8; 7-1-4.
Nhà này đa cát tiểu hung.
4/ Cung Ly đả kiếp .
Điều kiện để có Cung Ly đả kiếp là : Có song tinh ra hướng nhà , ba cung
đó liên thông : LY- CHẤN - CÀN , tạo thành một trục tam giác liên hoàn
khí giữa các khí ( 1-4-7, 2-5-8 ; 3-6-9 ). Ly cung đả kiếp có thể chống
lại Phản, Phục ngâm, biến suy tinh của Sơn và Hướng thành Vượng tinh.
Trong 24 Sơn, Hướng, 216 cục ( Nếu bao gồm cả quẻ thay thế có 432 cục
) , phàm là cục Hạ thủy mà song tinh đáo hướng , đều có thể dùng phép "
Đả kiếp " . Còn cục " Thượng Sơn - Hà Thủy " của 2 cung Khôn - Cấn đều
có Tam ban xảo quái.
Mỗi quẻ có 3 cục phạm phản , phục ngâm nên không thể xử dụng.
Phép Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp được xử dụng khi khó chọn
địa hình của âm hay dương trạch. So với phép vượng Sơn - Vượng
Hướng , hai cung Thành môn, và toàn cục hợp thập thì phép đả kiếp đã
cung cấp thêm cho ta một cách nữa để lựa chọn.Nó trội hơn phép vượng
Sơn - Vượng Hướng và ngang công hiệu với toàn cục hợp thập. Trong 64
cục kể ở trên thì có quẻ Tam ban xảo quái hình thành trên 2 cung Cấn và
Khôn là khó gặp nhất nhưng có giá trị nhất. 16 cục này gọi là toàn cục
hợp thành quẻ Tam ban , có thể thông khí cả 3 nguyên là Thượng, Trung,
Hạ nguyên , dùng nó tốt lành, đời đòi phồn thịnh. Quẻ Tam ban như thế
không bi giới hạn của Thướng Sơn - Hạ thủy , nhưng nếu có thể dùng
cách đảo ngược kỵ Long thì càng tốt đẹp. Sử dụng quẻ Tam ban cần phải
phối hợp với cách cục của môi trường , phải có đắc Sơn để chế ngự Thủy ,
phải có đắc Thủy để thu hồi Sơn , hợp với Ngũ hành sinh khắc , bằng
không sẽ phản tác dụng . Bỏi vậy các Phong Thủy Sư phải hết sức lưu ý
và làm cho thuần thục.
Trong Ly cung đả kiếp và Khảm cung đả kiếp , công hiệu của Ly cung đả
kiếp mạnh hơn. Phong thủy gọi là " Chân đả kiếp" ( Cướp đoạt thật sự ) ,
còn Khảm cung đả kiếp thì công hiệu nhỏ hơn gọi là : Giả đả kiếp "
( cướp giả )
PHONG THỦY LUẬN BÀI 12 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Nhất vị - Nhị Hướng. Vị là nơi đặt, Hướng là theo bản mệnh ( Bản
cung ). Cục là sự kết hợp giữa Sơn tinh và Hướng tinh , vận hành trong
cửu cung đồ trạch gồm có 16 cục như hình trên.
Ghi chú:
1- Nhất bạch, 2 - Nhị hắc, 3 - Tam bích, 4 - Tứ lục, 5 - Ngũ hoàng, 6 -
Lục bạch,
7 - Thất xích, 8 - Bát bạch, 9 - Cửu tử.
Song tinh chính khí bao giờ cũng tại hướng hoặc tại sơn.
- Tại hướng tạo ra vượng tài cách (hoặc hạ thuỷ cách)
- Tại sơn là vượng đinh cách (hoặc thướng sơn cách).
Sau khi lập trạch bàn, trong 16 cục nếu:
- Sinh Vượng hay hợp cách gặp sinh nhập và khác nhập là cát.
- Suy Tử gặp sinh xuất, khắc xuất thì hung
Sinh nhập: Khách sinh chủ
Khắc nhập: Khách khắc chủ
Cát
Sinh xuất: Chủ sinh khách
Khắc xuất: Chủ khắc khách
Hung
GIẢNG NGHĨA:
(1) Khôi tinh cung (1 + 4):
Vượng: thành “Đăng khoa đoạt kim bảng cách”, thuận lợi cho học hành
thi cử,
thông minh, anh kiệt, tuấn tú: đặt các tiết minh (bàn học, bàn làm việc,
giường ngủ của
trẻ em...).
Suy: Học tài thi phận.
(2) Phúc đức (còn gọi là Tử tức cung):(4 + 9)
Vượng: Đem lại phúc cho gia đình, cho trạch, đông con, nhiều cháu, gia
đình
hoà thuận anh em sum họp. Muốn cầu con đặt giường ngủ vào cung này
(kết hợp với
xoay bếp) để đến năm, ngày giờ nó sinh nhập thì được.
Suy: Hiếm nhân đinh, anh em bất hoà.
(3) Thôi quan cung (1 + 6; 6 + 8):
Vượng: Chủ quan chức, địa vị, danh tiếng, sự nghiệp. Tốt đẹp cho công
việc,
cho quá trình phát triển sự nghiệp, công danh của mình (đặt phòng làm
việc hoặc
cửa...)
Suy: quan vận bất hanh thông, hay bị gẫy đổ, điều tiếng, thị phi, dời đổi
trong
quan trường.
(4) Tật ách cung (1 + 2; 1 + 5;2 + 5; 3 + 5; 4 + 5):
Ốm đau, bệnh tật, tai hoạ.Nên đặt bất tiết minh (Nhà tắm, vệ sinh, nước
thải...)
4 + 5 vượng thành “Hồi lộc chi tai” cách (lộc đến kèm tai họa), suy là hoạ
hại.
2 + 5 nếu suy thành “Nhị hắc ôn thần sát”
(5) Đào hoa cung (4 + 7):
Vượng: Hỷ khí, chủ sự may mắn, sớm thành đạt, được nhiều người giúp
đỡ, tình
cảm, tình duyên, sinh ra người đẹp, khôi ngô, có duyên (Người chưa có
gia đình nên
đặt cửa, bàn làm việc vào đây, thanh niên mới đi làm đặt bàn làm việc
vào đây thì tốt.
Kỵ với người có gia đình, con cái, bàn thờ, giường đặt vào; không tốt hay
sinh sự).
Suy: Hoạ đào hoa sát (tai hoạ vì tình cảm không trong sáng, không lành
mạnh).
(6) Tài lộc cung (1 + 7; 3 + 9; 7 + 8; 8 + 9):
Vượng: Chủ tiền tài, giàu có. Tăng tài tiến lộc, làm ăn thịnh vượng phát
tài. Đẹp
nhất là đặt cửa ra vào (tài lộc lâm môn là đẹp nhất), hoặc cầu thang (vì
động khí
mạnh), phòng làm việc, phòng ngủ, bếp nhưng phải xem chủ khách để
phụ hoạ thêm vì
bếp hành hoả (ví dụ 1-7 đặt bếp thì tốt, nhưng 7-8 thì tài lộc vẫn có
nhưng lại ngộ song
hao thoát vợi tiền). Nếu mà ra Tuế sát thì có lộc nhưng hay gặp tai hoạ,
nếu Tuế hình là
lộc chi hình thì có lộc nhưng hay bị hình, rắc rối.
Suy: làm ăn khó khăn hơn, có tiền nhưng hay hao hụt (giống như Lộc ngộ
song
Hao).
(7) Kiếp tài cung (3 + 7):
Phá sản, mất mát, suy bại, làm ăn khó phát triển, không thịnh vượng,
nếu phát
triển cũng dễ phá sản. Nên để nhà vệ sinh, nhà tắm, kho hoặc những nơi
tĩnh, không
động (vì càng động càng kiếp tài mạnh). Suy là “Xuyên tâm sát”
Lưu ý :
Khảm ( Nhâm , Tý , Quý kị Thìn vì phạm bát sát.
Khôn ( Mùi , Khôn , Thân ) kị Mão vì phạm bát sát.
Chấn ( Giáp , Mão , Ất ) kị Thân vì phạm bát sát.
Tốn ( Thìn, Tốn , Tị ) kị Dậu vì phạm bát sát.
Càn ( Tuất , Càn , Hợi ) kị Ngọ vì phạm bát sát.
Đoài ( Canh, Dậu, Tân ) kị Tị vì phạm bát sát.
Ly ( Bính , Ngọ , Đinh ) kị Hợi vì phạm bát sát.
c/ Tọa Thìn , Tuất , Sửu, Mùi, Ất , Tân , Đinh, Quý.
Nhâm, Tý - Nhị Vũ.
Quý, Sửu - Tam Âm.
Cấn, Dần - Tứ Hổ.
Giáp , Mão -Ngũ Xà
Ất, Thìn - .Lục Trấn.
Tốn , Tỵ - Nhất Long.
Bính, Ngọ -Nhị Vũ.
Đinh , Mùi - Tam Âm.
Khôn , Thân - Tứ Hổ.
Canh, Dậu - Ngũ Xà .
Tân , Tuất - Lục Trấn.
Càn , Hợi - Nhất Long.
a/ KHÁI NIỆM :
Trong tất cả các phần ở những bài trước, khi phân cung , điểm
hướng nhà hay mộ phần, chúng ta toàn sử dụng trong những trường hợp
là CHÍNH HƯỚNG. Trong khi đó , đa phần những trường hợp chúng ta
gặp trên thực tế đều là không phải chính hướng.
Tám cung Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Ðoài còn được chia ra
làm 24 sơn tức là mổi cung được chia ra 3 sơn như sau đây:
C/ Có một số sơn, Hướng tuy lệch từ lớn hơn 3 độ đến 7 độ, nhưng khi
lập Hướng , hai sao Sơn và Hướng đều không tìm được sao thay thế :
Người ta vẫn dùng 2 sao Sơn và Hướng cũ , lần lượt nhập trung cung, tuy
được vượng Sơn vượng Hướng nhưng vẫn xem là không vượng Sơn vượng
Hướng , bởi phạm phải âm - dương sai lệch hoặc phạm vào quẻ xuất
Hướng.
D/ QUẺ THUẦN :
Dùng quẻ thay kiêm Hướng sẽ xuất hiện 8 trường hợp vô cùng đặc biệt ,
đó là 8 quẻ thuần. Loại quẻ này phi tinh của Sơn và Hướng chữ nào cũng
giống nhau , không hề biến đổi - Đó là quẻ đại hung mà trong 216 cục
không có . Quẻ này cũng còn gọi là quẻ phản phục ngâm . 8 quẻ thuần
trong 216 cục , chỉ có 6 cục đều phát sinh ở hai cung Khôn và Tốn tại Vận
5. Đặc điểm của 8 quẻ thuần là Càn gặp càn, Tốn gặp Tốn, Cấn gặp Cấn,
Khôn gặp Khôn ...., Sơn tinh và Hướng tinh cùng một chữ.
* QUẺ CÀN :
Tuất Sơn - Địa nguyên long.
Càn Sơn - Thiên nguyên long.
Hợi Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ KHẢM .
Nhâm Sơn - Địa nguyên long.
Tý Sơn - Thiên nguyên long.
Quý Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ CẤN.
Sửu Sơn - Địa nguyên long.
Cấn Sơn - Thiên nguyên long.
Dần Sơn - Nhân nguyên long.
*QUẺ CHẤN.
Giáp sơn - Địa nguyên long.
Mão Sơn - Thiên nguyên long.
Ất Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ TỐN.
Thìn Sơn - Địa nguyên long.
Tốn Sơn - Thiên nguyên long.
Tỵ Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ LY.
Bính Sơn - Địa nguyên long.
Ngọ Sơn - Thiên nguyên long.
Đinh Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ KHÔN.
Mùi Sơn - Địa nguyên long.
Khôn Sơn - Thiên nguyên long.
Thân Sơn - Nhân nguyên long.
* QUẺ ĐOÀI.
Canh Sơn - Địa nguyên long.
Dậu Sơn - Thiên nguyên long.
Tân Sơn - Nhân nguyên long.
VÍ DỤ :
Nhà tọa Hợi - Hướng Tị ( kiêm 4,5 độ ) kiêm Càn Tốn\ Nhâm Bính - Vận 7.
Hướng Tị - Thuộc Nhân nguyên long - Sao địa bàn là số 6 , quẻ số 6 là
Càn. Quẻ Càn ( Tuất Sơn - Địa nguyên long. Càn Sơn - Thiên nguyên
long. Hợi Sơn - Nhân nguyên long ) . trên vòng La kinh Hợi là Vũ Khúc số
6. Đặt số 6+ vào trung cung bên phải.Vận hành theo chiều thuận.
Tọa Hợi là Nhân nguyên long - Sao địa bàn là số 8 , quẻ số 8 là Cấn . Quẻ
Cấn ( Sửu Sơn - Địa nguyên long.Cấn Sơn - Thiên nguyên long.Dần Sơn -
Nhân nguyên long ) . Có Nhân nguyên Long là Dần. Tại vòng La kinh số 6
Dần là sao Hữu bật số 9. Đặt số 9 + vào trung cung bên trái. Vận hành
theo chiều thuận.
Lưu ý : Âm - Dương phi thuận nghịch lấy theo số của Sơn và Hướng tinh
gốc.
Giải thích : Lục đáo Hướng. Nhân nguyên long của Lục là Hợi - Sao Vũ
Khúc. Vẫn dùng Lục của Vũ Khúc nhập trung cung. Hợi là dương nên vận
hành thuận.
Bát đáo Sơn . Nhân nguyên long của bát là Dần - là sao Hữu bật , nên
không nhập Bát vào trung cung mà nhập Cửu vào trung cung . Dần là
dương nên Cửu hành theo chiều thuận.
Quẻ này Thành môn ở phương Ất.
Các bạn có thể tra cứu 216 quẻ thay kiêm hướng tại cuốn Cổ dịch Huyền
không học của Hồ Kính Quốc.
Xin theo dõi tiếp bài 14 - dienbatn .
PHONG THUỶ LUẬN BÀI 14 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Có thể nói rằng cát, hung, phúc, họa của ngôi nhà đa phần liên quan đến
khẩu Môn là Cổng và Cửa. Một căn nhà nếu đã có hướng, tọa tốt mà lại
có vị trí Cổng, Cửa tốt để đưa được: Lộc, Mã, Quý nhân vào cổng, vào
trong cửa và không phạm bát đại Không vong thì chủ nhà sẽ có Tài lộc
và Quý nhân phù trợ là rất tốt . Đây là phép tìm Địa khí, một phép linh
diệu trong Phong Thủy. Để tìm được Địa khí các nhà Phong Thủy phải
Phân kim Hướng nhà và Cửa - Đại Môn, Ngoại môn. Nếu theo phân kim
Đại môn, Ngoại môn, theo chủ địa khí và Môn khí mà cửa hay cổng được:
Lộc, Mã, Quý nhân lại gặp thêm Hoan lạc hay Phúc đức, hoặc các sao tốt
trong vòng sao Phúc Đức, tránh bị Đại Sát, Thiên hình, Vô tự...lâm Môn là
ngôi nhà có Cửa, cổng hoàn hảo.
- Cổng và Cửa đặt theo phép “Khai môn – Nghệ thuật phân
cung điểm Thần sát”
Đây là phép bí truyền của Địa lý cao cấp dương cơ rất linh
diệu để xác định các Thần sát trong cửu cung của ngôi nhà.
Loại tốt có: Dương Quý Nhân, Âm Quý nhân, Thiên Lộc, Thiên
mã, Đào Hoa.
Loại xấu có: Đại sát, Thiên hình, Độc hỏa.( Như Chủ Địa khí)
Cửu tinh an Thần sát Chủ địa khí và điểm Thần sát Môn khí
trong Phong thủy để bố trí các Tiết minh và bất Tiết minh cho phù hợp.
- Ngoài ra Cổng, Cửa phải Phân kim tìm tuyến chính kim, tránh Bát
đại Không vong, trong đó có Tiểu không vong và Đại không vong. Không
vong nghĩa là khi Sơn, hướng nhà hoặc tâm Cổng, tâm cửa rơi vào Sát
Thần Địa Long trong 60 thấu địa Long. Nếu khi Sơn, hướng nhà hoặc tâm
Cổng, tâm cửa rơi vào Bát đại Không vong là tối nguy hại. Nó thường làm
cho chủ nhà ốm đau, bệnh tật, Tai nạn, chết người, hao mòn tiền của,
nếu ảnh hưởng ít nhất cũng là chậm vợ. Chậm chồng, ly hôn, cô đơn nếu
lại có vị là Cô quả.
Trong thực tế đã chứng minh nếu nhà có Bát đại Không vong sẽ
có 99% gia đình bất ổn. Khi đó phải cần phải sửa chữa, sử lý, hay trấn
yểm để làm cho không bị tai hoạ khi hướng nhà có phạm Bát đại không
vong. Cổng và Cửa thì tất nhiên là tuyệt đối tránh Bát đại Không vong.
Đại môn là nơi họa phúc tiến vào hoặc ra đi , là nơi động Khí , nơi Âm -
Dương - Ngũ Khí gặp nhau mà tạo ra cát hung ." Họa tòng Khẩu xuất -
bệnh tòng Khẩu nhập " . Nghĩa là mọi tai họa , bệnh tật đều do từ miệng
mà ra . Có thể nói rằng : Cát , Hung , Họa , Phúc của Dương Trạch đa
phần có liên quan đến khẩu Môn , mà điều đó người ta có thể tạo ra được
thông qua phép KHAI MÔN THỤ KHÍ. Từ đó có thể tạo ra và quyết định
vận mệnh của mình .
1/ THIÊN LỘC :
Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan
tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh , đang lên phơi phới , là đúng Đạo
sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá .
Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt .
Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng
tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú
lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng
cần phải lánh xa Sinh - Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu
Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc
cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi
là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai
tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong
gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất
yên .Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể
đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường
ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiênLộc phải cư đúng cung tài , là
Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp .
2/ THIÊN MÃ :
Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu .
Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời ,
phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra
người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy
nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh - Vượng , tránh Không vong , Tử ,
Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao
quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa đểu mưu
sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự
nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc
chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp
Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh - Dương suy ,
con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại
Gia phong .
Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt
cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ
đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt
phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ .
3/ QUÝ NHÂN :
Quý Nhân Thiên Ất là vị Thần đứng đầu cát Thần , hết sức tĩnh mà có thể
chế ngự được mọi chỗ động , chí tôn mà có thể trấn được phi phù .
Nhà có chính môn ra Quý là Đại cát khánh , Gia đạo bình an , hòa thuận ,
hỉ Khí đầy nhà , luôn gặp may mắn . Quý nhân là sao cứu trợ , là Thần
giải tai ách , nên nhà ra Quý nhân là gặp việc có người giúp đỡ , gặp ách
có người giải cứu , gặp hung hóa cát. Sự nghiệp hiển vinh , công danh
thành đạt , dễ thăng Quan , tiến chức , học hành thi cử nhất nhất đều tốt
đẹp . Quý nhân gặp sinh , Vượng , thường sinh người hiếu lễ, khôi nguyên
, tướng mạo phi phàm , tính tình nhanh nhẹn , lý lẽ phân minh , không
thích mẹo vặt , thẳng thắn mà ôn hòa , khôi ngô tuấn tú . Nếu ngộ Không
vong , Tử , Tuyệt thì nguồn Phúc giảm đi nhiều , hoặc nếu có mắc nạn
cũng khó tránh , bởi nguồn cứu giải kém hiệu lực , người và gia súc bị tổn
thất , kiện cáo , thị phi . Lại hay sinh người tính tình cố chấp , bảo thủ mà
suốt đời vất vả , không nên người . Quý nhân ra Thai Khí , nếu lại ngộ
Đào hoa thì nam , nữ tuy thông minh , tuấn tú , nhưng nam thì hiếu sắc ,
nữ thì dâm đãng , làm bại hoại Gia phong , lại hay mắc bệnh tật và
trong nhà dễ có người tự ải , tự vẫn vì tình .
Quý nhân là Cát Khí rất tôn quý , nên gia vào cung nào cũng rất tốt ,
ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng
khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Đặc biệt bàn thờ
đặt trên cung có Âm Quý nhân là đại cát khánh , như vậy sẽ được âm Linh
phù trợ . Không được để phòng tắm , nhà vệ sinh vào cung Quý nhân , vì
như vậy sẽ bị họa hại liên miên , nữ nhân thiếu máu , động thai , sinh con
dù có đẹp đẽ nhưng cũng dấn thân vào con đường ô nhục , làm điếm ,
cuối cùng phải tự vẫn . Tài sản tiêu tan , yêu ma hoành hành , gia đình có
người bị cướp bóc , chém giết máu me thảm khốc , bệnh tật đau khổ triền
miên . Nếu để nhầm WC vào cung Âm Quý nhân thì tai họa khủng khiếp
khó lường .
4/ THIÊN HÌNH :
Chính Môn gia Hình thì hại vô cùng , vì Hình chủ tù , ngục , kiện tụng , là
tượng của chém giết , mổ xẻ , châm chích . Hình gia Môn thì Gia đạo
thường xuyên gặp tai họa , tai bay m họa gió từ đâu đưa đến . Những
người sống trong nhà này , tuổi thọ bị triệt giảm . Trong người hay mang
thương tật , lại dễ xảy ra kiện tụng , hoặc những việc liên quan đến ngục
hình . Trai khắc vợ , gái sát chồng . Hình gia Môn cũng thường sinh ra
người có tính khí hung bạo , liều lĩnh , bướng bỉnh , ngang tàng và gian
trá , lại hay mang tật trong mình , lớn lên ắt phá tán Tổ nghiệp , tha
phương cầu thực .
Thiên hình gia cung nào cũng hung , nếu nó thất hãm còn đỡ , chứ nếu
Miếu , Vượng thì vô cùng nguy hiểm . Giường ngủ hay bàn học của con trẻ
, nếu để vào cung Hình thì dù có giỏi giang sáng dạ cũng không may khi
thi cử , điểm số không cao . Thiên Hình mà đóng ở cầu thang , lại gặp Mã
thì ra Mã què , chủ gặp khó khăn trong công việc , nhất là các thủ tục liên
quan đến giấy tờ , thủ tục hành chính . Nếu Hình Vượng thì chủ gặp tai
nạn Giao thông , tai nạn thương tích chân , tay . Hình , Lộc đi cùng nhau ,
chủ hay bị mất cắp , làm ăn đổ bể , thất tài , phá sản , hoặc do làm ăn
bất chính mà dính dáng tới Pháp luật . Thiên Hình chỉ nên đặt
tại nhà WC , phòng tắm , để yểm , trấn là tốt . Khi ấy Hình không còn
hiệu lực tác phát , trở thành vô họa .
5/ ĐẠI SÁT :
Đại sát là sát của Âm Khí , đó là loại đặc biệt độc . Đại sát thường đóng ở
tứ Quý . Đất của Tuế sát không thể phạm vào , phạm vào ắt thương tổn .
Nhà có chính Môn gia Sát là phạm vào cách hung họa nhất , chủ tai nạn
chết chóc , ốm đau , bệnh tật . Tai nạn giáng xuống liên miên . Nặng thì
mất mạng toàn Gia và chết đến một cách rất thê thảm , khủng khiếp .
Nhẹ thì cũng Quan trường bãi miễn , gia sản lụng bại , bần cùng . Tuế Sát
mà Gia Môn thì thường sinh ra người yểu tử ( Hữu sinh vô dưỡng ) , hoặc
sinh ra người tính tình ương ngạnh , hiếu thắng , hung tơn , nham hiểm ,
bất nhân nhưng có đầu óc kinh doanh , thủ công , mỹ nghệ . Tuy nhiên
vẫn suốt đời vất vả , thường hay mắc nhiều tai ách và chẳng làm nên
công cán gì . Loại nhà này chẳng thể ở lâu , phải mau chóng sửa , trị kịp
thời .
Đại Sát là một sao đại hung họa , nên vào cung nào cũng hung . Giường
ngủ hay bàn học của con trẻ , nếu để ở cung Đại Sát , được Sinh , Vượng
Khí , thì học tài thi phận , thi cử không may . nếu gặp Tử , Tuyệt thì
lười biếng , ham chơi lại hay nói dối .
Đặc biệt tối kỵ đặt bàn thờ vào cung Đại Sát , lúc đó sẽ có người điện
khùng , hoảng loạn , cũng có thể sinh ra người cờ bạc , nghiện hút , đổ
đốn , hư hỏng . Cung Đại Sát chỉ có thể đặt WC hay phòng tắm mà thôi .
6/ ĐỘC HỎA :
Độc Hỏa là khí Hỏa thịnh vượng , là Hỏa khí do sự biến đổi của Âm -
Dương tạo ra . Nó chính là khí Liêm Trinh nên mang nhiều sát khí . Độc
Hỏa lâm môn thì Hỏa khí vượng , khiến dễ bị Hỏa tai hay bị Hỏa khí bốc
lên đầu , mà sinh ra bệnh tật , đồng thời khiến cho những người sống
trong nhà hay bị hồ đồ , lỗ mãng . Độc Hỏa lâm môn hay sinh ra những
người nóng tính , liều lĩnh , hung bạo , thường làm những chuyện rồ dại .
Độc Hỏa lâm môn cũng đồng nghĩa thóai tài , nghèo khổ .
Độc Hỏa là hung tinh nên khi đến cung nào cũng không tốt . Tuy vậy ,
Độc Hỏa là hung tinh nhưng không quyết liệt như Đại sát , Thiên Hình .
Do vậy , Độc Hỏa chỉ thật sự gây tác hại khi đến cung đặt bàn thờ hay
bếp . Những trường hợp khác có thể châm chước được . Bàn thờ và bếp là
hai cung phát hỏa nên không bao giờ đặt bàn thờ và bếp vào cung có Độc
Hỏa .
7/ ĐÀO HOA.
2. Bước 2:
Trên địa bàn, theo Can của toạ sơn dùng “Ngũ hổ độn” để nạp Can cho 12
địa chi.
3. Bước 3:
Căn cứ vào Can Chi phân kim của hướng cửa (đại môn), an các thần sát
cho 12
chi, nạp âm theo Can Chi của thần sát là hành của nó.
4. Bước 4:
Đặt Can Chi của môn khí vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của các
thần
sát.
Ví dụ 1: Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Tốn
(Tân Tị)
Đặt Tân Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi của địa bàn (bảng
trên), các Can Chi rơi vào
cung nào an thần sát tương ứng tại đó.
Ví dụ 2:Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Tị (Ất
Tị) .
Đặt Ất Tị vào trung cung chạy thuận đến Can Chi trong bảng trên, các
Can Chi rơi vào cung nào an thần sát tương ứng tại đó.
Ví dụ 3: Nhà toạ Tý (Canh Tý) hướng Ngọ (Bính Ngọ), cửa mở hướng Mùi
(Đinh Mùi) .
Để cho rõ thêm , dienbatn đăng lại phần bài viết của Vanhoai trên
( https://www.nhantrachoc.vn)
KHAI MÔN – PHÂN KIM ĐIỂM THẦN SÁT (theo Huyền Không)
Trong thời gian qua chúng ta đã tìm hiểu về lý thuyết Huyền Không cũng
như ứng dụng của nó. Nay tôi xin trình bày ở một mức cao hơn của Huyền
Không (cũng có thể gọi là “Huyền Không” cao cấp). Đó là phương pháp
khai môn (mở cửa chính hoặc cổng) dùng phân kim để an thần sát
(cát hung)
Nếu chúng ta để ý thì sẻ thấy: hai nhà cùng hướng, cùng nhập trạch
trong một vận, nhưng vượng suy khác nhau. Đó là vì cách để cửa và bố
trí trong nhà khác nhau.
Đại môn hay cửa chính là nơi người nhà thường ra vào là nơi động khí
mạnh nhất và cũng là nơi rước họa hay đón phúc của mọi người sống
trong nhà đó.
Phép phân kim điểm thần sát là cách xác định vị trí cửa chính hoặc cổng
rồi theo đó mà xác định Thần (cát khí) hay Sát (hung khí) vào trong cửu
cung
Trước khi đi vào chi tiết cũng xin nhắc lại: Nếu nhà có cửa được vượng khí
thì vẫn vượng nhưng nếu cửa đó hợp cách với cách phân kim thì càng
vượng hơn, còn nếu thất cách thì cũng giảm đi nhiều phần. Nếu cửa chính
là suy tử mà cách phân kim được đắc cách thì sự “hung” sẽ giảm đi nhiều
và ngược lại
1-) La kinh phân châm:
a- La kinh thông thường: Ngoài cách phân bổ vòng tròn của la bàn ra làm
24 cung người ta còn phân làm 60 cung , mỗi cung 6’ gọi là “phân châm”.
b- Phân châm theo Huyền Không:
Cách phân châm theo cách trên có nhược điểm là hay bị vào tuyến “đại
không vong” hoặc “tiểu không vong”. Theo Huyền không thì phân châm
mỗi cung 3’ vị chi là 120 cung. Cách này được Thẩm trúc Nhưng (tác giả
cuốn Thẩm Thị Huyền Không) phát triển và dùng cho tới ngày nay.
Muốn áp dụng phương pháp Phân kim điểm thần sát đòi hỏi người xem
phải có kinh nghiệm đồng thời dụng cụ đo đạc cần chính xác vì chỉ cần
lệch một chút là đã cho kết quả khác, đặc biệt là tìm tâm nhà. Đặt la kinh
vào tâm nhà để xác định TÂM cửa chính nằm trong cung nào.
2-) Thần Sát:
Thần sát có hai loại cát, hung. Gồm:
Cát
Dương quí nhân
Âm quí nhân
Thiên lộc
Thiên mã
Đào hoa
Hung
Đại sát
Thiên hình
Độc hỏa
3-) Lục thập Hoa Giáp
Là những cặp phối hợp giữa 10 can và 12 chi, được 60 cặp gọi là Lục Thập
Hoa Giáp
4/ An Thần Sát:
Thần Sát được tính toán dựa vào:
- Phân kim tọa sơn nhà
- Phân kim Đại môn hoặc Cổng (thành môn)
An Thần Sát gồm hai bước:
Bước I :
· Lấy can chi của Đại môn (hay cổng) để tìm chi của thần sát . Như vậy ta
sẻ có hai đồ hình, một của đại môn và một của thành môn.
· Lấy Phân kim của Tọa sơn nhà để tìm can của Thần Sát.
Can của thần sát dựa trên can phân kim của tọa sơn nhà theo phép Ngũ
Hổ độn.
Phép Ngũ Hổ độn là phép tìm can tháng dựa vào can của năm theo bài ca
quyết sau:
Giáp Kỷ chi niên Bính tác thủ
Ất Canh chi tuế Mậu vi đầu
Bính Tân chi tuế tầm Canh thượng
Đinh Nhâm, Nhâm dần thuận hành lưu
Duy hữu Mậu Quí hà phương Giáp
Giáp Dần chi thượng hảo suy cầu
Có nghĩa là Phân kim tọa sơn là giáp hay kỷ thì can khởi là Bính, can tọa
là Ất hay Canh thì can khởi là Mậu, Can tọa sơn là Đinh hay Nhâm thì can
khởi là Nhâm, Can tọa sơn là Mậu hay quí thì can khởi là Giáp. Sau đó đặt
can khởi tại chi Dần rồi an tiếp các chi còn lại theo vòng “Lục Thập Hoa
Giáp”. Thí dụ: Can khởi là Mậu thì đặt vào chi khởi là Dần tức Mậu Dần và
các can chi tiếp theo là Kỷ Mão, Canh Thìn,… Hoặc Can Khởi là Canh thì
đặt vào chi khởi là Dần tức Canh Dần và các can chi tiếp theo là Tân Mão,
Nhâm Thìn,…
Bước II :
Đặt phân kim đại môn nhập trung cung rồi an tiếp các can chi tiếp theo
của vòng “lục thập hoa giáp” vào cửu cung theo vòng “lường thiên xích”
thuận. Cứ hết 9 cung thì lại cho nhập trung cung rồi an tiếp cho tới hết.
Thay thế can chi bằng Thần sát có can chi đó.
Nhà mà Phân kim cổng và phân kim đại môn trùng nhau (tức cửa và cỗng
thẳng nhau) thì không nói gì. Nếu cổng bố trí khác với đại môn thì việc
đặt cổng như thế nào để đại môn ra cát khí: Lộc, Mã, Quí nhân chứ không
phải là Đại sát, Thiên Hình, Độc Hỏa đòi hỏi trình độ cao và đặc biệt phân
kim đại môn lại được song tinh cát khí (Lộc+Mã), (Lộc+Quí), (Quí+Mã)
hay Phân kim cổng và phân kim Đại môn để đại môn ra tam tinh cát khí
(Lôc+Mã+Quí Nhân) lại thêm vượng khí đến đại môn hoặc đắc thành môn
thì không còn gì bằng, cách này trong khoa địa lý gọi là đắc “tam hội liên
châu” cực quí hiển và tốt đẹp.
Rồi lại cho tiếp Quí sửu nhập trung cung rồi phi tiếp ta được
Rồi lại cho Nhâm tuất nhập trung cung rồi phi tiếp……..
Thay thế các can chi trên bằng thần sát ta được
………..X...........Thiên lộc.................X.......
........................Thiên mã
............X..........Âm quí nhân.............X.......
.......................Thiên hình
49.....................45............................47............
48.....................41Giáp thìn..............43............
Rồi lại cho tiếp 50Quí sửu nhập trung cung rồi phi tiếp ta được
58...........................54....................56...........
57.......................50Quí sửu............52...........
53.......................55.........................51
Rồi lại cho 59Nhâm tuất nhập trung cung rồi phi tiếp……..
Sau cùng là 35Mậu tuất nhập trung cung
...................39Nhâm dần..........................
...................35.........................37.............
38...............40.........................36.............
Sau cùng thay thế các can chi trên bằng Thần Sát mang can chi đó.
KHAI MÔN – PHÂN KIM ĐIỂM THẦN SÁT (tiếp theo)
Nhà tọa Ất hướng Tân 287’ vận 8
Thành môn ở Hợi 330' (có ngã tư). Cửa mở tại cung Tân và Dậu là có
vượng khí.
Tọa sơn 107’ Quí mão, Cửa chính mở tại 283’ Ất dậu, cổng mở tại 321’
Nhâm Tuất
1- An Thần sát của phâm kim Ất Dậu
· Chi Thần sát theo can Ất:
- THIÊN LỘC : Mão
- ÂM QUÍ : Tý
- DƯƠNG QUÍ : Thân
· Chi Thần sát theo chi Dậu:
- THIÊN MÃ :Hợi
- ĐÀO HOA : Ngọ
- ĐẠI SÁT : Thìn
- THIÊN HÌNH : Dậu
- ĐỘC HỎA : Thân
· Can Thần sát theo can của tọa sơn Quí Mão khởi từ Giáp Dần (51)(can
theo ngũ hổ độn của Quí là Giáp)
- (51) Giáp Dần
- (52) Ất Mão _ THIÊN LỘC
- (53) Bính Thìn _ ĐẠI SÁT
- (54) Đinh Tị
- (55) Mậu Ngọ _ ĐÀO HOA
- (56) Kỷ Mùi
- (57) Canh Thân _ DƯƠNG QUÍ, ĐỘC HỎA
- (58) Tân Dậu _ THIÊN HÌNH
- (59) Nhâm Tuất
- (60) Quí Hợi _ THIÊN MÃ
- (1) Giáp Tý _ ÂM QUÍ
Lấy Ất Dậu (22) nhập trung cung bay thuận (vòng 1)
_ Giáp Ngọ (31) nhập trung cung bay thuận (vòng 2)
_ Quí Mão (40) nhập trung cung bay thuận (vòng 3)
_ Nhâm Tý (49) nhập trung cung bay thuận (vòng 4) ta được.
57……….53………….55
56……….49………….51
52……….54………….50
_ Tân Dậu (58) nhập trung cung bay thuận (vòng 5) ta được
6………..2…………4
56……..58……….60
1………..3………..59
* "Theo ngu ý của riêng tôi thì Phong Thủy học của thầy Trần Mạnh Linh
mang tính sử dụng tổng hợp các kỹ thuật của các phái: Bát Trạch, Huyền
Không, thêm cả chút Lý Số Phong Thủy (Khai Môn Điểm Thần Sát). Thực
ra các cái mà bạn thấy ghi là Độc Hỏa, Kiếp Tài, Thôi Quan ...đều là
những cách cục Huyền Không mà thôi, các tên này phần thì cũng đã có
trong các sách cổ, phần cũng được thấy Mạnh Linh đặt ra để người học dễ
nhớ. Còn như phân ra làm 8 cung, cái gọi là Nguyên Khí chính là được
Phúc Nguyên của Bát Trạch mà thôi. Còn cái gọi là Khai Môn Điểm Thần
Sát thì bắt nguồn từ thuyết Thần Sát có từ đời Hán, thuyết này gây ra
nhiều tranh cãi, bởi có rất nhiều Thần Sát không có được lý giải thích hợp,
rất có thể do các Phương Sĩ đời xưa đưa ra để hù thân chủ ... :x . Hơn
nữa Thần Sát hay được dùng trong Tứ Trụ Toán Mệnh, chứ ít thấy nói đến
trong Phong Thủy. Huyền Không chỉ hay nói đến Ngũ Hoàng Liêm trinh,
Tam Hợp thì nói Tam Sát ..... Tóm lại tôi thấy sách của Thầy Trần cũng là
dùng tổng hợp các kiến thức hiện có của các sách Phong Thủy, Kinh Dịch,
Mệnh Lý có ở Việt Nam, nhưng ông đã dùng cách biến hóa tên gọi để làm
mới cho sách của mình. Bằng chứng là ông đánh giá rất thấp Bát Trạch,
như vậy ông chưa hề biết đến Bát Trạch Chân Pháp. Huyền Không thì ông
chỉ dừng ở mức dùng cách cục, chưa thấy sử dụng được Linh thần, Lưu
thần...."
* "Mang cửu tinh đặt đủ thứ tên làm rối người ta. Nào là 4-9 làm Phúc
đức; 4-7 làm Đào hoa; 3-7 làm Kiếp tài... Ông ấy không biết rằng Thần-
Sát định cát hung, Cửu Tinh đo lường vượng suy. Mang hai cái này ghép
lại rồi nói là Nguyên khí, thật hết sức tưởng tượng.
Tam Hợp quý Âm long mà xem thường Dương long vì Âm long ở được các
ngôi tôn quý của Thiên tinh nên phát phú quý lâu dài hơn Dương long,
Dương long thì bạo phát bạo tàn. Tuy nhiên nếu Dương long đắc cách còn
hơn âm long trung bình. Đây là luận về Âm Dương long của Tam hợp
phái. Nói Nguyên khí là khí Âm tĩnh phát chậm lực mạnh so với cách luận
của Tam hợp như trên còn quá khiên cưỡng. Chưa nói đến Nguyên khí
thực chất là Khí nhất nguyên, nói Khí nhất nguyên là khí Âm là đã sai lắm
rồi."
https://khonggian4chieu.freeforums.org/
dienbatn : Đây là một tài liệu về Phong thủy cũng đáng để nghiên cứu.
Nếu hiểu rõ , chúng ta cũng có được một số kiến thức về Lý Khí.
Cách tính:
Nhà toạ NHÂM, TÝ, BÍNH, NGỌ, GIÁP, MÃO, CANH, DẬU khởi Nhất Long
tại NHÂM TÝ, sau chạy thuận cứ hai sơn một cung Nhị Vũ, Tam Âm, Tứ
Hổ, Ngũ Xà,
Lục Trận
Nhà toạ CẤN, DẦN, KHÔN, THÂN, TỐN, TỊ, CÀN, HỢI khởi Nhất Long tại
QUÝ SỬU.
Nhà toạ ẤT, THÌN, CANH, TUẤT, QUÝ, SỬU, ĐINH, MÙI khởi Nhất Long tại
CÀN HỢI.
Đông tứ mệnh đặt Nhất long tốt hơn.
Tây Tứ mệnh đặt Tứ hổ tốt hơn
Bảng lập sẵn để tra
Ngoài ra còn dùng kết hợp cung Phi mệnh chủ với cửu cung của 24 hướng
để
tìm thêm các vị trí tốt xấu của bếp (Sự kết hợp này giúp chúng ta sử dụng
trong trường
hợp không tìm được vị trí Nhất Long, Tứ Hổ phù hợp khi xây sửa nhà,
hoặc kết hợp cả
hai để lấy cái tối ưu)
- Nhâm, Thìn, Ngọ, Đinh, Thân thuộc Khảm
- Tý, Dần, Bính, Tân, Tuất thuộc Ly
- Quý, Khôn thuộc Khôn
- Sửu, Ất, Tị, Canh thuộc Đoài .
- Cấn, Dậu thuộc Cấn
- Giáp, Mùi, Hợi thuộc Chấn
- Mão, Tốn thuộc Tốn
- Càn thuộc Càn
Nếu đặt bếp, mệnh trạch chủ phối với khu vực đặt bếp ra:
- Sinh khí là Phúc tinh Tốt nhất
- Phục vị là Quý tinh Tốt nhất
- Thiên y là Thọ tinh Tốt thứ 2
- Diên niên là Tài tinh Tốt thứ 3
- Lục Sát là Sát tinh Xấu
- Ngũ Quỷ là Hao tinh Xấu
- Tuyệt mạng Xấu
- Hoạ hại Xấu
Bếp ra Phúc tinh: là tốt nhất, vị trí này phù hợp với bếp có Mộc dưỡng
Hoả như
nguồn dưỡng mệnh. Nếu lại được âm dương Quý nhân hợp cách nữa thì
có thể chế ngự
được hung sát, tăng cường phúc khí cho ngôi nhà.
Bếp ra Quý tinh: cũng như Phúc tinh, Quý tinh có Mộc khí nuôi dưỡng táo
hoả
quý hoá như viên ngọc châu gia truyền linh bảo trong nhà. Nếu được cùng
âm dương
Quý nhân hợp cách nữa thì chủ quý hiển vinh hoa, giải trừ hung hoạ, chế
phục cát tinh.
Nếu đã đủ các yếu tố đã nêu mà lại ra vào cung tử tức nữa thì là phép
dùng hoả cầu tự.
Phép này các bậc tiền nhân đã dùng, linh diệu thật khó lường.
Bếp ra Thọ tinh: tức phép lấy chân hoả hậu thiên bổ khuyết cho hoả hầu
tiên
thiên mà kéo dài tuổi thọ. Phép này nếu được cùng với thái cực Đào hoa
ra vào cung
Diên thọ là cầu thọ pháp.
Bếp ra Tài tinh: là vị trí được đánh giá thấp nhất trong 4 vị trí cát, nó chủ
về phát
tài lộc. Lấy tài tinh là dùng nguyên lý “Ngã khắc giả vi tài”, dùng hoả đốt
chảy nguyên
tinh chân phách mà dẫn nhập thành tài. Nói cách khác là cách này dùng
chân hoả hậu
thiên hỗ trợ đốt chảy nguyên tinh (phách) của chính mình mà dẫn
nhập biến thành tài.
Cũng tựa như một người hút lấy tuỷ cốt của mình để mà ăn. Tài quá
vượng thì tự đốt
cháy hết phách, con cháu không được nhờ, không được hưởng gì.
(3) Hướng cát theo vòng du niên bát biến ( cùng với kỵ ở dưới thì đạt 2
điểm):
So mệnh chủ nhà với hướng bếp (từ sau bếp nhìn tới
trước), được Sinh Khí, Thiên y, Diên niên là tốt. Trường hợp vợ
chồng Đông Tây tứ trạch khác nhau thì có thể lấy hợp với vợ để
san sẻ cái tốt cho vợ, nhất là đối với người vợ nhiều bệnh tật.
(4) Kỵ:
- Kỵ đặt bếp tại vị trí Hoàng tuyền, Bát sát.
(4) Kỵ:
- Kỵ đặt bếp tại vị trí Hoàng tuyền, Bát sát.
- Kỵ bếp trực xung với cổng và cửa nhà: chủ về hao tài, sinh ra ăn uống
tụ tập, trẻ
em lười học.
- Kỵ thuỷ hoả tương xung: bếp cạnh nước, hoặc trên hoặc dưới nơi chứa
nước
(cách khoảng 80cm là được).
- Kỵ xú uế: chủ trong nhà có bệnh tật, ốm đau, sức khoẻ kém (nhà có
mùi không
khí tanh khoảng 10 đến 30 ngày dễ có tang).
- Kỵ bị thực khí xung xạ đè nén (trên có dầm nhà, góc chéo dưới gầm cầu
thang,
góc nhọn chiếu vào bếp...): chủ nhà bế tắc không hanh thông.
(5) Những vị trí cần phải kiêng tránh đặt bếp:
Nhà toạ Càn kiêng đặt bếp tại Bính.
Nhà toạ Cấn kiêng đặt bếp tại Ất.
Nhà toạ Đoài, Khôn kiêng đặt bếp tại Quý.
Nhà toạ Chấn, Tốn kiêng đặt bếp tại Canh.
Nhà toạ Khảm, Ly kiêng đặt bếp tại Giáp.
(Mệnh chủ, hướng nhà cũng nên kiêng như vậy)
8. TRẤN TRẠCH:
Hướng nhà không hợp mệnh dùng bếp để trấn. Dùng hướng cát của bếp
(là chiều
từ bếp nhìn ra ngoài).
Hướng nhà Tuyệt mệnh dùng táo quay hướng Thiên y.
Hướng nhà Ngũ Quỷ dùng táo quay hướng Sinh khí.
Hướng nhà Hoạ hại, Lục sát dùng táo quay hướng Diên niên.
Mức độ trấn tuỳ thuộc sự sinh vượng của Thiên y, Sinh khí, Diên niên.
Dùng
hướng bếp so với sơn chủ và mệnh chủ.
Ví dụ: Sơn chủ (lưng nhà) Tốn hướng Càn, mệnh Tốn. Bếp quay hướng
Bắc (Khảm) kết hợp với
Tốn được Sinh khí mộc. Sinh khí được Khảm thuỷ sinh.
Ví dụ: Mệnh Khảm.
Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Chấn là Thiên y
(thổ).
Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Tốn là Sinh khí
(mộc).
Nếu nhà sơn chủ Khôn (Tuyệt mạng) dùng bếp hướng Ly là Diên niên
(kim).
Dùng khí tạo ra bởi hướng bếp với với mệnh chủ (cùng Đông Tây): Sinh
khí
(Mộc), Thiên y (Thổ), Diên niên (Kim) so sánh với quẻ của sơn chủ
(lưng nhà)
(2) Trấn cửa không hợp cách (theo vòng Phúc đức gặp phải sao xấu):
Nhà toạ Canh theo cách tính vòng Lục Diệu thì bếp Quý rơi vào Nhị Vũ
(xấu)
Mệnh chủ sinh năm Quý Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ Minh
Di
chi Khôn ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào
là quẻ Dự
(a) Cấp độ 1: (Đưa bếp về Nhất Long hay Nhị Vũ... để tân táo hợp với
mệnh chủ)
Lần đầu chuyển chỉ cần chọn ngày đẹp như thông thường
Khảm với Chấn tạo thành khí Thiên y (Cự môn 8), đẹp.
Lấy số của sao nhân với số cung Phi của mệnh chủ (Ly 9):
72 9 8 = × vậy sau 72 ngày thì việc chuyển tới nơi mới của bếp mới có
hiệu lực,
lúc đó mới có thể chuyển dịch tới nơi khác nếu muốn.
(b) Cấp độ 2: (Để tạo ra quẻ lục hào là khí cát, có tác dụng chế cửa bị ra
sao xấu của
vòng Phúc đức)
Sau 72 ngày chọn ngày đẹp để chuyển bếp
* Phương án thứ nhất là chuyển về Bính (thuộc quẻ Ly) là nhất Long
Đoài với Chấn tạo thành khí Tuyệt mạng, xấu. không dùng phương án
này.
* Phương án thứ ba:
Cựu táo Tý sơn
Mệnh chủ là Ly
Tân táo: Cấn
Mệnh chủ sinh năm Quý Sửu 1973 tính ra cung sinh là Tốn 4. Từ quẻ
Thuần Ly
chi Hoả ta bỏ đi hào 4, còn lại 8 hào. tiếp tục bỏ hào 1 và 9 còn lại 6 hào
là quẻ Khốn.
Đoài với Khảm tạo thành khí Hoạ hại , xấu. không dùng
phương án này.
Chỉ dùng hai cấp độ là phải ra quẻ đẹp. Quẻ lục hào ra khí tốt thì có tác
dụng chế
hoá được cửa xấu. Còn nếu chỉ ra được quẻ đẹp thì chỉ có nghĩa là vị trí
đặt bếp đó đẹp.
Ý NGHĨA CỦA PHÉP DI YÊN HẠ HOẢ:
Táo đặt ở Nhất Long:
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Sinh khí thì chế được cửa Bại
tuyệt
và Xương dâm.
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Thiên y thì chế được cửa Ôn
hoàng
và Thiếu vong.
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Diên niên thì chế được cửa
Khốc
khấp và Khẩu thiệt.
Táo đặt ở Tứ Hổ:
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Sinh khí thì chế được cửa Cô
quả
và Tự ải.
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Thiên y thì chế được cửa
Điên
cuồng và Trường bệnh.
Nếu chọn được Nhất Long mà quẻ lục hào ra Diên niên thì chế được cửa
Pháp
trường và Tố tụng.
Theo bác sĩ Dư Quang Châu, Giám đốc Trung tâm Cảm xạ địa sinh thái,
trường Đại học dân lập Hồng Bàng (TP. Hồ Chí Minh), cảm xạ là khả năng
nhạy cảm của con người với các tia bức xạ từ các vật thể phát ra. Theo
cảm xạ học, bất kỳ vật thể nào, dù là sinh vật, thực vật, hay khoáng vật
cũng đều phát ra bức xạ. Các bức xạ lan truyền theo đủ mọi hướng trong
không gian, chúng đi xuyên qua mọi vật và tác động đến nhà cảm xạ. Khi
đó, phản ứng cơ thể của nhà cảm xạ sẽ được truyền sang các dụng cụ
cảm xạ như con lắc, đũa và chúng khuếch đại những phản ứng đó thành
các loại chuyển động có hình dạng khác nhau. Bác sĩ Dư Quang Châu
cho biết: “Cảm xạ học chủ yếu là luyện rung động thư giãn. Đây là
phương pháp tự lắng nghe những rung động của chính mình qua việc
luyện tập các bài tập. Những chuyển động trong cơ thể đều tự phát và
không ai giống ai. Những rung động đó hoàn toàn tự động và chính nhờ
vào sự rung động đó giúp cân bằng cơ thể (tự động tác động lên hệ thần
kinh) và từng bước đẩy lùi các bệnh tật”.
Ông giải thích rõ hơn: “Năng lượng cảm xạ học cho thấy tiềm năng của
con người là vô cùng to lớn. Đặc biệt là sự kỳ diệu và bí ẩn của tổ chức bộ
não với hơn 16 tỉ tế bào thần kinh. Con người là một thực thể trong vũ trụ
nên chỉ có thể tồn tại và phát triển tốt đẹp trong sự hài hòa với vũ trụ. Và
khi có khả năng nhận biết được những thông tin phát ra dưới dạng năng
lượng bức xạ từ các vật thể xung quanh nên con người rút ra được những
cách thức để sống hài hòa với tự nhiên, giữ gìn sức khỏe, cải thiện môi
trường sống, làm cho cuộc sống lành mạnh và tốt đẹp hơn”.
Dienbatn : Các bạn có thể tập rung động thư giãn theo video sau .
Các bạn ăn mặc quần áo nhẹ nhàng, thoải mái, đứng hay ngồi và chăm
chú nghe nhạc nhé.
PHONG THỦY LUẬN BÀI 18 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Luân xa 7: Điều khiển toàn bộ cơ thể. Chủ trị các bệnh thần kinh, phối
hợp với các LX khác chữa trị hầu hết các bệnh.
Luân xa 6: Liên quan vỏ não và tuyến tùng là “Thần nhãn”. Chủ trị về
Thần kinh, mất trí, huyết áp và hoạt động tứ chi.
Luân xa 5: Chữa trị hô hấp, mũi, họng, phổi, suyễn, bệnh về da, dị ứng
(allergy).
Luân xa 4: Chữa trị về tim và cholesterol.
Luân xa 3: Điều hòa năng lượng cơ thể. Chữa trị các bệnh về tiêu hóa,
gan, dạ dày, ruột, lá lách, thận.
Luân xa 2: Chữa trị về bộ phận sinh dục, bài tiết.
Luân xa 1: Là tiềm lực nguồn vũ trụ.
Sự hiểu biết về hệ thống và vị trí các luân xa là rất quan trọng trong quá
trình tập thiền. Luân xa là các huyệt đạo chính trên cơ thể, được sắp xếp
theo các cặp đối xứng.
Luân xa 6-16, 7-1, 5-8, 4-9, 3-10, 2-11 mà trong đó các luân xa 6, 7, 5,
4, 3, 2 nằm trên mạch đốc (mạch dương), các luân xa 8, 9, 10, 11 và 1
nằm trên mạch nhâm (mạch âm).
(Ghi chú: Trong một số tài liệu khác người ta xếp các luân xa theo cặp A-
B.)
Ngoài các cặp luân xa trên, các huyệt và cơ quan tạng phủ sau còn có liên
quan tới quá trình trao đổi năng lượng:
- 2 huyệt Lao Cung trong 2 lòng bàn tay: huyệt ở trên đường văn tim của
gan bàn tay, nơi khe của ngón giữa và ngón vô danh (ngón 4 hay còn gọi
là ngón nhẫn) chạm vào đường văn này hoặc gấp các ngón tay vào lòng
bàn tay, đầu ngón tay giữa chạm vào đường nếp gấp giữa lòng bàn tay
(đường tâm đạo) ở đâu thì đó là huyệt - xem ảnh dưới
- 2 huyệt Dũng Tuyền trong 2 lòng bàn chân: huyệt nằm trên gan bàn
chân. Lấy khoảng cách từ ngón chân thứ 2 (ngón chân trỏ) tới gót chân
chia làm 5 phần, thì huyệt Dũng Tuyền là điểm lõm nằm cách ngón chân
trỏ 2/5 khoảng cách đó (cách gót 3/5) - xem ảnh trên
- Cửu khiếu: 2 lỗ tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết
- Lục phủ: 6 bộ phận quan trọng trong vùng bụng là vị (bao tử),
đảm/đởm (mật), tam tiêu (thượng tiêu là miệng trên của bao tử, trung
tiêu là khoảng giữa bao tử, hạ tiêu là miệng trên của bàng quang), bàng
quang (bọng đái), tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già)
- Ngũ tạng: 5 bộ phận quan trọng trong vùng ngực và bụng là tâm (tim),
can (gan), tỳ (lá lách), phế (phổi), thận (cật)
- và 2 huyệt Thái Dương ở chỗ lõm phía sau ngoài đuôi mắt 1 tấc, ấn vào
có cảm giác ê tức.
10.Hãy mặc niệm âm thanh vũ trụ ” OM ” và nhìn vào điểm giữa 2 chân
mày 1 cách tự nhiên mà không cần cố gắng nào cả. Khi cặp mắt trở nên
bình lặng và yên tĩnh, bạn có thể thấy 1 ánh sáng hoặc 1 ngôi sao 5 cánh,
ở nơi điểm giữa 2 chân mày, nhưng trong suốt thời gian áp dụng phương
pháp này: Điều quan trọng nhất là tập trung tinh thần vào các âm thanh
vũ trụ hay là âm thanh OM ( Cố gắng nhìn thấy được con mắt tâm linh
hay tâm nhãn nằm nơi điểm giữa 2 chân mày sau 1 thời gian thực tập
phương pháp này ) nên lắng nghe âm thanh bên trong nơi lỗ Tai bên Mặt.
11.Nếu bạn có thể nghe được âm thanh vũ trụ OM cùng 1 lúc ngay lập tức
như là Tiếng Thét Gầm Của Sóng Biển, tức là Tiếng Hải Triều Âm, thì
không phải nghe các âm thanh khác nữa mà chỉ cần TẬP TRUNG vào âm
thanh đó thôi. Cố gắng thể nhập vào 1 âm thanh đó, bỡi vì Đức Phật Mẫu
Quan Âm có thể hiển hiện đến với bạn qua âm thanh vũ trụ OM đó.
Theo CĂN BẢN MẬT TÔNG TÂY TẠNG của vị Lạt ma Người Đức, tức Lama
ANAGARIKA GOVINDA, trang 61: OM là cái âm thanh sâu thẳm của 1 thực
tại vĩnh cửu, rung động trong chúng ta từ dĩ vãng vô thủy và âm vọng lại
trong chúng ta, nếu như chúng ta biết khai mở được thính quan nội tại
( Nhĩ căn viên thông ) bằng cách bình tịnh được tâm trí vọng động của
chúng ta./.
Nguồn : https://xuangiao.com/phuong-phap-khai-mo-con-mat-thu-
3.html#ixzz2cJXNEZIT
PHONG THỦY LUẬN BÀI 19 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
1/ THƯ GIÃN LÀ GÌ ?
Thông thường ta nghe người ta nói : Tôi đã thư giãn, được thư giãn,
nhưng ...thư giãn không chỉ là cảm giác bình an và bớt căng thẳng.
Những khi bạn thức dậy vào buổi sáng , trước khi hoàn toàn có ý thức,
bạn sẽ trải qua một vùng mờ mờ, êm ái mà thời gian xem ra không ảnh
hưởng gì cả. Đôi khi các ý tưởng đến một cách tự nhiên mà không cần sự
nỗ lực . Điều tương tự cũng xảy ra vào buổi chiều và ít ra là hai lần mội
ngày bạn đi qua một vùng thức và ngủ được gọi là thư giãn.
Học thư giãn là học cách thả lỏng toàn thân, giữa trạng thái thức và
trạng thái ngủ và giữ trạng thái đó trong một thời gian tùy thích . Chúng
ta đi tìm trạng thái giữa thức và ngủ theo ý thích bất cứ lúc nào, trong bất
cứ trường hợp nào , trong bất cứ tư thế nào : nằm, ngồi thậm chí cả khi
đứng .
https://www.mediafire.com/listen/o70epqyj7j8za8b/vothuc1.mp3
https://www.mediafire.com/listen/p8ysqkg2yuijypx/vothuc1.2.mp3
https://www.mediafire.com/listen/32ijcv7fu7jdqpi/vothuc2.1.mp3
https://www.mediafire.com/listen/l6cm3g5ad1ujvb5/vothuc2.2.mp3
Có 7 luân xa căn bản và 21 trung tâm nhỏ hơn . Đó là những trung tâm
có chứa năng lượng hào quang, khu trú tại nhiều khu vực khác nhau của
cơ thể , đều có gốc là cột sống lưng , trừ luân xa xương trán ở trên đỉnh
đầu.
Bảy luân xa được phân bố như sau :
*/ Vùng bộ phận sinh dục.
* Vùng rốn.
* Vùng thượng vị.
* Vùng ngực.
* Vùng cổ họng. * Ở giữa lông mày.
* Đỉnh đầu.
Bảy trung tâm luân xa này liên hệ với 7 màu và cũng ứng với 7 bông hoa
có số cánh khác nhau. Chính nhờ các luân xa này mà các dòng năng
lượng mới đi vào thể khí chất , góp phần tạo nên thể hào quang đôi. Thể
này được nuôi dưỡng chủ yếu nhờ sinh khí " PRA^NA " do các trung tâm
truyền tải đến.
Luân xa có thể quay với nhiều tốc độ nhanh chậm khác nhau. Cánh luân
xa tỏa ra một luồng ánh sáng rực rỡ , truyền tải một năng lượng cực
mạnh, tạo cơ sở cho nhiều khả năng mới phát triển. Đối với người bình
thường, luân xa tỏa ra ánh sáng lờ mờ. Đối với những người đã luyện tập
thì luân xa phát ra những tia ánh sáng chói lòa , đường kính của hào
quang tăng dần từ 5-15 cm.
( Viết theo tài liệu của Dư Quang Châu - 8/8 Khu phố 3 . Phường Bửu long
- TP. Biện hòa - Tel : 061. 827740. )
Phần bổ xung : BÀI TẬP CỦA ĐẠO TRÀNG DPLHVV TẬP MỞ LUÂN XA VÀ
KHAI LỤC THÔNG.
( Ghi chú : Nội công có tác dụng sung nạp nguyên khí , tiếp thu các tia
cực tím nuôi toàn thân. )
7/ MỞ KHẨU.
SI ỐP PRÂY – MI CA – MI MÍT.
9/ MỞ NHĨ.
SI ON RAY – MA NI- RA RÂY MÍT- MO NI PHÉP.
10/ KHAI NHĨ .
NAM MÔ A DI ĐÀ NHƯ LAI PHẬT TỔ CHỨNG MINH. ( 3 LẦN ).
Ô LA SA NI – TÉT TA RA MA GO RAY- MI TU Ô LA – Ô LA KHÔNG RAY –
BỌ SA LÁT MÉT TÊ ( 3 LẦN ).
12/ MỞ MŨI.
ỐP MA SA SI ÂY – MO DI PHI MÍT HA.
CÙ ON NÔ SI – MI ĐA MI CA SI.
-Không kiềm chế áp đặt, tự kỷ ám thị lên con lắc. Không cần tin tưởng
con lắc như một người bạn mà phải tin tưởng vào năng lực chính mình, cái
vô thức đang tồn tại trong cơ thể (RĐTG). Những điều con lắc nói có thể
chính xác lên đến 90% nhưng tất nhiên còn tùy vào năng lực của bạn
e/ Đặt câu hỏi và nhận câu trả lời.
Ứng dụng Cảm xạ trong Phong thủy để xem xét nơi bạn ở và những hiện
tượng xảy ra xung quanh nơi ở của bạn. vì nó phản ánh sự tồn tại của
chính bạn. Điều cần thiết là bạn phải làm thế nào để có một sự
đồng nhất giữa sóng rung động của bạn với sóng rung động của
nơi bạn ở.
Bạn biết rõ tính năng nhậy cảm và hệ thống thần kinh thực vật của con
người sẽ bị thay đổi trước một số chất liệu ( mỹ phẩm, màu sắc, diện từ
trường ...) . Thí dụ : Chúng ta ghi nhận đa số những người mắc bệnh
nghặt nghèo , đều có những điểm giống nhau là nơi họ ngủ phần nhiều là
những điểm có chỉ số địa từ trường xấu ( đũa dạt ra, con lắc quay ngược )
. Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hay chuyển đi nơi khác có chỉ số địa từ trường
tốt ( đũa chập lại, quả lắc quay thuận ) , thì bệnh giảm đi rõ rệt. Sự
hiểu biết về lĩnh vực này là yêu cầu cần thiết của bộ môn Cảm xạ học , để
đào tạo ra những Cảm xạ viên có chuyên môn vững vàng và thành thạo.
Ứng dụng Cảm xạ vào Phong thủy giúp các bạn nhận thức được sự mất
quân bình trong mối liên hệ giữa NGƯỜI Ở VÀ NƠI Ở. Chúng là nguyên
nhân của việc tiêu hao năng lượng của con người. Mỗi một người là
antena để đón nhận các bức xạ xung quanh. Họ có một khả năng tự điều
chỉnh để thích ứng với môi trường. Mỗi thay đổi của môi trường xung
quanh , buộc cư dân phải tạo một thế quân bình mới để tồn tại ( giống
như con tắc kè phải thay đổi màu da tùy theo thân cây mà nó đang cư
ngụ , tránh kẻ thù có thể gây hại cho chúng ). Những ai bị một số bất ổn
trong cơ thể , thường thấy rằng họ phải mất nhiều sức lực ( năng lượng )
để tái lập sự cân bằng trong điều kiện mới.
Bởi vậy chúng ta chịu ảnh hưởng của đất, trời mà ta gọi là ĐỊA VŨ TRỤ .
Các hiện tượng này tác động lên các bộ phận của cơ thể chúng ta , ngoài
ý muốn của chúng ta , đôi lúc nó cũng cần thiết để duy trì sự sống của
chúng ta. Nhưng nếu các bức xạ tác động không đúng chỗ, hoặc quá
mạnh hoặc bị nhiễu loạn sẽ tạo ra các xáo trộn về vật chất và tinh thần từ
mức độ nhẹ như mất ngủ, đau đầu đến sinh bệnh nặng như ung thư, hen
xuyễn , căng thẳng , suy nhược , chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc
sống đôi lứa dẫn đến ly hôn.
Nơi ta sống giống như một trường năng lượng cộng hưởng các rung động.
Bạn có phản ứng tốt hay xấu với môi trường rung động này tùy vào khả
năng thích nghi của chính bạn.
6/ PHÚC XẠ.
Phúc xạ là những chấn động sóng của các bình diện THIÊN - ĐỊA - NHÂN
tác động đến cuộc sống con người , gây lợi cho con người với 12 tác phúc.
Cách tìm điểm Phúc xạ giống như tìm điểm ác xạ. Tứ điểm Phúc xạ ,
hướng phát theo hình dấu cộng ( + ) . Do vậy cảm xạ viên sau khi tìm
được điểm Phúc xạ phải tìm tiếp 4 hướng phát và kiểm tra tác phúc theo
từng hướng. Trước khi xác định tác phúc hướng phải xác định tác phúc
điểm . Cả hướng và điểm đều tìm theo 12 cung tử vi xem tác phúc tại
cung nào : Tài, quan, tử, di, nô.....
Trong một số trường hợp ung thư , người ta vô vọng tìm ra nguyên nhân .
Song một số nhà Cảm xạ , có thể tìm ra nguyên nhân của nó là do một
sóng từ xuất hiện ngay dưới giường nằm của bệnh nhân. Đến khi người ta
dời cái giừng của bệnh nhân sang một chỗ khác , người bệnh dần được
bình phục. Công việc của nhà Cảm xạ đó là tìm ra một điểm giao nhau
của 2 dòng nước ngầm ở dưới đất , ngay chỗ giường nằm cũ của bệnh
nhân. Nếu không dời giường đi , tía Ác xạ ấy cứ bốc lên , dần dần người
bệnh sẽ chết.
Tất cả những ai đặt giường nằm trên các mạch nước ngầm đều có thể
phát bệnh, song có một số người thay đổi hướng nằm thì đã trút đi được
những sự việc chẳng lành đó.
Một cái cây phát triển xanh tốt trong một phòng khách này , nhưng lại
gây độc hại cho một căn phòng khác do ảnh hưởng của những vũng nước
dưới nền máy giặt cùng đặt tại chỗ đó.
Có những điều bí ẩn người ta không giải thích được đó là những tai nạn
giao thông cứ lập đi lập lại nhiều lần tại một địa điểm. Dù rằng người ta
đã cố tạo ra những biện pháp đảm bảo an toàn . Đó là vì người ta chưa
tìm ra nơi giao điểm của một phay đất địa chất với một dòng chảy ( Theo
dienbatn còn một nguyên nhân nữa là tại đây có hiện tượng giống như Ma
Thần Vòng -dienbatn sẽ nói rõ ở những phần sau ). Cứ nhìn dọc đường
quốc lộ , chúng ta dễ dàng nhận thấy những bàn thờ nhỏ ngay bên cạnh
lề đường , đó chính là dấu tích của những tai nạn lập đi lập lại cùng một vị
trí . Người ta nghi ngờ những mãnh lực vô hình nào đó tác động và việc
lập ban thờ như trên hy vọng sẽ tránh bớt được những tai nạn. Dù sao đi
chăng nữa, việc đó cũng có tác động ít nhiều đến những người tham gia
giao thông, khiến cho họ cảnh giác hơn khi đi qua chỗ đó.
Một trường hợp khác : Hai chuồng ngựa xây dựng kề nhau trên một sườn
đồi . Nước thảỉ của chuồng trên đi ngang qua chuồng dưới thấp gây ra
ngựa ở chuồng dưới bị bệnh chết. Người ta dời chuồng ngựa phía dưới đi
chỗ khác, đàn ngựa lại được yên lành.
Một trường hợp khác là hiện tượng những ngôi nhà chết . Cụm từ này thu
hút sự chú ý của mọi người do nhà Cảm xạ Roget De Lafforest đưa ra . Đó
là những thông tin về sóng độc hại trong lòng đất mà cho đến nay khoa
học vẫn còn coi là những việc lạ lùng . Ví dụ như một căn nhà xây cất
kiên cố , gắn bó với những người ở trong nhà nhiều năm. Sau này khi họ
chết đi hay dời qua nơi khác , những sóng bức xạ của họ vẫn quanh quẩn
nơi đó nhiều năm sau.
Có một số trường năng lượng mang từ tính khác nhau ảnh hưởng đến
cuộc sống trên mặt đất như :
* Trường đa dạng theo hướng Bắc - Nam của trái đất.
* Trường nội lực trong lòng đất.
* Trường ngoại lực do tác động của hệ mặt trời mà người ta nhận ra qua
sự phát xạ của các thiên thể.
* Năng lượng âm tính do những cơn bão đem đến cho quả đất .
Ngược lại là những năng lượng dương tính là năng lượng thiên nhiên của
vũ trụ ( Trường năng lượng của Thái dương hệ ).
Quan hệ giữa những trường năng lượng đó với con người biểu thị mối
quan hệ Thiên _ Địa - Nhân là nội dung của Địa động học. Việc xuất hiện
các sóng ác xạ liên quan mật thiết tới quá trình tự cân bằng năng lượng ,
cân bằng sinh thái.
" “Trên hành tinh của chúng ta sự sống được bắt đầu và duy trì bởi các
bức xạ, đồng thời cũng bị hủy diệt bởi những sự dao động mất cân đối của
nó”.
Trong thời đại hiện nay, ngoài các môn khoa học như sinh học, vật lý, hóa
học, địa chất học, các hiện tượng sóng…, con người ngày càng quan tâm
tới mối liên hệ giữa SỨC KHỎE và NƠI Ở. Do đó khoa ĐỊA SINH HỌC đã
hình thành. Cũng như Y học, ngoài nền Y học chính thống ra còn một nền
Y học thay thế, Y tế dự phòng (alternative medicine) song song tồn tại với
nó. Khoa học tự nhiên cũng có nhiều vấn đề chưa giải thích được, nhưng
đại đa số quần chúng bình dân vẫn xem chúng như gắn liền với cuộc sống
của họ. Là những nhà khoa học chân chính, chúng ta không nên có một
thái độ thiếu khoa học là bác bỏ thẳng thừng những điều mà chính chúng
ta chưa thể lý giải được. Trên tinh thần đó, một sự tiếp cận mới gần đây
khuyến cáo ta cần phải quan tâm đến việc mỗi người đều có liên quan
mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm thế nào để có thể thuần hoá
các địa điểm trên đang bị chi phối bởi những sức mạnh hiện diện một cách
vô hình: các trường hay bức xạ khác nhau, năng lượng, khí hậu sinh học,
thuỷ thổ… Đó là một thách thức mới đặt ra với những người làm công tác
khoa học, nhất là những người chuyên nghiên cứu môn Năng lượng Cảm
xạ học. Cần phải đặc biệt quan tâm đến những hiện tượng xảy ra xung
quanh nơi ở của bạn vì chúng có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của
bạn. Điều cần thiết là phải làm thế nào để có một sự đồng nhất giữa sóng
rung động của bạn với sóng rung động của chính nơi bạn ở. Đó là điều
thiết yếu cho một sự hài hòa và thích hợp. Bạn đã biết rõ tính năng nhạy
cảm và hệ thống thần kinh thực vật của con người sẽ bị thay đổi trước
một số chất liệu (mỹ phẩm, nước hoa, màu sắc…) hay những thông tin
xung quanh bạn. Thí dụ: Chúng ta ghi nhận đa số những người mắc bệnh
hiểm nghèo đều có những điểm giống nhau: đó là nơi họ ngủ phần nhiều
là những điểm có chỉ số địa từ trường xấu (đũa dạt ra và lắc quay ngược),
chỉ số Bovis dưới 3.000. Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hoặc chuyển đi nơi khác
có chỉ số địa từ trường tốt (đũa chập lại và lắc quay thuận), chỉ số Bovis
trên 6.500 thì bệnh giảm rõ rệt. Sự hiểu biết về lĩnh vực này đòi hỏi bộ
môn Năng lượng Cảm xạ học đào tạo ra những nhà thực hành Cảm xạ có
chuyên môn vững vàng và thành thạo. Con người là một tổng thể, sống
trong môi trường phức tạp mà chỉ cần một sự mất cân đối nhỏ từ bất cứ
nguyên nhân nào cũng có thể phát sinh bệnh tật. Sóng địa từ trường hiện
diện khắp nơi trong vũ trụ và nó có những ảnh hưởng nhất định đến sức
khoẻ chúng ta. Khoa Địa sinh học nghiên cứu các mối liên hệ giữa trái đất
và cuộc sống, sức khoẻ và nơi ở, các tác động của địa từ trường trên vật
thể sống, trên vật liệu xây dựng, trên hình thể kiến trúc, trên trang thiết
bị, màu sắc, tiếng ồn… Một sự tiếp cận để biết một cách tổng quát về môn
Năng lượng Cảm xạ với Địa sinh học sẽ mang lại cho chúng ta một sự hòa
hợp tốt đẹp giữa con người với môi trường xung quanh.
Tài liệu này không chỉ đơn thuần là một tài liệu về Cảm xạ học với Địa
sinh học, mà nó thực sự là một tuyển tập về nghệ thuật sống nhằm làm
chúng ta biết sống như thế nào cho tốt hơn.
Các nhà khoa học ở Âu châu và Hoa Kỳ đã phát hiện được các
“ngôi nhà ung thư”, “nhà ly dị” và điều này liên hệ mật thiết với môi
trường: cấu tạo đất, mạng lưới năng lượng đất, dây dẫn điện, vật liệu xây
dựng, kiểu dáng, màu sắc.
Qua quan sát, các nhà Sinh học và Vật lý học xác nhận các nguyên tắc
của lý thuyết Đông phương cổ đề ra: đất giống như một sinh vật sống.
Nhà Cảm xạ Địa Sinh học cũng tiến hành cách tiếp cận để tìm giải pháp
tổng thể cho vấn đề chứ không chỉ giới hạn ở một vài khía cạnh nhỏ bé
của nó. Thế giới không phải chỉ giới hạn trong nhận thức từ các giác quan
của chúng ta. Có một dòng chảy lưu thông bên trong vật thể
để chuyển tải thông tin: đó là năng lượng. Phương trình đánh dấu thế kỷ
XX của Einstein E=mc2. Thật là giản dị! Nhưng phải mất nhiều thời gian
để quan niệm này được chấp nhận.
Cùng với việc coi năng lượng là bản chất của vật chất và tinh thần, có một
tư tưởng quan trọng nữa làm ảnh hưởng đến nhận thức của nhân loại là
coi vũ trụ như một tổng thể thống nhất. Sau phát minh về ảnh toàn đồ
(hologram) của Gabor (giải Nobel 1972), các công trình của David Bohm
về vũ trụ toàn đồ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Các ý tưởng này cũng
trùng với lý thuyết Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của của người Phương Đông,
cũng như các lý thuyết về vũ trụ – vật chất của Trung Quốc và Ấn Độ cổ
đại.
Phải căn cứ vào sự nghiên cứu và quan sát để nhận ra rằng mỗi yếu tố
trong đời sống đều chứa đựng cái toàn thể và mong muốn được hoà hợp
với cái khác. Hiện tại có nhiều học thuyết mà qua trình bày của những
người đã xây dựng ra chúng, kết hợp ý tưởng giữa người này và người
khác, dẫn đến sự gặp nhau, bổ túc cho nhau. Rất có thể trong tương lai
họ làm cho tất cả đều hợp nhất lại.
Nhiều thử nghiệm được tiến hành với một loạt các dụng cụ đã cho những
kết quả có thể tạo ra sự thừa nhận các lý thuyết mới về khoa học trong
cuốn sách này. Mục tiêu của cuốn sách này là nhằm phổ biến và thực
hành các hiểu biết về “Nơi ở an toàn”.
Ngày nay ta biết rằng vũ trụ là một hệ thống gồm các yếu tố sống động
tùy thuộc vào nhau, không thể tách rời ra, luôn luôn chuyển động, vừa là
yếu tố vật chất vừa là ý thức. Từ khái niệm năng lượng, nhiều nhà nghiên
cứu đưa thêm khái niệm tinh thần, tư tưởng cũng có liên quan đến thế
giới vật chất. Tính thống nhất của vũ trụ theo vật lý học hiện đại cũng gần
với quan điểm của Phật giáo về cái Bản thể, cái Một, cái Duy nhất, phù
hợp với quan điểm Thiên-Địa-Nhân hợp nhất của phương Đông. Sự khám
phá ra tính thống nhất, tính tổng thể dạng toàn đồ (hologram) của vũ trụ
có thể coi là 1 bước ngoặt lớn về nhận thức thế giới quanh ta. Một ví dụ
dễ hiểu là khi một người bị bệnh ở gan, sẽ thấy thể hiện bệnh chính ở gan
(kiểm tra sinh hóa gan theo Tây y) nhưng cũng thể hiện ở mắt, ở tai, ở
mặt, ở móng tay, ở bàn chân, ở giọng nói, hơi thở, nhịp mạch (theo Đông
y), vì con người là 1 tiểu vũ trụ có tính tổng thể, tính toàn đồ của Đại vũ
trụ.
Chúng ta biết vũ trụ là một hệ thống bao gồm các vật thể, phụ thuộc vào
nhau, di chuyển liên tục như một đại dương, năng lượng luôn biến động.
Theo Basarah Nicolescu, các photon là những phần tử vận chuyển thông
tin giữa thế giới nội tâm và ngoại giới. Các quá trình năng lượng được
thực hiện qua việc trao đổi électron-photon và phần lớn xảy ra với tốc độ
ánh sáng. Bản thân các quá trình được các phản ứng sinh hóa-thần kinh
trong bộ não con người giải thích như quá trình trao đổi photon, từ đó dẫn
đến các nhận thức, vấn đề trí nhớ, cảm giác… đều liên quan đến photon,
đến năng lượng.
Hiện tại, các vấn đề về năng lượng – vật chất – ý thức còn đang được
nghiên cứu. Thật ra dường như người ta mới chỉ đạt được những bước đầu
và chỉ mới sử dụng được một phần nhỏ cái khả năng khổng lồ của nó mà
thôi.
Từ tính trên mặt đất
Trên bề mặt của trái đất có một từ trường mà chiều của nó được xác định
bằng la bàn.
Từ trường của trái đất là cái hiện hữu và luôn vận động nghĩa là luôn cùng
một hướng và cùng một giá trị ở một nơi định sẵn. Người ta xác định địa
từ trường qua các toạ độ của nó.
Vả lại, các đường giới hạn bắt buộc của từ trường trái đất không nằm trên
mặt đất. Chúng chui sâu trong lòng đất theo hướng của vùng có mật độ
từ tính cao ở cực Bắc. Góc hợp thành giữa đường ngang và trục của kim
lúc dao động tự do là vào khoảng 65o trong vùng: đó là độ nghiêng. Ta
dễ dàng tìm thấy hướng Bắc qua việc xác định hướng của bóng một sợi
dây đúng lúc 12 giờ trưa. La bàn chỉ hướng Bắc từ tính tạo với hướng Bắc
địa lý một góc nhỏ gọi là độ lệch – thay đổi từ từ theo năm tháng và
khác biệt theo từng vùng trên bán cầu.
Các tọa độ này sẽ thay đổi theo địa điểm và nếu ta thể hiện trên bản đồ
từ tính các đường cong nối các điểm khác nhau mà một trong các toạ độ
này có cùng một trị số với nhau. Chúng biểu hiện các bất thường của địa
phương liên hệ với các đặc tính sinh học của lòng đất. Nơi đó được sử
dụng cho các đo lường từ tính để thăm dò địa vật lý. Nhà Địa Sinh học
dùng một máy địa từ trường để phát hiện các dị thường của từ trường
bên trong một ngôi nhà, cơ quan.
Thông thường, cường độ từ trường của các điểm bình thường trên mặt đất
cỡ 0,5 miligram. Gaus là đơn vị đo cường độ từ trường, 1 gaus = 1.000
miligram.
Các sóng điện từ
Trong thời gian sóng điện từ lan toả, một số sóng chạy dài trên đất, số
khác tự biến mất, số khác thì phản chiếu vào lòng đất ngang tầm của
tầng điện ly (tầng ion hoá học).
Một số sóng điện từ khi lướt qua trên mặt đất thì một phần do đất hấp thụ
nơi mà có các dòng điện tự tạo ra ở một độ sâu nào đó, dòng điện này
càng xuống sâu càng giảm. Các sóng dài và các sóng có tần số yếu dễ
dàng xuyên thấu do vậy các dòng điện trên bề mặt đặc biệt yếu vì năng
lượng được phân bố ở độ sâu.
Đối với sóng ngắn, trái lại, các dòng điện trên mặt sẽ cao hơn và
ảnh hưởng của nó gia tăng theo tần số.
Dòng điện cũng gia tăng với tính dẫn điện từ của đất. Đất có tính
dẫn điện cao là đất ẩm ướt ở trên mặt, do đó dòng điện rung động với
một cường độ mạnh hơn.
Trong một số trường hợp, chúng có thể có tác động nguy hại cho
đời sống.
Hàng ngày vào bất cứ lúc nào, cơ thể ta bị các bức xạ chiếu vào, ngay cả
lúc bình thường ta không nhận ra. Phần lớn các bức xạ đến với chúng ta
từ khoảng ngoài không gian, mặt trời, các vì sao.
Một số bức xạ khác được hình thành một cách tự nhiên trên bề mặt của
trái đất. Chúng đến phần lớn từ sự phóng xạ của các khối đá trong lòng
đất ví dụ như uranium.
Các bức xạ là một phương tiện vận chuyển cho năng lượng tại một điểm:
từ chỗ phát đến chỗ thu. Thường chúng di chuyển theo đường thẳng dưới
dạng bức xạ.
Các bức xạ vô hình là những sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, cực tím,
tia X, tia gamma, tất cả những sóng này truyền qua không gian với vận
tốc bằng vận tốc ánh sáng tức 300.000km/giây.
Nguyên tắc chụp tia X hay scanner ứng dụng trong y học và nha khoa
được dựa trên sự phát các sóng điện từ này. Tùy theo sự thâm nhập hay
hấp thụ bởi cơ thể con người, các bộ phận có thể hiện trên phim hay trên
màn hình.
Ảnh hưởng nhiệt học của chúng được sử dụng trong nguyên tắc lò vi ba.
Rada thì sử dụng ảnh hưởng này trong một ứng dụng khác. Một số các
bức xạ điện từ này có đặc tính làm biến đổi cấu trúc điện từ của nguyên
tử, đó là những bức xạ ion hoá, đặc biệt được dùng trong bảo quản thực
phẩm.
Tính phóng xạ
Có 3 loại bức xạ phát ra từ các chất phóng xạ.
- Các tia alpha là những nhân nguyên tử héli. Chúng tích điện dương vì
được cấu tạo bằng 2 proton (dương) và 2 neutron (không tích điện).
- Các tia bêta: Chúng không có trong nhân nhưng chúng được phát ra
khi một neutron biến thành 1 proton cộng với 1 électron trong một nhân.
- Các tia gamma là những sóng điện từ có bước sóng rất ngắn. Đó là
những bức xạ thấm sâu nhất.
Đối với các chất phóng xạ nguy hiểm, các phần tử vật chất alpha
và bêta không thể thâm nhập sâu trong tế bào sống mà chỉ tạo thành
những vết bỏng trên da. Nhưng tia gamma thì nguy hiểm hơn vì chứa
năng lượng cao và khả năng thâm nhập lớn của chúng có thể gây tổn hại
cho các phân tử của chất di truyền (ADN) được tích luỹ trong các bộ phận
sinh sản và gây ra các đột biến làm nguy hại cho sự sinh sản sau này. Vì
lý do này mà các chất phát tia gamma được lưu giữ sau các màn dày của
bê tông và chì.
Chớ nên đánh giá quá cao cũng như quá thấp các nguy hại của những
phóng xạ này mà chỉ cần tự bảo vệ. Vì vậy người ta ấn định một số định
mức an toàn để mọi người tuân thủ.
Dư Quang Châu (Bộ môn Năng lượng Cảm xạ) ".
Ngày nay, Các nhà Địa vật lý nghiên cứu cấu tạo của địa cầu thấy rằng
mọi sự bất thường trong cấu tạo địa chất đều thường dẫn đến một sự xáo
trộn ở bề mặt trái đất, tác động đến con người. Các nhà Thiên văn vật lý
đã chứng minh thiên hà giống như sao chổi từ tính, khi di chuyển trong
không trung tạo ra các hiện tượng bão từ, địên từ cảm ứng trong lòng
đất , đại dương và trong không gian. Các Bác sĩ Y năng lượng đã tìm thấy
trong khoa Địa sinh học một lời giải đáp cho một số tác nhân sinh bệnh.
Thông thường, khi địa từ trường thay đổi, môi trường sống bị tác động,
con người dễ bị mất quân bình và kéo theo tật bệnh. Nguyên nhân này
đôi lúc mang vẻ bí ẩn vì mấy ai nghĩ đến những hệ thống điện từ trường
chằng chịt có thể làm xáo trộn cuộc sống do các tác động cộng hưởng của
trường điện từ từ bên ngoài với các dòng điện trong cơ thể con người,
nhất là khi dùng điện không đúng cách có thể gây nguy hại từ mức độ
nhẹ như : đau đầu, mất ngủ đến sinh bệnh nặng như: căng thẳng, suy
nhược, hen suyễn, ung thư . . . chưa kể đến những xáo trộn trong cuộc
sống lứa đôi dẫn đến ly hôn.
Và con người nhận ra rằng: muốn sống thỏai mái, khỏe mạnh thì phải
sống trong một môi trường vừa có tính chất hóa học hợp lý, vừa có tính
chất vật lý phù hợp. Đó là một môi trường:
• Không khí trong lành như ở nông thôn, bờ biển, rừng núi . . .
• Thời tiết ổn định như : nhiệt độ, gió, độ ẩm . . .
• Chất liệu của đất để tạo ra các bức xạ phóng lên từ lòng đất thích hợp
cho con người.
• Bức xạ phóng ra trong không gian gồm bức xạ mặt trời và bức xạ vũ
trụ ở một giới hạn cho phép.
• Hạn chế được các bụi khói công nghiệp, ô nhiễm hóa chất, bụi khói xe
cộ. Với cảm xạ Địa sinh học, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm
thế nào để xây dựng và ắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh,
chẳng hạn như chọn nơi thích đáng để đặt giường ngủ, để có thể hạn chế
ảnh hưởng của các bức xạ có hại.
Người Trung Hoa cổ gọi chúng là”các lối đi của ma quỷ”. Qua hình dưới
đây, bạn có thể ghi nhận tại những giao điểm của những lực đạo của
mạng lưới là những gút được gọi là gút Hartman, những gút được
các nhà địa sinh học gọi là “những điểm gây bệnh từ lòng đất”
(géopathogènes) Chúng hợp thành những hình vuông với cạnh xấp xỉ là
21 cm, đó là nơi có yếu tố nguy hại cao nhất. Như thế có nghĩa là những
nơi đó có khả năng tạo thuận lợi cho bệnh phát sinh hay bệnh tiến triển.
Những nơi giao nhau của lực đạo này được gọi là gút lưới, còn được gọi là
gút Hartman hay gút H. Tại những nơi giao nhau này, sựrung động cực kỳ
thấp.
Vì thế nhất thiết phải tránh những gút đó. Vùng trung tính là vùng tốt,
nếu không bị nhiễu độc hại khác, là vùng nằm ở giữa các ô lưới này. Đây
là điểm mà người ta có thể hoàn toàn đặt giường ngủ
Cơ sở khoa học của mạng lưới Hartman qua các cuộc thí nghiệm
Nhiều thí nghiệm trên động vật được thực hiện trong labo: nhà địa sinh
học nổi tiếng Rémy Alexandre kể lại chuyện này trong tác phẩm của Ông
tựa là Giường ngủ của bạn đặt đúng chỗ tốt chưa ? Nội dung như sau :”Ở
Đức, Bác sĩ Hartman và Bs Jenny đã thực hiện trong labo những thí
nghiệm trên 14.000 con chuột bạch trong 12 năm. Cuộc thí nghiệm bao
gồm nhốt các con chuột cùng gốc, cùng tuổi, cùng trọng lượng trong một
chỗ trung tính nào đó, và nhốt một số khác trên nơi gút lưới, gút H. Các
chuột trong vùng trung tính sống yên lành trong suốt thời gian thử
nghiệm, chúng giữ được bộ lông đẹp và sinh sản ra hậu duệ
của chúng 30% nhiều hơn các chú chuột nhốt nơi các giao điểm. Các chú
chuột ở các gút này thường xuyên xao động và tìm cách chui trốn trong
các góc gần với vùng trung tính, bộ lông của chúng thưa ra, chúng kêu
ban đêm, gặm nhấm đuôi của mình, xé ăn các con nhỏ. Sau 40 ngày của
mỗi đợt thử nghiệm, mổ xác chúng, người ta phát hiện thật nhiều khối u.
Phân chất cho thấy độ pH trong máu của số con vật này biến đổi thành
vùng đầy chất kích thích.” Điều đó, than ôi, với con người cũng thế nếu
con người thường xuyên lưu trú trên những gút độc hại đó…
Theo dòng thời gian, địa sinh học đã trở thành một môn khoa học thực sự.
Nhiều nhân vật nổi tiếng cũng đã từng ứng dụng địa sinh học. Như thế,
công việc của họ là phân tích một cách hợp lý tất cả những tham số xác
thực tại một chỗ ở: vị trí (nền nhà, tầng hầm – móng), kiến trúc, xây cất
công trình … để loại trừ những ảnh hưởng tai hoạ có thể có ở những nơi
đó. Họ cũng có thể giữ vai trò cố vấn cho một gia chủ để xây cất một
cách hoàn hảo ngôi nhà mới.
Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ đi sâu và giúp cho các bạn làm thế nào
để xây dựng và sắp xếp ngôi nhà của mình một cách lành mạnh, chẳng
hạn như chọn nơi thích đáng để đặt giường ngủ, để có thể tránh tất cả
những sai lầm trong tầm ảnh hưởng của điện, v.v…
Chúng tôi sẽ chỉ dẫn cho các bạn những phương cách giản đơn, thực tiễn
và trong tầm tay của các bạn để tự phòng vệ và chống lại những sóng
đang gây hại cho tiến trình tốt đẹp của sự sống chúng ta trên quả đất.
( Nguyễn Minh Trí – DS. Lê Văn Giàu)
Để đo năng lượng sinh học của người, động thực vật hay địa sinh học.
Các nhà nghiên cứu năng lượng sinh học trên thế giới (chuyên gia cảm xạ
học, chuyên gia năng lượng sinh học) luôn dùng tới chỉ số đo có tên gọi là
Bovis.
Vậy chỉ số đo Bovis là gì ?.
Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ?
Chỉ số Bovis của cơ thể con người bao nhiêu là tốt ?
Chỉ số Bovis của một số vật thể, như của khu đất ảnh hưởng đến sức
khỏe và bệnh tật.
Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện
tập thiền thì chỉ số Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis, điều đó nói lên
khả năng trị liệu chữa bệnh ở mức độ cao.
Chỉ số Bovis trong công phu tu luyện tập thiền cao nhất là bao nhiêu ?
Các Thiền sư, các hành giả, các học viên luyện tập qua các phương pháp
Thiền nhận năng lượng vũ trụ - Nhân điện- Yoga - Dưỡng sinh trường Sinh
học, cảm xạ học ...thì cơ thể có chỉ số Bovis tăng rất cao, sự tăng nhanh
chóng tùy theo sự tu luyện của mình, tùy theo cấp học cao thấp mà sự
tăng chỉ số Bovis cũng có sự khác nhau.
Máy đo Địa từ trường (Géomagnétomètre), máy Bovis Biometer dùng đơn
vị chỉ số n là Bovis. Thông thường các nhà Ðịa Sinh Học hay dùng từ ngữ:
“chỉ số Bovis”. Như vậy chỉ số này nói lên điều gì?
Một người trung bình phát ra 15.000 Bovis nhưng nếu có công phu luyện
tập các pháp môn thiền định, như Năng Lượng Vũ Trụ - Khí công... chỉ số
Bovis có thể lên tối đa 40.000 Bovis,
Chỉ số Bovis của một số vật thể, như của khu đất ảnh hưởng đến sức
khỏe và bệnh tật
- Từ 0 đến 1.000 đất đai nằm trên giao điểm địa từ trường họăc giao điểm
của mạch nước ngầm (còn gọi là căn nhà ung thư, căn nhà có tử khí).
- Từ 1.000 đến 3.000 vùng đất có tử khí là giao điểm của mạng lưới địa từ
trường - đũa dạt ra - con lắc quay ngược chiều kim đồng hồ (con gọi là
căn nhà ly dị, đất sinh bệnh nặng, bệnh tiên thiên).
- Từ 3.000 đến 5.000 vùng đất có âm khí, đây là giao điểm của mạng lưới
từ trường - đũa dạt ra - con lắc quay thuận (còn gọi là căn nhà bệnh tật,
đất gây ra sự hao hụt năng lượng, sinh mệt mỏi thường xuyên).
- Từ 5.000 đến 6.500 có mức độ năng lượng vật lý dưới trung bình.
- Từ 6.500 là năng lượng vật lý trung bình. tương đối khỏe mạnh
- Từ 6.500 đến 9.000 có mức độ năng lượng vật lý khá tốt,sinh khí khá
tốt, địa điểm đạt yêu cầu
- Từ 9.000 đến 12.000 đất rất tốt
- Từ 12.000 đến 18.000 đất vượng khí
- Từ 18.000 đến 20.000 đất long mạch, năng lượng vật lý thật tốt vượt
lên tỷ lệ này thì có khả năng sinh tồn cao.
Tu Luyện, tập Khí công, Thiền định sẽ giúp chúng ta quân bình và tăng chỉ
số Bovis. Đặc biệt là người luyện tập sau một gian có thể là 10 - 20 năm
có thể tự khai mở được 6 Luân xa thì chỉ số Bovis sẽ cao trên từ 18.000
đến 30.000 Bovis nên sẽ tránh được nhiều bệnh tật. Chỉ số Bovis tăng
là biểu hiện Năng lượng sinh học trong cơ thể tăng.
Nếu ta có nhân duyên được người có khả năng giúp chúng ta kích hoạt,
khai mở 6 Luân xa thì việc tăng chỉ số Bovis sẽ tăng nhanh chóng trong
một thời gian rất ngắn trong vòng vài tuần, vài tháng mà thôi.
Nếu người có năng lực giúp chúng ta trong việc kích hoạt 6 Luân xa, thì
chỉ trong vòng vài phút là xong. Sau đó, người nào kiên trì tu tập khí công
-Thiền định thì chỉ số Bovis sẽ lên đến 40.000 là một điều rất bình
thường, khi đó Tâm Thân sẽ an lạc, sẽ có một đời sông Hạnh phúc thật
sự.
( Sưu tầm - dienbatn )
( Xin xem tiếp bài 23 - dienbatn )
PHONG THỦY LUẬN BÀI 23 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Tia dat ky bi Bạn đang sống trong một không gian, mà ở đó bạn cảm thấy
sức khỏe dồi dào, tinh thần sảng khoái. Ngược lại, có những nơi vừa đặt
chân đến, bạn đã có cảm giác mệt mỏi, sức khỏe yếu đi... Tại sao có
những vùng “địa linh, nhân kiệt”, xuất hiện nhiều người tài, lại có chốn
“tử địa”, bệnh tật, chết chóc?
Câu trả lời: “Tia đất” là một nguyên nhân khách quan gây nên những điều
huyền bí này. Điều này được kỹ sư Vũ Văn Bằng-nhiều người mệnh danh
là “thầy phù thủy” trong việc tìm nước ngầm, tìm hài cốt-khẳng định. Vậy
“tia đất” là gì? Tác hại của nó thế nào?
Có thể định nghĩa “tia đất” như thế nào, thưa ông?
Theo truyền thống khi tìm đất để làm nhà, đặt mồ mả... việc đầu tiên là
tìm “đất lành”, tránh “đất dữ”. Để gặp “lành”, tránh “dữ” người xưa dùng
thuyết phong thủy và xuất hiện những người chuyên làm nghề này gọi là
“thầy địa lý”. Câu chuyện về phong thủy thường gắn liền với một cái gì đó
thần bí và khó giải thích, vì vậy đã bị nhiều người khoác cho cái vỏ bọc
mê tín. Ở các nước phương Tây họ ít dùng thuật phong thủy mà dùng một
phương pháp khác, đó là phát hiện và xử lý những tia năng lượng phát lên
từ dưới đất gọi nôm na là “tia đất”.
Hiểu một cách phổ thông nhất thì đó là những tác động của một loại
“trường địa điện từ” mà trường này tùy vào cường độ mạnh nhẹ tác động
lên con người. Loại trường này hiện diện ở khắp mọi nơi. Trong lòng đất,
trong vật liệu xây dựng, nhà cửa... Cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên
cứu về “tia đất” mới chỉ dừng ở mức xác định được sự hiện diện và mức
độ ảnh hưởng của nó tới sức khỏe con người. Còn bản chất thực của “tia
đất” vẫn bỏ ngỏ.
Ai phát hiện ra “tia đất”? Ông có phải là người Việt Nam đầu tiên áp dụng
“tia đất” vào cuộc sống không, thưa ông?
Trong sách cổ Trung Hoa có ghi vào năm 2000 trước Công nguyên vua
Ngu Hoàng nhà Thuấn ( 2205-2197 tr.CN) rất giỏi trong việc dò tìm các
mỏ quặng, các mạch nước ngầm, của cải chôn giấu dưới đất. Vào thời
Phục Hưng ở châu Âu, đặc biệt ở Đức, Pháp, Ý… rộ lên nghề dùng “đũa
thần” hình chữ Y và con lắc tìm những thứ dưới mặt đất mà họ muốn.
Như thế, người xưa đã biết vận dụng những kiến thức về “tia đất” để phục
vụ cuộc sống. Trong đó, theo tôi biết, người Ai Cập cổ đại là những
chuyên gia hàng đầu về “tia đất”.
Năm 1958, tôi học tại Đại học Bách khoa Hà Nội, ngành Địa chất công
trình. Mặc dù học ngành khoa học về công trình nhưng quả thực tôi chưa
hề biết gì về cái gọi là “tia đất”. Năm 1990, khi sang Ba Lan học, tôi biết
có một công ty (của Ba Lan) chuyên xử lý các tia có năng lượng xấu cho
các công trình, trong đó có cả nhà ở. Tôi đến tận nơi tìm hiểu và sau khi
hiểu ra, tôi hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó, tôi say mê tìm hiểu về tác
động của “tia đất” lên con người.
Hiện nay, có thể áp dụng lý thuyết về “tia đất” như thế nào vào cuộc
sống?
Nhờ áp dụng kiến thức về “tia đất”, chúng ta có thể xác định được nơi đất
tốt, đất xấu cho sức khỏe con người; tìm nước ngầm, khoáng sản; xác
định các vị trí rò rỉ của các ống dẫn nước, dẫn dầu dưới lòng đất; tìm kiếm
mồ mả, hài cốt…
Nơi có “tia đất” xấu sẽ sinh bệnh, “tia đất” tốt chữa được bệnh
“Tia đất” có những tác động như thế nào đến đời sống?
Con người ta hằng ngày đều tiếp xúc với “tia đất” nhưng đa số là với các
“trường địa điện từ” rất nhỏ ít ảnh hưởng đến con người. Chỉ những nơi có
“tia đất” phát mạnh thì mới có ảnh hưởng rõ rệt.
“Tia đất” bao gồm cả những tia phát ra từ vỏ cứng của Trái Đất và lan tỏa
trên mặt đất dưới dạng sóng và trường. Do các sóng này va đập vào các
tác động khác của tự nhiên nên sản sinh ra các bức xạ điện từ. Nếu là các
bức xạ có liên quan đến mạch nước ngầm và phóng xạ thì sự nguy hại
đến sức khỏe con người tăng lên gấp bội lần.
Tất cả các kết quả nghiên cứu đã công bố cho thấy “tia đất” có nguồn gốc
từ phóng xạ và dòng nước chảy dưới mặt đất đều có hại tới sức khỏe con
người dưới dạng bệnh lý như: đau đầu, khó thở, huyết áp tăng, rối loạn
tuần hoàn máu, đau cơ bắp, giảm sức đề kháng, lâu dần dẫn đến ung
thư. Trong đa số trường hợp bệnh lý không rõ ràng (ốm không ra ốm,
khỏe không ra khỏe) khó khăn cho bác sĩ chẩn đoán bệnh.
Bác sĩ Ha-gơ thuộc Hội khoa học Y tế Đức cùng các đồng nghiệp người Ba
Lan đã tiến hành khảo sát những căn nhà của 5.348 người bị chết vì bệnh
ung thư ở thành phố Ste-tin (Ba Lan) cho thấy: hầu hết họ đã sống và
ngủ ở những nơi có “tia đất” xấu có cường độ mạnh.
Như vậy, “tia đất” có ảnh hưởng xấu, cần phải loại trừ?
Không phải thế, bên cạnh những nơi có “tia đất” xấu thì lại có những nơi
có “tia đất” rất tốt. Con người sống ở nơi này sẽ khỏe mạnh, khí chất
thông minh. Đây chính là tiền đề để hình thành những vùng “địa linh,
nhân kiệt”. Hay như người xưa vẫn quan niệm rằng nếu tìm ra những
“long mạch” để an táng phần mộ tổ tiên ở đó thì con cháu sẽ “phát lộc,
phát tài”. Những nơi “long mạch” ấy chính là nơi có “tia đất” rất tốt.
“Tia đất” xấu có thể làm con người sinh bệnh tật. Ngược lại, những nơi
“tia đất” tốt lại có tác dụng chữa bệnh. Dư luận từng xôn xao về những
“khu đất lạ” mà người bệnh đến đó khỏe ra. Điều này có cơ sở khoa học
của nó. Tuy nhiên, những khu đất ấy không phải và không thể chữa
được bách bệnh mà nó chỉ giúp người bệnh cảm thấy sức khỏe tốt hơn,
khí huyết lưu thông. Chắc chắn nó không thể chữa được những bệnh
truyền nhiễm.
Chuyện dùng thần giao cách cảm để tìm hài cốt có liên quan tới “tia đất”?
Ông có nói hài cốt khi được chôn dưới lòng đất sẽ phát ra các tia đặc biệt.
Liệu đây có phải là nguyên nhân xuất hiện những câu chuyện thần bí về
việc đi tìm mộ?
Hài cốt khi ở trong lòng đất sẽ phát sinh một loại sóng đặc biệt. Người
bình thường cũng nhận được loại sóng này nhưng không giải mã được. Chỉ
những ai có khả năng đặc biệt, mà theo tôi là trong người họ có một thứ
gen rất nhạy cảm, sẽ trở thành an-ten để thu nhận những sóng đó.
Những người có khả năng siêu việt kia, lúc đầu có thể chỉ là những người
bình thường, chỉ sau khi gặp những biến cố như ốm nặng, điện giật, tai
nạn thì các gen đặc biệt mới được kích hoạt. Và khả năng đặc biệt ấy
không tồn tại vĩnh viễn. Đến một thời điểm nào đó, nó tự mất đi.
Còn những chuyện mê sảng thấy vong hồn hiện về?
Nghe thì có vẻ mê tín, nhưng hiện tượng này cũng có thể lý giải dưới góc
độ khoa học về “tia đất”. Các hài cốt phát ra “tia đất” không tốt. Nếu dưới
nền nhà mà có hài cốt thì những người sống trong nhà đó sẽ chịu những
ảnh hưởng nhất định đến sức khỏe, hay gặp chuyện mộng mị. Để chấm
dứt, đầu tiên phải chuyển hài cốt đi nơi khác, sau đó tiếp tục dùng các
chất cần thiết để trung hòa các “tia đất” xấu còn rơi rớt lại.
Hóa giải “tia đất” xấu bằng cách nào?
Khi đã phát hiện được “tia đất” xấu, có thể dùng than hoạt tính để trung
hòa nó. Than hoạt tính có tác dụng hấp thụ trường địa điện từ rất tốt, hay
nói cách khác nó có tác dụng khử từ. Ở phương Tây, người ta dùng thạch
anh để trung hòa “tia đất”. Tuy nhiên, thạch anh hiếm, giá thành đắt hơn
than hoạt tính rất nhiều. Ta có thể dùng than hoạt tính chôn xuống
nền nhà, hoặc chỉ cần để mỗi góc nhà một giỏ than hoạt tính. Sau 2 năm,
nếu “tia đất” lại tiếp tục tác động thì đặt tiếp than hoạt tính mới.
Chi phí để “hóa giải” có lớn không?
Thấp nhất chỉ cần vài trăm nghìn đồng.
Người ta kể rằng ông đã giúp rất nhiều nơi loại trừ “tia đất” độc?
Tại Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Bình, nhân viên làm việc ở đây
luôn có hiện tượng mỏi mệt, bất an. Thậm chí, có người đã đi gặp thầy
cúng để giải hạn. Tôi đến đo và nhận thấy có tác động của “tia đất”, do
dưới nền đất nằm trong khuôn viên Sở có khá nhiều mồ mả, hài cốt. Sau
khi dùng than hoạt tính để khử từ, mọi người trong Sở không còn cảm
thấy trạng thái mệt mỏi nữa. Hay như chính nội tộc nhà tôi ở Đại Mỗ (Hà
Tây), có người trong nhà hay ốm đau kéo dài mà đi khám không tìm ra
nguyên nhân. Tôi mang máy về đo và phát hiện trong nền nhà có hài cốt
liền dùng than hoạt tính khử từ và mọi người từ đó hết ốm đau. Đến nay,
tôi đã khử từ ở hơn 600 nhà dân và nhiều cơ quan.
Nếu ở các nhà xây cao hoặc chung cư thì “tia đất” có tác động lên sức
khỏe con người không?
Tôi đã thử và thấy rằng ở trên tầng cao của chung cư, “tia đất” vẫn tác
động. Thậm chí nhiều vật liệu xây dựng hiện nay cũng phát ra “tia đất”
rất mạnh như đá Granite, gạch men, thép sản xuất… Ngay cả những
đường ống dẫn nước lên các tầng cao của các căn hộ chung cư cũng có
khả năng phát ra “tia đất” ảnh hưởng đến sức khỏe con người, vì vậy phải
tính toán vị trí lắp đặt cho phù hợp.
Làm thế nào để nhận biết khu đất tốt, không có những “tia đất” độc hại?
Thường những nơi cao ráo, thoáng đãng rất có lợi cho sức khỏe. Những
nơi ẩm thấp, tối tăm, gần sông suối, ao hồ thường có “tia đất” xấu tác
động mạnh. Một vài vùng đồng bằng ven sông của ta có địa thế thấp nên
xuất hiện nhiều “tia đất” bất lợi.
Ở các nước như Đức, Ba Lan, Áo, Anh, Pháp, Mỹ…, các bác sĩ là người đi
tiên phong trong lĩnh vực dò tìm “tia đất” để di chuyển bệnh viện hoặc
giường bệnh cho bệnh nhân đến vị trí không có “tia đất” xấu. Đây được
coi là phương pháp phòng và chữa bệnh đầu tiên phải nghĩ đến của các
bác sĩ trước khi khám và can thiệp bằng thuốc. Nước Đức đã có luật, khi
bán đất hay nhà ở cho người khác trong thủ tục chuyển nhượng phải kèm
theo chứng nhận ở đó không có “tia đất” độc hại. Trong điều kiện quỹ đất
ngày càng eo hẹp hiện nay, nếu không thể chọn được mảnh đất tốt, khi
xây nhà cần phải áp dụng các biện pháp để khử “tia đất” xấu.
PHẦN 4.
Lời bàn : "Dương trạch tam yếu" là cuốn sách nói về phương pháp xây
dựng nhà ở theo thuật phong thủy Đông phương cổ. Sự ứng dụng của
cuốn sách được nhiều người cho là hữu hiệu. "Dương trạch tam yếu" cho
rằng nhà ở có ba điểm chính là: Cổng chính, phòng chủ và bếp (môn, chủ,
táo). Từ những vị trí chủ yếu trên tốt hay xấu, phù hợp hay khắc kỵ sẽ có
ảnh hưởng đến cuộc sống và gia đình gia chủ; bốn loại trạch khác nhau:
Tĩnh trạch, Đông trạch, Biến trạch, Hóa trạch; chỉ dẫn cách phiên tinh và
cách tính đăng diện, đắc vị hay thất vị cho các du niên tốt như Snh khí,
Diên niên, Thiên y hoặc cho các sao tốt như Tham lang, Vũ khúc, Cự
môn...
"Dương trạch tam yếu - Đồ giải" lấy bản "Dương trạch tam yếu" nói trên
làm bản nền, để tiến hành biên tập lại theo phong cách hiện đại. Mục đích
của cuốn sách là chuyển hóa những lý luận phong thủy tinh thâm uyên
bác vận dụng vào trong thực tiễn là bố cục phong thủy của nhà ở hiện
đại. Hy vọng cuốn sách sẽ trở thành cẩm nang hữu ích cho bạn đọc trong
lĩnh vực lựa chọn môi trường sống, bố cục nhà ở, cửa hàng, công ty, giải
đáp những thắc mắc thường gặp về bố cục phong thủy, cải thiện môi
trường sống, đem lại những gợi ý thiết thực giúp bạn tiến tới một cuộc
sống và vận mệnh tốt đẹp hơn.
Sau này Lộc Dã Phu có viết thêm cuốn : " Dương cơ chứng giải " nhằm
làm rõ cuốn "Dương trạch tam yếu" của Triệu Cửu Phong. " Nhà của người
sống gọi là Dưong Cơ hay Dương Trạch, vì xét theo Tám Cung của
Bát Quái nên được gọi là Bát Trạch. Sách này danh đề DƯƠNG CƠ hay
Dương Trạch, vì xét theo Tám cung của Bát Quái nên được gọi là Bát
Trạch. Sách này danh đề Dương Cơ, không gọi là Bát Trạch, vì muốn giải
trừ định kiến của những người xưa nay quen trói buộc sự khảo sát của
một ngôi nhà vào mỗi cái cửa cái mở theo hướng của tám cung Bát Quái.
Gọi là Chứng Giải , vì đã qua một quá trình khảo sát về nhà cửa trong
thực tế để kiểm chứng những luận cứ, những định lý của các bậc tiền bối
trong các sách Bát Trạch Minh Cảnh, Bát Chánh Tông, Dương Cơ, Dương
Trạch, vì muốn giải trừ định kiến của những người xưa nay quen trói buộc
sự khảo sát của một ngôi nhà vào mỗi cái cửa cái mở theo hướng của tám
cung Bát Quái. Gọi là CHỨNG GIẢI, vì đã qua một quá trình khảo sát
về nhà cửa trong thực tế kiểm chứng những luận cứ, những định lý của
các bậc tiền bối trong các sách Bát Trạch Minh Cảnh, Bát Trạch Chánh
Tông, Dương Cơ, Dương Trạch.....
Sách khảo sát về nhà cửa có rất nhiều, hoặc bằng Hán văn hoặc Việt
Ngữ, một đời chưa đủ cơ may để đọc cho hết, huống hồ là NGHIỆM GIẢI .
Luận cứ của mỗi nhà có chỗ tương đồng, có chỗ trái ngược hẳn. Những
sách viết bằng Việt ngữ, trích dịch từ Hán văn, nhưng có nơi soạn giả chỉ
dịch âm mà không có nguyên bổn để tra cứu, chưa kể phần dịch âm này
in không rõ ràng hoặc sai sót. Mặc dầu tựu trung chỉ có tám loại nhà xếp
đặt theo hướng của Bát Quái, nhưng thực tế có rất nhiều kiểu
cách nhà cửa, vì hễ có vô lượng tâm thì có vô lượng pháp. " ( Dương cơ
chứng giải - Lộc Dã Phu ).
Lời bàn của dienbatn : Thực ra cả 2 cuốn sách đều không nói rõ một điều
quan trọng : Đó chính là 2 cuốn sách này nhằm giải quyết các trường
hợp nhà hình ống ở trong thành phố. Nhà nông thôn ngày nay hầu như
không ai làm nhà theo những gì mà "Dương trạch tam yếu" và " Dương cơ
chứng giải " đề cập đến cả. Nhà hình ống ở các thành phố ngày nay chủ
yếu chỉ có một cửa trước và may lắm thì có một cửa sau thông ra ngõ
khác , hầu như không có cửa sổ ở hai bên vách nhà. Như vậy vấn đề làm
các phòng như thế nào để cho thông thoáng khí và đảm bảo việc thông
gió là một việc hết sức quan trọng. Nói là Dương trạch tam yếu ( 3 chỗ
quan trọng nhất trong một ngôi nhà ) , nhưng thực ra có tới 7 chỗ quan
trọng cần để tâm khi khảo sát một căn nhà . Đó chính là : 7 chỗ quan hệ
tốt xấu :
* 3 chỗ chính yếu : CỬA CÁI - SƠN CHỦ - BẾP.
* 4 chỗ thứ yếu : CỬA PHÒNG - CỬA BẾP - HƯỚNG BẾP - CỬA NGÕ.
Ta sẽ khảo sát những việc này ở bài tiếp theo.
Xin theo dõi tiếp bài 24 - dienbatn .
PHONG THỦY LUẬN BÀI 24 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
( dienbatn giới thiệu bài của NCD viết rất gọn về Dương trạch tam yếu.
Các bạn có thể tham khảo thêm từ cuốn DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU của
TRIỆU CỬU PHONG và cuốn DƯƠNG CƠ CHỨNG GIẢ của Lộc Dã Phu
trong thư viện miễn phí của dienbatn. )
Sau khi đã lược sơ qua về 1 số thiết kế cho nội thất như cửa cái , bếp ,
phòng ngủ...và 1 số yếu tố ngoại vi , nay KIM YEN xin giới thiệu với các
anh chị ,các bạn 1 trường phái trong PT , đó là trường phái DƯƠNG
TRẠCH TAM YẾU. Dương Trạch thì chúng ta đã biết là để chỉ nhà ở của
người sống chúng ta , còn Tam Yếu là gì ? Theo phái này luận , thì trong 1
ngôi Dương Cơ có 3 điểm chính yếu , đó là : CỬA CÁI- BẾP(ở đây ý nói là
Hỏa Môn tức Hướng miệng Bếp ) - SƠN CHỦ hay PHÒNG CHỦ . Do đó mới
gọi là Tam Yếu , tức chỉ 3 điểm trọng yếu này.
Cũng như trường phái Bát Trạch Minh Cảnh , trường phái này cũng chia 8
cung Bát Quái ra làm 2 nhóm : Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch.
_ Đông Tứ Trạch gồm các cung Khảm, Ly, Chấn, Tốn.
_ Tây Tứ Trạch gồm các cung Càn, Đoài, Cấn, Khôn.
Người có Quái số ở nhóm Đông Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí
trong 4 cung thuộc Đông Tứ Trạch. Ví dụ như : Người có Quái số là 9, là
cung Ly , thuộc nhóm Đông Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu
trong nhà cũng nên an vị ở các cung Khảm , Ly, Chấn , Tốn.
Người có Quái số ở nhóm Tây Tứ Trạch thì 3 điểm chính yếu nên an trí
trong
4 cung thuộc Tây Tứ Trạch. Ví dụ : Người có Quái số là 7 , là cung Đoài
thuộc Tây Tứ Trạch ; vậy thì 3 điểm chính yếu trong nhà cũng nên an vị ở
các cung thuộc Tây Tứ Trạch là Càn , Đoài , Cấn , Khôn.
_ Sanh Khí : ứng với sao THAM LANG , thuộc hành MỘC.
_ Thiên Y : ứng với sao CỰ MÔN , thuộc hành THỔ.
_ Diên Niên : ứng với sao VŨ KHÚC , thuộc hành KIM.
_ Phục Vì : ứng với sao PHỤ BẬT , thuộc hành MỘC.
_ Tuyệt Mạng : ứng với sao PHÁ QUÂN , thuộc hành KIM.
_ Ngũ Quỹ : ứng với sao LIÊM TRINH , thuộc hành HỎA.
_ Lục Sát : ứng với sao VĂN KHÚC , thuộc hành THỦY.
_ Họa Hại : ứng với sao LỘC TỒN , thuộc hành THỔ.
Vì trường phái này lấy việc phân ngăn làm căn cứ phân chia loại Trạch,
nên cũng phân bố từng Sao cho mỗi ngăn 1 cách chi ly. Hôm nay NCD xin
giới thiệu về cách tính Sao cho từng ngăn.
Trước tiên ta hãy dùng La Bàn xác định cung của Cửa Thiên Môn này đã.
Kế đến từ cung của cửa THIÊN MÔN biến tới HƯỚNG NHÀ ,đó chính là Du
niên của ngăn đầu vậy.
Muốn xác định Du niên của Trạch , Du niên của Sơn Chủ thì ta lấy từ cung
của cửa THIÊN MÔN biến tới cung SƠN CHỦ , đó là Du niên của Sơn Chủ ,
và Du niên của Trạch vậy.
Thí dụ : Nhà Tọa Ly , Hướng Khảm ,cửa bên trái thuộc cung Càn , nhà có
3 ngăn.
Trước tiên ta lấy từ cung Cửa biến tới Hướng : Càn với Khảm phối nhau
cho ra Du niên LỤC SÁT Thủy , ứng với Sao VĂN KHÚC. Ta An Sao này và
Du niên này vào ngăn đầu để tính tiếp các ngăn sau.
Cách mà NCD di chuyển Sao như trên là cách di chuyển Sao của loại Động
Trạch này đó. Đọc đến đây ắt sẽ có quý vị thắc mắc : Sao thì có đến 8
Sao , trong đó có 2 sao Kim , 2 sao Thổ , 2 sao Mộc , vậy gặp ngăn phải
phân Sao Mộc hay sao Kim thì dùng Sao nào ? Xin thưa rằng ở Động
Trạch chỉ dùng 5 Sao làm chính , đó là :Tham Lang , Văn Khúc , Vũ Khúc ,
Liêm Trinh & Cự Môn. Trừ trường hợp các Du niên phối nhau ra các sao
Lộc Tồn, Phá Quân & Phụ Bật thì mới an Sao đó vào ngăn đầu thôi. Ngoài
ra ,các trường hợp Du niên ngăn đầu không phải là Họa Hại , Tuyệt
Mạng , Phục Vì thì chỉ dùng 5 Sao kia.
Trong trường hợp An Sao cho Biến Trạch , thì mới dùng thêm 4 sao phụ
ngũ hành kia. Tuy gọi là 4 sao nhưng thực tế chỉ có...3 rưởi thôi , vì Sao
Phụ Bật chỉ có tác dụng phân nửa thôi, lực nó yếu hơn hẳn các sao khác.
Như vậy ngoại trừ THỦY và HỎA chỉ có 1 Sao , còn lại các nhóm ngũ hành
kia đều có 1 đôi sao. Trong trường hợp gặp các nhóm ngũ hành có đôi sao
thì dùng liên tiếp cả đôi sao cho 2 ngăn liền nhau.
Tuy nói vậy , nhưng không phải nhà BIẾN TRẠCH nào cũng dùng hết các
đôi sao , còn tùy thuộc vào số ngăn của nó :
_ Biến Trạch có 6 ngăn : Chỉ dùng đôi sao đầu tiên mà nó gặp.
_ Biến Trạch có 7 ngăn : Chỉ dùng 2 đôi sao đầu mà nó gặp.
_ Biến Trạch có 8-10 ngăn mới dùng đú cả 3 đôi sao.
Đến đây lại nảy sinh vấn đề : Thế gặp đôi sao thì an sao nào trước ? Đây
là mấu chốt của vấn đề , nếu quý vị nào đọc đến đây mà nêu ra câu hỏi
ấy liền thì chắc chắn vị đó rất ham mê tìm tòi về PT vậy. Ngoại trừ trường
hợp ngăn đầu & ngăn kế có đôi sao , vì khi đó đã có sao ở ngăn đầu tính
theo Du niên biến ra. Các trường hợp ở sau thì sự an bố các đôi sao theo
luật nhất định :
_ Gặp đôi sao thuộc Mộc thì : PHỤ BẬT trước , THAM LANG sau.
_ Gặp đôi sao thuộc Kim thì : VŨ KHÚC trước , PHÁ QUÂN sau.
_ Gặp đôi sao thuộc Thổ thì : LỘC TỒN trước , CỰ MÔN sau.
IV/ CÁCH PHÂN BỐ SAO CHO HÓA TRẠCH :(từ 11 đến 15 ngăn )
Vẫn áp dụng như phần Biến Trạch, và cứ thế xoay cho đến ngăn chót.
Ví dụ : Một ngăn ngang 3m, dài 4m,cao 6m (vì không vướng gác lửng bên
trên , lại không có la-phông) ; một ngăn ngang 4m, dài 4m , cao 3m.
Nếu chỉ nhìn sơ theo diện tích tất phán đoán rằng ngăn sau lớn hơn ngăn
trước. Ta thử làm phép tính nhân xem : 3m x 4m x 6m = 72 m3
4m x 4m x 3m = 48 m3.
Một trời một vực phải không quý vị ? Nếu như Ngăn chọn lầm đó mà do 1
Hung Tinh trấn ở đó thì thử hỏi tai hại cỡ nào? Trong Pt , chỉ cần 1 tính
toán sai lầm của người thầy ,thì có thể tai họa lập tức giáng xuống đầu
gia chủ liền tức thời. Do đó , nếu muốn chọn Ngăn Chánh với Sao tốt hỗ
trợ cho nhà , thì xin hãy cẩn thận xét cả chiều cao của ngăn đó !!!
Cùng với Du Niên Trạch , Sao Chúa góp phần chi phối sự lành
dữ , cát hung của những người sống ở nhà đó. Do vậy , phải chọn Sao
Chúa là 1 Cát Tinh mới đem lại lợi ích cho những người sống ở nhà đó. Và
tốt hơn nữa , Cát Tinh đó phải hữu lực như : Đắc Vị , Đăng Điện hay tốt
bậc nhất là NHẬP MIẾU.
_ NHẬP MIẾU là chỉ trường hợp Ngăn Chánh là ngăn cuối cùng , tức Sao
Chúa trực ngộ Sơn Chủ , giáp với Sơn Chủ.
Khi 1 căn nhà đã có Du Niên Trạch là 1 Cát Du Niên , lại thêm Sao Chúa
là 1 Cát Tinh hữu lực thì khác nào như Gấm thêu hoa , như Rồng mây gặp
hội , nhà càng hưng thịnh lâu bền.
Khi 1 căn nhà có Du Niên Trạch là 1 Hung Du Niên , ta càng cần chọn 1
Sao Chúa là Cát Tinh hữu lực , nhắm áp chế bớt Hung Tinh. Trường hợp
này , các nhà PT gọi là YỂM SÁT TRẠCH. Khi gặp trường hợp này , thì tác
dụng tốt của Sao Chúa sẽ bị giảm đi 1/3 đến 1/2 hiệu lực tốt đẹp vốn có
của nó ; thời gian còn lại , hiệu lực của nó rất yếu , khó chống ngăn nếu
có thêm Hung Tinh nào nữa
TUYỆT ĐỐI KỴ lấy Sao Chúa là 1 Hung Tinh , nếu Hung Tinh này Đắc Vị ,
Đăng Điện hay Nhập miếu nữa thì càng thập phần nguy khốn cho gia chủ.
Ví như 1 kẻ hôn quân bạo chúa mà lên nắm quyền sinh sát vậy , tha hồ
mà hành hung tác ác , gieo tai rắc họa.
Bất đắc dĩ lắm người ta mới dùng Cát Tinh Thất Vị ( là chỉ Sao tương khắc
với Cung ) làm Sao Chúa. Vì 1 Cát Tinh Thất Vị có khác gì cá trên cạn ,
cọp xuống đồng bằng đâu , chẳng làm được gì.
CUNG VÀ SAO
Ở đây, ta chỉ xét các Cung trọng ( tức là các Cung : Cửa Cái , Bếp và Sơn
Chủ hay Phòng Chủ ) , không bàn đến các Cung Khinh ( tức là các Cung :
Cửa ngõ , Cửa Bếp , Cửa Buồng ) . Trong 3 Cung Trọng này lại chia ra làm
2 : Cung bên ngoài và Cung bên trong.
_ Cung bên ngoài ( ngoại ) là Cửa Cái.
_ Cung bên trong ( nội ) là Bếp và Sơn Chủ hay Phòng Chủ
Điều đầu tiên mà NCD muốn nói đến là 1 điều...xưa như Trái Đất :
Vâng , điều này NCD luôn nhắc mãi. Đây là LÝ của Dịch , cũng là LÝ của
PT_ dù theo bất kỳ trường phái nào thì cũng không thể gạt bỏ ý này , xin
hãy nhớ !!!
Vậy thì khi nào sẽ rơi vào trường hợp này ? Ấy là khi 2 Cung Thuần Âm
hay Thuần Dương. Khi ấy , dù cho có giao phối nhau cho ra Cát Du Niên ,
thì sự tốt đẹp ấy cũng không được bền lâu. Cũng như 2 vợ chồng vậy
thôi , người này nóng (Dương )thì người kia phải nguội (Âm ) chứ , nếu
không chắc tan hoang nhà cửa quá. Việc phân cung Âm , Dương này ta có
thể chủ động được , nên khi phối Cung , ta không chỉ xét Du Niên tốt , mà
nên xem cả việc nó có đú Âm Dương chưa? Nếu thiếu thì ta tìm cách bổ
khuyết vào.
Ví dụ 1: Nhà có cửa Tốn , Sơn Chủ Khảm.
Phối với nhau được Sanh Khí Trạch , lại đủ Âm Dương tất phát dài lâu
vậy.
Ví dụ 2: Nhà có Cửa Cái Khảm , Sơn Chủ Chấn.
Phối với nhau được Thiên Y Trạch , nhưng đây là 2 Cung Thuần Dương
không sanh hóa , ở lâu nhà này sẽ dẫn tới tuyệt tự. Ta có thể dùng BẾP
LY Âm để trung hòa lại , tất phát bền lâu vậy.
Các Cung Bát Quái phân Âm Dương , NCD đã có nói rồi , nay xin nhắc
lại :
_CUNG DƯƠNG :
Càn vi Lão Ông, Khảm vi Trung Nam, Cấn vi Thiếu Nam, Chấn vi Trưởng
Nam
_CUNG ÂM :
Tốn vi trưởng Nữ , Ly vi Trung Nữ , Khôn vi Lão Mẫu , Đoài vi Thiếu Nữ.
Ngoại sinh nội , là ngoài sinh vào trong , như Cung Cửa Cái sinh Cung Bếp
, Cung Cửa Cái sinh Cung Sơn Chủ (hay Phòng Chủ). Quan hệ này gọi là
SINH NHẬP. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến sớm và nhanh , sự hanh thông trong
gia đình thuận lợi hơn và dễ dàng hơn.
Ví dụ : Cửa Tốn , Sơn Chủ Ly. Được Thiên Y Trạch , lại có Cửa Tốn Mộc ở
ngoài sinh vào trong cho Sơn Chủ Ly Hỏa nên phát rất nhanh. Tuy 2 Cung
này Thuần Âm , nhưng ta có thể dùng Bếp Khảm , hay Bếp Chấn trung
hòa thì vẫn phát lâu bền được.
Nội sinh ngoại , là ở trong sinh ra ngoài , như Cung Sơn Chủ (hay Cung
Phòng Chủ ) sinh ra Cung Cửa Cái , Cung Bếp sinh ra Cung Cửa Cái. Quan
hệ này gọi là SINH XUẤT. Hiệu ứng tốt đẹp sẽ đến trễ và chậm vì nhịp độ
thưa thớt , sự hanh thông trong gia đình do cần lao đưa đến hơn là duyên
may.
Nội khắc ngoại là ở trong khắc ở ngoài. Là Cung Sơn Chủ ( Phòng Chủ)
khắc Cung Cửa Cái , Cung Bếp khắc Cung Cửa Cái. Quan hệ này gọi là
KHẮC XUẤT . Trong trường hợp này , dù người trong nhà chống chế được
ngoại cảnh , nhưng cuối cùng vẫn là sự hao tổn tinh thần và vật chất.
BÁN HUNG.
Ngoại khắc nội là ở ngoài khắc vào trong. Là Cung Cửa Cái khắc Cung Sơn
Chủ ( Phòng Chủ ) , Cung Cửa Cái khắc Cung Bếp. Quan hệ này gọi là
KHẮC NHẬP. Rơi vào trường hợp này , nạn tai sẽ đến nhanh và bất ngờ ,
không biết đâu mà lường và khó ứng phó , xoay trở , họa này do bên
ngoài đưa đến.
_ Cung bị khắc là Càn : Người đàn ông lớn tuổi trong nhà , cha , ông bệnh
đau , họa hoạn , vô năng , bất lực vì không thể thi thố được tài trí của
mình.
_ Cung bị khắc là Đoài : Khốn khổ cho con gái út , cháu gái nhỏ.
_ Cung bị khắc là Khôn : Tổn hại cho Lão mẫu , người bà-mẹ-vợ
trong nhà
_ Cung bị khắc là Ly : Tổn hại cho con gái , cháu gái giửa , trung nữ.
_ Cung bị khắc là Tốn : Tổn hại cho con gái , cháu gái lớn , tức hạng nữ
nhân trung tuổi trong nhà.
_ Cung bị khắc là Chấn : Tổn hại cho hàng nam nhân trọng tuổi như con
trai trưởng , cháu trai trưởng trong nhà. Đặc biệt nếu chỗ đó là Từ Đường
thì bất kể Trưởng Tử , Trưởng Tôn nội , ngoại đều bị khắc cả. Xin cẩn thận
!!!
_ Cung bị khắc là Cấn : Tổn hại cho con trai nhỏ , con trai út , cháu trai
nhỏ , thiếu nam ( ở đây cũng có thể là...con trai dòng thứ )
_ Cung bị khắc là Khảm : Tổn hại cho con trai giửa , cháu trai giửa , trung
nam trong nhà.
Sao được coi là yếu tố bên ngoài , vì nó còn phài do các Cung hỗ biến với
nhau mà ra , như là các yếu tố ngoại lai vậy. Các Cung được xem là các
yếu tố bên trong , bởi chúng là yếu tố có sẵn nằm trên địa bàn , như cái
gốc rễ bên trong vậy.
_ Sao khắc Cung : Là ngoài khắc vào trong , được gọi là ngoại chiến , ví
như kẻ gây chiến từ bên ngoài đến vậy.
_ Cung khắc Sao : Là trong khắc ra ngoài , được gọi là nội chiến , như
người trong nhà ra ngoài sinh sự vậy.
Theo Dương Trạch Tam Yếu thì cho rằng :
Mỗi trường hợp Nội Chiến sẽ giảm 50% tốt.
Mỗi trường hợp Ngoại Chiến sẽ giảm 30% tốt.
Như vậy nghe có vẻ không hợp lý ! Vì sao? Ta thử nghĩ xem nhé ! Nội
Chiến là Cung khắc Tinh , là trong khắc ra ngoài , ví như người trong
thắng thế , tức Cung còn khả năng chế ngự Hung Tinh , khiến Hung Tinh
cũng phải kiêng dè không dám hành hung nữa. Vậy thì phần xấu phải
giảm đi nhiều hơn chứ , sao lại giảm đến 50% tốt ??? Còn Ngoại Chiến là
Sao khắc Cung , là ngoài khắc vào trong , ví như người trong nhà yếu thế.
Khi ấy Hung Tinh thắng thế , ví như tiểu nhân đắc chí , tha hồ tác yêu tác
quái , hoành hành bá đạo. Thế thì phần Hung Hại của chúng càng nhiều
hơn , sao chỉ giảm có 30% tốt ???
DU NIÊN TRẠCH
Như ta đã biết , 1 căn nhà chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Sao Chúa và Du
niên Trạch. Nay KIM YEN xin giới thiệu 7 loại Du Niên Trạch ? Sao chỉ có 7
loại ? Vì Phục Vị Trạch thực tế gần như không có , và nó chỉ là 1 Du Niên
trung bình không đáng để luận.
*** Lưu ý :
Hai cách sau này là nhà nằm trên trục Nam Bắc , nên nhà ở chịu ảnh
hưởng của 2 cực trên Trái đất , ở lâu tất sinh bịnh đau mắt, hại tim , bụng
đau nhức , khắc vợ , nhà khắc khẩu.
Muốn phá giải nên đặt bếp Chấn hoặc Tốn , lấy Mộc làm trung gian hòa
giải nước và lửa. Ngoài ra , sự hóa giải này còn 2 điều lợi :
_ Khảm sinh Chấn : Tạo ra sự hanh thông , thịnh cát.
_ Chấn Mộc sinh Ly Hỏa : Cách cục Mộc Hỏa thông minh => người
trong nhà sẽ mỹ lệ , thông minh tài trí.
***LƯU Ý : Nhà Thiên Y không bằng nhà có Sao Chúa là Cự Môn Đắc vị
hay
Cự Môn Đăng Điện Nhập Miếu,vì nó đắc cách nên có thể phá giải cô Âm-
độc Dương mà vẫn đạt được sự tốt đẹp của Cự Môn.
Nhà Thiên Y tất cả đều vướng cách Thuần Âm hay Thuần Dương, nên
dùng Bếp để có đủ Âm Dương , thì mới ở lâu dài được.
IV / NGŨ QUỸ TRẠCH :
*** LƯU Ý :Nhà này có thể đổi sang Cửa Hữu thiên Môn Khôn , nhà làm 4
ngăn với ngăn sau cao-lớn nhất : Nhà từ Họa Hại sẽ thành nhà Sanh Khí
Trạch , và có Sao Chúa Cự Môn Thổ Đăng Điện Nhập Miếu , từ xấu trở
thành cực kỳ tốt vậy.
***LẠM BÀN :
Các cách 1-2-5-6 ta thấy như tương sanh , nhưng thực tế đó chỉ là giả
sanh , các cung tương phối tạo ra Hung Du Niên thì gọi là Giả Sanh vậy.
Khi có trường hợp Giả Sanh , ta phải hiểu : Sự hung hại ở đây đã có sự
âm thầm đồng lõa , hoặc làm ngơ để thủ lợi , để rút rỉa công sức người
khác.
Cách Lục Sát của Càn Khảm => Sự toa rập vi phạm đạo lý.
Cách Lục sát của Khôn Ly => Sự giả trá với hệ quả tương hại của nó
Ngoài ra , cách Khôn Ly còn biểu hiện sự điêu toa , đểu giả , vì Ly đã Giả
Sanh Khôn , mà tạo ra Lục Sát , để rồi Sao Văn Khúc Thủy quay lại khống
chế Ly Hỏa. Cho nên sự Hung Hại cứ chồng chéo mà triền miên cho đến
tận diệt mới thôi , rất hung hiểm.
Hơn nữa , Lục Sát Văn Khúc là Hung Du niên , cho nên Ly sinh Khôn mà
cũng diệt Khôn vậy <= Ly Hỏa đốt làm khô đất Khôn Thổ vậy.
Cho nên sự thuận tùng giửa đôi bên chỉ có ngoài mặt (Giả Sanh mà ),
nhưng bên trong thực ra chất chứa oán hờn , bực bội. Nhưng Ly chẳng
dám chống Khôn , vì Ly ở thế yếu , sự đối kháng nếu có chỉ là ngầm trong
lòng mà thôi.
Tốn Đoài cũng thuần Âm mà tương khắc, đây là tượng " nhị nữ đồng cư" ,
tựa như 2 gái lấy 1 chồng vậy : Chị thì ỷ mình lớn khôn hơn , em thì cậy
mình trẻ đẹp hơn. Do đây là cách tương khắc , nên không còn là sự tranh
đấu ngấm ngầm nữa. Bên nguýt qua , bên háy lại , lời qua tiếng lại là nhẹ
, thậm chí còn chửi mắng nhau , đánh lộn
Mặt khác , Khôn Ly kẻ nhỏ thiệt thòi
thì cách này Tốn Đoài gái trẻ thắng thế
Sao Lục Sát chẳng những hại người mà còn hại cho súc vật nuôi
trong nhà. Rộng thêm , trong thời hiện đại này , xe cộ cũng tượng như
súc vật ( người ta chẳng gọi nó là "ngựa sắt" là gì ). Nên nhà phạm Lục
Sát dễ bị tai nạn giao thông , xe cộ mất mát hư hao , tứ chi thương tật
vậy.
( NCD - Nguyễn Kim Yến ).
PHẦN BỔ XUNG CỦA DIENBATN.
Một ngôi nhà tốt hay xấu có 3 chỗ chính yếu : CỬA CÁI - SƠN CHỦ - BẾP.
Trong đó Sơn chủ là quan trọng nhất.
* 3 cung chính yếu trên cùng phe Đông tứ cung hoặc Tây tứ cung là một
ngôi nhà tốt .
* 3 cung chính yếu ở tại 3 cung : Thủy - Mộc - Thổ là được cách rất quý.
* Trong một ngôi nhà 6 chỗ đều cùng một cung ( Đông hoặc Tây tứ
trạch ) là ngôi nhà đại cát , đại lợi. Nếu được Sao Chúa là cát tinh đắc vị
hay Đăng diện nữa thì là ngội nhà đệ nhất, càng ở lâu càng thịnh cượng.
* Nếu ngôi nhà mà cửa cái ở một phe tứ cung, 5 chỗ còn lại ở một phe tứ
cung là ngôi nhà đại hung , đại bại.
III/ BẾP.
* Táo tòa : Là nơi đặt bếp. Táo tòa đặt tại 1 trong 8 cung Bát quái.
* Táo khẩu : Miệng bếp tức là Hỏa môn theo hướng lưng người đứng nấu.
* Phương ( Vị ) : Vị trí của bếp.
* Hướng : Nơi bếp trông tới tức là hướng bếp theo hướng lưng người
đứng nấu.
Đối với phái Dương trạch tam yếu, muốn tính toán cát hung của bếp . khi
đã phân cung điểm hướng cho bếp , phải an du niên. Dùng phép biến
cung , từ cung của CỬA CÁI đến cung BẾP thừa Du niên nào thì ghi Du
niên đó vào bếp. Từ cung của SƠN CHỦ biến đến cung BẾP. Cung của
CỬA CÁI, SƠN CHỦ và BẾP cùng phe ( Đông trù hoặc Tây trù , tức là bếp
hợp với nhà sẽ đem lại thịnh vượng. Nếu Đông - Tây hỗn loạn sẽ đem lại
suy bại.
VỊ TRÍ đặt BẾP liên quan tới CỬA , SƠN CHỦ hoặc PHÒNG CHỦ ( Hỗ biến )
.
* Hỏa môn phải cùng phe với mạng chủ mới không tác hại đến chủ nhà.
* Nếu cung vợ chồng trạch chủ nghịch nhau , có thể đặt hướng Hỏa môn
thuận với cung mạng của vợ.
* Cửa cái cùng phe với hướng bếp và cửa bếp.
* Nếu nhà Đông - Tây hỗn loạn ( Cửa cái và Sơn chủ khác phe nhau ) ,
phải đặt vị trí bếp cùng phe với cửa cái mới mong đủ ăn , đủ mặc.
* Nếu Bếp và mạng chủ nghịch phe với cung cửa thì gia cảnh ngày càng
suy khốn , thê lương.
* Nếu cung mạng chủ cùng phe với bếp nhưng đối nghịch với nhà thì gia
cảnh ban đầu còn khá , sau cùng vẫn mạt.
* Nếu nhà và cung mạng chủ cùng phe, bếp khác phe thì nếu phấn đấu
xoay sở vẫn đủ mưu sinh.
Xin theo dõi tiếp bài 25 - dienbatn .
PHONG THỦY LUẬN BÀI 25 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Lời giới thiệu của dienbatn : Ngày xưa các cụ có câu nói : Thày Địa lý
phải : Trên thông Thiên văn, dưới tường Địa lý, giữa thông muôn loài. Khi
làm Địa lý - Phong thủy mà quên đi phần Thiên văn - Chiêm tinh thì
chúng ta đã bỏ đi hết 1/ 3 việc phải làm rồi. Trong Tam tài : THIÊN - ĐỊA
- NHÂN thì Thiên đứng đầu và phản ánh những quy luật vận động của các
Thiên hà bao quanh chúng ta. Chiêm tinh thuật: Tinh chiêm thuật là học
thuyết và phương pháp dùng việc quan sát tượng sao mà dự đoán sự thay
đổi của tự nhiên, quốc sự và nhân sự. Phổ biến trong lịch sử các nước.
dienbatn xin giới thiệu một số tài liệu về Thiên văn và Chiêm tinh thường
được các Phong thủy sư sử dụng.Phần tài liệu về Thiên văn và Chiêm tinh
này là những kiến thức rất cần thiết cho việc nghiên cứu các phần sau,
đặc biệt là phần 36 tầng của La Kinh - Xin các bạn chớ bỏ qua. Thân ái.
dienbatn.
Quan tượng thụ thời: Thông qua quan sát sự biến đổi của tượng sao mà
phán đoán thời tiết 4 mùa trong năm. Ở Trung Quốc, nội dung chủ yếu
của việc quan sát tượng sao sớm nhất là vào thời kỳ tiền lịch pháp. Tương
truyền thời thượng cổ có quan "Hỏa chính", lấy sự mọc hay lặn của sao
Hỏa làm mốc định thời tiết. Hạ tiều chính có chép kinh nghiệm quan sát
sao trời mỗi tháng để xác định thời tiết.
Thứ dân duy tinh: Quan niệm tượng sao thời thượng cổ ở Trung Quốc. Mỗi
ngôi sao đại diện cho một người dân, sao trên trời có ảnh hưởng và chứng
tỏ sự thay đổi nhân sự Thuật chiêm tinh dùng Tinh quan thuyết minh
tượng trời, dùng phân dã chỉ rõ các châu quận dưới đất mà Tinh quan đại
diện, là dựa trên quan niệm này. Trong tư tưởng chiêm tinh cổ đại, người
ta còn cho rằng nỗ lực của nhân gian có thể gây ảnh hưởng tới sự thay
đối tượng sao, như vua chúa thất đức thì sẽ có nhật thực, nếu có đức độ
cao thì có thể làm cho nhật thực sắp xảy ra sẽ không xảy ra nữa.
Phân dã : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ sự phân phối
tượng sao tương ứng với khu vực dưới mặt đất. Thuật chiêm tinh Trung
Quốc cổ đại cho rằng tượng sao gắn liền với nhân sự, cho nên dùng tượng
sao làm đại diện hoặc tượng trưng cho các khu vực khác nhau dưới mặt
đất. Cho rằng một sự biên đổi đặc định nào đó của tượng sao sẽ có ảnh
hưởng và chi ra sư thay đổi về tự nhiên, quốc sự ở khu vực tương ứng
dưới đất. Chu Lễ viết rằng họ Bảo Chương cai quản sao trời, dung Tinh
thổ (đất sao) phân biệt 9 châu. Mỗi châu dưới đất đều có sao chủ ở trên
trời, quan sát sao chủ ấy, sẽ có thể dự đoán cát hung ở mỗi châu. Phân
dã chính thức hình thành vào thời Xuân thu Chiến quốc. Cách phân phối
có đôi chỗ khác nhau. Chu Lễ. Xuân quan. Bảo Chương thị Trịnh chú viết
rằng việc phân chia 9 châu diễn ra 12 lần, Thiên quan thư sắp xếp 28 tinh
tú, Xuân thu vĩ sắp xếp 7 sao Bắc đẩu, Lã thị xuân thu thì sắp xếp Cửu
thiên. Sự sắp xếp của đời sau phối hợp các cách đó. Sử ký. Thiên quan
thư của Tư Mã Thiên nói về sự phân dã 28 tinh tú : "Giốc, Cáng, Đê, ở
Doãn châu; Phòng, Tâm, ở Dự châu; Vĩ, Cơ, ở U châu; Đẩu, Giang, ở Hồ
châu; Khiên Ngưu, Vụ Nữ, ở Dương châu, Hư, Nguy, ở Thanh châu;
Doanh, Thất, Bích, ở Tịnh châu; Khuê, Lâu, Vị, ở Từ châu; Ngang, Tất, ở
Dực châu; Tư Huề, Chẩn, ở ích châu; Tỉnh, Qủy, ở Ung châu; Liễu, Thất
tinh, Trương, ở châu Tam Hà; Dực, Chẩn, ở Kình châu.
Tinh quan : Còn gọi là Thiên quan, Tinh cung. Thuật ngữ của thuật chiêm
tinh thiên văn, dùng để biểu thị sự sắp xếp tượng sao. Để hiểu và quan
sát tượng trời, cổ nhân lấy một số hằng tinh xếp vào một chòm sao, đặt
tên cho nó theo kiểu tổ chức xã hội dưới trần gian, dùng quan hệ nhân
gian nói về cách sắp xếp đó và mối liên hệ vị trí giữa chúng. Mỗi chòm
sao gọi là một Tinh quan. Sử ký. Thiên quan thư viết : "Quan, tức Tinh
quan. Các chòm sao có tôn ti, như thứ bậc quan lại của nhân gian. nên
gọi là Thiên quan". Tinh quan trên trời đại diện cho sự sắp xếp khu vực
nhân gian, sự biến đổi vận hành của nó cho biết, cát hung dưới nhân gian.
Sử ký. Thiên quan thư gọi Tinh quan là Thiên quan, là bộ sách sớm nhất
của Trung Quốc nói về Tinh quan. Sách này nói có 91 Tinh quan, bao gồm
hơn 500 hằng tinh, đồng thời nói về cách quan sát Tinh quan. Các phái
thời cổ đặt tên cho các Tinh quan không giống nhau. Trần Trác thời tam
Quốc gộp 3 nhà Tinh quan Vu Hàm, Cam Đức, Thạch Thân thành một hệ
thống Tinh quan gồm 238 quan với 1464 ngôi sao, mà đời sau cứ theo đó
sử dụng.
Thiên quan : Sử ký của Tư Mã Thiên gọi Tinh quan là Thiên quan, soạn
chương Thiên quan thư. Xem mục Tinh quan.
Tinh cung : 1) Tức Tinh quan. 2) Thuật ngữ phân chia khu vực tượng sao.
"Cung" đại diện cho một phạm vi khu vực tinh tú nhất định. Thời cổ Trung
Quốc thường chia tượng sao thành 5 cung, tức Trung cung và 4 cung
đông, nam, tây, bắc. Về sau có phương pháp chia thêm các cung bên
ngoài để biểu thị khu vực tinh tú nhất định.
Tinh biếu : Chỉ cách thể hiện hoặc ghi chép tên gọi, phương vị, cấp sao và
qũy đạo vận hành của tượng sao hữu quan. Tinh biểu bắt đầu có từ thời
Chiến Quốc, thường dùng để quan sát sao và xác định thời tiết bốn mùa.
Cam Thạch tinh kinh là nguồn gốc sớm nhất của Tinh biểu Trung Quốc.
Tinh đồ : Còn gọi là Thiên văn đồ, Thiên tượng đồ. Đồ hình tạo nên nhờ
dùng mặt cầu của hằng tinh nhìn vị trí hình chiếu trên mặt phẳng. Thời cổ
người ta dùng các vật liệu như bông, vải, đá và kính bằng đồng mà họa
chế một số lớn Tinh đồ, thể hiện trực quan mối liên hệ vị trí các Tinh quan
(chòm sao), có những đồ hình biểu thị sư phân dã (phân bố) các Tinh
quan (như Thiên văn đồ khắc đá đời Thuần Hựu nhà Tống ở Tô Châu,
Giang Tô). Linh tiên đồ của Trương Hòanh là Tinh đồ sớm nhất của Trung
Quốc đáng tin cậy, đã thất truyền. Hiện còn giữ được Tinh đồ cổ nhất trên
thế giới là "Đôn Hoàng tinh đồ" được họa chế bằng bông vào năm 940
trước Công nguyên.
Phân dã đồ : Biểu đồ các Tinh quan trên trời tương ứng với châu quận
dưới mặt đất. Khởi đầu và hưng thịnh vào đời Hán, la phương tiện dùng
để chiêm nghiệm.
Tứ tượng: 1) Thuật ngữ chiêm tinh thiên văn cổ đại, dùng để phân chia
khu vực tượng sao. Thời cổ người ta thường phân chia tượng sao thành 4
khu vực lớn là đông, tây nam bắc, hoặc phải, trái, trước, sau, gọi là Tứ
duy, Tứ lục hoặc Tứ phương; cũng có khi thêm khu thứ 5 là Trung cung
(như Thiên quan thư). Đa số các khu vực tượng sao được gọi bằng tên
động vật, nên còn gọi là Tứ tượng, Tứ thú hoặc Tứ cầm. Đời ân , người ta
gọi tượng sao nhìn thấy vào lúc sẩm tối mùa xuân ở phương nam là Điểu
(chim), ở phương đông là Long (rồng), ở phương tây là Hổ, ở phương bắc
là Qui Xà. Sau thời Xuân thu Chiến quốc, thì gọi Thanh Long (Thương
Long) phương đông, Chu Điểu, (Chu Tước) phương nam, Bạch Hổ phương
tây. Huyền Vũ (Hàm Trì) phương bắc là Tử thú, Tứ cầm hoặc Tứ tượng.
Dưới mỗi một trong Tứ tượng có 7 sao, cộng là 28 sao. Đời sau ghi Tứ
tượng gồm 28 sao là : Thanh Long gồm 7 sao Giốc, Cang, Đê, Phòng,
Tâm, Vĩ, Ki; Huyền Vũ gồm 7 sao Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích;
Bạch Hổ gồm 7 sao Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tư, Sâm; Chu Tước gồm 7
sao Tinh, Qủy, Liễu, Trương, Dực, Chẩn. Các nhà Tinh tướng học chia Tứ
tượng thành 28 tiểu tượng, ghép với 12 canh giờ và 12 sinh tiêu làm cơ sở
đoản mệnh. Ngũ tượng thì thêm 1 tượng là Hoàng Long hoặc Kỳ Lân,
thành Ngũ thú. 2) Danh từ Tướng số học "Dịch truyện". Xem mục Tú
tượng ở chương Dịch.
Tứ duy, Tứ Lục, Tứ Thú Xem mục Tứ tượng.
Ngũ cung còn gọi là Ngũ quan. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn,
dùng để phân chia khu vực tượng sao. Cổ nhân định rằng bầu trời sao ở
gần Bắc cực là Trung cung, đem toàn bộ tượng sao chia thành 5 khu vực
lớn.
Thiên quan thu dùng quan hệ cai quản của Ngũ đế mà thuyết minh phạm
vi phân chia 5 khu vực lớn, gọi là Ngũ cung hoặc Ngũ quan. Tức Trung
cung, Đông cung, Tây cung, Nam cung, bắc cung. Trung cung ở giữa là
sao Thiên cực (tức Đế tinh), nơi cư trú của Thiên thần đại đế chí tôn (Thái
Nhất), còn 4 cung kia là của đế, Xích đế, Bạch đế và Hắc đế; đồng thời
dùng tên 4 con thú để gọi : Đông cung Long, Nam cung Chu Tước (Chu
Điểu ), Tây cung Hàm Trì (sau gọi là Bạch Hổ), Bắc cung Huyền Vũ. Hết
thảy Tinh quan dưới Ngũ cung hợp thành toàn bộ thế giới các hung tinh
trong con mắt cổ nhân. Các Tinh quan gần Bắc cực do Trung cung cai
quản, 28 sao, chia ra 4 cung đông, tây, nam, bắc.
Ngũ quan : Tức Ngũ cung. Sử ký. Thiên quan thư viết rằng có 5 cung.
Ngũ cung vốn là Ngũ quan, về sau thường gọi là Ngũ cung.
Cửu thiên : Còn gọi là Cửu dã. Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn
dùng để phân chia khu vực tượng sao. Lã thi Xuân thu. Hữu thủy giác chia
bầu trời sao thành 9 khu vực hoặc phương vị, tức Cửu thiên. Đó là Quân
thiên ở giữa có các sao Giốc, Cang, Đê; Thương thiên phương đông có các
sao Phòng, Tâm, Vĩ; Biến thiên phương đông bắc có các sao Ki, Đẩu,
Ngưu; Huyền thiên phương bắc có các sao Nữ, Hư, Nguy, Thất; U thiên
phương tây bắc có các sao Bích, Khuê, Lâu; Hạo thiên phương tây có các
sao Vị, Ngang, Tất; Chu thiên phương tây nam có các sao Từ, Sâm, Tỉnh;
Viêm thiên phương nam có các sao Qủy, Liễu, Thất tinh; Dương thiên
phương đông nam có các sao Trương, Dực, Chẩn . Sách trên còn chia mặt
đất thanh 9 khu vực, gọi là Cửu châu: Dự châu, Chu; Dực châu, Tấn;
Dõan châu, Vệ; Thanh châu, Tề; Tư châu; Lỗ, Dương châu, Triệu; Kinh
châu, Sở; Ung châu. Tần; U châu, Yên.
Tam viên: Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, dùng để phân chia
khu vực tượng sao. Được sang lập vào khoảng thời Chiến Quốc hoặc sau
đó. Bắt đầu gặp trong sách Bộ thiên ca của Đan Nguyên Từ đời Tùy. Chia
tượng sao thành 81 khu vực lớn, trong đó trừ 28 sao, 3 khu vực kia là Tử
Vi, Thái Vi, Thiên Thị. Mỗi một trong 3 khu vực này đều có các chòm sao
vây quanh hai phía đông, tây. Nên gọi là Tam viên. Tử Vi viên là Trung
viên, Thái Vi viên là Thượng viên. Thiên Thị viên là Hạ viên. Mỗi viên gồm
một số Tinh quan (chòm sao).
Nhị thập bát tú : Còn gọi là Nhị thập bát xá hoặc Nhị thập bát tinh. 28
tinh tú ở gần Hoàng đạo và Xích đạo. Thời cổ dùng làm tiêu chí tham
chiếu, quan sát tượng trời và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng, ngũ
tinh. Gặp đầu tiên trong Chu lễ : "Vị trí của 28 sao". Đến thời Sử ký đã
hoàn bị. Xuất hiện trước thời Chiến Quốc. Thoạt tiên được xếp vào bốn
khu vực lớn đông, tây, nam, bắc hoặc Tứ tượng. Mỗi khu vực có 7 sao.
Lấy sao Giốc mà cán sao Bắc đầu chỉ làm khởi điểm, sắp xếp từ tây sang
đông. 7 sao phương đông là : Giốc, Cang, Đê Phòng, Tâm, Vĩ, Ki; 7 sao
phương bắc là : Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích; 7 sao phương tây
là : Khuê, lâu, Vị, Ngang, Tát, Tư, Sâm; 7 sao phương nam là: Tỉnh, Qủy,
Liễu Tinh, Trương, Dực, Chẩn . Sau đời Tùy, 28 sao phối hợp vơi Tam viên
chia bầu trời thành 31 khu vực làm tiêu chuẩn cho việc phân chia khu vực
tượng sao của Trung Quốc. Trong phép chiêm tinh mỗi sao trong 28 sao
có tượng riêng của nó, làm sự phân dã cho các khu vực dưới mặt đất.
Thiên quan thư dẫn Tinh kinh viết : "Giốc, Cang là phân dã của Trịnh,
Doãn châu; Đê, Phòng. Tâm là phân dã của Tống, Dự châu; Vĩ, Ki là phân
dã của Yên, U châu, Nam Đẩu, Khiên Ngưu, là phân dã của Ngô, Việt,
Dương châu; Nữ, Hư là phân dã của Tề, Thanh châu. Nguy. Thớt. Bích. là
phân dã của Vệ, Tịnh châu; Khuê, Lâu, là phân dã của Lỗ, Từ châu; Vị,
Ngang, là phân dã của Triệu, Dực châu; Tất, Tư, Sâm, là phân dã của
Ngụy, ích châu; Tỉnh, Qủy, là phân dã của Tần, Ung châu; Liễu, Tinh,
Trương, là phân dã của Chu, Tam Hà; Dực, Chấn là phân dã của Sở, Kinh
châu". Tham chiếu phương vị 28 sao, có thể quan sát và thuyết minh
sự biến đổi vận hành của ngày, tháng, ngũ tinh. Nên có câu "Thất chính
nhị thập bát tú". Sử ký. Luật thư viết : "Xá, địa chỉ vậy; tú, là như vậy;
thất chính nhị thập bát tú là nói sự vận hành của nhật nguyệt ngũ tinh;
hoặc địa chỉ phân ra 28 lần vậy". Dùng quan hệ vị trí vận hành của mặt
trăng, mặt trời và ngũ tinh tại 28 sao mà dự đoán nhân sự, đó là một
trong những phương pháp chính của thuật chiêm tinh.
Thất chính : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn, gặp đầu tiên trong
Thư. Nghiêu điển: "Thi, Cơ. Ngọc Hoành, dĩ Tề thất chính". Giải thích khác
nhau. 1) Mặt trăng mặt trời, cùng Ngũ tinh (5 sao) Hỏa, Thổ, Thủy, Mộc,
Kim. Sử ký. Luật thư viết : "Thất chính là Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ
tinh. (Quan sát) 7 cái đó có thể biết thiên thời". Quan sát sự vận động của
Mặt trăng, mặt trời, Ngũ tinh cùng vị trí tương đối của chúng so với các
hằng tinh, cổ nhân phán đoán thời tiết và chiêm nghiệm cát hung. 2) Chỉ
7 ngôi trong chòm sao Bắc đẩu, chu Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh.
Thiên quan thư dẫn Thượng thư của Mã Dung : "Thất chính, mỗi sao trong
chòm bắc đẩu chủ một thứ, ngôi thứ nhất là Chính Nhật, ngôi thứ hai chủ
Nguyệt pháp, ngôi thứ,ba là Mệnh Hỏa, Huỳnh Hoặc cũng là nó; ngôi thứ
tư là Sát Thổ, Điền Tinh cũng là nó; ngôi thứ năm là Phạt Thủy, Thần Tinh
cũng là nó; ngôi thứ sáu là Nguy Mộc, Tuế Tinh cũng là nó; ngôi thứ bảy
là Phiêu Kim, Thái bạch cũng là nó vậy. Nhật, nguyệt, Ngũ tinh mỗi thứ
khác nhau, nên gọi là Thất chính vậy". 3) Bảy ngôi sao chòm Bắc đẩu :
Thiên Khu, Thi, Cơ, Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang.
Thiên quan thu: "Bảy ngôi sao chòm Bắc đầu : Thiên Khu, Thi, Cơ, Ngọc
Hoành... là Thất chính". 4) Chỉ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và thiên văn,
địa lý, nhân đạo.
Thất diệu : Thuật ngữ của thuật chiêm tinh thiên văn. Chỉ Mặt trăng, mặt
trời, cùng Ngu tinh (Mộc Kim Hỏa Thủy Thổ). Thiên quan thư dẫn Trương
Hoành viết: "Văn diệu ở trên trời, có 7 ngôi sao chuyển động, la Mặt
trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh vậy". Cốc Lương truyện tự của Phạm Ninh
viết: "Thất diệu vị chi dựng thúc". Xuân thu. Cốc Lương truyện sớ của
Dương Sĩ Huân viết: "Mặt trăng, mặt trời, cùng Ngũ tinh đều chiếu rọi
thiên hạ, nên gọi là Thất diệu (bảy ngôi sao)".
Ngũ thú ngũ đế : Tên khu vực sao, Ngũ thú : Thanh Long ( long) phương
đông, Chu Điểu (Chu Tước) phương nam, Hoàng Long (Kỳ Lân) ở giữa;
Bạch Hổ phương tây, Huyền Vũ (Phi Xà) phương bắc. Cổ nhân sau khi
chia ra Tứ thú, lại thêm một khu vực nữa, là Kỳ Lân hoặc Hoàng Long,
thành Ngũ thú. (Gặp đầu tiên trong Nguyệt lệnh của Thái Ung). Thêm
Hoàng Long gặp nhiều hơn, sớm nhất thấy trong Thạch thị tinh kinh, Linh
tiên và kinh Châu chiêm. Thiên quan thư thì thêm Hoàng Long ở cạnh
Nam cung. Ngũ đế là thiên thản cố đại, chủ của Ngũ thú. Ngũ đế là :
Thanh đế phương đông Linh Uy Ngưỡng, Xích đế phương nam Phiêu Nộ,
Hoàng đế trung ương nắm then chốt. Bạch đế phương tây Thiệu Cừ, Hắc
đế phương bắc Diệp Quang Kỷ. Tinh của Ngũ đế là Ngũ thú. Vì Ngũ đế có
tác dụng chi phối thần linh, nên cổ nhân dùng để biểu thị quan hệ cai
quản các ngôi sao, đồng thời dùng tượng của Ngũ đế thuyết minh phạm vi
chiêm nghiệm các Tinh quan (chòm sao).
Thanh Long : Còn gọi là Long, Thương Long. 1) Tên khu vực sao và thiên
thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương đông hoặc Đông
cung. 7 ngôi sao phương này là Giốc, Cang, Dê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki, hợp
thành tượng Long (con rồng). Thiên quan thư viết, rằng tinh của Đông
cung Thanh đế là Long, nên Đông cung gọi là Thương Long, cũng là thiên
thần phương đông. 2) Chỉ Thái Tuế. Hậu Hán thư. Luật lịch chí: "Thanh
Long di thần, gọi là Tuế".
Long: Tức Thanh Long.
Chu Điểu : Còn gọi là Điểu, Chu Tước. Tên khu vực sao và thiên thần. Một
trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương nam hoặc Nam cung. 7 ngôi
sao phương này là Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, họp thành
tượng Điểu (con chim). Thiên quan thư gọi là Xích đế Nam cung, tinh của
nó là Chu Điểu, "nên Nam cung là Chu Điểu, cũng là thiên thần phương
nam".
Bạch Hổ : l) Còn gọi là Hổ hoặc Hàm Trì. Tên khu vực sao và thiên thần.
Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao phương tây hoặc Tây cung. 7
ngôi sao phương này là Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Tư, Sâm, hợp thành
tượng Hổ (con hổ). Thiên quan thư gọi la Bạch đế Tây cung, vì tinh của nó
là hổ trắng, nên lấy cung là Bạch Hổ, cũng là "Thiên thần phương tây". 2)
Còn gọi là sao Bạch Hổ, Đoài tinh, một hung thần.
Huyền Vũ : Còn gọi là Quy Xà. Là tượng con rùa và con rắn quấn nhau.
Tên khu vực sao và thiên thần. Một trong Tứ tượng. Tên gọi khu vực sao
phương bắc hoặc Bắc cung. 7 ngôi sao phương này là Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư,
Nguy, Thất, Bích, Thiên quan thư gọi là Hắc đế Bắc cung, tinh của nó là
Huyền Vũ, (nên Bắc cung là Huyền Vũ, cũng là thiên thần phương bắc".
Đại đế : Còn gọi là Thiên đế. 1) Chỉ thiên thần chí tôn. Xem mục Thái
Nhất. nghĩa thứ hai. Tên Tinh quan. Chỉ Đế tinh. Ngôi sao sáng nhất ở Bắc
cực. Thiên quan thư viết rằng đó là Cực tinh, còn gọi là sao Thiên Cực. 3)
Tên gọi khu vực sao ở Trung cung Thiên quan thư dẫn Văn diệu câu viết :
"Trung cung Đại đế, tinh của nó là Bắc cực".
Thượng đế : Còn gọi là Thanh đế. Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một
trong Ngũ đế. Chủ khu vực sao phương đông. Là thần Linh Uy Ngưu
phương đông, tinh của nó là Thương Long.
Xích đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu
vực sao phương nam. Là thần Xích Phiêu Nộ phương nam, tinh của nó là
Chu Điểu.
Bạch đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu
vực sao phương tây. Là thần Bạch Thiệu Cử phương tây, tinh của nó là
Bạch Hổ.
Hắc đế : Tên gọi khu vực sao và thiên thần. Một trong Ngũ đế. Chủ khu
vực sao phương bắc. Là thần Diệp Quang Kỷ phương Bắc, tinh của nó là
Huyền Vũ.
Trung cung : 1) Còn gọi là Trung quan. Tên khu vực sao. Một trong Ngũ
cung. Cổ nhân coi bầu trời gần Bắc cực là Trung cung, xung quanh nó có
4 cung đông, tây, nam, bắc. Thiên quan thư viết rằng Trung cung ở giữa
là sao Thiên Cực, còn gọi là sao Bắc cực, là ngôi sao mà Thiên thần Đại đế
chỉ tôn (Thái Nhất) thường cư. Chủ thiên thần Thiên Nhất của 16 thần và
Nữ chúa âm Đức. Cạnh đó có Tam Công, Chính Phi, Hậu Cung; xung
quanh có Phàn Thần tức 12 sao Tử cung. Bên trái là Thiên Thương, bên
phải là Thiên Bàng, phía sau là Các Đạo; ngoài ra có 7 sao Bắc đẩu, các
chòm sao Tam Đài, Phụ, Triệu Dao, Thiên Phong Quán Sách, tổng cộng 78
sao. Ngoài ra thời cổ người ta còn có nhiều cách phân chia khu vực sao
khác, phần lớn đều có Trung cung. Chăng hạn có cách phân chia ra 6 khu
vực gồm Trung cung, Ngoại cung, và Tứ thú: có khi chỉ đơn giản chia ra
Trung cung và Ngoại cung. Trong các cách phân chia khác nhau, vị trí của
Trung cung cũng khác nhau.
Ngoài việc định vị trí của Trung cung ở gần Bắc cực, còn có khi xác định
nó ở phía bắc 28 sao, hoặc coi chòm sao Bắc đẩu có 7 ngôi làm Trung
cung . 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu
cung.
Đông cung : Còn gọi là "đông quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ
cung. Khu vực sao ở phía đông Trung cung. Tượng sao ở đây giống như
con rồng, nên gọi là Long, Thương Long hoặc Thanh Long. Một thuyết nói
là nên ở của Thượng đế. Gồm 7 sao : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki.
Thiên quan thư viết rằng ở chính giữa Đông cung có hai sao chính của
phương đông là sao Tâm và sao Phòng. Sao Tâm là Minh đường, là cung
mà sao lớn Thiên Vương bố chính. Sao Phòng là Thiên phủ. Sao Dại Giốc
là chỗ ngồi của Thiên Vương. Hai bên sao Đại Giốc có 3 sao thay quyền.
Ngoài ra có 12 sao như Tham, Khâm, Hạt, Kỳ, 27 sao Kỳ Quan, 2 sao
Nam Môn ..., cộng là 94 sao. 2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu
cung. Xem mục Cửu cung.
Nam cung : Còn gọi là "Nam quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ
cung. Khu vực sao ở phía nam Trung cung. Tượng sao ở đây giống như
con chim, nên gọi là Điểu, Chu điểu (chìm đỏ) hoặc Chu Tước (chim sẻ
đỏ). Có thuyết bảo của Xích đế. Gồm 7 sao : Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh,
Trương, Dực, Chẩn. Thiên quan thư viết ở giữa Nam cung là sẽ là sao
Quyền, sao Hoành, sao chính của phương nam. Sao Quyền là chỗ ngồi
của ngũ đế, là tượng nữ chúa. Hoành là Nam cung của Thiên Giốc, nên
Tam Quan vào triều đình; ở giữa là chỗ ngồi của Ngũ đế. Xung quanh có
12 sao phiên thần; ngoài ra có các sao như Lang Vị, Tướng Vị, Bắc Hà,
Nam Hà, Quan Lương, Chất, Thiên Khố Lâu v. v.., tổng cộng 135 sao. 2)
Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.
Tây cung : Còn gọi là "Tây quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung.
Khu vực sao ở phía tây Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con hổ,
nên gọi là Hổ hoặc Bạch Hổ (Hổ trắng). Thiên quan thư lấy chính vị
đại biểu cho vị trí của Ngũ cung, nên gọi là Hàm Trì. Có thuyết bảo là nơi
ở của Bạch đế. Gồm 7 sao : Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Sâm, Tư. Hàm Trì
là "xa giá của Ngũ đế. Sử ký viết : "Xa giá của Ngũ đế chở ngũ cốc đi bán"
, nên Tinh quan Tây cung có tượng kho lẫm, kho nhà trời . Ngoài ra còn
có các chòm sao như Ngũ Diễn, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Xí, Thiên Kỳ,
Thiên Uyển, Cửu Du, Lang, Hồ, Nam Cực lão nhân..., tổng cộng 117 sao.
2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung.
Bắc cung : Còn gọi là "Bắc quan". Tên khu vực sao. Một trong Ngũ cung.
Khu vực sao ở phía bắc Trung cung. Tượng sao ở đây giống như con rùa
con rắn quấn nhau, nên có tên là Quy Xà. Thường gọi là Huyền Vũ. Có
thuyết bảo là nơi ở của Hắc đế. Gồm 7 sao: Hư, Nguy, Thất, Bích, Đẩu,
Ngưu, Nữ. Hư, Nguy ở chính giữa, là sao chính của phương bắc. Phía nam
sao Hư có 45 sao, như Vũ Lâm, Thiên Khố; phía tây bắc có sao Lũy. Phía
tây sao Nguy có hai sao Ty Mệnh, Ty Lộc. Ngoài ra có các sao như Doanh
Thất, Thiên Thất, Vương Lang, Sách, Thiên Hoàng, Giang, Bào Qua, Kiến,
Hà Cổ, Chức Nữ v.v., tổng cộng 134 sao.
2) Thuật ngữ Tinh mệnh học. Một trong Cửu cung. Xem mục Cửu cung
Ngoại cung : Còn gọi là Ngoại quan. 1) Tên khu vực sao, tượng sao ở bên
ngoài một khu vực sao nhất định (như Trung cung chẳng hạn). Trong các
cách phân chia khu vực sao khác nhau, vị trí của Trung cung không giống
nhau. Tấu thư. Thiên văn chí chia ra Trung cung và Ngoại cung, còn lại là
28 sao. Ngoại cung là tượng sao ở phía nam Xích đạo Tùy thư. Thiên văn
chí chia ra 6 khu vực lớn, gồm Trung cung, Tứ thú và Ngoại cung, trong
đó Ngoại cung là chỉ tượng sao ở phía nam 28 sao. Còn có cách chia ra 7
khu vực lớn, gồm Ngũ thú, Trung cung, Ngoại cung và 11 khu vực gồm
Cửu dã, Trung cung va Ngoại cung.
Tượng là tòa nhà của Thiên đế hoặc chỗ ở của Thiên tử. Tượng mệnh. Lại
tượng bầy tôi hộ vệ hoàng cung. Tượng sao thẳng hàng chứng tỏ thiên tử
đang điểm binh trong cung.
Thái Vi : Còn gọi là Thái Vi Viên. 1) Tên khu vực sao. Thượng Viên trong
Tam Viên. Ở vị trí phía đông bắc, dưới chân Tử Vi, phía nam Bắc Đẩu. Do
2 hàng rào, mỗi hàng rào gồm 5 ngôi sao chính, ở 2 phía đông và tây,
hợp thành. Tượng trưng Thiên đình, tòa Ngũ đế hoặc dinh phủ của 12 chư
hầu. Tòa Ngũ đế nằm ở giữa, các chư hầu làm hàng rào bên trong, mỗi
bên có 5 bầy tôi vây quanh. Có cửa hàng rào. Giữa 2 sao Chấp Pháp là
cửa chính, phía đông sao Tả Chấp Pháp là cửa phụ bên trái, phía tây sao
Hữu Chấp Pháp là cửa phụ bên phải. Ở hang rào phía đông, đông bắc sao
Thượng Tướng là cửa Thái Dương; phía bắc sao Thứ Tướng là cửa Đông
Trung Hoa. Ở hàng rào phía tây, tây bắc sao Thượng Tướng là cửa Thai
Dương; phía bắc sao Thứ Tướng là cửa Tây Trung Hoa; tây bắc sao Thứ
Tướng cũng là cửa Thái Dương. Hàng rào bên ngoài tượng trưng Cửu
khanh. Thiên quan thu có ghi "Chu Điểu quyền hành", thì chữ "Hành" là
chỉ khu vực Thái Vi Viên. Thái Vi Viên gồm 12 chòm sao. Hàng rào bên
trong có các chòm: Cát Giả, Tam Công, Cửu Khanh, Ngũ Chư Hầu, Nội
Bình, Ngũ Đế, Hạnh Thần, Thái Tử, Tòng Quan, Lang Tương, Hổ Bôn, Lang
Vị. Hai hàng rào là Lưỡng Viên, phía trên Lưỡng viên là chòm sao Thường
Trần, Tam Đài. Phía ngoài hàng rào ngoài có các chòm : Minh đường, Linh
Đài, Thiếu Vi, Trưởng Viên, chứa tổng cộng 98 ngôi sao chính. 2) Tên Tinh
quan (chòm sao), gồm 10 sao. Tức Lưỡng viên ở bên trái và bên phải khu
vực sao Thái Vi. Hàng rào bên trái (phía đông) có 5 sao, tính từ phía nam
là : Tả Chấp Pháp , Thượng Tể Tướng, Thứ Tể Tướng, Thứ Tướng, Thượng
Tướng. Hàng rào bên phải (phía tây) có 5 sao, tính từ phía nam là : Hữu
Chấp Pháp, Thượng Tướng, Thứ Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tể Tướng.
Có thuyết cho rằng mỗi Viên gồm 4 sao, Tả Hữu Chấp Pháp là hàng rào
phía nam. Tả Chấp Pháp tượng trưng Đình úy, còn Hữu Chấp Pháp là
tượng Ngự sử đại phu, chủ những sự gian hiểm. Hai hàng rào đông tây
mỗi bên có Tử Phụ, tức là 4 đại thần phò ta. Khi chiêm đoán, nếu sao
Chấp Pháp di chuyển là có hình phạt nặng; 8 sao hàng rào mọc ra góc
nhọn và dao động, tức là chư hầu mưu hại thiên tử. Mặt trăng, Ngũ kinh
thấy nhập vào Thái Vi hợp quĩ đạo thì đoán là cát, nghịch quĩ đạo thì đoán
là hung; phạm vào tòa Ngũ đế thì đại hung.
Thiên Thị : Còn gọi là Thiên Thị Viên. 1 ) Tên khu vực sao. Hạ Viên trong
Tam Viên. Ở chân phía đông nam Tử Vi Viên. Do 2 hàng rào vây quanh,
mỗi hang rào gồm 11 ngôi sao chính, ở 2 phía đông (Tả Viên) và tây (Hữu
Viên) hợp thành. Tượng trưng đô thị trên trời, còn gọi là "Thái tử suất chư
hầu hạnh đô thị". Đế Tòa cư ở bên trong, có 22 vị quan hoặc chư hầu vây
quanh. Cửa Thiên Thị (chợ trời) nằm giữa hai sao ở phía nam. Khu Thiên
Thị Viên gồm 19 chòm sao : Lưỡng Viên, Thị Lâu, Xa Tứ, Tông Chính,
Tông Nhân, Tông, Bạch Đạc, Đồ Tứ, Hầu, Đế Tòa, Hoạn Giả, Liệt Tứ, Đấu,
Hộc, Quán Sách, Thất Công, Thiên Kỷ, Thiên Sàng, gồm 87 ngôi sao
chính. 2) Còn gọi là "Thiên Kỳ Đình". Tên chòm sao, gồm 22 ngói, tức hai
hàng rào của Thiên Thị Viên. 11 ngôi ở hàng rào phía đông (Tà Viên) tính
từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đông Hải, Tử, Ngô Việt, Tề, Trung
Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 ngôi ở hàng rào phía tây (Hữu Viên) tính từ
phía nam là : Hành Sở, Lương, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà Gián ,
Hà Trung. Tượng chợ trên trời, chủ quyền hành, chủ tụ họp. Kết hợp
chiêm đoán với các sao bên trong chợ. Các sao trong chợ mà sáng tỏ,
đoán là năm đó được mùa; sao mờ và ít là năm đó mất mùa. Lại tượng
quân kỳ của trái chủ việc chém giết. Sao Huỳnh Hoặc ở đó tức là chém
đầu kẻ bầy tôi bất trung. Khách tinh ở đó thì đoán là có chuyện dấy binh.
Khách tinh ra khỏi đó thì đoán là có quí nhân qua đới.
Đông phương thất tú : Giốc, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Ki. Trong đó Giốc
gồm các sao : Giốc, Bình Đạo, Thiên Điền, Tiến Hiền, Chu Đỉnh, Thiên
Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn; Cang gồm các sao : Cang, Đại
Giác, Chiết Uy, Tả Nhiếp Đề, Hữu Nhiếp Đề, Ngoan, Dương Môn; Đê gồm
các sao : Đê, Thiên Nhũ, Triệu Dao, Cánh Hà, Đế Tịch, Cang, Trì, Thiên
Bức, Trận Xa, Ky Quan, Ky Trận Tướng Quân, Xa Ky; Phòng gồm các sao :
Phòng, Phạt, Tây Hàm, Nhật, Câu Linh, Kiện Bế, Đông Hàm, Tòng Quan;
Tâm gồm các sao : Tâm, Tích Tốt; Vĩ gồm các sao : Vĩ, Thần Cung, Quy,
Thiền Giang, Phó Thuyết, Ngư; Ki gồm các sao: Ki, Khang, Chử, tổng
cộng 46 chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 186 ngôi sao.
Bắc phương thất tú : Hư, Nguy, Thất, Bích, Đẩu, Ngưu, Nữ. Trong đó Đẩu
gồm các sao : Đẩu, Kiến, Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thược, Cẩu
Quốc, Thiên Uyên, Cẩu, Nông Trượng Nhân; Ngưu gồm các sao : Ngưu,
Thiên Điền, Cửu Khảm, Hà Cố, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La
Yến, Tiệm Đài, Liên Đạo; Nữ gồm các sao : Nữ, Thập Nhị Quốc, Li Châu,
Bại Qua, Hộ Qua, Thiên Tân, Hề Trọng, Phù Khuông; Hư gồm các sao :
Hư, Ty Mệnh, Ty Lộc, Ty Nguy, Ty Phi, Khốc, Khấp, Thiên Lũy Thành, Bại
Cữu, Li Du; Nguy gồm các sao : Nguy, Phần mộ, Nhân Chủ, Cữu Xa Phủ,
Thiên Câu, Tạp Phụ, Cái Ốc, Hư Lương, Thiên Tiền; Thất gồm các sao :
Thất, Li Cung, Lôi Điện, Lũy Bích Trận, Vũ Lâm Quân, Phu Việt, Bắc Lạc
Sư Môn, Nhập Khôi, Thiên Cương, Thổ Công Sứ, Đằng Xà;
Bích gồm các sao : Bích, Tích Lịch, Vân Vũ, Thiên Cứu, Phu Chất, Thổ
Công; tổng cộng 65 chòm sao chính, 2 . chòm phụ, với 408 ngôi sao.
Tây phương thất tú : Khuê, Lâu, Vi, Ngang, Tất, Sâm, Tư. Trong đó Khuê
gồm các sao : Khuê, Ngoại Bình, Thiên Hỗn, Thổ Ty Không, Quân Nam
Môn, Các Đạo, Phụ Lộ, Vương Lương, Sách; Lâu gồm các sao : Lâu, Tả
Cánh, Hữu Cánh, Thiên , Thiên Canh. Thiên Đại Tướng Quân. Vị gồm các
sao : Ví, Thiên Bẩm, Thiên Khuân, Thiên Lăng, Thiên Thuyền, Tích Thi,
Tích Thúy; Ngang gồm các sao : Ngang, Thiên A, Nguyệt, Thiên Nguyệt,
Sô Cảo, Thiên Uyển, Quyển Thiệt, Thiên Sàm, Lệ Thạch; Tất gồm các
sao : Tất, Phụ Nhĩ, Thiên Nhai, Thiên Tiết, Chư Vương, Thiên Cao, Cửu
Châu Thù Khẩu, Ngũ Xa, Trụ, Thiên Hoàng, Hàm Trì, Thiên Quan, Sâm
Kỳ, Cửu Du, Thiên Viên; Sâm gồm các sao : Sâm, Phạt, Ngọc Tỉnh. Bình,
Khố Tỉnh, Xí, Thỉ; Tư gồm các sao : Tư, Tọa Kỳ, Ty Quái; tổng cộng 54
chòm sao chính, 2 chòm phụ, với 297 ngôi sao.
Nam phương thất tú : Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương Dực, Chẩn. Trong đó
Tỉnh gồm các sao : Tỉnh, Việt, Nam Hà, Bắc Hà, Thiên Tôn, Ngũ Chư Hầu,
Tích Thủy, Tích Tân, Thuỷ Phủ, Thủy Vị, Tứ Độc, Quân Thị, Dã Kê. Tôn,
Tử, Trượng Nhân, Quyết Khâu, Thiên Lang, Hồ Thỉ, Lão Nhân; Quỷ gồm
các sao : Quỷ, Tích Thi, Quan, Thiên Cẩu, Ngoại Trù, Thiên Xã, Thiên Ký;
Liễu gồm các sao : Liễu, Tửu Kỳ; Tinh gồm các sao : Tinh, Hiên Viên,
Khanh Nữ, Nội Bình, Thiên Tướng, Thiên Tắc, Trương gồm các sao:
Trương, Thiên Miếu; Dực gồm các sao : Dực, Đông Bình; Chẩn gồm các
sao : Chẩn, Trương Sa, Tả Hạt, Quân Môn, Thổ Ty Không, Thanh Khưu,
Khí Phu; tổng cộng 42 chòm sao chính, 5 chòm phụ, với 245 ngôi sao.
Ngũ tinh : Còn gọi là "Ngũ tá", "Ngũ vĩ". Chỉ 5 sao ngũ hành Mộc, Hỏa,
Thổ, Kim, Thủy. Vận hành cạnh Hoàng đạo. Thời cổ Trung Quốc gọi chúng
là Tuế Tinh, Huỳnh Hoặc, Điền Tinh (hoặc Trấn Tinh), Thái Bạch, Thần
Tinh. Cốc lang truyện tụ sớ viết "Ngũ tinh tức là Tuế Tinh ở phương đông,
Huỳnh Hoặc ở phương nam, Thái bạch ở phương tây, Thần Tinh ở phương
bắc, Trấn Tinh ở giữa vậy". Gọi là sao Mộc, sao Hỏa, sao Thổ, sao Kim,
sao Thủy tức là theo thuyết ngũ hành giải thích tượng trời, "đất có ngũ
hành, trời có ngũ tinh". Trong thuyết ngũ hành, 5 sao là tinh của ngũ
hành. Tuế tinh là tinh của Mộc, Huỳnh Hoặc là tinh của Hỏa, Trấn tinh là
tinh của Thổ, Thái Bạch là tinh của Kim, Thần tinh là tinh của Thủy. Hán
thư. Luật lịch chí : "Thủy hợp với Thần tinh, Hỏa hợp với Huỳnh Hoặc, Kim
hợp với Thái Bạch, Mộc hợp với Tuế tinh, Thổ hợp với Trấn tinh". 5 sao
làm hành tinh của hệ Mặt trời, đối xứng với hằng tinh của trời xa, có sự
vận động nhìn thấy khá rõ ; cổ nhân thường quan sát hiện tượng vận
động: biến đổi, màu sắc sao, trong mối quan hệ của chung với nhau, với
mặt trăng, mặt trời và vị trí 28 tinh tú mà chiêm đoán. Từ ngữ thường
dùng biểu đạt các hiện tượng ấy là : tại, nhập, xuất, phạm, thủ, lưu,
thuận hành, nghịch hành, qui đạo, tu, hợp, yểm (che), thực (ăn), lâm, trú
kiến (nhìn thấy ban ngày), tranh minh (tranh sáng), liên châu, tịnh xuất
v.v. . . Hiện tượng khác nhau, dự đoán sẽ khác nhau. Sử liệu cổ của
Trung Quốc chứa rất nhiều nội dung chiêm nghiệm 5 sao. Sách lụa tìm
thấy trong ngôi mộ cổ đời Hán ở đồi Mã Vương, Trường Sa, nhan đề Ngũ
tinh chiêm ghi chép rất tỉ mỉ về sự vận hành 5 sao đó kèm theo các dự
đoán.
Ngũ tá : Tức Ngũ tinh. Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng 5 sao Kim, Mộc,
Thủy, Hỏa, Thổ "khi ẩn khi hiện, vận hành có độ", phò tá trời hành đức,
nên gọi là Ngũ Tá.
Ngũ vĩ : Tức Ngũ tinh. Thời cổ gọi hằng tinh là sao Kinh, hành tinh là sao
Vĩ. Văn tuyển, Trương Hoành của Lý Thiện Chú : "Ngũ vĩ là Ngũ tinh
vậy".
Tam quang : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ
tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa). Thiên quan thư dẫn Tống Quân, viết :
"Tam quang là Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh vậy".
Tam vọng : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Chỉ Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ
tinh (Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa).
Khách tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cổ đại. Là ngôi sao lạ ít thấy, ngẫu
nhiên nhìn thấy. Cụ thể chỉ sao nào, thì sử liệu ghi chép rất khác nhau.
Thiên quan thư là sách đầu tiên dùng thuật ngữ này, nhưng chỉ sao nào
thì không rõ. Thiên văn chí đời Tấn, đời Tùy mới xác lập loại sao này, nói
là nhìn thấy (nó) không định kỳ, (nó) vận hành vô độ. Đến Thiên văn chí
đời Minh thì coi đó là ngôi sao mới xuất hiện, nhưng ở chương Khách tinh
thì phần lớn dùng để gọi sao Chổi. Tục văn hiến thông khảo thời Càn Long
thì coi các loại sao lạ là Khách tinh. Vậy Khách tinh thường là tên gọi
chung các ngôi sao mới và sao Chổi. Trong sử liệu, nói về Khách tinh chủ
yếu có Chu Bá, Lão Tử, Vương Bồng Tự, Quốc Hoàng, ôn Hoàng. Thưởng
căn cứ vào việc nhìn thấy nó, vận hành, màu sắc, độ lớn nhỏ, sự lưu thủ
mà đoán. Sao lớn thì có chuyện lớn, sao nhỏ thì có chuyện nhỏ. Màu vang
thì cát màu trắng là có tang, màu xanh có lo buồn, màu đen là chết chóc,
màu đỏ có chiến tranh, thời gian xảy ra sẽ trong khoảng 3 năm. Khách
tinh nhập vào cung nào, thì đoán sự việc xảy ra ở chòm sao ấy, vận hành
đến chỗ nào, thì nơi ấy, nước ấy có họa.
Lưu tinh : Thuật ngữ chiêm tinh cố đại. Tinh thể lao vút trên bầu trời
nhanh nhủ mũi tên, là hiện tượng do bụi vũ trụ bay vào khí quyển trái
đất, bị ma sát mà phát sáng. Sự chuyển động phát quang của nó tạo ra
nhiều hình dạng, đường bay khác nhau. Thời xưa, từ trên giáng xuống gọi
là Lưu, từ dưới vút lên gọi là Phi. Việc dự đoán dựa vào kích thước to nhỏ,
nhiều ít, hình dạng, âm thanh, đường vận hành, ngắn dài, độ nhìn rõ
v.v... Tượng cho thiên sứ. To thì thiên sứ cấp cao, nhỏ thì cấp thấp; phát
ra âm thanh là tượng giận dữ; vút nhanh thì việc xảy ra nhanh, chậm thì
sự việc xảy ra chậm; lớn mà không sáng là sự việc của đông đảo quần
chúng; nhỏ mà sáng là việc của quí nhân, to mà sáng là việc của nhiều
quí nhân. Lúc sáng lúc tắt là tượng giặc bại; trước to sau nhỏ là việc lo
buồn, trước nhỏ sau to là việc vui mừng. Chuyển động ngoằn ngoèo như
rắn là chuyện gian tà; dài thì sự việc kéo dài, ngắn thì sự việc mau chóng.
Sao chúi xuống vùng nào, vùng ấy có chiến sự. Trời quang đãng mà thấy
Lưu tinh, hơn nữa hồi lâu không rớt, là có bão lớn làm đổ nhà gãy cây.
Lưu tinh nhỏ, nhưng nhiều hàng trăm, tán phát tứ phía, là tượng dân di
cư ồ ạt. Sử chép hơn 2 ngàn lần có Lưu tinh. Các Lưu tinh chú yếu có
Thiên Bảo, Trì Nhạn, Thiên Nhạn, Đốn Ngoan, Giải Hàm, Đại Hoạt, Uông
Thỉ, Thiên Cẩu, Thiên Hình, Doanh Đầu.
Thụy tinh: Thuật chiêm tinh cổ đại cho rằng có một vài sao lạ vốn là sao
lành, nếu nhìn thấy sẽ có phúc, có đạo, có đức. Các sao đó gọi là Thụy
inh. Sử liệu chép có các Các Thụy tinh chính là : Cảnh Tinh, Chu bá, Hàm
Dự, Cách Trạch.
Yêu tinh : Thuật chiêm tinh cổ đại cho ràng có một vài sao lạ vốn là sao
hung, nếu nhìn thấy sẽ có tai hoạ, tranh đoạt, chiến tranh, chết chóc, nên
gọi chúng là Yêu tinh (sao yêu quái). Thường cho rằng phần lớn là do tinh
của Ngũ tinh bị tán thoát tạo nên, là tạp khí của sao. Thời Hán người ta
gọi những đám mây ngũ sắc cạnh Mặt trăng nhìn thấy vào ngày Dần là
Yêu tinh. Các Yêu tinh chính có : sao Chổi, Thiên Bội, Thiên , Thiên Sàm,
Thiên Xung, Quốc Hoàng, Suy Vưu, Thiệu Minh, Ty Nguy, Ngũ Tàn, Lục
Tặc, Bồng Tinh, Chúc Tinh, Tuân Thủy, Ngục Hán, Trưởng Canh, Tứ Trấn,
Địa Duy Tàng Quang. Nhìn thấy chúng ở nước nào thì nước ấy có triệu
chứng vô đạo, thất lễ, binh đao, đói rét, thủy tai, hạn hán, chết chóc. Cho
rằng hễ chúng xuất hiện, dù hình dạng thế nào, cũng đều gây tai ương.
Thời gian xuất hiện kéo dài thường không quá một năm, nếu kéo dài 3
năm, thì ắt nước mất thành tan, vua chết, thiên hạ đại loạn, chiến tranh
liên miên, thây chất đầy đồng. Yêu tinh xuất hiện mà to và dài, thì tai
ương lớn và lâu; nhỏ và ngắn thì tai ương nhỏ và chóng qua; đuôi sao
Chổi dài từ 3 đến 5 thước, tai họa kéo dài trăm ngày, từ 5 thước đến 1
trượng, tai họa kéo dài 1 năm, từ 1 đến 3 trượng, tai họa 3 năm; từ 3 đến
5 trượng, tai họa 5 năm; từ 5 đến 7 trượng, tai họa 7 năm; từ 10 trượng
trở lên, tai họa 9 năm.
Trung đạo : Tức Hoàng đạo, còn gọi là Quang đạo. Đường vận hành trong
1 năm của mặt trời giữa các hằng tinh mà ta nhìn thấy. Hán thư. Thiên
văn chí: "Mặt trời có Trung đạo". Mặt trăng và Ngũ tinh cũng vận hành
gần Trung đạo. Thời cổ nói Trung đạo phía bắc đến sao Tỉnh, phía nam
đến sao Ngưu phía đông đến sao Giốc, phía tây đến sao Lâu; tiết Hạ Chí
đến sao Tỉnh, tiết Đông Chí đến sao Ngưu, tiết Xuân Phân đến sao Lâu,
tiết Thu Phân đến sao Giốc. Căn cứ mặt trời , mặt trăng và Ngũ tinh vận
hành theo Trung đạo mà xác định bốn mùa, dự đoán khi hậu. Thời cổ
cũng có khi gọi Trung đạo là Quỹ đạo.
Thiên Hán : Tức Ngân Hà, còn gọi là Thiên Hà, Ngân Hán hoặc Hán Tân.
Là hệ sao do rất nhiều hằng tinh hợp thành. Thời cổ thấy nó có hình dạng
một dải mây sáng, nên gọi là Hà (dòng sông tượng dòng sông trên trời.
Thời cổ cho rằng nó khởi nguồn tử phương đông, qua đuôi sao Ki thì tách
ra hai nhánh nam bắc; nhánh nam đi qua các sao Phó Thuyết, Ngư, Thiên
Thược, Thiên Bôn, Hà Cổ; nhánh bắc đi qua các sao Quy, sao Ki, Nam Đẩu
Khôi, Tả Kỳ, đến dưới sao Thiên Tân thì hợp với nhánh nam mà chảy về
phía tây nam, vòng sao Qua, qua sao Nhân, sao Chử, Thiên Thuyền,
Quyển Thiệt; rồi đi về phía nam, qua Ngũ Xa, Bắc Hà Nam, nhập vào vị trí
sao Tỉnh mà chảy ra đông nam, cuối cùng chìm lẫn vào sao Thất Tinh.
Thuật chiêm tinh thường căn cứ vị trí của Thiên Hán qua chòm sao nào
mà xem tượng, dự đoan nhân sự.
Tinh đấu quang đãi: Còn gọi là Tinh đấu. Chỉ hiện tượng biến đổi sao, ánh
sáng giữa Ngũ tinh hoặc giữa các hằng tinh xâm phạm nhau, tương phản
nhau. Thiên quan thư chính nghĩa: "Đấu, tức là ánh sáng tương phản với
nhau". Tùy thư. Thiên văn chí : "Phàm cùng bỏ là họp, phạm vào nhau là
đấu". Sao đấu nhau, thì đoán là thiên hạ đại loạn; Ngũ tinh đấu nhau, thì
có chiến tranh, quân không xuất chinh ắt là nội loạn, hai sao đấu nhau ở
cự li gần thì tai họa 1ớn, cự li xa thì vô hại.
Tinh trú kiến : Chỉ ngôi sao (chủ yếu là Ngũ tinh) có thể nhìn thấy vào
ban ngày. Là hiện tượng biến đổi của sao. Có các trường hợp : cùng xuất
hiện khi mặt trời mọc, tranh sáng với mặt trời, ban ngày mà quầng sáng
vẫn còn. Cùng xuất hiện khi mặt trời mọc thì gọi là "gả chồng", tranh
sáng với mặt trời gọi là "tranh sáng", ban ngày mà quầng sáng vẫn còn
cũng gọi là "tranh sáng".
Hằng tinh bất hiến : Chỉ hằng tinh giữa đêm khuya vẫn không nhìn thấy.
Là hiện tượng biến đổi của sao. Hằng tinh tượng trưng nhân quần, không
thấy hằng tinh là tượng chư hầu quay lưng, không chịu phò tá quân
vương; cũng tượng trưng không có quân vương. Còn tượng trưng chúa
không nghiêm, luật pháp sa sút, hoặc thiên tử mất quyền, chư hầu làm
loạn.
Tinh dao : Chỉ ánh sáng của hằng tinh hoặc Ngũ tinh dao động. Là hiện
tượng biến đổi của sao. Đoán rằng dân chúng mệt mỏi.
Tinh vẫn : Là hiện tượng sao băng, sao đổi ngôi. Là hiện tượng biến đổi
của sao. Căn cứ sao băng lớn nhỏ, nhiều ít, hình dạng, hướng sao ( rơi)
mà dự đoán. Sao băng lớn là dương mất địa vị, âm lấn lướt, có họa. Nhiều
sao băng là người mất uy thế. Phàm sao băng đều đoán là chính sự
có biến động. Sao băng rơi xuống phía nào, nơi ấy có chiến trường, thiên
hạ loạn li, thời gian 3 năm. Nhiều sao cùng sa là nhiều người chết. Sao sa
như mưa là thiên tử suy yếu, chư hầu làm loạn, lập minh chủ mới. Sao sa
từ đường chân trời, là thiên tử thất đạo, kỷ cương rối ren.
Thiên Cực tinh : Tên chòm sao. Chỉ sao Cực của bầu trời. Thời cổ Trung
Quốc thường lấy ngôi sao ở gần Bắc cực làm sao Cực, nên còn gọi là sao
Bắc Cực, Bắc Thần. Thiên quan thư lấy sao Đế làm sao Cực, gọi là sao
Thiên Cực, đồng thời dùng tên đó để gọi Trung cung. Sách ấn dẫn Văn
diệu câu viết : "Trung cung đại đế, tinh của nó là sao Bắc Cực". Tượng
trưng cho bậc chí tôn của mọi ngôi sao, chỗ ở của đế vương. Tùy thư.
Thiên văn chí : "Mọi ngôi sao đều hướng về chỗ nó".
Tứ Phụ : Còn gọi là Tứ Bật. Tên chòm sao. Gồm 4 ngôi. Ở gần sao Bắc
Cực, thành hình dạng ôm lấy sao đó.
Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên . Tượng trưng cho sự phò tá Bắc Cực.
Thái Nhất : Còn gọi là Thái ất. 1) Tên thiên thần. Thiên quan thư chính
nghĩa :"Thái Nhất là biệt danh của Thiên đế vậy". Lưu Bá Trang viết: thái
Nhất là vị thiên thần tôn quí nhất". Cư ở Trung cung. 2) Tên chòm sao,
tượng trưng thiên thần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía nam
sao Thiên Nhất, chủ mưa gió, thủy tai hạn hán, binh biến, đói khát, dịch
bệnh. Thái Nhất không sáng hoặc đổi vị trí là tượng tai họa. Cùng với
Thiên Nhất chỉ việc vua lên ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thi việc
lên ngôi không thành.
Xem mục Thiên Nhất thiên thượng. 2) Tên chòm sao. Thuộc Trung cung
hoặc Tử Vi Viên, ởû gần miệng sao Bấc đẩu, phía ngoài cửa Tử Cung,
cạnh phía bắc sao Hữu Khu, phía nam sao Thái Nhất. Cổ nhân cho rằng
ánh sáng của nó tương đối yếu, khi thấy khi không. Tượng thần của Thiên
đế chủ chiến đấu, biết cát hung. Nếu sáng. là âm dương hài hòa, vạn vật
trưởng thành, vua cát lợi; nếu quá mờ, thì âm dương không hòa, vạn vật
không thành, vua gặp hung hiểm. Cùng với Thái Nhất chỉ việc vua lên
ngôi, lập Thái tử truyền ngôi. Nếu mờ thì việc lên ngôi không thành.
Khuông vệ phiên thần : Ngụ ý quần thần bảo vệ xung quanh. Thuật chiêm
tinh cổ đại dùng quan chức của xã hội loài người mà biểu đạt vị trí của các
hằng tinh, quan hệ tôn ti của chúng, phân chia giới hạn tượng sao. Trong
Ngũ cung, Thiên quan thư chép rằng Trung cung và Nam cung mỗi cung
có 12 sao phiên thần (hộ vệ) vây quanh, tạo thành 2 khu vực sao là
Trung cung, hoặc Tử cung, và Nam cung, hoặc Thái Vi. Hộ vệ Trung cung
là các sao Hữu Khu, Thiếu úy, Thượng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thượng
Thừa ở phía tây và các sao Tả Khu, Thượng Tể, Thiếu Tể, Thượng Bật,
Thiếu Bật, Thiếu Vệ. Hộ vệ Nam cung là các sao Thượng Tể Tướng, Thứ Tể
Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng ở phía tây và các sao Thượng Tể
Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng ở phía đông cung hai
sao Tả, Hữu Chấp Pháp. Hai cụm sao phiên thần đó về sau gọi là Lưỡng
Viên, tức Lưỡng Viên của Tử Vi Viên và Lưỡng Viên của Thái Vi Viên. Xem
mục Lưỡng Viên.
Lưỡng Viên : Còn gọi là Lưỡng Phiên. Chỉ hai chòm sao Tả Viên (Đông
Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Tử Vi Viên. Tả Viên gồm 8 sao, Hữu
Viên gồm 7 sao, cộng là 15 sao. Ở phía bắc sao Bắc Đẩu. 8 sao Tả Viên
tính từ phía nam là: Tả Khu, Thượng Tể, Thiếu Tể, Thượng Bật, Thiếu Bật,
Thiếu Vệ, Thiếu Thừa. 7 sao Hữu Viên tính tử phía nam là : Hữu Khu,
Thiếu úy, Thượng Phụ, Thiếu Phụ, Thiếu Vệ, Thượng Thừa. Giữa hai sao
Tả, Hữu Khu có hình dạng cửa đóng mở, là cổng lớn của Tử cung. Lưỡng
Viên lại gọi gộp là chòm sao Tử Vi, hoặc còn gọi là Trưởng Viên, Thiên
Doanh hoặc Kỳ Tinh. Khi dự đoán, thấy Tử Vi thì có 2 nghĩa. 2) Chỉ hai
chòm sao Tả Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây Phiên) của Thái Vi Viên.
Tả Viên gồm 5 sao, Hữu Viên gồm 5 sao, cộng là 10 sao. Ở phía nam sao
Bắc Đẩu Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thái Vi. 5
sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tả Chấp Pháp, Thượng Tể Tướng, Thứ Tể
Tướng, Thượng Tướng, Thứ Tướng. 5 sao Hữu Viên tính tử phía nam là :
Hữu Chấp Pháp, Thượng Tướng, Thứ Tướng, Thứ Tể Tướng, Thượng Tể
Tướng. Trong 12 phiên thần của Nam cung, Thiên quan thư chép rằng mỗi
sao Tả, Hữu Chấp Pháp gồm 2 sao. Lương Viên lại gọi gộp là chòm sao
Thái Vi. Khi dự đoán, thấy Thái Vi thì có 2 nghĩa. 3) Chỉ hai chòm sao Tả
Viên (Đông Phiên) và Hữu Viên (Tây phiên) của Thiên Thị Viên. Tây Viên
gồm 11 sao, Hữu Viên gồm 11 sao, cộng là 22 sao ở phía đông nam Tử Vi
Viên. Hai Viên thành hình hàng rào vây quanh khu vực sao Thiên Thị. 1 1
sao Tả Viên tính từ phía nam là : Tống, Nam Hải, Yên, Đóng Hải, Từ, Ngô
Việt, Tề, Trung Sơn, Cửu Hà, Triệu, Ngụy. 11 sao Hữu Viên tính từ phía
nam là : Hàn, Sở, Lương, Ba, Thục, Tần, Chu, Trịnh, Tấn, Hà, Gián, Hà
Trung. Giữa hai Viên có cửa Thiên Thi hoặc Thiên Môn. Khi dự đoán, thấy
Thiên Thị thì có 2 nghĩa.
Tả Viên : Tên chòm sao. Tử Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều có
chòm sao Tả Viên của mình. Xem mục Lưỡng Viên.
Hữu Viên : Tên chòm sao. Từ Vi Viên, Thái Vi Viên và Thiên Thị Viên đều
có chòm sao Hữu Viên của mình.
Âm đức : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Tấn thư. Thiên văn chí gọi là âm Đức
và Dương Đức. Nằm ở gần miệng sao Bắc Đẩu, phía tây sao Thượng Thư,
ánh sáng tương đối yếu Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nữ
chúa trong cung, chủ ban phúc đức và ân huệ. Khi dự đoán, coi sao này
không sáng là tốt; nếu sáng là vua mới thiên vị; nếu sáng lung linh, thì có
họa thê thiếp trong cung.
Dương Đức : Tên chòm sao. Một trong hai sao của chòm âm Đức. Tấn
thư. Thiên văn chí gọi chòm này có 2 sao âm Đức và Dương Đức.
Thượng Thư : Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía trong Tả Viên Tử Vi, phía
dưới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ sự bàn mưu.
Nếu sao này sáng thì đoán là tốt.
Trụ sứ : Tên chòm sao. Còn gọi là Trụ Hạ Sứ. Gồm 1 sao, ở phía trong Tả
Viên Tử Vi, phía dưới sao Thiên Trụ, nên có tên đó. Thuộc Trung cung
hoặc Tử Vi Viên. Tượng quan tá hữu sứ. Chủ đã ghi chép.
Nữ sử : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở dưới sao Ngự Nữ. Thuộc Trung cung
hoặc Tử Vi Viên. Tượng địa vị thấp của phụ nữ. Chủ việc tiết lộ.
Ngự nữ : Tên chòm sao. Còn gọi là Nữ Ngự Quan. 1) Gồm 4 sao, ở phía
bắc sao Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. tượng 81 ngự thê,
chủ việc hậu cung. 2) Gồm 1 sao, ở chót phía nam sao Hiên Viên, thuộc
Nam cung. Có khi được coi là 1 sao trong chòm Hiên Viên.
Thiên Trụ : Gọi tắt là Trụ. 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở gần Tả Viên
bên trong Tử Vi Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng thiết lập
chính pháp, chủ cấm lệnh và thi hành pháp lệnh. 2) Chỉ Ngũ Trụ. 3) Chỉ
Tam Trụ. 4) Chỉ Tam Đài.
Đại Lý : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trái cửa Tử Vi Viên, gần sao âm
Đức. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chỉ phán quyết ngục hình.
Câu Trần : Tên chòm sao. Còn gọi là Chính Phi. Cũng là sao Bắc Cực ngày
nay. Gồm 6 sao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ Lục quân. Lại
tượng trưng Hậu cung, Chính phi của đại đế hoặc tòa Thiên đế. Chủ việc
hoàng hậu và phi tần.
Hậu Câu tú tinh : Còn gọi là Hậu phi tứ tinh. Chỉ 4 ngôi sao sáng trong 6
ngôi của chòm Câu Trần. Gắn sao Đế là sao Câu Trần thứ tư, tiếp đến Câu
Trần thứ ba, Câu Trần thứ hai, rồi đến ngôi sáng nhất là Câu Trần thứ
nhất. Còn gọi là sao Chính Phi. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. có
thuyết nói là 4 sao Tứ Phụ.
Lục Giáp : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên phải chòm Ngũ đế. Thuộc
Trung cung hoặc Tử Vi Viên. chủ việc chia âm dương mà định khí hậu, ban
bố chính giáo.
Thiên hoàng đại đế : Tên chòm sao. Còn gọi là Thiên hoàng đại đế, Thiên
Vương. Gồm 1 sao, ở trong Tử Vi Viên, ở giữa Câu Trần. Thuộc Trung
cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng
trưng thần Diệu Phách Bảo. Chủ thần linh ngự chúng.
Ngũ đế nội tòa : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đế tòa. 1) Chỉ tòa Ngũ đế. Vi
nằm trong Nam cung Thiên đế hoặc đình Tam Quang ( Thái Vi), nên có
tên gọi đó. 2) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở trong Tử Vi Viên, dưới sao Hoa
Cái, trên sao Câu Trần. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nơi ở
của Ngũ đế. Nếu Khách tinh nhập Tử cung là phạm, là đại thần khinh
chúa.
Hoa Cái: Tên chòm sao. Gồm 9 sao ở phía trên sao Thiên hoàng đại đế.
Thuộïc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng trưng cái lọng che tòa Thiên
đế. Chủ việc của quân vương.
Giang : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở phía bắc sao Thiên hoàng đại đế.
Phía tây nam sao Hoa Cái, phía đông bắc tòa Ngũ đế. Thuộc Trung cung
hoặc Tư Vi Viên. Chòm phụ của sao Hoa Cái. tượng cái cán lọng Hoa Cái.
Truyền Xá : Tên chòm sao. Gồm 9 sao, ở bên trên sao Hoa Cái, gần Thiên
Hà. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng nơi đón tân khách, chủ
người Hồ vào Trung Quốc. Khách tinh mà thủ ở đây là có kẻ gian hoặc
dân Hồ động binh.
Nội Giai : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía bắc sao Văn Xương. Thuộc
Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng bậc thềm của Thiên hoàng.
Thiên Trù : Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ở phía đông bắc bên ngoài Tử Vi
Viên. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi viên. Tượng nhà bếp của Thiên phủ,
chủ yến tiệc linh đình.
Bát Cốc : Tên chòm sao. Gồm 8 sao, ở phía tây bên ngoài Tử Vi Viên, phía
bắc sao Ngũ Xa, bên trong Hoa Cái. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên.
Chủ Hậu tuế. Không thấy 1 sao, thì không thu hoạch một loại trong ngũ
cốc. Thấy rõ cả chòm sao, thì được mùa lớn.
Thiên Bổng: 1) Tên chòm sao. Gồm 5 sao, ở phía tây Tử Vi Viên, đông bắc
Nữ Sàng. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ phân tranh và hình
ngục. Lại chủ tàng binh, gặp nạn. Không thấy 1 sao, đoán là nước sẽ
dấy binh. Thường cùng chiêm đoán với sao Thiên, nên gọi là Bổng.
Thiên Sàng : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở bên ngoài cửa Tử Vi Viên.
Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ nơi ngủ, nghỉ ngơi.
Nội Trù : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên ngoài góc tây nam Tử Vi Viên ,
bên trên sao Thiên Nhất và Thái Nhất. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên.
Chủ việc ăn uống của 6 cung, việc ăn uống của Hoàng hậu và Thái tử.
Văn Xương : Còn gọi là Cung Văn Xương. Tên chòm sao. Gồm 6 sao,
Thiên quan thư nói đó là các sao Thượng Tướng, Thứ Tướng, Quý Tể
Tướng, Ty Mệnh, Ty Trung, Ty Lộc. Hán thư. Thiên văn chí nói ngôi sao
thứ 5 là Ty Lộc, ngôi thứ 6 là Ty Tai. Tùy thư. Thiên văn chí nói ngôi sao
thứ 4 là Ty Lộc, ngôi thứ 5 Ty Mệnh, Ty Quái, ngôi thứ 6 là Ty Quán.
Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Ở phía trên sao Bắc Đẩu, thành hình
bán nguyệt. Tượng lục phủ trên trời, chủ đầu mối thiên đạo. Khi đoán,
nếu sáng, 6 sao chỉnh tề, thì là điềm tốt lành.
Tam Sư : Tên chòm sao. Gồm 3 sao, ở phía bắc cái gáo sao Bắc Đẩu, bên
trái Hữu Viên Tử Vi, gần sao Thiếu Phụ. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi
Viên. Sử liệu thường gọi gộp cùng sao Tam Công thành Tam Sư Tam
Công. Về dự đoán, xem nghĩa thứ nhất mục Tam Công.
Thái Tôn : Còn gọi là Thiên Tôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía bắc
sao Trung Đài của Tam Đài, phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc
Tử Vi Viên. Tượng thân thích của hoàng cung.
Thiên Lao : Tên chòm sao. Gồm 6 sao, ở phía tây sao Bắc Đẩu. Thuộc
Nam cung hoặc Tử Vi Viên . Tượng nhà lao của quí nhân, chủ cấm bạo
dâm.
Thái Dương Thú : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở bên trái sao Tể Tướng.
Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng đại thần đại tướng; chủ việc
cảnh giới đề phòng bất trắc, thiết lập võ bị. Sao này xuất hiện không bình
thường, thì đoán là có chiến tranh .
Thế : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở tây bắc sao Thái Dương Thủ, phía tây
sao Thiên Lao. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng người cung
hình.
Tướng : Tên chòm sao. Gồm 1 sao, ở phía nam sao Bắc Đẩu, gần sao
Thiên Quyền thuộc chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên.
Chủ thống lĩnh mọi ty sở, phò tá đế vương an đinh bang quốc, nắm giữ
mọi việc. Sao nay sáng là tốt lành.
Tam Công : 1) Tên chòm sao. Gồm 3 sao : Thái úy. Tư Đồ, Tư Không, ở
phía nam cái gáo sao Bắc Đẩu phía đông giáp sao Dao Quang. Thuộc
Trung cung hoặc Tử Vi Viên sau công phân chia thái úy, tử đồ, tư không.
Chủ việc hòa âm dương, phò tá cơ vụ, tuyên đức hóa, điều thất chính. Khi
dự đoán, nếu sao này ở yên vị là tốt, di chuyển là hung. Kim, Hỏa thú ở
đó thì đoán là xấu. 2) Tức "Nội tòa Tam Công" của Thái Vi Viên.
Huyền Qua : Tên chòm sao. Còn gọi là Nguyên Qua. Gồm 1 sao. Tùy thư.
Thiên văn chí nói gồm 2 sao, ở cạnh sao Dao Quang. Thuộc Trung cung
hoặc Tử Vi Viên. Chủ việc binh nhà Hồ, hoặc chủ việc Bắc di (rợ phía bắc).
Khách tinh thủ ở đây, đoán là quân Hồ đại bại.
Thiên Lý : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở cạnh sao Bắc Đẩu, tượng nhà lao
của quí nhân. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Sao sáng thi đoán là quí
nhân hạ ngục.
Bắc Đẩu : Tên chòm sao. Gọi tắt là Đẩu. Gồm 7 sao, ở phía bắc Thái Vi
Viên, thành hình cái gáo ở bầu trời phương bắc. 7 sao là : Khu, Thi, Cơ,
Quyền, Hành, Khai Dương, Dao Quang. 4 sao đâu là miệng gáo, 3 sao sau
là cán gáo. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Bắc Đẩu là tượng trưng cổ
hong của trời hoặc xe trời, là cơ chế thất chính, nguyên thể âm dương nên
vận hành ở trên trời, giám sát tứ phương, thiết lập 4 mùa, cân bàng ngũ
hành. 7 ngôi sao đó tượng trưng và chủ điều gì, các sách nói không thống
nhất. Có thuyết nói Khu là khu vực trên trời, Thi là phân phát, Quyền là
cân bằng nặng nhẹ, Cơ là biến động, Khai Dương là mở khí dương, Dao
Quang la dao động ánh sáng. Có thuyết nói Khu là trời, Thi là đất, Cơ là
ngươi, Quyền là thời gian, Khai Dương là luật, Dao Quang là sao, Ngọc
hoàng là âm. Thạch thị tinh chiêm thì cho rằng 7 sao lần lượt chỉ trời, đất,
hỏa, thủy, thổ, mộc, kim; lần lượt chủ 7 nước dưới trái đất : Tần, Sở,
Lương, Ngô, Triệu, Yên, Tề. 7 sao thì mỗi ngôi cũng có tượng riêng. Ngôi
thứ nhất là chính tinh, chủ dương đức, tượng thiên tử; ngôi thứ hai là
pháp tinh, chủ âm hình, tượng địa vị nữ chúa; ngôi thứ ba là lệnh tinh,
chủ họa hại ; ngôi thứ tư là phạt tinh, chủ thiên lý, tượng trừng phạt vô
đạo; ngôi thứ năm là sát tinh, chủ trung ương, tượng giúp bốn phương
giết tội phạm; ngôi thứ sáu là nguy tinh, chủ kho ngũ cốc của trời; ngôi
thứ bảy là bộ tinh hoặc ứng tinh, chủ binh. Quan sát phương vị 7 ngôi sao
chòm Bắc Đẩu có thể biết bốn mùa, định tiết khí; căn cứ sự di chuyển của
chúng có thể xác định năm tháng, ngày, giờ; nên còn gọi 7 sao chòm Bắc
Đẩu là Thất chính.
Tiêu : 1 ) Chỉ cán gáo sao Bắc Đẩu. Gồm 3 sao : Hành, Khai Dương, Dao
Quang. Tiêu chủ đất tây nam Hoa Sơn. Có khi gọi Tiêu là Ngọc Hoành.
Xem mục Bắc Đẩu thất tinh. 2) Chỉ 2 ngôi sao phía bắc sao Bắc Đẩu.
Khôi : Chì Đầu Khôi của Bắc Đầu. Khôi gồm 4 sao: Khu, Thiên Cơ,
Quyrrgn. Khôi chu vùng đông bắc hai đảo, tức phân dã của Tề. Còn gọi là
Thi Cơ. Sao Chổi nhập vào Khôi, thì đoán là có thánh nhân thụ mệnh; mặt
trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thi đại nhân lo âu, thiên hạ có chiến sự;
phạm vào đó thì đại nhân lo âu, nữ chúa nắm quyền. 2) Chỉ Đẩu Khôi
Nam Đẩu, gồm 4 sao. Mặt trăng và Ngũ tinh nhập vào đó, thì đại nhân lo
âu, thiên hạ có chiến sự hoặc Ngô Việt có nỗi lo.
Thiên Khu : Còn gọi là Khu. 1) Chỉ sao thứ nhất trong 7 ngôi sao của
chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Chính tinh. Tượng thiên tử. Chủ trời, chủ dương
đức, chủ đất Tần. 2) Chỉ ngôi sao thứ 5 của chòm Bắc Cực. Tùy thư. Thiên
văn chí : "Bắc Cực, Thần vậy. Là khu vực của trời". Xem mục Bắc Cực.
Thi : Còn gọi là Thiên Thi. Ngôi sao thứ hai trong 7 ngôi sao của chòm Bác
Đẩu. Còn gọi là Pháp tinh, tượng vị trí của nữ chúa, chủ đất, chủ âm hình,
chủ đất Sở.
Cơ : Còn gọi là Thần Cơ. Ngôi sao thư ba trong 7 ngôi sao của chùm Bắc
Đẩu. Còn gọi là Lệnh tinh. Chủ họa hại, chủ người, chủ Hỏa, chủ đất
Lương.
Quyền : Còn gọi là Thiên Quyền. Ngôi sao thứ tư trong 7 ngôi sao của
chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Phạt tinh, chủ thời gian, chủ Thuỷ, chủ thiên lý
(lý của trời), phạt vô đạo, chủ đất Ngô.
Hành : Còn gọi là Ngọc Hoành. Ngôi sao thứ năm trong 7 ngôi sao của
chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Sát tinh, chủ âm thanh, chủ Thổ, chủ trung
ương giúp bốn phương, giết kẻ phạm tôi; chủ vùng đất nằm giữa Hoàng
Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Triệu.
Khai Dương : Ngôi sao thứ sáu trong 7 ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Còn
gọi là sao Nguy. Chủ luật, chủ kho ngũ cốc của trời; chủ vùng đất nằm
giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Yên.
Ngọc Hoành : 1) Tức sao Hành. 2) Chỉ ba ngôi sao cán gáo của chòm Bắc
Đẩu. Thiên quan thư dẫn Văn diệu câu : "Ngọc Hoành thuộc cán gáo, Khôi
là Thi Cơ". Xem mục Bắc Đẩu thất tinh.
Dao Quang : Còn gọi là sao Phá Quân. Ngôi sao thứ bảy trong 7 ngôi sao
của chòm Bắc Đẩu. Còn gọi là Bộ tinh hoặc Ứng tinh. Chủ quân đội, chủ
vùng đất nằm giữa Hoàng Hà và Tế Thủy, hoặc chủ nước Tề.
Phụ : Tên chòm sao. Gồm 1 sao Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Cạnh
ngôi sao Khai Dương thuộc chòm Bắc Đẩu, sao nhỏ mà sáng, tượng đại
thần. Nếu to mà sáng, là bầy tôi đoạt quyền vua, nếu nhỏ mà mờ, là bầy
tôi không làm tròn trách nhiệm; nêu to, sáng, lại lung linh tức là quân đôi
bạo loạn; nếu mờ và xa sao Bắc Đẩu, là bầy tôi chết hoặc mất chức nếu
ánh sáng tỏa về một phía, chứng tỏ vua thiên vị, trọng dụng gian thần,
gạt bỏ hiền thần, nếu mọc cánh (phát tia sáng ra hai bên), chứng tỏ cận
thần vượt quyền mưu quốc sự, định cướp ngôi, hoặc danh tướng bại trận,
bỏ mạng.
Thiên Thương : Tên chòm sao. 1) Còn gọi là Thiên Việt. Gồm. 3 sao. Ở
phía đông Tử Vi Viên, phía đông miệng gáo sao Bắc Đẩu. Thuộc Trung
cung hoặc Tử Vi Viên. Tượng võ bị của trời. Thiếu một sao chứng tỏ đất
nước có binh biến . Thường kết hợp với sao Bàng để dự đoán, gọi là Bàng.
2) Tên sao yêu quái, thuộc loại sao Chổi. Hình dạng như cây thương, hai
bên có mũi nhọn, dài vài trượng. Xuất hiện lâu quá 3 tháng, ắt có nạn
cướp ngôi vua, tàn phá đất nước.
Cát Giá : Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong cửa Thái Vi Viên, phía
bắc sao Tả Chấp Pháp. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi Viên. Chủ tán dương
tân khách.
Tam Công nội tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Tam Công. Gồm 3 sao. Ở
đông bắc sao Cát Giả, nam sao Cửu Khanh. Thuộc Trung cung hoặc Tử Vi
Viên. Chủ nơi hội họp của Tam công.
Cửu Khanh : Tên chòm sao. Gồm 3 sao ở bên ngoài hàng rào Thái Vi Viên.
3 sao này còn gọi là Cửu Khanh nội tòa. Ở phía nam Ngũ chư hầu, phía
bắc sao Tam Công. Thuộc Thái Vi Viên. Chủ trì vạn sự.
Nội Ngũ chư hầu : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ chư hầu, Chư hầu hoặc
Ngũ hầu. Gồm 5 sao. Ở phía tây sao Cửu Khanh. Thuộc Nam cung hoặc
Thái Vi Viên. Chủ nội thị thiên tư. Khi dự đoán. coi việc sao này sáng
nhuận là tốt, nếu khô lạnh là các nơi có tai biến nặng thì là tai họa chết
người, nhẹ cũng là nạn lưu vong, có kẻ nhân danh thiên mệnh mà xâm
phạm vua chúa.
Nội Bình : Tên chòm sao. Gọi tắt là sao Binh. Gồm 4 sao. Ơû bên trong
cửa chính của Thái Vi Viên phía dưới Ngũ đế tòa, gần sao Hữu Chấp Pháp.
Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ việc che kín chỗ ngồi của đế
vương.
Ngũ đế tòa : Tên chòm sao. Còn gọi là Ngũ tinh tinh tòa, Ngũ đế nội tòa,
gọi tắt là Đế tòa. Gồm 5 sao. Ơû trong Thái Vi Viên, phía bắc giáp sao Tể
Thần, Thái Tử, Tòng Quan; phía nam giáp sao Bình. Thuộc Nam cung
hoặc Thái Vi Viên. Ngôi lớn nhất ở giữa là chỗ của Hoàng đế, bốn vị đế
khác ở xung quanh, mạn đông là sao Đế (Thanh Đế). Linh Uy Ngưỡng,
mạn nam là sao Xích Đế Hách Phiêu Nộ, mạn tây là sao Bạch Đế Triệu Củ,
mạn bắc là sao Hắc Đế Diệp Quang Kỷ; tượng 5 tòa Ngũ đế tụ tập thần
linh mưu sự Tòa Ngũ đế sáng là tốt. Sáng thì thiên tử làm đúng đạo trời, y
đất; mờ thì thiên tử thất vị; nếu nhỏ yếu, xanh đen, thì vua chết.
Hạnh Thần : Ten chòm sao. Gồm 1 sao. Ơ bên trong Thái Vi Viên, phía
bắc Ngũ đế tòa, phía đông sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi
Viên. Tượng sủng thần.
Thái Tử : 1) Tên sao. Ngôi sao ở chót nam của chòm sao Bắc Cực, phía
trên giáp sao Đế. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở bên trong Thái Vi Viên,
phía bắc Ngũ đế tòa. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng con trai
của thiên tử, việc của Thái tử.
Tòng Quan : 1 ) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở bên trong Thái Vi Viên, phía
bắc Ngũ đế tòa, phía tây sao Thái Tử. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên.
Tượng bầy tôi đứng hầu vua. 2) Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ở tây nam
sao Phòng, tây bắc sao Tích Tốt. Thuộc Nam cung hoặc sao Phòng. Tượng
bầy tôi đứng hầu vua.
Tướng Vị : Hoặc gọi là Lang Tướng. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû phía
bắc sao Lang Vị. Tượng các tướng soái. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi
Viên. Chủ duyệt binh, võ bị. Sao này sang thì quân đội hùng mạnh, mờ thì
quân yếu ớt; to mà sáng, lại có góc cạnh, thì tượng dũng tướng vô địch.
Hổ Bôn : Hoặc gọi là Võ Bôn. Tên chòm sao. Gồm 1 sao. Ơû bên ngoài
Tây Viên của Thái Vi Viên, phía tây sao Thượng Tướng, phía nam sao Hạ
Đai. Tượng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động, là thiên tử rời cung đi ra
ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ thì võ binh yếu.
Thường Trần : Tên chòm sao. Gồm 7 sao. Ơû phía bắc Thái Vi Viên. Thuộc
Đông cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng võ sĩ hộ vệ Thiên Tử. Sao dao động,
là thiên tử rời cung đi ra ngoài. Sao này sáng, thì võ binh mạnh; sao mờ
thì võ binh yếu.
Lang Vị : Còn gọi là Viên Điểu hoặc Y Điểu. Hán thư gọi Viên Điểu là diện
mạo của sao. Tên chòm sao. Gồm 15 sao. Ơû đông bắc Ngũ đế tòa. Thuộc
Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Chủ hộ vệ. Khi dự đoán, lấy việc chòm sao
15 ngôi này sáng nhuận, hiện diện đủ là cát. Có khi sao sáng thì đoán là
đại thần lấn chúa hoặc khách phạm thượng; sao không hiện diện đủ, là
sủng thần bị chém. Khách tinh nhập vào đó, thì đoán là đại thần làm
loạn.
Minh đường : 1) Chỉ sao Phòng hoặc sao Tâm. Tùy thư. Thiên văn chí :
"Phòng là Minh Đường". Thiên quan thư : "Tâm là Minh Đường". Hoặc sao
Phòng cùng sao Tâm hợp thành Minh Đường. Xuân Thu thuyết đề từ :
"Phòng, Tâm là Minh Đường, cung mà Thiên vương bố chính". 2) Tên
chòm sao. Gồm 3 sao. Ở phía bắc sao Dực, tây nam sao Hữu Chấp Pháp .
Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng cung mà thiên tử ban bố chính
sách.
Linh Đài : l) Tên chòm sao. Gồm 3 sao. Ở bên ngoài Hữu Viên của Thái Vi
Viên. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng đài quan sát hiện tượng.
Chủ việc quan sát khí hậu, điềm báo, đoán tai biến. 2) Thời xưa thiết lập
đài quan sát hiện tượng, gọi là Linh Đài.
Thiếu Vi : Còn gọi là sao Xử Sĩ. Tên chòm sao. Gồm 4 sao. Ơû phía tây
Hữu Viên của Thái Vỉ Viên, xếp thành hàng theo chiều nam bắc. gần sao
Hổ Bôn và Thượng Tể Tướng. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. Tính từ
bắc xuống nam là Xử Sĩ, Nghị Sĩ, Bác Sĩ, Đại Phu. Coi việc sao to, sáng
màu vàng nhuận là hiền sĩ được trọng dụng; sao mờ là hiền sĩ không được
trọng dụng. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm thủ, thì đoán là xử si, nữ chúa lo
âu, tể tướng dễ mất chức.
Trưởng Viên : Tên chòm sao. l) Gồm 4 sao. Ơ phía tây Thái Vi Viên, phía
nam Thiếu Vi. Thuộc Nam cung hoặc Thái Vi Viên. chú biên cương, dân
tộc Hồ. Sao Huỳnh Hoặc nhập Trưởng Viên là người Hồ xâm nhập Trung
Quốc; sao Thái bạch nhập vào đây là cửu khanh có mưu mô. 2) Tức Tử Vi
Viên. Xem mục Tử vi , nghĩa thứ 2.
Tam Đài : Còn gọi là Tam Năng, Thái Giai, Thiên Giai hoặc Thiên Trụ. Tên
chòm sao. Gồm 6 sao. Chia ra 3 cặp Thượng Đài, Trung Đài, Hạ Đài.
Thượng Đài khởi từ Văn Xương, Trung Đài đối diện với sao Hiên Viên, Hạ
Đài ở phía dưới Thái Vi. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Tượng 3 bậc
thềm của thiên tử. Bậc thềm trên cùng gồm 2 sao, bên trên là Nam chúa,
bên dưới là Nữ chúa. Bậc thềm giữa gồm 2 sao, trên là Chư hầu tam
công, dưới là Khanh đại phu. Bậc dưới cùng gồm 2 sao, trên là Sĩ, dưới là
Thứ dân. Chúa thì dùng âm dương hài hòa mà cai quản vạn vật, lại tượng
trưng địa vị Tam công, chú tuyên dương đức độ. Thượng Đài cai quản
mệnh, chủ thọ. Trung Đài cai quản trung, chủ tôn thất. Hạ Đài cai quản
lộc, chủ việc binh, ngăn chặn gian tà. Khi dự đoán, coi Tam Đài song hành
chỉnh tề là cát, là âm dương hài hòa, mưa thuận gió hòa, vua tôi một
lòng; ngược lại thì khí hậu quái gở, mất mùa, có thiên tai, chiến tranh.
Tam Năng : Tức Tam Đài. Thiên quan thư: (Sáu ngôi sao phía dưới sao
Khôi, xếp thành 3 cặp cân xứng, là Tam Năng". Tập giải dẫn Tô Lâm viết:
"Năng là đài". Xem mục
Tam Đài.
Thị Lâu : Còn gọi là Thị Lâu Thị Phủ. Tên chòm sao. Gồm 6 sao. Ơû bên
dưới Thiên Thị Viên, phía trên sao Ki. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị
Viên. Chỉ giá cả thị trường.
Xa Tứ : Tên chòm sao. Gồm 2 sao. Một ngôi ở trong, một ngôi ở ngoài
cửa Thiên Thị, ở tây bắc sao Tống thuộc Tả Viên. Thuộc Đông cung hoặc
Thiên Thị Viên. Chỉ khu vực buôn bán của dân chúng.
Tông Chính : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở tây nam Nội Đế tòa của Thiên
Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng tôn thất đại phu. Nếu
sao Chổi thủ ở đó, sao mất màu, thì đoán là đại phu có chuyện . Nếu
Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là hiệu lệnh thay đổi.
Tông Nhân : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía đông sao Tông Chính"
Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc cúng tế c thân. Nếu sao
sáng mà có vân đẹp, đoán là vương tộc hoa hợp; nếu sao dao động, tức là
thân thích nhà vua có biến. Khách tinh thủ ở đó, đoán là có quí nhân qua
đời.
Tông : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao
Tông Chính, phía đông sao Hầu. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên.
Tượng tôn thất, thân thích của thiên tử. Khách tinh thủ ở đó, thì đoán là
vương tộc bất hòa.
Bạch Dạc : Ten chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc
sao Tông Chính. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc đo lường
vải vóc.
Đỗ Tử : Tên chòm sao. Gồm sao, ở trong Thiên Thị Viên, đông hắc sao
Bạch Đạc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng chợ mua bán gia
súc.
Hầu: 1) Tên chòm sao. Gồm 1 sao ở trong Thiên Thị Viên, đông bắc sao
Đế tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ hòa âm dương. Sao
sáng ma to, đoán là đại thần phò tá vững vàng, không lo các dân tộc
thiểu số xâm phạm bờ cõi. Sao mở mà nhỏ, là đất nước bình an. Thiếu
vắng sao này, là chúa thất vị. Sao di chuyển vị trí là chủ bất an. 2) Như
sao Hậu. Tượng điềm trời. Trong thiên văn cổ đại có thuật ngữ Chiêm
đoán khí hậu, mưa gió. 3) Như sao Hầu. Tượng dự đoán, dự báo, như
"Hầu Tuế", với ý đầu năm hoặc đầu mùa dự báo quang cảnh một năm. 4)
Như chữ Hậu. 5 ngày là một Hậu. Tố vấn. Tạng tượng luận : (năm ngày
gọi là một Hậu, ba Hậu là một Khí, sáu Khí là một Thời, bốn Thời là một
năm Một năm có 72 Hậu.
Đế tòa : 1) Chỉ Ngũ đế tòa. 2) Chỉ Ngũ đế nội tòa. 3) Tên chòm sao. Gồm
1 sao, ở trong Thiên Thị Viên. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên, phía
tây sao Hầu. Tượng thiên đình. Sao sáng nhuận, đoán là thiên tử cát; ít
sáng và nhỏ, đoán là đại nhân hung.
Di Giả : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở trong Thiên Thị Viên, tây nam Đế
tòa. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng người hầu hạ vua chúa.
Sao nhỏ đoán là cát, sao sáng thì hung. biến đổi khó lường thì kẻ hầu vua
có lo buồn. Sao Chổi phạm vào đó, thiên hạ có tang hoặc quân bại trận.
Liệt Tử : Tên chòm sao. Gồm 2 sao, ở bên trong hai hàng rào Thiên Thị
Viên, phía tây nam cao Hộc. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ
hàng hóa quý giá, tượng chợ mua bán vàng ngọc.
Hộc : Tên chòm sao. Gồm 4 sao, ở phía bắc sao Thị Lâu, bên trong hai
hàng rào Thiên Thị Viên. Thuộc cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng vị quan
đo lường ở chợ trên trời. Chủ đo lường chất lỏng.
Quán Sách : Còn gọi là Liên Sách, Thiên Quốc hoặc Thiên Lao. Tên chòm
sao, gôm 9 sao. Thiên quan thư, Hán thư. Thiên văn chí nói là gồm 15
sao, ở đông nam cái gáo sao Bắc Đẩu, phía nam sao Thất Công, phía tây
sao Cánh Hà. Thuộc Trung cung hoặc Thái Vi Viên. Quan tượng ngoạn
chiêm nói là ở bên ngoài Thiên Thị Viên, thuộc Thiên Thị Viên. chủ pháp
luật cấm cường bạo. Tượng nhà lao nhốt đạo tặc. Cửa nhà lao có 1 sao
trấn giữ. Sao này sáng, thì có ân xá. Không thấy sao nay, tức là trong
ngục có nhiều tù nhân. Sao lung linh, đoán là có việc nhà binh. Thấy đủ 9
sao, đoán là nhà ngục đông đảo, hoặc có việc mừng nhỏ; thấy 8 sao,
đoán là có ban lộc, thấy 7 sao vua có đức, có lệnh ân xá, thấy 5 sao, có
đại xá. Vắng cả 9 sao, đoán là lao ngục đơn giản. Khách tinh ra khỏi đó,
sao lớn là có đại xá, sao nhỏ là có tiểu xá.
Thất Công : Tên chòm sao, gồm 7 sao, ở phía đông sao Dao Quang, bắc
sao Quán Sách. Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng Tể tướng,
Tam công trên trời. Chủ thất (bảy) chính.
Thiên Kỷ : Tên chòm sao. gồm 9 sao, ở phía đông sao Quan Sách. Thuộc
Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Tượng cửu khanh. Chủ ghi chép vạn sự,
xử lý khiếu kiện. Sao này sáng, thì thiên hạ lắm việc kiện tụng. Không
thấy là chính lý bại hoại, kỷ cương rối loạn. 9 sao phân tán là động đất,
núi lở. Sao Chổi phạm vào là có động đất.
Nữ Sàng : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Thiên Kỷ. Thuộc
Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ việc hậu cung.
Giốc : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, sao phía bắc nhỏ, sao phía nam lớn,
trên nhỏ dưới to, thành hình cái sừng. Cắt ngang chòm sao Bình Đạo, ở
phía đông sao Cang, phía nam sao Thiên Điền, phía bắc sao Thiên Môn.
Hoàng đạo chạy qua sao này (hiện nay Xích đạo cũng chạy qua nó).
Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Sao Giốc bên trái (phía bắc) là
Lý, tức pháp quan. chủ hình phạt. Sao Giốc bên phải (phía nam) là Tướng,
chủ quân đội. Giốc là tượng cửa ải trên trời, cùng với Thiên Vương đế đình
và Thiên Môn hợp thành ba cửa trời. Chòm này sáng mà lớn, là đạo trời
thái bình, người hiền ở trong triều đình; nếu dao động di chuyển, là vua vi
hành. Sao Hỏa phạm thủ sao Giốc, là có chiến sự bùng nổ. 2) Tên chòm
sao, một trong Nhị thập bát tú. Sao thứ nhất trong 7 sao phương đông,
gồm 11 chòm : Giốc, Bình đạo, Thiên điền, Tiến Hiền, Chu Đinh, Thiên
Môn, Bình, Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn, với 45 ngôi sao. Tấn thư. Thiên
văn chí cho rằng 6 sao từ Thiên Môn đến Nam Môn không nằm trong Nhị
thập bát tú. Tinh thần khảo nguyên cho rằng Giốc chỉ gồm 3 chòm Giốc,
Tiến Hiền, Thiên Điền. Có thuyết tính sao Giốc khởi từ Đại Giốc, cùng với
2 sao Giốc hợp thành hình đầu rồng. Giốc và Cang, Đê cung là phân dã
của Dõan Châu. 3) Tên gọi tắt sao Đại Giốc.
Bình Đạo : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở giữa 2 sao Giốc. Thuộc Đông
cung hoặc giốc tú. Tượng quan Bình đạo.
Thiên Điền : 1) Tên chòm sao, tức sao Giốc bên trái. 2) Tên chòm sao,
gồm 2 sao, ở phía bắc sao Giốc, nam sao Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung
hoặc sao Giốc. Tượng tịch điền của thiên tử, chủ việc canh nóng. 3) Tên
chòm sao, gồm 9 sao; có thuyết nói gồm 4 sao, ở khoảng giữa ba sao
Khiên Ngưu, La Yến và Cửu Khảm. Chủ việc canh nông.
Tiến Hiền : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây bắc sao Bình Đạo. Thuộc
Đông cung hoặc sao Giốc, chủ khanh tướng tiến cử người hiền tài. Sao
Thái Bạch phạm vào đó đoán là người tiến cử bị chém đầu.
Thiên Môn : 1 ) Tên chòm sao gồm 2 sao, ở phía nam sao Giốc, phía bắc
sao Bình. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng của thiên phú chủ sự
việc thiên phủ. 2) Tức Thiên Quan.
Bình : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Khố Lâu. Thuộc đông
cung hoặc sao Giốc. Tượng Đình úy, chủ cai quản việc hình ngục trong
thiên hạ.
Khố Lâu : Còn gọi là Thiên Khố, Thiên Lâu hoặc Thiên Khố Lâu. 1) Tên
chòm sao, gồm 10 sao, ở phía nam sao Giốc đông nam sao . Thuộc Đông
cung hoặc sao Giốc. Trong 10 sao, 6 ngôi lớn uốn cong thành
hình nhà kho, 4 ngôi vuông thành hình cái lầu. Còn tượng trưng cho binh
xa. Dự đoán cùng với các sao Ngũ Trụ, Hành, Dương Môn, Nam Môn. Ngũ
Trụ tụ thành 5 nhóm ở trong và ngoài Thiên Khố, chủ ngựa xe; sao Hành
ở bên trong thiên Khố chủ quân dàn trận. Sao Dương Môn ở phía đông
bắc Khố Lâu, chủ việc canh giữ kho lẫm. Nam Môn ở Nam Khố Lâu, tượng
cổng của trời, chủ quân canh giữ.
Ngũ Trụ : Còn gọi là Thiên Trụ, Trụ. Tên chòm sao, gồm 15 sao, Thiên
quan thu gọi là Ngũ Xa của Nam cung. Tụ thành 5 chòm, nên có tên đó.
Nằm ở nam bắc, trong ngoài sao
Khố Lâu. Thuộc Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng cột của kho nhà trời,
nếu có nhiều tia sáng chia ra hoặc sắp xếp không chỉnh tề, thì đoán là
không có chỗ bố trí xe ngựa.
Nam Môn : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía nam sao Khố Lâu. Thuộc
Đông cung hoặc sao Giốc. Tượng cổng của trời, chủ quân canh giữ (Sao
sáng mà thấp, là có chư hầu đến nộp cống; sao mờ, thì đoán là chư hầu
làm phản. Khách tinh thủ ở đó đoán ra quân bên ngoài kéo tới.
Cang : 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Giốc, phía nam sao
Đại Giốc, hình dạng cong như cánh cung, tiếp liền với sao Thiên Vương đế
đình. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng đền thờ của thiên
tử, chủ cai quản hình ngục, ghi chép công trạng. Có thuyết nói là chủ việc
cúng tế bên ngoài triều đình, chủ dịch bệnh. Sao sáng mà lớn, đoán là
bầy tôi trung thành thiên hạ yên ổn, không có dịch bệnh, ngược lại là bầy
tôi bất trung, thiên hạ không yên; sao dao động, đoán là có nhiều người
bị dịch bệnh 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ hai trong
7 sao phương đông. Gồm 7 chòm sao : Cang. Đại Giốc, Chiết Uy, Tả và
Hữu Nhiếp Đề, Độn Ngoan, Dương Môn, với 22 ngôi. Cang và Giốc, Đê
cùng là phân dã của Doãn Châu.
Đại Giốc : Gọi tắt là Giốc. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở chót phía bắc sao
Cang, giáp hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc đông cung hoặc sao Cang.
Tượng tòa Thiên vương hoặc Thiên vương đế đình, tượng vua chúa. Sao
này sáng nhuận, màu vàng, thì đoán là thiên hạ đại đồng.
Chiết Uy : Còn gọi là Thất Chiết Uy. Tên chòm sao gồm 7 sao, ở phía nam
sao Cang. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ việc chém đầu.
Nhiếp Đề : Chỉ hai sao Tả và Hữu Nhiếp Đề. Tên chòm sao, ở hai bên sao
Đại Giốc. Ba sao bên trái là Tả Nhiếp Đề, ba sao bên phải là Hữu Nhiếp
Đề. Tượng đại thần, chủ tám tiết, cai quản vạn sự. Hoặc tượng hậu thuẫn,
chủ cửu khanh. Sao to mà mờ, đoán là vua lo sơ. Khách tinh nhập vào đó,
đoán là thánh nhân bị chế ngự.
Tả Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao. Ở phía đông sao Đại Giốc. Thuộc
Đông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề.
Hữu Nhiếp Đề : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây sao Đại Giốc. Thuộc
Dông cung hoặc sao Cang. Xem mục Nhiếp Đề .
Độn Ngoan : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Chiết Uy.
Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Chủ cai quản tình hình tù nhân, xét
đoán sự gian trá. 2) Tên lưu tinh. Sao này di chuyển như bay, sao to như
cái phễu, đuôi trắng, trước thấp, sau cao. Đuôi dài đoán là có nhiều người
chết.
Dương Môn : Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông bắc sao Khố Lâu, tây
nam sao Độn Ngoan. Thuộc Đông cung hoặc sao Cang. Tượng cửa ngoài
của kho quân giới, chủ canh giữ kho.
Đê: 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Cang, phía tây sao
Phòng, uốn cong phía bắc Hoàng đạo nam. Còn gọi là Thiên Căn. Thuộc
Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Tượng chỗ ở của vua, phủ của Hậu
phi, nơi nghỉ ngơi . Hai sao đầu tượng vợ cả, hai sao sau tượng hầu thiếp.
Sao sáng mà lớn, đoán là cận thần hầu hạ chu đáo. Sao dao động, đoán
là sắp có việc lao dịch. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao
thứ ba trong 7 sao phương đông. Gồm 11 chòm sao : Đê, Thiên Nhũ,
Triệu Dao, Canh Hà, Đế tòa, Cang Trì, Kỵ Quan, Trận Xa, Xa Ky. Thiên
Bức, Ky Trận Tướng Quân, với 54 ngôi sao. Thiên văn chí đời Tống chép
rằng chòm sao Đê không có các sao Trận Xa, Thiên Bức, Kỵ Trận Tướng
Quân. Tinh thần khảo nguyên thì cho rằng chòm này không có các sao
Canh Hà, Triệu Dao. Đê và Giốc, Cang cùng là phân dã của Dõan Châu.
Thiên Nhũ : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Đê, bên ngoài
Hữu Viên của Tử Vi Viên. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ nước Cam
lồ. Sao sang thì đoán là tốt.
Triệu Dao : Còn gọi là sao Dữ hoặc Thiên Dữ. Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở
phía nam sao Dao Quang (của chòm Bắc Đẩu. Thuộc Trung cung hoặc sao
Đê. Chủ việc quân của tội Hồ. Sao sáng mà không đoan chính, đoán là
quân tộc Hôg không nghe lệnh Trung Quốc. Cùng tranh sáng với sao Cánh
Hà, Bắc Đẩu, thì đoán là quân tộc Hôg thường đến thụ mệnh của Trung
Quốc. Áng sáng chớp chớp, có sừng lớn, đoán là chiến sự bùng nổ.
Thiên Phong : 1) Tên chòm sao, còn gọi là Phong Chất, Thiên Chất, gồm 1
sao. Thiên quan thư viết rằng ở đầu cái gáo sao Bắc Đẩu có 2 ngôi sao,
"một ở bên trong là sao Dữ, tức Triệu Dao, một ở bên ngoài là sao Chất,
tức Thiên Phong". Tùy thư. Thiên văn chí thì viết, rằng sao Cánh Hà tức là
sao Thiên Phong, phía bắc sao đó là sao Triệu Dao, tức sao Dữ. Khi dự
đoán thì giống như sao Cánh Hà, Tiêu Dao. 2) Tên sao yêu quái, đuôi của
nó tượng trưng đầu mút cái thuỗn, chủ tung hoành.
Cánh Hà : Tên chòm sao. Thiên nguyên lịch lý viết: "Hà tức là kha (cành
cây), thuộc loại giáp trượng", nên còn gọi là Cánh Kha hoặc Thiên Phong,
gồm 3 sao, ở phía nam sao Triệu Dao, phía bắc sao Đại Giốc. Thuộc Trung
cung hoặc sao Đê. Tượng sao chở kiếm. Chủ quan của tộc Hồ. Không thấy
sao này, hoặc tiến thoái bất định, thì đoán là sắp có tai họa ở vùng biên
cương. Lại chủ tang. Ánh sáng biến động, đoán là quân bại trận.
Đế tòa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía tây bắc sao Đại giốc, tây nam
sao Cánh Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê chủ yến tiệc.
Cang Trì : Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía bắc sao Cang, giữa 2 sao Tả
và Hữu Nhiếp Đề. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng tàu thuyền đi lại
nghênh tống.
Kỵ Quan : Tên chòm sao. gồm 27 sao. Nghi tượng khảo thành viết là gồm
10 sao ở phía nam sao Đê, phía bắc sao Kỵ trận Tướng Quân. Thuộc Đông
cung hoặc sao Đê. Tượng thiên tử xuất hành. Chủ việc của túc vệ.
Trận Xa : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía nam sao Đê, phía đông bắc
sao Kỵ Quan, phía tây sao Thiên Bức. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê.
Tượng binh xa.
Xa Kỵ: Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông nam sao Khố Lâu, phía
nam sao Kỵ Quan. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Tượng tướng cưỡi xe.
Thiên Bức : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông nam sao Đê, phía tây
sao Phòng, theo chiếu nam bắc. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê. Chủ quan
ngồi xe, chủ việc cúng tế.
Kỵ Trận Tướng Quân : Tên chòm sao. gồm 1 sao, ở phía nam sao Đê, giữa
2 sao Kỵ Quan và Xa Kỵ. Thuộc Đông cung hoặc sao Đê, tượng vi tướng
cưỡi xe.
Phòng : Còn gọi là Thiên Tứ, Thiên Cứu. 1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở
phía đông bắc sao Tâm, tây nam sao Đê, phía dưới 4 sao Biện Bế, Câu
Linh, Đông Hàm và Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông.
Tượng ngựa trời, chủ xa giá. Bốn sao là Tả Tham, Tả Phục, Hữu Phục, Hữu
Tham. Cũng tượng chuồng gia súc. Chủ việc đóng mở. Hai sao bên dưới
chỉ vị trí của vua, hai sao trên chi vị trí phu nhân. Hai sao Phòng, Tâm
sáng thì đoán là vua sáng suốt. Sao Tham (hoặc Thượng Tể Tướng và
Thượng Tướng) lớn thì chiến sự bùng nổ. Sao dời chỗ là dân chúng li tán.
Sao Phòng còn là tượng "Thiên cù đại đạo" (đường lớn, đường cái quan
trên trời), nếu mặt trời, mặt trăng cùng Ngũ tinh ra vào nơi đó, thì thiên
hạ yên ổn. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng, Tâm và Câu
Linh, thì đó là triệu chứng động đất. Mặt trăng phạm vào sao Phòng, ắt
bầy tôi phò tá bị chém đầu. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi
sao thứ tư trong 7 sao phương đông. Gồm 7 chòm sao chính và 1 chòm
sao phụ : Phòng, Kiện Bế, Phạt, Đông Hàm, Tây Hàm, Nhật, Tòng Quan,
Câu Linh, với 21 ngôi. Sách Càn tượng thư của Cảnh Hựu đời Tống xếp
sao Đông Hàm vào chòm sao Tâm; Tinh thần khảo nguyên thì xếp các sao
Khố Lâu, Trụ, Hành, Nam Môn vào chòm sao Phòng. Phòng và Tâm cùng
là phân dã của Dự Châu, chỉ nước Tống.
Câu Linh : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía bắc sao Phòng, gần đỉnh sao
Phòng. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Tượng chuông cửa, tiếng sáo
của trời. Chủ đóng kín, đề phòng bất trắc. Câu Linh sáng, thì vua có hiếu,
sáng mà gần sao Phòng, thì thiên hạ đồng tâm; rời xa sao Phòng thì thiên
hạ bất hòa, vua tuyệt tự. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao
Phòng, Tâm, thì đó là triệu chứng động đất.
Kiện Bế : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía đông bắc sao Phòng, giữa hai
sao Câu Linh và Đông Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ chốt
giữ khu vực quan trọng. Sao Huỳnh Hoặc phạm vào đó, thì vua có lo âu.
Sao Điền phạm vào đo, thì nhà vua không nên ra khỏi cung điện.
Phạt : Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía bắc sao Phòng Tâm, giữa 2 sao
Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng. Chủ sự mua chuộc.
Lưỡng Hàm : Chỉ hai sao Dông Hàm và Tây Hàm. Mỗi sao Hàm gồm 4
sao, ở hai bên phía trên sao Phòng và Tâm. 4 sao phía đông gọi là Đông
Hàm , 4 sao phía tây gọi là Tây Hàm. Thuộc Đông cung hoặc sao Phòng.
Lưỡng Hàm ở khoảng giữa Hoàng đạo, nên được coi là Trung đạo của mặt
trời, mặt trăng và ngũ tinh. Tượng cứa phòng. Chủ đề phòng dâm loạn,
sao sáng thì tốt, sao mờ thì hung. Mặt trăng, Ngũ tinh phạm hoặc thủ ở
đó, đoán là có âm mưu.
Tâm : 1) Tên chòm sao, gồm 3 sao, ở phía đông sao Phòng. Ngôi lớn ở
giữa, gọi là Minh Đường, nên sao Tâm còn gọi là Minh Đường; ngôi thứ 2
là Thiên Vương, tượng địa vị thiên tử, nơi vua ban bố chính sách, chủ việc
thưởng phạt trong thiên hạ. Sao này sáng mà lớn, thì đoán là thiên hạ đại
đồng; ngôi ở phía nam là Thái Tư, nếu mở thì Thái tử không được chọn nối
ngôi. Ngôi ở phía bắc là Thư Tử, nếu sáng thì con thứ được chọn. Sao Tâm
mờ đen, là đại nhân lo âu. Sao dao động, là cỏ sự biến khẩn cấp trong
nước; ánh sao mọc sừng là chiến sự bùng nổ. Các sao tách xa nhau, là
dân chúng phải ly tán. Nếu Khách tinh rời xa khoảng giữa các sao Phòng,
Câu Linh, thì đó là triệu chứng động đất. 2) Tên sao, một trong Nhị thập
bát tú. Ngôi sao thứ năm trong 7 sao phương đông. Gồm 2 chòm sao :
Tâm, Tích Tốt, với 15 ngôi sao. Tấn thư. Thiên văn chí viết rằng Tích Tốt
không thuộc chòm sao này. Tâm và Phòng cùng chỉ nước Tống, là phân
dã của Dự Châu.
Thiên Vương : l) Tên sao, chỉ ngôi sao ở giữa trong 3 ngôi của chòm sao
Tâm, còn gọi là Minh Đường. Xem mục Tâm, nghĩa thứ nhất. 2) Tức Thiên
hoàng đại đế.
Tích Tốt : Tên chòm sao, gồm 12 sao. tượng nghi khảo thành viết rằng chỉ
gồm 2 sao, ở phía nam sao Phòng, sao Tâm. Thuộc Đông cung hoặc sao
Tâm. Chủ thị vệ. Khách tinh thủ ở đó thì đoán là cận thần bị chém đầu.
Vĩ : l) Tên chòm sao, gồm 9 sao, còn gọi là Vĩ Cửu Tử, ở phía đông nam
sao Tâm, có dạng uốn cong như cái đuôi. Thuộc Đông cung hoặc 7 sao
phương đông. Tượng cung điện của hoàng hậu, phi tần. Sao thứ nhất gần
giữa là Hậu, sao thứ 3 là Phi, tiếp theo là Tần, 2 ngôi cuối là Thiếp. Tấn
thư. Thiên văn chí gọi ngôi thứ 3 là Phu Nhân, 5 ngôi còn lại là Tần, Thiếp.
Ngôi sao cạnh ngôi thứ 8 là Thần Cung, tượng phòng thay áo. Khi đoán,
các sao đều sáng, to nhỏ nối tiếp nhau là tốt, là hậu và phi trong cung có
thứ tự, đông con cái; sao mờ và nhỏ, là trong hậu cung có chuyện đố ky.
Sáng tối bất định, hoặc ánh sao dao động, là hậu phi không còn thứ tự
trên dưới, vua tôi bất hòa, thiên hạ rối loạn. 9 sao tụ gần nhau là có nạn
hồng thủy. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ sáu trong
7 sao phương đông. Gồm 5 chòm sao chính và 1 chòm phụ : Vĩ, Quy,
Thiên Giang, Phó Thuyết, Ngư và Thần Cung, với 21 ngôi (xem hình 104).
Tân thư. Thiên văn chí cho rằng các sao Quy, Phó Thuyết, Ngư không
thuộc chòm sao Vĩ. Tấn thư. Thiên văn chí thì không xếp sao Thần Cung.
Sao Vĩ cùng với sao Ki cùng chỉ nước Yên, là phân dã của U Châu.
Thần Cung : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở bên cạnh ngôi thứ 3 sao Vĩ.
Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Là chòm sao phụ của sao Vĩ. Tượng phòng
thay áo trong hậu cung.
Quy : 1) Còn gọi là Liên Châu. Tên chòm sao, gồm 5 sao, ở phía nam sao
Vĩ, trong Thiên Hà, giống hình con rùa. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ
chiêm bốc (bói toán cát hung). 2) Xem mục Bốc Phệ, nghĩa thứ nhất.
Thiên Giang : Gọi tắt là Giang. Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở bên dưới Tử
Vi Viên, phía bắc sao Vĩ. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Chủ Thái âm.
Không nhìn thấy sao này, thì bến sông trong thiên hạ không thông suốt.
Sao sáng mà dao động, là có lụt lớn, chiến tranh bùng nổ. Bốn sao xếp
lệch lạc, thì ngựa tăng giá. Hỏa tinh thủ ở đó, ắt có việc lập vua. Khách
tinh nhập vào sao Giang, đoán là bến sông khô cạn. Phàm mặt trăng, Ngũ
tinh phạm sao này, đều đoán là bến sông tắc nghẽn.
Phó Thuyết : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở khoảng giữa sao Vĩ và sao Ngư,
trong Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ. Tượng quan coi bói. Chủ
việc cúng lễ trong hậu cung, cầu tự. Sao sáng mà lớn, là vua nhiều con
cháu.
Ngu : Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía bắc sao Vĩ và Phó Thuyết, trong
Thiên Hà. Thuộc Đông cung hoặc sao Vĩ Chủ âm sự, biết thời tiết mưa gió.
Sao không sáng, đoán là cá chết nhiều, ít cá. ánh sao dao động, ắt có lũ
lụt lớn; rời xa Thiên Hà, đoán là có nhiều cá chết.
Kỷ :1) Tên chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông sao Vĩ, trông như cái ki (cái
hốt rác). Thuộc Đông cung hoặc 7 sao phương đông. Còn gọi là Thiên Tân
hoặc Thiên Kế. Cũng như sao Vĩ, tượng cung điện của hậu phi. Còn tượng
miệng trời, chủ xuất khí, chủ bát phong (tám thứ gió). Mặt trời, mặt trăng
ở chỗ sao Ki, ắt có gió lớn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi
sao thứ bảy trong 7 sao phương đông. Gồm 3 chòm sao : Ki, Khang, Chử,
với 8 ngôi. Tấu thư. Thiên văn chí cho rằng chòm này chỉ có sao Ki, không
có 2 sao Khang, Chử. Sao Ki cùng với sao Vĩ chỉ nước Yên, là phân dã của
U Châu.
Khang: Tên chòm sao, gồm 1 sao, ở phía tây sao Ki, tây bắc sao Chử.
Thuộc Đông cung hoặc sao Ki. Chủ lương thực.
Đẩu : 1) Tên chòm sao, tức Nam Đẩu, gồm 6 sao. Còn gọi là Thiên Cơ.
Màu đỏ, ở phía nam Thiên Thị Viên, phía đông sao Ki, hình như cái cán
gáo. Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng đền miếu trên trời, là
địa vị thừa tướng, tể tướng. Chủ chiêu hiền đãi sĩ, bẩm thụ tước lộc lại
chủ binh khí. Hai sao phía nam là Đẩu Khôi, Thiên Lương; hai sao ở giữa
là Thiên Tể Tướng; hai sao phía bắc là Thiên Phủ Đình, lại chủ tuổi thọ của
thiên tứ Sao Đẩu sáng nhuận, đoán là đạo vua hòa bình, tước lộc ban
đều. Ánh sao dao động, chĩa ra như súng, đoán là thiên tử lo buồn, có
chiến sự, có đại thần bị đuổi. Ở phía bắc sao Đẩu có ngôi sao lớn là sao
Kiến. Hoàng đạo chạy xuyên qua giữa hai sao Đẩu và Kiến. Khi chiêm
đoán, thường gộp Đẩu và Kiến để cùng đoán. Xem mục Kiến. 2) Tên chòm
sao, tức sao Đẩu của Nam Đẩu. Một trong Nhị thập bát tú. Ngôi sao thứ
nhất trong 7 sao phương bắc. Gồm 10 chòm sao : Đẩu, Kiến,
Thiên Biền, Biết, Thiên Kê, Thiên Thược, Cẩu Quốc, Thiên Uyên, Cẩu,
Nông Trượng Nhân, với 62 ngôi sao. Với sao Ngưu cùng chỉ Ngô Việt, là
phân dã của Dương Châu. 3) Chỉ "Bắc Đẩu thất tinh". 4) Tên chòm sao,
gồm 5 sao , ở phía tây Nội Di của Thiên Thị Viên, hình dạng như cái gáo.
Thuộc Đông cung hoặc Thiên Thị Viên. Chủ cân đo. Sao Đẩu chênh lên
chứng tỏ việc cân đo trong thiên hạ sai lệch, sao Đẩu chúc xuống chứng
tỏ thiên hạ được mùa.
Kiến : còn gọi là Thiên kỳ tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam sao Bắc
đẩu Tượng thiên chi đô quan, trống trời, mưu sự hoặc thiên mã. 2 sao
phía nam là Thiên khố, 2 sao ở giữa là thực, 2 sao ở phía bắc là Kỳ Phụ ở
giữa đẩu có hoàng đạo quán xuyến tức là đường thất diệu. Nhìn thấy ảnh
sao nhấp nháy thì dân mệt mỏi, ngược lại thì dân nhàn. Bị ánh trăng che
mờ đi thì thấy giao long; bò ngựa bị ôn dịch. ánh trăng và Ngũ tinh phạm
vào thì đại thần gièm pha lẫn nhau. Có hành động mưu hại chủ, mùa
màng thất bát, có nước lớn.
Thiên Biền : Còn gọi là Thiên Biện. Tên chòm sao, gồm 9 sao, ở phía bắc
sao Đẩu và sao Kiến, phía đông nam Tả Viên của Thiên Thị Viên. Thuộc
Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ viên trưởng quan coi chợ và tình hình thị
trường. Sao sáng là cát. Sao Chổi phạm vào đây, thì đoán là lương thực
đắt đỏ, hoặc tù nhân nổi loạn trong ngục.
Biết : Tên chòm sao, gồm 14 sao, hình dạng như con ba ba, ở phía nam
Nam Đẩu, ở khoảng giữa Nông Trượng Nhân và Thiên Uyên. Thuộc Bắc
cung hoặc sao Đẩu. Chủ Thủy trùng, Thái âm. Khách tinh phạm vào đó,
thì đoán là chúa có khí thủy.
Thiên Kê : 1) Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía đông bắc sao Đấu, phía
tây sao Khiên Ngưu, phía bắc sao Cẩu Quốc. Thuộc Bắc cung hoặc sao
Đẩu. Chủ khí hậu. 2) Tức sao Hồ Qua. 3) Tức sao Ki. Cấu Quốc : Tên
chòm sao, gồm 4 sao, ở phía đông Nam Đẩu, phía tây gần sao Cẩu. Thuộc
Bắc cung hoặc sao Đẩu Chủ các dân tộc Tiên Ti, Ô Hoàn, ốc Thả. Sao
Huỳnh Hoặc thủ ở đây là dân thiểu số có biến; sao Thái Bạch nghịch thủ,
là nước có loạn; Khách tinh phạm vào đây, là có cướp bóc lớn.
Cấu : Tên chòm sao, gồm 2 sao, ở phía trước sao Khôi Nam Đẩu, ở
khoảng giữa Cẩu Quốc và sao Kiến. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Chủ sự
canh giữ.
Nông Trượng Nhân : Tên chòm sao, gọi tắt là Nông, gồm 1 sao, ở phía tây
nam Nam Đẩu, tây bắc sao Biết. Thuộc Bắc cung hoặc sao Đẩu. Tượng lão
nông. Chủ cây lương thực.
Ngưu : Còn gọi là Khiên Ngưu. 1) Tên chòm sao, gồm 6 sao, ở phía nam
Hà Cổ, Thiên Phù, bên phải sao La Yên; bên trên là Trung đạo 7 sao.
Thuộc Bắc cung hoặc 7 sao phương bắc. Tượng thanh chắn ngang trên
trời. Hai sao phía bắc của nó, một là Tức Lộ, chủ đường đi, hai là Tụ Hỏa,
chủ thanh chắn ngang; ngôi thủ ba chủ Nam Việt. Sao sáng mà to, là
đương đi thông suốt, vương đạo thênh thang, trâu bò qui; sáng chói là
ngựa quí; sao mờ hoặc không thấy, là trâu bò trong thiên hạ bị dịch bệnh,
mất mùa; ngôi sao ở giữa di chuyển lên xuống, là trâu bò bị chết rất
nhiều. Sao dao động là có dịch trâu bò; di chuyển vào Ngân Hà là thiên
hạ có loạn. 2) Tên sao, một trong Nhị thập bát tú. Ngôi thứ hai trong 7
sao phương bắc. Gồm 11 chòm sao : Ngưu, Thiên Điền, Cưu Khảm, Hà
Cổ, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Thiên Phù, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo, với
65 ngôi sao. Càn tượng thư của Cảnh Hựu đời Tống xếp các sao Cửu
Khảm, Chức Nữ, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, La Yên, Tiệm Đài, Liên Đạo vào sao Đẩu.
Ngưu cùng với sao Nữ chỉ Ngô Việt, là phân dã của Dương Châu.
( Tài liệu sưu tầm - dienbatn quên mất nguồn - Cảm ơn tác giả. )
- Mùa Hạ sẽ cho thấy các sao Tỉnh 井, Quỉ 鬼, Liễu 柳, Tinh 星, Trương 張,
Dực 翼, Chẩn 軫 mọc lặn cùng với mặt trời.
- Mùa Thu, sẽ thấy các sao Khuê 奎, Lâu 婁, Vị 胃, Mão 昴, Tất 畢, Chủy 觜,
Sâm 參 hiện ra ở phía trời Đông cùng với trăng rằm.
(Xem hình vẽ trên và xét vị trí của Nhị thập bát tú theo 4 phương hướng,
vào lúc sáng sớm, ban ngày, chiều, tối.)
Còn như ta muốn biết mùa nào, mặt trời ở chòm sao nào trong Nhị thập
bát tú ta sẽ thấy:
- Mùa Xuân, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão,
Tất, Chủy, Sâm.
- Mùa Hạ, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh,
Trương, Dực, Chẩn.
- Mùa Thu, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Giác, Cang, Đê,
Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.
- Mùa Đông, mặt trời lần lượt ở trong các chòm sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư,
Nguy, Thất, Bích.
Nói cách khác, tùy theo mùa, những chòm sao nói trên sẽ lần lượt mọc và
lặn với mặt trời.
Tam Viên nằm ở khu vực giữa của bầu trời – Bắc Thiên Cực. Khu vực dải
nằm giữa con đường mà mặt trăng đi qua ban đêm và mặt trời đi qua ban
ngày được phân chia theo 28 chòm – 28 Tòa nhà của sao, tức Nhị thập
bát Tú. Trong mỗi chòm có một Ngôi sao là chủ tinh, là ngôi nằm gần
nhất Bạch đạo, dù ngôi sao đó có thể không phải là sáng nhất.
Có tài liệu nói rằng ghi chép về Nhị thập bát tú đã được tìm thấy có từ
thời Chiến quốc, 400 TCN ở Hồ Bắc, và khẳng định nó có sớm nhất là vào
thế kỷ 5 TCN, trong Sử Ký cũng viết về các chòm. Nhưng việc phân chia
thành các cung theo Ngũ hành thì phải đến đời Tần mới có, và việc gán
tên các con vật thì còn muộn hơn, có thể là chịu ảnh hưởng của Ấn Độ,
giống như gán các con giáp vào các chi vậy. Điều đáng lưu ý là trong kinh
điển Ấn Độ cổ cũng đề cập đến các chòm sao quanh Bạch đạo, và cũng
nêu con số 27 hoặc 28. Tuy các chòm không trùng nhau, nhưng trong mối
quan hệ giao lưu văn hóa thông qua Phật giáo, chúng cũng được gọi
chung là Nhị thập bát Tú.
Quanh Thiên Cực được quy ước chia làm 4 phương Đông Tây Nam Bắc,
28 Tú cũng được chia là 4 cung, mỗi cung 7 chòm, đó là:
Thanh Long – Rồng xanh - phương Đông - hành Mộc, mùa xuân, gồm:
Giác – Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ.
Bạch Hổ - Hổ trắng - phương Tây - hành Kim, mùa thu, gồm:
Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm.
Chu Tước – Chim đỏ - phương Nam - hành Hỏa, mùa hạ, gồm:
Tỉnh – Quỷ - Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.
Huyền Vũ – Rùa, rắn đen – phương Bắc, hành Thủy, mùa đông, gồm:
Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Ngụy – Thất – Bích.
Nếu xếp theo vòng Đông – Tây – Nam – Bắc thì như vậy.
Có thể theo Xuân – Hạ – Thu – Đông thì xuôi chiều kim đồng hồ là Thanh
Long – Chu Tước – Bạch Hổ - Huyền Vũ.
Tuy nhiên thường 28 Tinh tú được xếp theo vòng vận động trời đất là
Đông – Bắc – Tây – Nam, ngược chiều kim đồng hồ, tức Thanh Long –
Huyền Vũ – Bạch Hổ - Chu Tước, vì vậy thứ tự các Tinh tú là : Giác –
Cang – Đê – Phòng – Tâm – Vĩ – Cơ – Đẩu – Ngưu – Nữ - Hư – Nguy –
Thất – Bích – Khuê – Lâu – Vị - Mão – Tất – Chủy – Sâm – Tỉnh – Quỷ -
Liễu – Tinh – Trương – Dực – Chẩn.
Việc đặt tên các Tinh tú cũng đặc biệt. Mỗi tên gồm 3 chữ, chữ đầu là tên
gọi tắt như trên, không thống nhất. Trong đó có bộ phận cơ thể (sừng, cổ,
tim,…), có đồ vật (đấu, giỏ, lưới, xe), có con người (nữ), con vật (trâu),
có kiến trúc (phòng, tường, giếng,…,), có cả các khái niệm (gốc, hư,…).
Dường như không có quy tắc. Việc này có lẽ phản ánh tư duy phóng
khoáng không gò bó cổ đại.
Chữ thứ 2 là một trong Thất chính lần lượt theo thứ tự: Mộc - Kim - Thổ -
Nhật - Nguyệt - Hỏa - Thủy, tinh tú nào có chữ tương ứng sẽ là phù trợ
cho Hành tinh ấy. Thuyết Ngũ hành đời Tần đã đem một khuôn khổ quy
luật vào đây.
Chữ cuối cùng là tên 1 con vật, gồm cả vật nuôi, vật hoang, và thần
thoại.
Con số 7 cũng là một cơ số quan trọng đối với người Trung Hoa. Có học
giả cho rằng thời cổ đại người Trung Hoa chưa dùng cơ số 10, mà mới
dùng cơ số 7, nên để lại một số dấu vết như tục cúng bảy bảy bốn chín
ngày. Con số 7 được dùng trong Đạo giáo nhiều hơn.
Trong đồ hình trên bầu trời, Thanh Long phương Đông nằm ở bên trái,
Chòm Giác Đông Nam ở góc dưới bên trái, theo đúng Hậu Thiên bát quái
là Trời bắt đầu mở ở Đông Nam, vòng dần lên trên vòng dần lên trên tức
là theo phương Nam mà xoay vòng (trên bầu trời phương vị ngược với
mặt đất).
Vị trí cụ thể các chòm Nhị thập bát tú trong các bản đồ sau, trong đó ngôi
màu trắng là chủ tinh. Đường màu đỏ ở giữa là Thiên xích đạo, đường
cong màu xanh là Hoàng đạo.
Chòm Thanh Long – phía Đông, mùa Xuân
Chòm Huyền Vũ – phía Bắc, mùa Đông.
Việc phân chia 28 chòm sao này có từ thời cổ đại, và người Trung Hoa
không muốn thay đổi những kiến thức của người đi trước, nên họ chấp
nhận nó đến hàng ngàn năm sau. Trên thực tế việc dùng 28 chòm có một
cái tiện lợi là xác định đường đi của mặt trăng, nhưng có nhiều bất tiện.
Trước hết là các chòm không chiếm những cung bằng nhau; có cung như
Tỉnh góc lớn hơn 30 độ, trong khi cung Chủy chưa đến 3 độ. Điều này là
do độ lớn các chòm chênh lệch quá nhiều, có chòm chỉ có 2 sao, trong khi
chòm khác 22 sao. Độ sáng biểu kiến cũng rất khác nhau, rồi có chòm
như Chủy gần như nằm lọt vào giữa chòm Sâm, nên không mang tính
khoa học.
Trong văn hóa Ấn Độ cũng có 27 hoặc 28 chòm sao nằm trong khu vực
mặt trời và mặt trăng đi qua, nhưng không trùng với nhị thập bát tú. Các
chòm sao của Ấn Độ mang tính khái quát nhiều hơn, tượng trưng cho tất
cả các vì sao trên bầu trời. Vì vậy trong kinh Phật giáo cũng nói đến các
chòm sao, và khi sang Trung Quốc, được các hòa thượng biên dịch là Nhị
thập bát tú luôn, để thống nhất với quan sát, khoa học và truyền thống
bản địa.
Trong cuốn sách Y thuật cổ “Hoàng Đế nội kinh”, Nhị thập bát tú ứng với
28 mạch trong cơ thể, trời xoay một vòng qua hết 28 Tú thì cúng tương
ứng với mạch vận động 1 chu trình trong cơ thể con người.
Nhị thập bát Tú (28 sao) luân lưu chủ ngày để đoán cát hung do
các nhà chiêm tinh đời Đường đưa ra. Lịch Hội thiên thời Nam Tống đã áp
dụng vào Trạch cát theo cách sau:
28 sao phân ra khắp tất cả trong 60 long, bắt đầu khởi từ Giáp Tý là Giốc
mộc giảo, đi thuận đến Ất Sửu là cang kim long, đến Bính Dần là chi thổ
lạc, hết 1 vòng lại trở ngược lại, bắt đầu khởi từ Giốc, luân chuyển ra 2
vòng, mỗi sao đều quản 2 long. Chỉ có 4 sao: Giốc, cang, chi (đê), phòng
đều được quản 3 long, để cho đủ số 60 mà đủ tra sao khởi quái trì theo
xét cách sử dụng của tứ cát, lại còn 1 phép nữa như là 60 long Giáp Tý
nạp âm kim long, là Giáp mộc giao quản cục, tức mộc thụ kim long, đây
là sao khắc, chịu chế ngự, vậy khi phân kim không nên dùng kim độ tọa
huyệt, vì sao mộc chịu khắc quá nhiều thì không tốt, lại như:
Bính Ngọ thủy long nguyên là khuê mộc lang quản cục, là cầm tinh được
thủy long, sinh, thật là tốt thượng hạng. Vì vậy được phân kim tọa độ
lưỡng nghi thì càng tốt, mọi cái khác cũng vậy sẽ suy ra.
Chỉ có 4 cung chính là Tý, Ngọ, Mão, Dậu được 3 sao, còn các cung khác
mỗi cung chỉ
có 2 sao; mà 4 sao là Phòng, Hư, Mão, Tinh là nhật tú là Trung cung.
Vì khí tiết hậu bạc, viễn cận bất đông, nên có sự nhiều ít khác nhau. Theo
lịch của triều ta thì rõ rệt để cứu xét, tôi căn cứ vào sự sai biệt đó để suy
luận thì thấy lịch hàng năm, đều thay đổi, không triều đại nào là không
mà lịch của tây (tây gọi là dương lịch, á gọi âm lịch) dương thì rất hợp vậy
độ của các sao ở một bàn trong La kinh nên đổi cũ theo mới, để tiện việc
thu sơn xuất sát, su cát, tị hung, làm phúc cho người đời. Xưa Lai Công
lấy 28 sao để xem sa, chính là ở lẽ này vậy. Mỗi phương có 7 vì sao, mà
sơn chỉ có 6 sơn. Theo thiên thôi quan thì sao liễu phối Đinh, sao tinh phối
Ngọ, sao trương phối Bính, sao dực phối Ất, chỉ có 1 sao Chấn là không
phối với sơn nào cả, tức là thiếu không có sơn để phối. Tý, Ngọ, Mão, Dậu
là 4 ngôi chính, nên đem nhật nguyệt, nhị tú mà song phối, còn các sơn
khác thì mỗi sơn phối 1 sao, mới ổn định được. Những sơn phối lại có thứ
tự là: sơ quan, trung quan, mạt quan như sao thất hỏa chư có 17 độ, thì
độ 1 và độ 2 là sơ quan, độ 8 và 9 là trung quan, độ 16 và 17 là mạt
quan. Nhưng lấy thời tiết chuyển đi mà tính ngày thì độ 16 và 17 là sơ
quan, độ 8 và 9 là trung quan, độ 1 và 2 là mạt quan, như thế ta đủ thấy
độ số của các sao, cùng với sự tiêu sa ở nhân bàn, trong thông,
sự cát hung chóng, chậm đều căn cứ ở trong đó mà phân biệt ra, phần
này ở trung châm nhân bàn, đưa chuyển và phân phối 28 sao với 24 sơn
như là: Tốn giác, Thìn cang, Ất chi, Mão phòng, Tân Giáp, vỹ Dần, cơ Cấn,
đẩu Sửu, ngưu Quý, nữ Tý, hư và nguy là Nhâm, thất Hợi, bính Kiền, khuê
Tuất, lâu Tân, vị Dậu, Mão Canh, tất Thân, chủy Khôn, sâm Mùi, tỉnh
Đinh, Quý Ngọ, liễu và tinh là Bính, trương dực là Tị, Chấn, đó là đủ
28 sao.
Đây là ai tinh nhân bàn, hợp với 365 độ, chu vi quanh vòng trời qua 28
sao. Thượng quan, trung quan, mạt quan, mỗi sơn 1 sao, chỉ có Tý, Ngọ,
Mão, Dậu là 4 ngôi chính, lấy song tinh nhật, nguyệt phối với đó, có dùng
về việc tiêu sa, là diệu quyết của thiên cư.
( dienbatn sẽ đi sâu vào việc này trong phần LA KINH THẤU GIẢI ).
Xin xem tiếp bài 27. dienbatn.
PHONG THỦY LUẬN BÀI 27 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Theo chu kỳ thì 28 năm, sao sẽ trở lại như ban đầu, bắt đầu từ nhóm sao ở phương Tây
(Bạch Hổ), xuống phương Nam (Chu Tước), lên phương Đông (Thanh long) và phương Bắc
(Huyền vũ).
Cách tính
Sau Công nguyên, lấy số năm chia cho 28, nếu số dư bằng 0 thì năm đó do sao Khuê gây ảnh
hưởng (số dư chớ không phải số thành), nếu số 1 = sao Lâu, số 2 = sao Vị... (xem bảng số bên
dưới).
Bắt đầu từ sao Khuê và theo thứ tự tiếp tục cộng 1. Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm,
Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu,
Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.
Thí dụ
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 1990?
Lấy số 1990 chia cho 28, số dư còn lại là 2. So vào bảng số tính năm cho sao thấy số 2 thuộc
sao Vị. Vậy sao của năm 1990 là sao Vị (số thành là 71, không tính).
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 1996?
Lấy số 1996 chia cho 28, số dư còn lại là 8. So vào bảng số thấy số 8 thuộc sao Quỷ. Vậy sao
của năm 1996 là sao Quỷ.
* Tìm sao gây ảnh hưởng cho năm 2006?
Lấy số 2006 chia cho 28, số dư còn lại là 18. So vào bảng số thấy số 18 thuộc sao Đê. Vậy sao
của năm 2006 là sao Đê.
- Nếu T + 5 < 28 thì chính T + 5 là số sao của tháng Giêng cần tìm vậy.
Chú thích: Dấu > là lớn hơn; dấu < là nhỏ hơn.
* Tính tháng khởi đầu bằng sao Giác của chòm sao Thanh long ở phương Đông, tiếp theo là
chòm sao Huyền vũ ở phương Bắc, kế đến là chòm sao Bạch hổ ở phương Tây và cuối cùng
là chòm sao Chu tước ở phương Nam trở lại sao Giác như lúc khởi đầu bằng số 1, Cang 2, Đê
3, Phòng 4... Chẩn 28. Thứ tự 28 sao được sắp xếp như sau:
Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị,
Mão, Tất, Chủy, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.
* Biết được sao tháng Giêng của năm thì tính các tháng kế tiếp rất dễ dàng theo thứ tự các
sao ghi trên.
* Gặp tháng nhuần thì tính như tháng trước. Thí dụ như năm Bính Tuất (2006) là năm
nhuần, nên có hai tháng 7. Tháng 7 đầu thuộc sao Đê thì tháng 7 nhuần sau cũng vẫn thuộc
sao Đê, tháng 8 mới qua ảnh hưởng của sao Phòng.
Thí dụ
* Tìm sao của tháng Giêng năm 1990?
Lấy số 1990 chia cho 7, số dư còn lại là 2 (D). Lấy số dư 2 x 12 = 24 (T) + 5 = 29 (S). Vì S > 28,
nên lấy số 29 - 28 = 1
Vậy sao của tháng Giêng năm 1990 là sao Giác (S = 1).
* Tìm sao của tháng Giêng năm 1996?
Lấy số 1996 chia cho 7, số dư còn lại là 1 (D). Lấy số dư 1 x 12 = 12 (T) + 5 = 17 (S).
Vậy sao của tháng Giêng năm 1996 là sao Vị (S = 17).
* Tìm sao của tháng Giêng năm 2006?
Lấy số 2006 chia cho 7, số dư còn lại là 4 (D). Lấy số dư 4 x 12 = 48 (T) + 5 = 53 (S).
Vì S > 28, nên lấy số 53 - 28 = 25. Theo thứ tự số 25 là sao Tinh
Vậy sao của tháng Giêng năm 2006 là sao Tinh (S = 25).
Theo Thiên văn học phương Đông thì mỗi tháng mặt trời ( Thái dương )
sẽ chuyển vầng Khí ( đi qua ) một cung độ như sau : Vòm trời 360 độ.
* Tiết Vũ thủy , mặt trời chuyển qua cung Hợi sơ độ, khi đó ra khí " Trâu
tử ".
* Tiết Xuân phân , mặt trời chuyển qua cung Tuất sơ độ, khi đó ra khí "
Giáng lâu ".
* Tiết khí Cốc vũ - Cung Dậu sơ độ - Khí Đại lương.
* Tiết khí Tiểu mãn - Cung Thân sơ độ - Khí Thực trầm.
* Tiết khí Hạ chí - Cung Mùi sơ độ - Khí Thuần thủ.
* Tiết khí Đại thử - Cung Ngọ sơ độ - Khí Thuần hỏa.
* Tiết khí Xử thử - Cung Tị sơ độ - Khí Thuần vĩ.
* Tiết khí Thu phân - Cung Thìn sơ độ - Khí Thọ tinh.
* Tiết khí Sương giáng - Cung mão sơ độ - Khí Đại hỏa.
* Tiết khí Tiểu tuyết - Cung Dần sơ độ - Khí Tích mộc.
* Tiết khí Đông chí - Cung Sửu sơ độ - Khí Tinh kỷ.
* Tiết khí Đại hàn - Cung Tý sơ độ - Khí Huyền hiếu.
* Tý tướng:
- Đại hàn - Sao Giốc ( 1 độ 28 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân ( 1
khắc=15 phút, 1 phút = 1 phân ).
- Lập xuân - Sao Đê - ( 1 độ 43 phút ) -Giờ Mão sơ 3 khắc 5 phân.
* Hợi tướng :
- Vũ thủy - Sao Phòng ( 1 độ 21 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 7 phân.
- Kinh chập - Sao Tâm ( 1độ 47 phút ) - Giờ Dần chính 2 khắc 9 phân.
* Tuất tướng .
- Xuân phân - Sao Vĩ ( 1 độ 25 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 10 phân.
- Thanh minh - Sao Vĩ ( 2 độ 37 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân.
* Dậu tướng.
- Cốc vũ - Sao Cơ ( 4 phút 31 độ ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân.
Lập hạ - Sao Cơ ( 3 độ 51 phút ) - Giờ Dần sơ 0 khắc 13 phân.
* Thân tướng.
- Tiểu mãn - Sao Dẩu ( 2 độ 51 phút ) - Giờ Sửu sơ 3 khắc 15 phân.
Mang chủng - Sao Đẩu ( 7 độ 57 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 11 phân.
* Mùi tướng.
- Hạ chí - Sao Nữ ( 1 độ 8 phút ) - Giờ Sửu sơ 1 khắc 18 phân.
Tiểu thử - Sao Nguy ( 3 độ 39 phút ) - Giờ Sửu sơ 2 khắc 3 phân.
* Ngọ tướng.
- Đại thử - Sao Thất ( 1 độ 42 phút ) - Giờ Sửu chính Sửu 3 khắc 5 phân.
- Lập thu - Sao Bích ( 0 độ 33 phút ) - Giờ Sửu chính 3 khắc 3 phân.
* Tị tướng.
- Xử thử - Sao Lâu ( 1 độ 31 phút ) - Giờ Dần sơ 2 khắc 8 phân.
- Bạch lộ - Sao Vị ( 0 độ 20 phút ) - Giờ Dần sơ 1 khắc 10 phân.
* Thìn tướng.
- Thu phân - Sao Tất ( 2 độ 51 phút ) - Giờ dần chính 1 khắc 10 phân.
Hàn lộ - Sao Sâm ( 0 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 3 khắc 1 phân .
Mão tướng.
- Sương giáng - Sao Tỉnh ( 2 độ 2 phút ) - Giờ Dần chính 1 khắc 9 phân.
- Lập đông - Sao Quỷ ( 1 độ 43 phút ) - Giờ Mão sơ 1 khắc 5 phân.
* Dần tướng .
Tiểu tuyết - Sao Liệu ( 6 phút 2 độ ) - Giờ Dần chính 3 khắc 12 phân.
Đại tuyết - Sao Dực ( 3 độ 9 phút ) - Giờ Mão sơ 2 khắc 10 phân.
Sửu tướng.
- Đông chí - Sao Dực ( 5 độ 38 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 10 phân.
- Tiểu hàn - Sao Chuẩn ( 2 độ 20 phút ) - Giờ Mão sơ 0 khắc 7 phân.
Nhị thập tứ khí gốc là do một khí. Lấy cả năm mà nói, thì chỉ có một khí.
Lấy bốn mùa mà nói thì cũng chỉ là một khí phân thành bốn khí. Lấy 12
tháng mà nói thì cũng là một khí phân thành 6 khí. Cho nên 6 khí Âm, 6
khí Dương là 12 khí.
Lại trong 6 khí Âm, 6 khí Dương mỗi khí đều có đầu có cuối, nên lại chia
thành 24 khí. Mỗi khí trong 24 khí lại có 3 ứng, cho nên lại chia thành 3
hầu. Như vậy có 72 hầu, mà chung quy vẫn là một khí. Từ một khí thành
4, thành 12, thành 24, thành 72, tất cả đều là phân đoạn của một khí mà
thôi.
Ở Trung Cung, sao Thiên Cực sáng nhất. Đó là sở cư của Thái Nhất. Bên
cạnh là 3 ngôi sao, gọi là Tam Công hay Tử Thuộc.
Phía sau, xếp theo hình cong, có 4 sao: sao phía sau cùng sáng nhất là
Chính Phi, còn 3 sao kia cũng thuộc về hậu cung. Chung quanh có 12 sao
hợp thành một đội cận vệ, gọi là Phiên Thần. Tất cả (4 chòm sao nói trên:
Thiên Cực, Tử Thuộc, Tứ Phụ, Phiên Thần) là Tử Cung.
Phía trước xếp thẳng hàng với miệng Bắc Đẩu (le Boisseau) là 3 ngôi sao
hợp thành một hình nhọn, đầu hướng về phía Bắc, lúc ẩn, lúc hiện, gọi là
Âm Đứchay Thiên Nhất.
Phía tả Tử Cung có 3 sao gọi là Thiên Thương (cây giáo trời). Phía hữu có
3 sao gọi là Thiên Bảng (gậy trời dùng để đánh).
Phía sau có 6 sao, băng qua sông Ngân Hà đến tận chòm sao Doanh Thất,
nên gọi là Các Đạo (đường treo).
Bắc Đẩu gồm 7 sao, đã được Thư Kinh đề cập đến khi nói rằng (vua
Thuấn) quan sát tuyền ki và ống ngọc hành để điều chỉnh thất chính.
Sao Tiêu gần với sao Giác. Sao Hành dẫn tới chòm sao Nam Đẩu. Sao
Khôi dựa vào chòm sao Sâm.
Nếu xem sao vào chập tối, sẽ thấy sao Tiêu Tử khoảng núi Hoa đến Tây
Nam.
Nếu xem sao vào nửa đêm, sẽ dùng sao Hành làm chuẩn. Sao Hành ở
giữa khoảng miền Trung Châu, giữa sông Hoàng Hà và sông Tế.
Buổi sáng nhìn sao Khôi. Sao Khôi ở giữa miền biển, núi Đại, và phía
Đông Bắc.
Chòm sao Bắc Đẩu là xe trời. Nó vận chuyển ở trung ương, chỉ huy bốn
phương, phân Âm Dương, định bốn mùa, điều hòa ngũ hành, chi phối mọi
sự, chuyển hó`a thời tiết, định độ số trời.
Ở đầu sao Khôi có 6 sao xếp theo hình vuông, gọi là Văn Xương. Sao thứ
nhất là Thượng Tướng, sao thứ hai là Thứ Tướng, sao thứ ba là Quí Tướng,
sao thứ tư là Tư Mệnh (định vận mệnh), sao thứ năm là Tư Trung (coi về
nội vụ), và sao thứ sáu là Tư Lộc (coi về tưởng thưởng).
Ở khoảng giữa nhửng sao Khôi Đẩu là nhà lao giam những bậc quí nhân.
Ở phía dưới sao Khôi có 6 sao xếp thành từng đôi một, gọi là Tam Năng
(Tam Thai).
Nếu sao Tam Thai mà sáng đều, quân thần sẽ hòa hợp; nếu không sáng
đều, quân thần sẽ gàng quải, xung đột.
Nếu sao Phụ mà sáng, thì các quan đại thần sẽ mạnh; nếu sao Phụ mà
nhỏ thì đại thần nhát sợ và yếu.
Ở đầu sao Tiêu có hai sao: Một sao phía trong là Mâu, hay Chiêu Diêu;
một sao phía ngoài là Thuẫn, hay Thiên Phong.
Ngoài ra, còn có 15 sao hợp thành một vòng tròn, cũng thuộc sao Tiêu,
gọi là tiện nhân chi lao (lao tù của người hèn). Nếu sao ở giữa chòm mà
sáng, thì tù nhân sẽ nhiều; nếu mờ thì tù nhân sẽ ít.
Nếu sao Thiên Nhất, Thiên Bảng, Mâu, Thuẫn mà lấp lánh nhiều và tỏa ra
nhiều tia sáng, thì sẽ có giặc giã lớn.
II. ĐÔNG CUNG
(Bàn về 7 chòm sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ)
Đông Cung Thanh Long có các chòm sao Phòng, Tâm.
(1) Tâm là Minh Đường. Sao lớn nhất là Thiên Vương (Antarès). Sao phía
trước và sao phía sau nó là các sao con gái. Ba sao này không nên thẳng
hàng nhau. Nếu thẳng hàng nhau, thì sao Thiên Vương sẽ sai lầm trong
mưu tính.
(2) Sao Phòng là Phủ Khố, cũng gọi là Thiên Tứ (sao Tứ mã nhà trời).
Sao về phía Bắc nhất là con ngựa phía bên phải nhất của cỗ xe. Cạnh nó
có hai ngôi sao gọi là Kiềm. Phía Bắc có một sao gọi là Hạt. Ở phía Đông
Bắc có 12 sao, xếp thành hình cong gọi là Kì (cờ). Bốn vì sao giữa chòm
sao Kì gọi là Thiên Thị. Sáu ngôi sao ở giữa gọi là Thị Lâu.
Nếu ở trong Thiên Thị mà có nhiều sao, thì dân chúng buôn bán phát tài.
Nếu ít sao thì sẽ bị hư hao. Phía Nam chòm sao Phòng là Kị Quan.
(3) Phía tả sao Giác là sao Lý (Thiên Điền), phía hữu là sao Tướng (Thiên
Môn).
Sao Đại Giác (Arcturus du Bouvier) là Thiên Vương đế đình. Mỗi phía cạnh
sao Đại Giác đều có 3 sao như hình chân vạc, gọi là Nhiếp Đề. Nhiếp Đề
chỉ thẳng vào miền sao Tiêu của Bắc Đẩu chi, vì thế gọi là Nhiếp Đề cách.
(4) Sao Cang là Sơ Miếu, chủ tật bệnh. Phía Nam và phía Bắc sao Cang có
hai sao sáng gọi là Nam Môn.
(5) Sao Đê là Thiên Căn, chủ ôn dịch.
(6) Nhóm sao Vĩ gồm 9 sao. Nếu những sao này mà hoặc mờ hoặc sáng
thất thường thì vua tôi sẽ lục đục bất hòa.
(7) Chòm sao Cơ còn gọi là Ngạo Khách, chủ khẩu thiệt. Nếu Hỏa Tinh
phạm vào địa phận sao Giác, sẽ có chinh chiến. Nếu thấy sao Hỏa phạm
vào không phận sao Phòng, Tâm, thì vua chúa cũng rất lo ngại.
III. NAM CUNG
(Bàn về Thái Vi viên và 7 sao Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn; và
Hiên Viên kỳ)
[Thái Vi viên]
Nam Cung Chu Điểu gồm có hai chòm sao tiêu biểu là Quyền và Hành.
Hành tức là sân đình Thái Vi của Tam Quang.
12 sao xếp thành hàng vây quanh gọi là Phiên Thần. Phía Tây gọi là
Tướng (võ), phía Đông gọi là Tướng (văn). Phía Nam có 4 sao gọi là Chấp
Pháp. Ở giữa là Đoan Môn, hai bên là Dịch Môn. Trong cửa có 6 sao, gọi là
Chư Hầu. Trong nữa, có Ngũ Đế Tọa.
Phía sau có một chòm sao dày, gồm 15 sao, gọi là Lang Vị. Cạnh đó có
một sao lớn gọi là Tướng Vị (Lang Tướng).
Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh vào vùng Thái Vi thuận chiều (tức là từ phía
Tây lại), và ra thuận chiều, ta sẽ để ý chỗ chúng ra nơi đâu, nhà vua sẽ
chém giết ở đó.
Nếu chúng mà vào ngược chiều (tức là từ phía Đông lại) và phạm vào Đế
Tọa, thì biết rằng bầy tôi sẽ mưu loạn. Nếu Kim Tinh và Hỏa Tinh phạm
vào Thái Vi thì lại càng tệ hơn nữa.
Phía Tây hàng sao Phiên Thần có 6 sao gọi là Thiếu Vi, chia thành Sĩ và
Đại Phu.
[Hiên Viên Kỳ]
Chòm sao Hiên Viên. Hiên Viên tức là mình con rồng vàng. Trước nó có
một ngôi sao lớn gọi là Nữ Chủ (Régulus). Nếu mặt trăng và Ngũ Tinh
phạm vào chòm sao Quyền (Hiên Viên), thì hay và dở cũng y như là đối
với chòm sao Hành.
[7 sao: Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn]
(1) Chòm sao Đông Tỉnh chủ về nước. Phía Tây nó có một ngôi sao gọi là
Việt. Phía Bắc sao Việt là sao Bắc Hà. Phía Nam sao Việt là sao Nam Hà.
(2) Chòm sao Dư Quỉ chủ sự cúng tế tổ tiên. Ở giữa chòm sao này thấy có
vệt trắng, đó là Chất. Nếu sao Hỏa Tinh mà ở nơi các sao Nam Hà và Bắc
Hà, thì sẽ xảy ra binh đao, mất mùa.
Như vậy nếu có đức, thì thấy [sao Hỏa] ở chòm sao Hành, muốn coi điềm
thì xem [sao Hỏa] ở chòm sao Hoàng. Sao Hỏa mà ở nơi sao Việt thì sẽ
thất trận; sao Hỏa ở nơi chòm sao Quỉ sẽ có sự tàn sát. Nếu sao Hỏa ở
chòm sao Tỉnh, sẽ có tai họa.
(3) Sao Liễu là mỏ chim (Chu Tước) chủ về cây cỏ.
(4) Chòm sao Thất Tinh hay Cảnh là cổ chim (Chu Tước) chủ về những
chuyện cấp thời.
(5) Trương hay Tố, là cái diều [chim], chủ bếp nước và yến tiệc.
(6) Dực là lông cánh, chủ về viễn khách.
(7) Chẩn là cỗ xe, chủ gió. Cạnh nó có một sao gọi là Trường Sa. Trường
Sa thường không sáng. Nếu sáng thì cũng sáng tỏ như 4 vì sao khác trong
chòm sao Chẩn.
Phía Nam sao Tỉnh có nhiều sao, gọi là Thiên Khố Lâu. Khố Lâu có 5 xe.
Nếu chúng chiếu sáng, tăng thêm số sao, thì sẽ không có đủ chỗ để chứa
xe và ngựa.
IV. TÂY CUNG
(Bàn về chòm sao Hàm Trì và 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm)
[Chòm sao Hàm Trì: le Cocher]
Tây Cung là Hàm Trì. Người ta còn gọi nó là Thiên Ngũ Hoàng hay Ngũ Đế
Xa Xá (nhà chứa 5 xe của vua).
Nếu sao Hỏa vào đó, sẽ xảy ra hạn hán. Nếu sao Kim Tinh vào đó, sẽ xảy
ra lụt lội.
Ở giữa có sao Tam Trụ. Nếu Tam Trụ không đủ 3 sao, sẽ xảy ra chiến
tranh.
[7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm]
(1) Sao Khuê cũng gọi là Phong Thỉ, chủ ngòi lạch.
(2) Sao Lâu chủ về quần chúng tập hợp.
(3) Sao Vị là kho trời. Phía Nam sao Vị có một chòm sao gọi là Quái Tích
(đống cỏ khô).
(4) Sao Mão cũng gọi là sao Mao Đầu, là sao của rợ Hồ, chủ về tang tóc.
(5) Sao Tất cũng gọi là sao Hãn Xa (xe săn), chủ về giặc giã nơi biên
thùy, hoặc săn bắn. Gần một vì sao lớn của chòm sao này, có sao Phụ
Nhĩ. Nếu sao Phụ Nhĩ mà sáng, thì sẽ có những bầy tôi xàm loạn bên cạnh
vua.
Giữa sao Mão và Tất có sao Thiên Nhai (đường trời). Phía Bắc nó là các
nước thuộc Âm, phía Nam nó là các nước thuộc Dương.
(6) Sâm là Bạch Hổ. ba sao thẳng hàng gọi là Hành Thạch. Dưới có 3 sao
hình nhọn, gọi là Phạt, chủ về trảm quyết. Bốn sao phía ngoài là hai vai,
hai đùi trái phải.
Ba sao xếp thành hình nhọn gọi là Trủy Huề. Trủy Huề là đầu hổ, chủ về
quân lữ và bảo vệ đất đai. Ở dưới chúng có 4 sao gọi là Thiên Sí.
Dưới sao Thiên Sí có sao Thiên Thỉ. Nếu có màu vàng thì tốt; nếu có màu
trắng thì hung.
(7) Ở phía Tây chòm sao Chủy có các sao hợp thành các đường khúc
khuỷu, từng chòm sao một. Một chòm gọi là Thiên Kỳ, một chòm gọi là
Thiên Uyển, một chòm gọi là Cửu Du.
Ở phía Đông các sao ấy có một sao sáng lớn gọi là sao Lang. Nếu sao
Lang chiếu sáng hay thay mầu, sẽ có nhiều đạo tặc.
Ở dưới sao Lang có 4 sao gọi là Hồ, chiếu thẳng vào sao Lang.[22]
Đối ứng với sao Lang có một sao lớn gọi là Nam Cực Lão Nhân.[23] Khi
sao này sáng tỏ, sẽ bình trị. Nếu không thấy nó, sẽ có binh biến. Thường
người ta hay ra Nam giao (cánh đồng phía Nam) để xem sao này vào
ngày Thu Phân.
Nếu sao Phụ Nhĩ mà tiến gần với sao Tất, sẽ có binh biến.
V. BẮC CUNG
(Nói về các sao: Đẩu Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích)
Bắc cung gọi là Huyền Vũ, đặc biệt tượng trưng bởi hai sao Hư và Nguy.
(1) Nguy chủ về mái nhà.
(2) Hư chủ về than khóc. Ở phía Nam có một chòm sao gọi là Vũ Lâm
Thiên Quân. Phía tây chòm sao đó có chòm sao Lũy, nhiều khi còn gọi là
Việt. Cạnh đó có một sao lớn gọi là Bắc Lạc (Fomalhaut du Poisson
Austral). Nếu Bắc Lạc mà mờ, thì sẽ hao binh. Nếu sao Bắc Lạc mà không
tỏa sáng đủ, hay nếu ngũ tinh mà phạm vào chòm sao Bắc Lạc hoặc Vũ
Lâm Thiên Quân, thì sẽ có chuyện hưng binh.
Thủy, Hỏa, Kim Tinh mà phạm vào thì lại càng tệ. Hỏa Tinh phạm, sẽ
hao binh. Thủy Tinh phạm, quân sĩ sẽ phải lo lường. Thổ và Mộc Tinh
đóng vào, quân sĩ sẽ gặp may.
Ở phía Đông chòm sao Nguy có 6 sao gọi là Tư Không (đúng ra phải gọi là
Tư Mệnh).
(3) Chòm sao Doanh Thất là Thanh Miếu, là Ly Cung, hay Các Đạo. Ở giữa
giải Ngân Hà có 4 sao gọi là Thiên Tứ. Ở cạnh nó có một sao gọi là Vương
Lương.[24]Khi Vương Lương mà đánh ngựa, thì binh mã sẽ chật đồng.
Gần đó có 8 sao gọi là Thiên Hoàng.
Cạnh Thiên Hoàng có Giang Tinh. Nếu sao đó mà giao động, thì người ta
phải lội sông.
Chử Cửu là 4 sao phía Nam sao Nguy. Khi sao Bào Qua bị hànmh tinh
xanh hay đen đóng vào, thì cá và muối sẽ đắt.
(4) Chòm sao Nam Đẩu là miếu mạo. Phía Bắc nó có chòm sao Kiến Tinh,
và Kiến Tinh có hình lá cờ.
(5) Sao Khiên Ngưu chủ về vật hi sinh. Phía Bắc nó có chòm sao Hà Cổ.
Sao lớn là Thượng Tướng, hai sao tả hữu là Tả Tướng và Hữu Tướng.
(6) Ở phía Bắc Vụ Nữ có sao Chức Nữ. Chức Nữ là cháu gái trời.
I. Tử Vi Viên 紫 微 垣
Tử Vi Viên tức là nội cung, nội tẩm, gồm 54 sao hay chòm sao. Ta thấy
Thiên Hoàng Đại Đế 天 皇 大 帝 ngự ở ngôi Bắc Thần 北 辰. Có Câu Trần 勾
陳 làm cận vệ, có Đế Tọa 帝 座 (Thiên Đế Tinh: l’Étoile souveraine du ciel),
có Thiên Sàng 天 床 (le Lit de justice céleste), có lọng che (Hoa Cái 華 蓋 và
Giang 杠: le Baldaquin), lại có các Hậu Phi 后 妃 (les Reines), Thái Tử 太 子
(le Prince Impérial), các Thứ Tử 次 子 (les fils de concubine), các công
chúa (Ngự Nữ 御 女: les filles impériales).
Điểm qua hàng phụ tá, ta thấy có:
- Tứ Phụ 四 輔 (les quatre Supports)
- Thượng Thư 尚 書 (le Secrétaire)
- Trụ Sử 柱 史 (Ngự sử: Censeurs)
- Đại Lý 大 理 (les Juges)
- Tam Sư 三 師 (les Trois Gouverneurs)
- Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers)
- Tướng 相 (le Ministre)
- Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences)
- Văn Xương 文 昌 (les Accomplis)
- Thái Tôn 太 尊 (les Grands Augustes)
- Thiên Ất 天 乙 (la Première du Ciel)
- Thái Ất 太 乙 (l’Archie première)
- Lục Giáp 六 甲 (les Six Chefs)
- Thái Dương Thủ 太 陽 守 (le Gardien resplendissant)
- Truyền Xá 傳 舍 (le Maître du Logis)
Ngoài ra còn có:
- Thiên Trù 天 廚 (la Cuisine céleste)
- Nội Trù 內 廚 (la Cuisine intérieure)
- Thiên Lao 天 牢 (la Prison céleste)
- Tả Khu 左 樞 (le Pivot droit)
- Hữu Khu 右 樞 (le Pivot gauche)
Và nhất là chiếc xe trời: Đế Xa 帝 車 gồm 7 vì sao Bắc Đẩu: (1) Khu Tinh
(Tham Lang), (2) Tuyền Tinh (Cự Môn), (3) Kỵ Tinh (Lộc Tồn), (4) Quyền
Tinh (Văn Khúc), (5) Hành Tinh (Liêm Trinh), (6) Khai Dương (Vũ Khúc),
(7) Giao Quang (Phá Quân).
II. Thái Vi Viên 太 微 垣
Thái Vi Viên là chỗ Thượng Đế thiết triều. Ta thấy ở giữa có Ngũ Đế Tòa
(la Siège Intérieur des cinq empereurs) chỗ ấy là ngai Thượng Đế (Hoàng
Đế). Đàng sau ngai Đế Tòa, ta thấy:
- Thái Tử 太 子 (le Prince) và các cận vệ như:
. Hạnh Quan 幸 官 (les Officieur du Bonneur)
. Tòng Quan 從 官 (la Suite)
. Hổ Bí 虎 賁 (Hổ Bôn: les Tigres rapides)
. Thường Trần 常 陳 (l’Escouade perpétuelle)
. Lang Tướng 郎 將 (le Commandant de la Garde)
. Tam Thai 三 台 (les Trois Éminences)
. Lang Vị 郎 位 (le Siège des Officiers)
Hai bên tả hữu phía trước ngai lại giàn ra hai hàng văn võ:
- Thượng Tướng 上 將 (Premier Général)
- Thứ Tướng 次 將 (Second Général)
- Thượng Tướng 上 相 (Premier Conseiller)
- Thứ Tướng 次 相 (Second Conseiller)
- Tả Chấp Pháp 左 執 法 (le Justicier de Gauche)
- Hữu Chấp Pháp 右 執 法 (le Justicier de Droite)
Nơi sân rồng ta thấy bức bình phong (Nội bình 內 屏) và sự hiện diện của:
- Cửu Khanh 九 卿 (les Neuf Nobles)
- Tam Công 三 公 (les Trois Conseillers auliqués)
- Chư Hầu 諸 侯 (les Qinq Officiers)
- Yết Giả 謁 者 (les Visiteurs)
Xa hơn nữa, ta thấy có cửa ‘Đoan Môn’ 端 門, toà ‘Minh Đường’ 明 堂, tòa
‘Linh Đài’ 靈 臺 cùng với bức tường ‘Trường Viên’ 長 垣 của triều đình Thiên
Quốc.
Thái Vi Viên gồm 29 sao hay chòm sao. (Xem hình vẽ)
III. Nhị thập bát tú 二 十 八 宿
Người xưa gọi Nhị thập bát tú tức là 28 ‘quán xá’ trời hay là những Kinh
tinh để cho mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh chuyển vận lại qua.
Nhị thập bát tú theo từ nguyên, vừa có ý nghĩa luân lý, vừa có mục đích
mô tả lại công việc một năm của nhà vua. Ví dụ: Giác 角 là vạn vật bắt
đầu sinh. Vạn vật sinh ra rồi thì phải định tông miếu lễ nghĩa (Cang 亢),
v.v. Giác là đầu mùa xuân, cũng là sừng để tung lòng trời, lòng đất mà
nhô lên. Giác có phụ tinh là Thiên Điền 天 田, vì đầu xuân vua ra đồng để
cấy một luống tượng trưng…
Ta không đi sâu vào chỉ tiết, mà chỉ cần nhớ tên và vị trí Nhị thập bát tú.
Nhị thập bát tú gồm 4 nhóm sao lớn:
a. Nhóm sao phía Đông là Thanh Long 青 龍 , có 7 chòm sao:
(1) Giác 角 Spica và Virginis
(2) Cang 亢 Virginis
(3) Đê 氐 Libræ
(4) Phòng 房Scorpionis
(5) Tâm 心 Scorpionis
(6) Vĩ 尾 Scorpionis
(7) Cơ 箕 Sagittarii, Telescopii
b. Nhóm sao phía Bắc là Huyền Võ 玄 武, có 7 chòm sao:
(1) Đẩu 斗 Sagittarii
(2) Ngưu 牛 Neb. 323, 324 Capricorne, Neb. 322 Sagittarii
(3) Nữ 女 493 Piazzii, Aquarii
(4) Hư 虛 Aquarii, Equlei
(5) Nguy 危 Aquarii, Pegasi
(6) Thất 室 Aquarii, Pegasi
(7) Bích 璧 Andromedæ Pegasi
c. Nhóm sao phía Tây là Bạch Hổ 白 虎, có 7 chòm sao:
(1) Khuê 奎 16 saoAndromedæ,
Piscium
(2) Lâu 婁 Capitis Arietis
(3) Vị 胃 Muscoe
(4) Mão 昴Tauri (Pleiades)
(5) Tất 畢 IV61 Piazi, Tauri (Hyades)
(6) Chủy 觜 Orionis
(7) Sâm 參 , Orionis
d. Nhóm sao phía Nam là Chu Tước 朱 雀, có 7 chòm sao:
(1) Tỉnh 井 8 sao: và Germinerum
(2) Quỉ 鬼 Caneri
(3) Liễu 柳 Hydræ
(4) Tinh 星 20 và 26 Flamsteed vài sao chòm Hydræ
(5) Trương 張 6 sao và Hydræ
(6) Dực 翼 22 sao Crateris và Hydræ
(7) Chẩn 軫 Cervi
Cách sắp xếp Nhị thập bát tú trên vòng Hoàng Đạo hết sức phức tạp. Ta
thấy có mấy cách sắp sau đây:
Vòng Dịch có đường xoáy chữ S ở giữa, thì trời có sông Ngân Hà vắt
ngang theo chiều Tí Ngọ.
Cát Hồng Bão Phác Tử viết: Sông Ngân Hà[2] nơi gần Bắc Cực chia thành
hai nhánh, và từ đó vắt sang Nam Cực. Một nhánh qua chòm sao Nam
Đẩu, một nhánh qua chòm sao Đông Tỉnh.
Thiên Tân
Gustav Schlegel cho rằng quả thực cách đây 18.500 năm sông Ngân Hà
đã có vị trí như trên, và sách chiêm tinh học đều ghi chép như vậy. Tuy
nhiên, vì sự chuyển dịch ngày nay chỗ sông Ngân Hà chẻ nhánh đã xa Bắc
Cực nhiều.
Khoảng gần Bắc Cực, sông Ngân Hà có một chỗ khô «có thể lội qua» gọi
là Thiên Tân (bến trời) thuộc các chòm sao Ngưu, Đẩu, vì thế Thiên Tân
còn có một tên là Cách Tinh. Cách là đến, Tân là qua. Thiên tân trên trời
có thể nói là ứng với quẻ Phục trong vòng Dịch Tiên Thiên.
Khảo sát về thiên văn học Trung Hoa ta thấy các nhà thiên văn chẳng
những muốn nghiên cứu sự vận chuyển các vì sao, mà còn muốn dùng
các sao trên trời để viết lại niềm tin của mình, những hoài bão của mình,
những công trình của mình phải làm trong năm, trong tháng. Hơn nữa,
người xưa còn muốn đem tâm tư con người mà điểm xuyết cho các vì sao,
đem tính nết lành dữ của con người gán ghép cho các vì sao, làm cho bầu
trời trăng sao trở thành một thiên đình linh động, thành một triều đình
được tổ chức theo như nơi trần thế. Sau cùng, đem gắn liền hoạt động các
vì sao vào công việc, vào số mệnh và sự hưng vong họa phúc của dân
nước.
Muốn hiểu thiên văn Trung Hoa ta hãy mường tượng như các vì sao nhất
là hai vầng nhật nguyệt và 5 hành tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) là
những vị thần linh, mà Nhị thập bát tú là những quán xá trời mây của
những vị thần linh ấy. Các hành tinh này rong ruổi trên con đường Hoàng
Đạo nhanh chậm khác nhau. Các hành tinh lại còn đi lúc nhanh lúc chậm,
khi đi khi đứng, khi lui gót lúc bối rối vòng vo, lúc giận hờn mà thấy sắc
diện, hoặc phát ra những tia lửa tức tối. Mỗi quán xá trời mây của Nhị
thập bát tú lại ứng vào một phần đất dưới trần gian, và tùy theo sao lành
dữ đóng ở cung nào trên trời thì hạnh phúc hay loạn lạc sinh ra nơi phần
đất tương ứng ở trần gian.
( Viết theo Thiên văn học cổ - Nhân tử Nguyễn Văn Thọ ).
Lời nhắn nhủ của dienbatn : Những kiến thức về Thiên văn học này rất
quan trọng để hiểu được những phần sau của môn Phong thủy, nhất là
khi nghiên cứu về La Kinh. Xin các bạn chớ bỏ qua. dienbatn.
Xin xem tiếp bài 29. dienbatn.
PHONG THỦY LUẬN BÀI 29 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài "
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1 đến bài 11
và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ
bài 1 đến bài 4 . Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà
dienbatn sưu tầm được. Thân ái.
Hình trên là dạng tiêu biểu cho sự vận hành của Long khí. Từ Tổ Long,
Long khí bắt đầu vận hành theo con đường riêng của mình. Khi chúng ta
quan sát ( Các bạn có thể lấy trường hợp này trên con đường từ Lạng Sơn
về Hà Nội rất rõ. ). Khi ta thấy các đỉnh của dãy núi đầu nhọn hoắt, tức là
đoạn đó đang trên đường vận chuyển của Long khí ta gọi là hành Long.
Quá trình vận hành cứ như vậy cho đến khi ta thấy những quả núi bắt đầu
tròn đầu, tức là lúc đó Long khí sắp dừng lại. Tiếp tục đi tiếp ta thấy
những quả đồi tròn như bát úp, tạo nên một vùng trung du. Một đoạn tiếp
theo nữa, chúng ta thấy hết những quả đồi tròn và đi tiếp qua một hay
hai con sông, phía bên kia sông ta thấy một loạt gò đống nổi lên, đó chính
là khu vực mà Long khí dừng lại kết huyệt. Lúc này ta chú trọng quan sát
sẽ nhận biết được đâu là Huyệt chính, đâu là huyệt bàng và tính chất của
huyệt đó như thế nào.Như vậy ta thấy : Long đi đến tận cùng thì kết
huyệt. Ta cũng nhận thấy song song với đường hành long luôn luôn có
thủy. Nơi dòng nước đến gọi là Thiên Môn, nơi dòng nước đi gọi là Địa
Hộ. Tại khu vực mà Long kết huyệt ta gọi là Huyệt trường, trước mặt
Huyệt có những gò nhỏ nổi lên ta gọi là Án. Sau Huyệt có gò đất nhỏ nổi
lên ta gọi là Ngọc Chẩm . Phía bên trái của Huyệt là Thanh long, bên phải
là Bạch Hổ . Phía trước huyệt có đất trũng chứa nước là Nội Minh đường,
Khu vực đất trũng có nước phía ngoài hai tay Long, Hổ gọi là Ngoại Minh
đường. Các dãy núi nhỏ phía xa gọi là Sa. Tại khu vực chính Long điểm
được Huyệt là nơi Khí tích tụ mạnh nhất gọi là chính Huyệt.
1/ LONG .
Long là các dãy núi chạy nhấp nhô, biểu hiện Sinh khí từ trong lòng đất
phát lên . Long đi thì Khí đi, Long dừng thì Khí dừng. Khi Long dừng thì
Sinh khí tụ lại . Nơi tụ Khí đó chính là Huyệt. Tại khu vực này, nếu Sinh
khí viễn trường , mạnh mẽ có thể đặt các thành phố , Thị trấn , nếu nhỏ
hơn có thể đặt mồ mả, nhà cửa , từ đường lên đó. Sinh khí vận hành
trong lòng đất , người phàm không thể nhìn thấy được, tuy nhiên bằng
những biểu hiện ra bên ngoài khác nhau, kết hợp luyện tập,
các Phong thủy sư vẫn có thể nhận biết được đường vận hành của nó.
Muốn biết Khí có vượng lên hay không, ta quan sát khu vực đó có nhiều
gò đống nổi lên hay không ? Bởi những gò đống đó chính là do Khí dư của
Long mạch khi kết tụ nổi lên. Có những khu vực Long khí mạnh làm nổi
lên 99 cái gò như vùng Thuận thành - Bắc Ninh.
Long cao Khí vượng, Long thấp khó sung. Long đi trên mặt đất đều đều,
không nhấp nhô, uốn lượn là Tử Long ( Long chết ), hoặc đất nhô cao
thành dải đều đều cũng là Tử Long.. Chỗ nào có gò đống nổi lên, xung
quanh có nước thì Khí vượng.
2/ HUYỆT.
Là nơi mạch khí của đất tụ lại, nơi tận cùng của Lai Long ( Long đến ) .
Huyệt của các mạch núi cao khi kết tụ phải trầm phục ( thường ở chân núi
lõm ). Huyệt của miền bình dương ( đồng bằng ) ắt phải nổi cao.
3/ SA.
Sa là Khí mạch nổi lên ở phía trước , phía sau, bên phải, bên trái của
Huyệt, cùng chầu về Huyệt. Tất cả các Sa nằm phía trước Huyệt gọi là
Chu Tước. Tất cả các Sa nằm phía sau Huyệt gọi là Huyền Vũ. Các Sa
nằm bên trái Huyệt gọi là Thanh Long. Các Sa nằm bên phải Huyệt gọi là
Bạch Hổ. Sa là để tạo ra sự kết tụ của Khí Huyệt. Không có Sa thì dù Long
có dừng thì nếu kết Huyệt, Huyệt đó cũng tứ tán , không tụ được Khí,
không tạo nên sự kết phát .
4/ THỦY.
THủy là phần nước nằm ở phía trước mặt Huyệt hoặc ở Minh đường.
II/ LONG PHÁP.
Hình trên là một con rồng rất đẹp mà đầu thì ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn
(đỉnh Everest cao 8.888m nóc nhà của thế giới), lưng uốn theo hướng Tây
Bắc Đông Nam của dãy núi cao thấp dần và đuôi xoè ra ở đồng bằng Bắc
Bộ Việt Nam, sau đó đi xuống vùng Vịnh Bắc Bộ và đã kết thúc ở vùng đại
dương sâu nhất thế giới (Vịnh Mindanao ở Philippines sâu 10.800m). Đây
là tấm sơ đồ sơn thuỷ ở phạm vi vĩ mô tầm thế giới. Thật kỳ diệu, các
triền núi đó không thẳng băng mà uốn lượn như hình con rồng, tạo ra
mạch núi và mạch nước tụ lại, rồi lan tỏa ở trên đồng bằng Bắc Bộ nước
ta.
Nhìn vào sơ đồ "vi địa mạch" - Trở lại với địa hình núi sông trên miền Bắc
nước ta, thì có 8 dãy núi vòng cung tạo thành hình rẻ quạt là dãy Đông
Triều, dãy Ngân Sơn, dãy Bắc Sơn, dãy Tam Đảo, dãy Sông Gâm, dãy
Hoàng Liên Sơn , dãy Sông Đà và dãy Hoà Bình, trong đó Hoàng Liên Sơn
nối từ Hy Mã Lạp Sơn về có đỉnh Phan xi păng cao nhất Đông Dương
(3143m). Hướng đi của các dãy núi đều hình thành các con sông như
sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Đà, sông Đuống, sông Cầu...
Thế nhưng các dãy núi chỉ "chầu" nên đều đã dừng lại từ xa, còn các con
sông thì đã "tụ" lại ở Việt Trì và nối thông với nhau và tỏa ra ở chính vùng
Thăng Long. Kỳ diệu hơn nữa là ở ngay trên đất Thăng Long đã "mọc" lên
ba ngọn núi khác: đó là cụm núi Ba Vì linh thiêng đầy huyền thoại. Đỉnh
núi này nhìn theo đường chim bay thì chỉ cách Hồ Tây chừng 25km. Nhờ
khoảng cách không quá xa, nên khi thuyền của vua Lý Thái Tổ đi từ sông
Hồng qua sông Tô Lịch vừa rẽ vào Hồ Dâm Đàm từ làng Hồ Khẩu mùa
xuân năm 1010, nhà vua có thể nhìn thấy rồng cuộn sóng bay lên, vừa
nhìn thấy đỉnh Ba Vì, nên cái tên Thăng Long và tứ văn "Đắc Long bàn Hổ
cứ chi thế, tiện núi sông hướng bối chi nghi" mới xuất hiện trong bản
Thiên đô chiếu bất hủ.
Ngày nay, từ trên bản đồ vệ tinh, ta có thể dễ dàng tìm thấy đỉnh cao
1226m, nơi toạ lạc Đền Thượng, thờ Tản Viên Sơn Thánh, từ đó có một
đường kinh mạch đi theo hướng chính Đông, qua khu vực Đền Kim Ngưu
bên bờ Đầm Trị tiếp giáp với Hồ Tây, ra đến tận Cảng Vân Đồn và
Vịnh biển Bái Tử Long, ở đó đã có đền Cửa Ông đầy linh thiêng mà nhân
dân và hải quân ta hằng tôn thờ suốt 7 thế kỷ qua. Cảng Cửa Suốt của
Đức Ông Trần Quốc Tảng xưa, đã và sẽ mãi mãi là một quân cảng quan
trọng nơi Bờ Đông của Tổ quốc. Cũng trên bản đồ vệ tinh, nếu nối một
đường theo hướng Đông Bắc-Tây Nam mà mọi người quen gọi là Trục
Thần Lộ đi từ đền Kim Ngưu bên bờ Đầm Trị, lên đến thành Cổ Loa- Kinh
đô 2300 năm trước của vua An Dương Vương và cũng là Kinh đô hơn 1000
năm trước của vua Ngô Quyền, trên trục đó ta sẽ gặp phòng tuyến sông
Như Nguyệt năm 1077 của Đại tướng Lý Thường Kiệt và Ngã ba sông
Thiên Đức, nơi Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương lập đại bản doanh
chỉ huy đánh quân Nguyên Mông năm 1284 và năm 1288. Kỳ lạ thay,
đường chéo này đi tiếp, rồi đi tiếp nữa, sẽ đến Đồng Đăng, cửa ải phía
Bắc của Tổ quốc. Trong kinh dịch, hướng Đông Bắc là hướng Ngũ quỷ, lộc
có nhiều mà hoạ cũng lắm, vậy nên chăng phải có đôi mắt tinh anh của
Đức Thánh Trần chấn ngữ cửa ải này ? Những người có chút tính hiếu kỳ
không thể không kinh ngạc khi phát hiện ra trục kinh mạch nằm ngang ở
21 độ vĩ bắc 3' 28'' từ đỉnh Ba Vì và trục Thần Lộ nói trên lại gặp nhau ở
chính vùng nước cạnh Phủ Tây Hồ mà mọi người vẫn thành kính gọi là
huyệt đạo quốc gia. Tại sao có cái tên đó? Tại vì nơi đó vẫn sủi bọt mỗi
khi mực nước sông Hồng dâng cao, như thể hồ và sông là cái bình thông
nhau. Địa mạch của Việt Nam có những Long mạch lớn như sau :
1. DÃY HOÀNH SƠN : Còn gọi là Trường Sơn. Phát nguồn từ Trung Quốc
qua tỉnh Vân Nam , chạy dài về phía hữu ngạn sông Đà , qua miền Bắc
Việt, vùng Thượng Lào, chạy đến miền Trung , tiếp tục cho đến Nam Việt
Nam mới dừng. Giới hạn của Long mạch : Phía Đông là Biển, phía Tây
Nam là châu thổ sông Cửu Long .
2. DÃY BA VÌ : Dãy núi Ba Vì còn được gọi là Tản Viên , cũng nối liền từ
tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, qua vùng phong thổ Lai Châu Lào Cai, Yên
Bái, Hưng Hóa, Sơn Tây. Dãy núi này một bên là sông Nhị Hà ( Sông
Hồng ), nằm dưới mạch tả ngạn. Bên hữu ngạn là sông Đà . Dãy núi này
chạy đến đồng bằng Bắc bộ, qua Hà Đông, Hòa Bình, Hà Nam, Nam Định.
3. DÃY TAM ĐẢO : Phát nguồn từ tỉnh Vân Nam - Trung Quốc , qua vùng
Bảo Lạc, Nguyên Bình, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh, Hưng
Yên, Thái Bình, Nam Định.
4. DÃY HUYỀN ĐINH : Cũng bắt nguồn từ Thập vạn đại sơn của Trung
Quốc, qua vùng Đông Hưng, Móng Cái, Tiên Yên, Quảng Yên, Hải Phòng.
Một nhánh chia ra qua vùng Lục nam, Đông Triều, đến Phả Lại giáp Lục
Đầu Giang, băng qua miền bình dương nhập vào Hải Dương.
Ngoài ra, trong miền Nam Việt nam còn có một số địa mạch xuất phát từ
bên Lào, Cam Pu Chia qua, dienbatn đã viết tại bài : NHỮNG CUỘC HÀNH
HÓA KHAI THÔNG HUYỆT ĐẠO THỜI NAY "
- Ở vùng Trung du : Kim tinh giống như cái mũ, có chóp tròn hoặc giống
cái chậu úp sấp.
-Ở vùng đồng bằng : Kim tinh giống như hình cái bánh ngọt, tròn trịa, đầy
đặn, ở giữa cao hơn một chút.
Kim tinh hình thể đẹp đẽ , tú mĩ thì sẽ xuất hiện con cháu hiền sĩ, trung
nghĩa, chủ phát về văn chương. Nếu Kim tinh hình thể cao to hùng vĩ , thì
sẽ xuất hiện tướng võ oai nghiêm , tổng quản hàng triệu người. Kim tinh
cũng chủ phát về phú ( tài lộc ). Nếu đỉnh của Kim tinh tròn không bị
khuyết , có thể phát đến quan hàng Tứ trụ triều đình , nếu không cũng là
phú gia địch Quốc.
* Mộc tinh : Mộc tinh là một loại núi có đỉnh núi cao, hơi tù , chân thu lại
không rộng như Kim tinh.
" Mộc tinh thân lập vạn nhân kinh.
Đạo địa nhân khan nhất thụ hoành ".
- Ở vùng Sơn cước : Mộc tinh dáng cao, thằng, sừng sững như cây măng
mới mọc. Không nghiêng vẹo thì đại cát.
- Ở vùng Trung du : Mộc tinh thường uốn lượn như cây roi, sơn đầu tròn
trĩnh hơn.
-Ở vùng đồng bằng : Mộc tinh nằm như một cây gỗ, mặt bằng phẳng.
Nếu có các nhánh nằm ngang hướng vào thì đại cát.
* Thủy tinh : Thủy tinh chỉ hình thể đỉnh núi uốn như con rắn, hoặc như
sóng nước nhấp nhô.
Phú viết : " Trướng Thiên thủy tinh lãng giao gia,
Hoặc lạc bình dương khúc như xà ".
Thủy tinh nếu uốn lượn , sinh động ắt phát phúc lâu dài.Nếu tản mạn thì
táng gia , bại sản.Thủy tinh chia ra làm ba loại:
- Ở vùng Sơn cước : Thế thường uốn lượn , triển khai dài rộng.
- Ở vùng Trung du :Bình cương có thể lưu thủy hành vân , giống như mây
bay, nước chảy, dàn trải vững vàng.
-Ở vùng đồng bằng : Thế như sóng nước dập dờn từng lớp, dàn hàng
ngang mà tới, hoặc như con xà uốn lượn.
* Hỏa tinh : Hình thế đỉnh núi nhọn, chân choãi rộng hình tam giác ,
nhìn tựa như mũi giáo.
Hỏa tinh nếu đẹp đẽ sẽ không nghiêng lệch, nhọn đều, hình thù tú mĩ thì
có thể dùng được . Nếu nghiêng lệch thì tối hung.
- Ở vùng Sơn cước : Núi thường cao to, nhọn, lừng lững chọc trời - Gọi là
Nha đao.
- Ở vùng Trung du : Thường Hỏa tinh thấp , nhiều mạch nhánh ngang dọc
tỏa ra, hình thể như lửa phun.
-Ở vùng đồng bằng : Thế những gò đất hình đa giác , không nổi cao, có
góc cạnh như hình cờ đuôi nheo. Huyệt này xấu. Thường vùng như vậy
dân nghèo . nóng tính, hay sinh đầu trộm đuôi cướp, đâm chém nhau.
* Thổ tinh : Chỉ hình thể đỉnh núi hình vuông , chân chất, bốn góc vuông
vắn đều đặn.
Phú viết : " Thổ tinh cao đại hậu nhi đoan
Ngưu bối bình phong tổng nhất ban ".
Thổ tinh kết huyệt thì chủ con cháu đời đời làm quan.
- Ở vùng Sơn cước : Hình thể như phú viết , dày dặn, hùng vĩ, ngay
ngắn.
- Ở vùng Trung du : Gần giống như hương án, cao trung bình, không lệch
lạc.
-Ở vùng đồng bằng : Các góc cạnh vuông vức, bằng phẳng, bên trên
không có chỗ cao chỗ thấp quá.
Lời bạt : Những kiến thức về âm phần , dienbatn đã viết trong loạt bài "
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI CẢI TÁNG MỘ PHẦN " từ bài 1 đến bài 11
và loạt bài " ỨNG DỤNG BÁT QUÁI ĐỒ TRONG VIỆC ĐẶT MỘ PHẦN " từ
bài 1 đến bài 4 . Phần này xin bổ xung thêm một số kiến thức chung mà
dienbatn sưu tầm được. Thân ái.
Chú ý : Nếu là ngoại Cự Môn thì xung quanh có núi cao bao bọc mới tốt.
" Sơn cước tầm Oa xứ ( đỉnh núi lõm ).
Sơn cước yếu tàng phong ( tránh gió lùa để đảm bảo tụ khí ).
Bình dương tu dụng thủy ( có ao hồ xung quanh ).
Bình dương bất luận phong ."
Cự môn táng huyệt phúc thọ trường , của cải dư dả, người béo tốt, đầy
đặn.
KHU MỘ BÀ HOÀNG THỊ LOAN.
Tả Phù phần nhiều làm hộ vệ tinh. Những núi cao thành Long khi sắp kết
tinh cũng biến đổi ra Tả Phù tinh kết Huyệt. Nếu không biến hóa ra Tả
Phù tinh thì do thế núi quá cao mà Khí không thể tụ.
Tuy nhiên các Long biến hóa ra Tả Phù tinh rồi mới kết Huyệt , Khí của
Huyệt vẫn lấy theo Khí của Chủ tinh.
Ví dụ : Tham Lang hay kết Nhũ Huyệt gọi là Tả Phù.
Cự Môn có gò cao, chỗ giữa hơi lõm.
9/ Hữu Bật.
Hữu bật thuộc Thủy tinh, hình thế bình thản, phía trên hơi đột chỏm ( có
chỗ lồi lên.
4. LƯU Ý .
* Trong khảo sát Địa lý thì Sinh Khí vô hình vô ảnh, nhưng ta có thể rèn
luyện để nhận biết được thông qua ngồi Thiền, luyện tập Cảm Xạ, Mật
Tông....
* Khi quan sát Loan đầu : Phải quan sát cả dãy núi dài để xem hình thế
núi sông , mục đích là phán đoán được nơi có Sinh khí.
* Lý khí : Căn cứ vào nơi ở hay phần mộ đặt đúng hướng , tương sing ,
tương khắc trong Ngũ hành , Bát quái ( đã viết ở các bài trước ).
* Âm trạch : Để nhập thổ cho người đã chết được yên lành phải nhờ vào
việc làm Địa lý thật chính xác.
* Thể xác : Di thể của người chết phải chôn cất đúng theo thuật Địa lý. Có
các cách táng như : Thổ táng, Hỏa táng, Thủy táng, Thiên táng .
* Thổ táng phải có một khu đất cho cả dòng họ, làm tập trung vừa dễ cho
con cháu thăm viếng, vừa có thể dùng các biện pháp Phong thủy làm cho
dòng họ phồn thịnh , phú quý.
Muốn có được điều đó cần phải có : Tâm cơ và mục lực ( mắt nhìn ).
* Táng : Huyệt cát - Táng hung : Táng hung là chỉ táng vào thời điểm
năm , tháng, ngày, giờ không tốt . Muốn cho Huyệt cát táng cát phải vận
dụng tất cả những kiến thức về Phong thủy, Bát tự, Hà Lạc, Dịch học, Âm
- Dương, Ngũ hành .... để mà suy ra tọa, Hướng, vận của mộ.
* Các ngôi mộ tọa Bắc triều Nam kị năm tháng ngày giờ Dần - Ngọ - Tuất
( Tam hợp Hỏa khắc Thủy tọa bắc ).
* Các ngôi mộ tọa Nam hướng Bắc kị năm , tháng, ngày, giờ Thân , Tý ,
Thìn - Tam hợp Thủy khắc Hỏa tọa Nam ).
* Các ngôi mộ tọa Tây hướng Đông kị năm , tháng, ngày, giờ Hợi, Mão ,
Mùi - Tam hợp Mộc khắc tọa Kim Tây.
* Các ngôi mộ tọa Đông hướng Tây kị năm , tháng, ngày, giờ Tị , Dậu,
Sửu - Tam hợp Kim khắc tọa Mộc Đông.
* Tọa là hướng đặt đầu, hướng là phía chân người mất.
H 2. Huyệt giống con tằm nằm gọi là Huyệt Trắc lạc thiên tài.
H3. Huyệt ở cuối gò , trên ruộng không cao không thấp. Huyệt Thủy đầu
quán gấp diện chi khái.
Tham Lang thì hay kết Huyệt ở phía trước mặt, nơi có dư khí thè ra.
Chúng ta chọn chỗ lõm xuống một chút hoặc chỗ đất nổi lên như cái vấu,
cái đốt ( mắt của cây tre ) mà điểm huyệt. Tham Lang kết huyệt có đầy
đủ Phúc - Lộc - Thọ - Phú. Đứng hàng đầu trong các Huyệt cát.
2/ CỰ MÔN .
Cự Môn có hình giống như cái ghế ngồi, thình thế vuông vắn , ngay ngắn.
Nếu trông thanh tú là Huyệt phát vừa phú vừa quý. Nếu thô trọc , nặng
nề thì chỉ phát phú. Cự Môn thường có tuổi thọ cao, khỏe mạnh , thân
hình đầy đặn. Nếu Cự Môn thô trọc mà lại đơn độc thường xuất Tăng , ni ,
Phật tử.
3/ LỘC TỒN.
Lộc Tồn là hung tinh. Phát nhỏ , chỉ một đời , không dài lâu. Lộc Tồn đỉnh
giống Cự Môn nhưng có nhiều chân , thường kết Huyệt ở chân to nhất.
4/ VĂN KHÚC.
Văn Khúc là hung tinh. Hình thể như con rắn đang bò. Nếu kết Huyệt
thường theo 3 dạng sau :
* Xà tinh : Táng ở tai.
* Xà uốn tròn : Là gò cao, xung quanh có rìa cao hơn, ở giữa hơi lõm mà
có đột nổi lên thì rất quý. ( trường hợp Hoàng xà phủ châu ). Huyệt này
phát đến thứ , bộ trưởng.
* Nga Mi tác án : Hình thế chạy quanh co , trước có Án. Huyệt đối diện với
Án.
5/ LIÊM TRINH.
Là hung tinh. Hình như ngọn lửa bốc cao, là đại hung tinh , không nên
táng. Chỉ có 2 thế của Liêm Trinh có thể dùng được ở miền bình dương .
Liêm Trinh chính trực , phát không mạnh, thường là quan võ.
6/ VŨ KHÚC.
Vũ Khúc Kim tinh là cát tinh.
Vũ Khúc là Huyệt cát tinh, thường xuất Vương hầu, Tể tướng nếu Huyệt to
đẹp ( Đại địa ). Còn nếu là Tiểu địa thì cũng xuất văn võ, con cháu phú
quý.
7/ PHÁ QUÂN.
Phá Quân Kim tinh là đại hung tinh. Phá Quân hình thể như lá cớ đuôi
nheo , dưới chân thường sinh ra Hỏa tinh ( hình như mũi kiếm ) . Phá
Quân chỉ nên đặt miếu, điện thờ thì tốt .
Đặc biệt Phá Quân cũng có thể kết Huyệt cát nếu trong một số trường
hợp mà ta phân cung điểm huyệt đúng.
Thế Huyệt có 3 chân có thể dùng được. Phát quan võ giỏi nhưng vất vả,
hay bị ám sát .
Thế Huyệt có nhiều chân , có gò nhỏ là Huyệt quý, công thành danh toại ,
cuối cùng vẫn phải đi ở ẩn nhưng không chết .
8/ TẢ PHÙ.
Tả Phù là cát tinh. Hình vành khăn , phía sau to, phía trước nhỏ. Tả Phù
kết Huyệt như tổ chim cú , lấy chỗ đột khẩu làm đỉnh . Nếu phần trên đầu
mà thiên lệch là giả Huyệt.
Hình của lạc thì đặt Huyệt dưới đất thấp.
9/ HỮU BẬT.
Hữu Bật là cát tinh. Hữu bật gần như tả Phù , hình như mặt trăng khuyết
hay hình con thoi. Hữu bật thường phát quan bậc trung, học hành thư cử
thuận lợi.
PHONG THỦY LUẬN BÀI 33 Điện Bà Tây Ninh
Đăng bài bởi Trần Tứ Liêm | 0 coment�rios
B/ THỪA KHÍ .
Thừa Khí là điểm Huyệt tại chỗ thấp , dưới chỗ Long sơn dững lại , phía
dưới nó còn thè ra như lưỡi con trai. Điểm Huyệt như vậy gọi là điểm
Thừa khí ( điểm chỗ thè ra ).
b/ Thể Kiềm : Kết Kiềm là chỗ đất đang bằng phẳng , có một chỗ mở
tách khe, phân ra làm 2 gọng kiềm . ( 3 phía cao, một phía thấp ). Mạch
ở vùng sơn cước thường kết dạng Oa và dạng Kiềm.
c/ Thể Nhũ : Nhũ là loại Huyệt khi mà Sơn tự nhiên rủ xuống hoặc cao
lên một chút mà kéo dài ra như cái vú quả mướp .
d/ Thể đột : Đột là đất tự nhiên cao lên như cái gò hay cái nấm hình tròn
, vuông. Ở vùng bình dương kết Huyệt thường là Nhũ và Đột.
2. NGHỊCH TRƯỢNG.
3. THÚC TRƯỢNG.
" Thế đoản lai từ thượng tụ cam,
Khí ngưng Bách hội sản anh hào.
Phóng quan thấu khẩu đường trung tiết,
Súc nhập thiên tinh bất dụng nhiêu".
Thúc trượng sơn thế ngắn, mạch thong thả , từ từ chạy lại. Khí ngưng tụ ở
trên cao , kết Huyệt ở phần Bách hội. Do Huyệt ở khá cao nên đối với
miền sơn cước thì rất sợ gió thổi . Vì vậy khi gặp Huyệt này , phải quan
sát thế núi xung quanh , nếu thấy 4 phía có núi cao bao bọc, Mih đường
xa thoáng thì là chân Huyệt.
Thúc trượng khi táng dùng phép Thiên táng ( táng nông ) . Khi hạ táng
đặt quan tài nhất định phải tập trung khẩn trương . Đặt quan tài chính
giữa Huyệt Bách hội . Nếu thời gian kéo dài sẽ thoát Khí , hóa cát thành
hung. Phép này đặc biệt quan tâm đến thời điểm khai Huyệt , không được
xê dịch 1 khắc ( 15 phút ).
Nếu đáp ứng được những yêu cầu đó , Huyệt Thúc trượng sẽ sản sinh ra
những anh hùng hào kiệt lẫy lừng , phất cờ khởi nghĩa làm nên nghiệp
lớn.
Lưu ý:
1 giờ = 2 tiếng ( 12o phút ) = 8 khắc.
Khi làm ta bỏ 2 khắc đầu và 2 khắc cuối, chỉ làm trong vòng 4 khắc giữa
= 60 phút.
BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN.
4. ĐIỂM HUYỆT PHÁP.
3/ THẬP NHỊ TRƯỢNG PHÁP. ( DƯƠNG CÔNG ).
5. KHAI TRƯỢNG.
6. XUYÊN TRƯỢNG.
Ly trượng lai long cao lớn cứng cáp , đang chạy đến bỗng dưng tụt
xuống biến mất. Mạch lìa thoát chỗ cao ra chỗ bằng phẳng , như cái chiếu
trải rộng ra , hơi nhô lên một chút hình Kim tinh . Ly trượng thường điểm
Huyệt cách mạch 2,3 đến 5 thước ở phía trước , ta hạ táng tại đó . Ly
trượng dùng phép Thiên táng ( táng nông ), đắp thành đống mô cao lên
( Đào sâu 20-30 cm rồi đắp cao lên.
8. MỘC TRƯỢNG.
" Thế bình diên mãn mạch vi man,
Pháp hữu khai kim thủ cố phương.
Phát đạt khai oanh trung nhất khí.
Phong tiền khai phát pháp chân lương " .
Mộc trượng thì lai long uốn lượn , sơn đầu bình diên phì mãn. Định Huyệt
ở chỗ lõm chìm vào mạch Khí . Xung quanh Huyệt cao. Huyệt mộ táng ẩn
sâu bên trong. Khi táng có thể dùng phép Thiên táng hoặc Thâm táng
( táng sâu hoặc nông ).
Lưu ý : Nếu chỗ lõm quá nhỏ, ta phải đục để tạo Huyệt. Huyệt này cực kỳ
vượng phát.
9. ĐỐI TRƯỢNG .
( Huyệt xấu - phát ở làng nghề ).
" Đối trượng thượng cương hạ tán huyệt nan,
Cương nhu giao sử khước vi kỳ.
Chi đương đối thử quan trung chính,
Phát phúc tu giao cát bán chi ".
Đối trượng sơn mạch phía trên cương , phía dưới tản mạn , lai long cao
lớn tại nơi nhập thủ, bỗng nhiên thấp xuống , trải ra bằng phẳng , không
có Oa, Kiềm, Nhũ, Đột gì cả . Nên định Huyệt ở giữa vùng đất đó , hoặc
giữa nơi phân phần cao phần thấp, giữa chỗ cương và chỗ nhu.
Huyệt này bán cát bán hung, nửa thành nửa bại.
* Tiếp mạch là mạch khí đang đến , hạ quan tài chặn không cho mạch khí
đi tiếp. Nếu đặt Huyệt sai thì quan tài bị lật hoặc bị đẩy đi ( bị trôi ).
Mạch Phạm trượng phải dùng phép Ỷ táng.
Thủy Dưỡng - Sinh chảy đến Minh đường , sao Tham Lang chiếu xạ Huyệt
vị. Chủ sinh con cháu nổi danh văn tài, nhân đinh đông đúc, tính nết hiền
lương. Dòng trưởng đời con cháu phát phúc phát quý, trung hậu, hiếu lễ.
Nếu Lai Thủy càng uồn lượn quanh co chảy tới thì cành vinh hoa phú quý
trường cửu và trong họ có nhiều người giữ chức vụ to trong triều đình.
Còn nếu Thủy hiền hòa bao bọc thì phát Phúc và Lộc. Nếu thủy Dưỡng -
Sinh chảy đi hoặc xối thẳng vào Huyệt vị thì sẽ bị phá tuyệt, vợ và con
dâu sớm thành cô quả.
Có thơ rằng :
" Đệ nhất Dưỡng , Sinh thủy đáo đường ,
Tham Lang tinh chiếu hiển văn chương,
Trưởng vị , nhị tôn đa phú quý,
Nhân đinh xương chức tính trung lương.
Thủy cuốn chi huyền quan chức trọng,
Thủy tiểu loan hoàn phú thọ trường.
Dưỡng , Sinh lưu phá trung tu huyệt,
Thiếu niên, quả phụ thư không phòng".
Dịch như sau :
" Dưỡng , Sinh đem nước lại Minh đường,
Con cháu khoa danh phát văn chương.
Ngành trưởng giầu sang cao chức trọng,
Trong họ nhiều người tính trung lương.
Nước cuộn lượn về quyền chức trọng,
Nước tiêu Sinh , Dưỡng lắm tai ương.
Phá tán điền trang tha hương xứ,
Trai cô , gái góa tủi sầu thương ".
BỔ XUNG VỀ ÂM PHẦN.
V. THỦY PHÁP.
9/ BÁT SÁT.
Mối quan hệ hung sát :
1, Giữa Long và dòng nước chảy vào Minh đường.
2, Giữa Long và hướng nhà, Huyệt mộ.
3, Giữa hướng Nhà, Huyệt mộ và ngày khởi công.
* Ngọ sát Càn.
* Thìn sát Khảm.
* Dần sát Cấn.
* Thân sát Chấn.
* Dậu sát Tốn.
* Hợi sát Ly.
* Mão sát Khôn.
* Tỵ sát Đoài.
Quan hệ Bát sát là quan hệ Ngũ hành sinh khắc.
6. XÉT THỜI ĐIỂM VÀ THỜI HẠN KẾT PHÁT CỦA HUYỆT VỊ.
Lấy năm táng ( Can chi năm hạ táng ) , tính đến Can chi của hào động
xem cách nhau bao nhiêu vị , mỗi vị là một năm thì cuối của số vị đó là
thời điểm của Huyệt kết phát.
Ví dụ : Táng vào năm Nhâm Ngọ , hào động là Hào Kỷ Mùi , tức là có 38
vị ứng với 38 năm sau sẽ kết phát ( Hạ táng năm Nhâm Ngọ 2002 , đến
năm 2040 Canh Thân sẽ kết phát ).
Muốn xác định thời hạn kết phát của Huyệt nhanh hay chậm , ta phải căn
cứ vào đốt của Long nhập thủ :
* 1 đốt : Khởi tại Bính, Tân ( Dương long tại Bính, âm Long tại Tân ).
* 2 đốt : Khởi tại Mậu, Tý (Dương long tại Mậu , âm Long tại Tý ).
* 3 đốt : Khởi tại Nhâm, Đinh (Dương long tại Nhâm , âm Long tại Đinh ).
* 4 đốt : Khởi tại Canh , Ất (Dương long tại Canh , âm Long tại Ất ) .
* 5 đốt : Khởi tại Giáp , Kỷ (Dương long tại Giáp , âm Long tại Kỷ ) .
Từ đốt thứ 6 lại quay lại như đốt 1. Trong thực tế nhiều nhất chỉ có 9 đốt.
Đặt Can gốc này vào hào Thế thuận đến Can phân kim Tọa Sơn của Huyệt
vị, dừng tại hào nào thì hào đó là hào chủ . Từ Can , chi của hào chủ lại
thuận thế đến phân kim của Long nhập thủ xem cách nhau bao nhiêu vị .
Lấy số đốt nhân với số vị vừa tìm ta được thời hạn kết phát - Ví dụ : 29 vị
x 3 đốt = 87 năm.
Xác định quẻ Huyệt vị dùng để xác định thời điểm bắt đầu kết
phát và xác định thời hạn kết phát của Huyệt mộ. Đây là một việc làm
cần thiết khi đặt Huyệt mộ của Phong thủy sư. Việc tính toán tương đối
phức tạp và do tiện ích của trang Web không đủ nên dienbatn chỉ nêu ra
một số vấn đề cơ bản. Bạn nào muốn học kỹ cần phải có thày và tài liệu
đầy đủ, kết hợp với chuyên cần nhiều năm mới đủ kiến thức để thực hiện.
Xác định quẻ Huyệt vị bao gồm 9 bước thực hiện như dienbatn đã viết tại
bài 37. Tại đây chỉ tóm tắt lại.
Bước 1 : Xem Long nhập thủ là Long gì ? Dương hay Âm ? sau đó tra
bảng.
Bước 2 : Xem Sao nào quản cục của Long nhập thủ : Tra bảng.
Bước 3 : Tìm Long quái ( sử dụng phương pháp phép 1 ) sao
Quái ( quẻ gì đó ) => Sao quản cục phối với tam hợp Ngũ hành của Long
nhập thủ.
Bước 4 : Tìn Long SƠN quái ( Tọa của Huyệt vị ) .
Bước 5 : Tìm quẻ HẠ của Huyệt vị.
VÍ DỤ .
Nữ vong nhân sinh 1929 ( Kỷ Tỵ ).
Năm cải táng : 2002 ( Nhâm Ngọ ).
Hướng Huyệt vị : Tọa Tị - Hướng Hợi ( Trung Minh đường ).
Long nhập thủ : Tỵ ( Khi phân kim là Ất Tỵ ).
GIẢI .
Như vậy ta tìm được quẻ Hạ của Huyệt vị là quẻ Cấn là sao Cự Môn.
Bước 6 : Lấy chủ tinh biến quái của Minh đường thủy : HỢI ( Theo Bát
diệu thủy pháp ).
Hợi Minh đường được Phá quân Đoài . Lấy quẻ sao quản cục của Hợi Minh
đường đưa vào trung cung : Đoài = Phá quân.
Bước 7 : Lấy thủy Hướng quái ( Tốn ) phối với quẻ bản cung của Huyệt vị
( Tam hợp Ngũ hành ).
TỐN phối CHẤN ( Hợi - Tam hợp Ngũ hành ) theo phép 3 = > CÀN = Vũ
Khúc.
Quẻ Càn = Vũ Khúc là quẻ THƯỢNG của Huyệt vị.
Bước 8 :
Từ hào Nguyên đường là Tý dịch đến chi của Vong ( Kỷ Tỵ ) thì được hào
động . Như vậy hào 1 là HÀO ĐỘNG.
THỜI ĐIỂM KẾT PHÁT.
Căn cứ vào Can, Chi của năm hạ táng ( Nhâm Ngọ ) tính đến Can, Chi của
hào động.
Đốt Long : Có 2 đốt , Tỵ long là Âm long nên ta lấy Can Quý đặt vào hào Thế ( hào 2 ) , tính
đến Can của tọa Sơn ( ẤT ) , được hào chủ tại hào 4.
Từ Can, Ch của hào chủ ( Nhâm Ngọ ) , thuận đến phân kim của Long nhập thủ xem cách
bao nhiêu vị , rồi nhân với số đốt của Long để ra thời hạn kết phát.
Từ Nhâm Ngọ tới Ất Tỵ được 24 vị = 24 năm x 2 đốt = 48.
Như vậy thời hạn kết phát là 48 năm.
Xin xem tiếp bài 39 - dienbatn .
PHONG THỦY LUẬN . BÀI 39.
Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014
PHONG THỦY LUẬN . BÀI 39
PHẦN 7 .
LẤY LỘC MÃ QUÝ NHÂN HÌNH SÁT.
1/ LỘC ( THIÊN LỘC VÀ TÀI LỘC ).
Căn cứ vào Can của năm sinh vong mệnh :
Gíáp Lộc tại Dần.
Ất Lộc tại Mão.
Bính , Mậu Lộc tại Tị.
Đinh, Kỷ Lộc tại Ngọ.
Canh Lộc tại Thân.
Tân Lộc tại dậu.
Nhâm Lộc tại Hợi.
Quý Lộc tại Tý.
Người ta sinh ra vào các năm : Giáp , Ất , Canh , Tân là tốt , đắc lộc ,
nhân tài xuất chúng . Ta xem trong quẻ chính và quẻ biến có chi trùng với
chi có Lộc hay không.
2/ THIÊN MÃ.
Theo các Chi của năm sinh của vong mệnh :
Tam hợp Thân - Tý - Thìn Thiên mã tại Dần.
Tam hợp Tỵ - dậu - Sửu Thiên Mã tại Hợi.
Tam hợp Hợi - Mão - Mùi Thiên Mã ở Tị.
Tam hợp Dần - Ngọ - Tuất Thiên Mã ở Thân.
Như vậy người sinh năm Hợi sẽ có Thiên Mã tại Tị.
3/ QUÝ NHÂN.
Quý Nhân bao gồm Dương Quý nhân và Âm Quý nhân. Tính theo Can
năm sinh của vong mệnh.
Có thơ rằng :
" Giáp, Mậu Ngưu Dương địa.
Ất , Kỷ Thử , Hầu dương.
Canh , Tân tầm Mã, Hổ.
Nhâm , Quý Thỏ , Xà tàng.
Bính , Đinh Chư, Kê vi.
Thử thị Quý, Nhâm phương.
4/ ĐÀO HOA.
Tìm xem Canh Ngọ thuộc họ gì ? Ta thấy tuổi Canh Ngọ thuộc họ Giáp Tý.
1/ Bước 1 : An vong mệnh .
a/ An Chủ phương : Can , Chi của vong mệnh : CANH - NGỌ.
* Chi : Dần - Ngọ - Tuất : Thiên Mã tại Thân , Đào hoa tại mão , Đại sát
tại Sửu .
* Can : Can Canh Lộc tại Thân.
b/ An Khách phương .
Tọa Tốn - Hướng Càn chính kim Đinh Hợi ( nằm trong 60 Long nhập
thủ ) :
Quý nhân Dương tại Hợi.
Quý nhân Âm tại Dậu.
Chủ phương và khách phương không trùng nhau nên người này phúc
mỏng.
2/ An Lộc, Mã quý nhân vào phương của Huyệt vị.
Sát : Nằm tại Tân Sửu - Thuộc họ của Giáp Ngọ , ta tính từ Giáp Ngọ đến
Tân Sửu .
Giáp Ngọ số 7.
Ất Mùi số 8.
Bính Thân số 9.
Đinh Dậu số 1.
Mậu Tuất số 2.
Kỷ Hợi số 3.
Canh Tý số 4.
Tân Sửu số 5.
Lộc , Mã :
Giáp Dần số 9.
Ất Mão số 1.
Bính Thìn số 2.
Đinh Tị số 3.
Mậu Ngọ số 4.
Kỷ Mùi số 5.
Canh Thân số 6.
Tân Dậu số 7. Thuộc quẻ Càn.
Âm Quý nhân Đinh Dậu . Thuộc họ Giáp Ngọ.
Giáp Ngọ số 7.
Ất Mùi số 8.
Bính Thân số 9. Đinh Dậu số 1. Thuộc quẻ Tốn.
Đinh Dậu số 1 nằm ở trung cung nằm ở hệ Đoài nên phải lấy Tốn thay.
Khảm Sát ( Nhâm Tý , Quý ) . Do vậy gia đình không nên sinh con cháu
vào năm Tý.
Dương Quý nhân của khách phương : Con cháu học tốt nhưng khó đỗ đạt.
Chạy theo quỹ đạo của Phá Quân ( Đoài ) thuận. Lộc mã ở Mậu Thân .
Tân Sửu phương Khảm bị Sát. Nếu phương đó có Nha đao tất gặp họa
chết chém. Trấn yểm vào cung Tân Sửu. Dương Quý nhân từ Đinh Hợi .
Từ Giáp Thân tính đến Đinh Hợi vào cung Cấn Dương Quý nhân.
Đinh Dậu Âm Quý nhân khởi tính từ Giáp Ngọ đến trung cung
Xin xem tiếp bài 40- dienbatn .
PHONG THỦY LUẬN. BÀI 40.
Phần 8.
MỘT SỐ NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý KHÁC.
1/ Hướng Tốt Của Mộ Trong Nghĩa Trang Quy Hoạch .
Vài chục năm gần đây, việc cải cách chôn cất trong mộ phần phát triển,
hình thức chôn táng mộ theo ngĩa trang được quy hoạch rất được ưa
chuộng, việc này cũng hợp với chủ trương tiết kiệm đất đai của nhà nước.
Nhưng có một câu hỏi được đặt ra: Như vậy thì mộ quy hoạch trong nghĩa
trang có Phong Thủy hay không ? Tất nhiên là có, song thật khó mà cầu
cho được Phong Thủy thật sự hoàn mỹ. Đại bộ phận các nghĩa trang quy
hoặc đang được đưa về các vùng bán sơn địa để xây dựng, thường lấy
dựa sơn làm căn bản, có một số ít không nhiều huyệt vị ở tại vị trí tốt,
chính như Kinh Văn xưa có câu: “Nhất Cá Sơn Đầu Táng Thập Phần, Nhất
Phần Phú Quý Cửu phần Bần – Một Núi Chôn Mười Ngôi Mộ, Một Mộ Phú
Quý Chín Mộ Nghèo”. Có rất nhiều gia đình có quan niệm sai lầm cho rằng
khi sống ở vị trí cao thì chết cũng chọn chỗ cao để "Đè đầu cưỡi cổ thiên
hạ", đó thật sự là sai lầm, vì mộ càng ở chỗ cao càng dễ phạm cái gọi là
"Cô Phong Sát" đón gió bốn phương, thủy không có thì hỏi làm sao có thể
Tụ được Khí. Đặc biệt trong nghĩa trang quy hoạch thường được chia làm
nhiều khu, mà trong mỗi khu thì bia mộ chỉ có thể quay về cũng một
hướng. Cho nên đây cũng là một vấn đề nan giải để Phong Thủy Lý Khí
lựa chọn. Cho nên chọn lựa đất mộ trong khu nghĩa trang, rất khó án theo
các lý luận thông thường của Lý Khí phong thủy học. Ngược lại các Phong
Thủy Sư rất cần thông biến linh hoạt sử dụng các biện pháp thông thường
để chọn lựa, như vậy cần có các kiến thức Lý Thuyết và Thực Hành rất
sâu sắc vận dụng mới đạt đến mức tối đa. Sau đây là một số điểm tôi
tổng kết:
1.Tránh Gió (Tỵ Phong) cố gắng chọn lựa chỗ không có gió thổi hoặc ít
gió, đặc biệt tránh xa chỗ sau lưng có Ao Phong;
2.Cố gắng tránh trước mộ có nước xung xạ hoặc thẳng đến thẳng đi;
3.Tốt nhất là trước mặt có Triều Sơn và đê án lấy làm Quan Nội Khí;
4.Trái Phải tốt nhất có Sa hộ vệ.
5.Lập đương vận vượng sơn vượng hướng hoặc lập hướng thu cát thủy
trước mặt.
6.Lấy độ số Hướng Bia lập Tinh Bàn Huyền Không, lấy Tọa Mộ lập Tinh
Bàn Đại Huyền Không sao cho được thu Thủy, khứ Thủy ở vào Lý Khí tốt,
lại phù hợp Thiên Tinh!
Đây là những điểm khá quan trọng, bởi vì bốn điều trên (Hình Thế) khả
năng có những cái làm không được, song vượng sơn vượng hướng thì có
thể làm được. Nhưng điều khác không đủ, như có được Vượng Sơn Vượng
Hướng hoặc thu Cát Thủy, tuy không thành đại phú đại quý, nhưng cầu
nhân tài lưỡng vượng, thuộc nhà Tiểu Khang cũng không thành vấn đề.
Điều này tất cần có Phong Thủy Sư cao minh mới có thể làm nổi. Chính là
câu “Giang Sơn Nghìn Dặm ! Không Gian Một Hướng”.
2/ Ngũ Thuật Chân Chính
“Ngũ Thuật” là dùng để chỉ năm bộ môn Phương Thuật gồm: Sơn – Y –
Mệnh – Bốc – Tướng. Nó đã lưu truyền tại các nước châu á đặc biệt là
Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa từ mấy ngìn
năm nay. Đại đa số nó bắt nguồn từ Trung Hoa sau đó lan xa truyền rộng
ra các nước xung quanh. Nhiều người nhận được lợi ích của nó. Song cũng
có nhiều người vì nó mà gặp họa. Trong thời đại xã hội mà khoa học kỹ
thuật đã tiến bộ rất nhiều, mà nó không hề bị đào thải, trái lại nó còn
thường xuyện hiện diện trong mỗi sinh hoạt đời sống của chúng ta. Do đó
có thể thấy, sự tồn tại của nó đã khẳng định giá trị nhất định của nó. Vậy
chúng ta nên đánh giá thế nào về các bộ môn Ngũ Thuật, để có được sự
đánh giá chuẩn xác thì cần có nhiều công trình nghiên cứu quy mô, toàn
diện. Ở đây chúng ta chỉ cùng xem xét và nghiên cứu một vài khía cạnh
nền tảng.
Vận Mệnh Con Người Với Ngũ Thuật
Có thể nói chắc chắn một câu đại đa số con người sinh ra thì các giờ phút
khổ não nhiều hơn hẳn lúc sung sướng thanh thản. Ở trong tình cảnh luốn
mong cho đầy đủ, nghèo thì cầu tài, bệnh cầu khỏe mạnh, không con cầu
có con, học tập cầu công danh, chưa có hôn nhân cầu gặp người trong
mộng, ra làm quan cầu được thăng tiến ..v..v..Song có một điều chắc
chắn là giữa mong muốn và sự thực có khoảng cách rất lớn. Đâu phải lúc
nào chúng ta muốn mà cũng được như ý. Đại đa số người ta là mong
muốn đều không được, hy vọng lạc vào hư vô. Có một số người khi gặp
sự gãy đổ, gặp nạn, hoặc nghiệp báo đến không thể giải thích được, liền
đổ cho đó là số mệnh đã sắp đặt cố định. Đó không chỉ là ở nơi bách tính
trăm họ, ngay cả các bậc thánh nhân cũng vậy. Vi như Tăng Quốc Phiên
là một bậc Thánh vào đời nhà Thanh là người rất tin Vận Mệnh, ông từng
nói “Không Tin Sách, Tin Vận Mệnh, đó là lời nói công khai truyền trăm
đời về sau.” Đương nhiên sẽ có một số người không tin vào Vận Mệnh.
Cũng có người thì cho rằng chỉ có 3 phần là Vận Mệnh, còn 7 phần là dựa
vào nỗ lực tu dưỡng của chính mình. Trong thực tế đời sống hiện nay có
thể phân chia thái độ với Vận mệnh ra làm 4 loại:
- Tin hoàn toàn.
- Không tin chút nào.
- Tin nhưng còn xem xét.
- Trước tin mà sau không tin nữa. (Do lúc đầu tin tưởng, nhưng sau do tu
tập sai, hoặc gặp phải giang hồ thuật sĩ, đồng cốt dị đoan thấy không còn
linh nghiệm nên không tin nữa.).
Do Ngũ Thuật có tư tưởng chủ đạo là Thiên Địa Nhân hợp nhất, chủ yếu
do tìm cách cải thiện, làm cho tốt hơn vận mệnh con người mà phát sinh
các bộ môn học thuật. Cho nên do có nhiều cách nhìn về Vận Mệnh thì
cũng có nhiều cách nhìn về Ngũ Thuật. Cuối cùng có thể tin, hay vứt bỏ?
Nó là các học thuật có giá trị hay chỉ là mấy cái để bọn giang hồ thuật sĩ
lừa tiền người ta? Sự tranh luận này từ cổ chí kim chưa bao giờ ngừng lại.
Đến hiện nay đã có cái nhìn rõ ràng hơn một chút về chân lý và mê tín,
khoa học và văn hóa, hiện đại và cổ đại, nó có quan hệ rất nhiều đến sự
phát huy văn hóa truyền thống ở nước ta.
Theo trào lưu hiện nay, cũng do nhu cầu về đất mai táng ngày càng trở
nên hạn hẹp, cộng thêm một số vấn đề tế nhị khác mà phương pháp Hỏa
Táng đang ngày càng được nhiều người chọn lựa để lo hậu sự cho người
thân. Cũng có rất nhiều người cũng có nhận thức mới, thấy việc Hỏa Táng
là sạch sẽ chu toàn nên đã dặn người nhà Hỏa táng sau khi mình qua đời.
Theo Học Thuyết của Phật Giáo thì thân xác con người sau khi qua đời
thực sự không mấy quan trọng. Việc Hỏa Táng hoàn toàn phù hợp với các
triết lý của Đức Phật tuyên thuyết. Bản thân Đức Phật sau khi nhập Niết
Bàn cũng được các học trò và người thân Hỏa Táng trong một nghi lễ giản
dị nhưng trang trọng. Song nếu theo con mắt nhìn của Phong Thủy Âm
Trạch thì rõ ràng Hỏa Táng hoàn toàn không thể tốt hơn chôn cất (Tất
nhiên phải khi có được ngôi mộ táng nơi Phong Thủy tốt – chí ít cũng bình
thường). Tuy nhiên đi cùng bước tiến của xã hội Phong Thủy Học đã sớm
tổng kết và áp dụng các mệnh đề Phong Thủy vào việc Hỏa Táng những
mong người đã khuất có được sự yên nghỉ hoàn toàn, người sống cũng
không phải áy náy lương tâm, sự phù trì cho con cháu cũng từ đó tốt hơn.
Dưới đây xin đưa vài điểm chú ý cũng các bạn tham khảo!
Vị Trí Đặt Lọ Tro:
1.Kỵ đặt tại chỗ bên dưới có xà đè ngang.
2.Kỵ bị gió thổi xuyên vào trước mặt hoặc hai bên phải trái, đó là Phong
Sát.
3.Kỵ đặt tại chỗ quá ít ánh sáng quá, chỗ có tường sơn đen, không chút
sinh khí.
4.Kỵ đặt quá gần chỗ cầu thang. Bởi sẽ bị khí đi từ trên các tầng trên theo
cầu thang xung kích xuống, mà xuống chỗ dưới cầu thang là minh đường
nhỏ hẹp càng kỵ.
Kinh Viết: “Minh Đường Hạ Hãm, Tử Tôn Sầu”.
5.Kỵ đối diện thẳng với chỗ hóa tiền vàng.
6.Kỵ ở tại tầng quá thấp, bởi vì dễ bị ẩm ướt quá hoặc bị nước tràn ngấm
vào, lại cũng kỵ tại vị trí quá thấp so với thân thể người đang sống.
7.Cũng giống như ở ngoài mộ, vị trí tọa hướng lọ tro cốt cần phối mệnh
quái (Tức phân quái năm sinh mệnh người mất) được Cát. Căn cứ lấy
hướng là ảnh hưởng bài vị của người quá cố dán trên lọ tro hoặc bài vị đặt
kèm.
8.Chọn lựa số tầng đặt lọ tro cần chọn lựa theo Hà Đồ Ngũ Tử Vận Phối
Với Tiên Mệnh Quái.
Khẩu Quyết Hà Đồ: “Nhất Lục cộng tông Thủy, Nhị Thất đồng Đạo Hỏa,
Tam Bát vi bằng Mộc, Tứ Cửu vi hữu Kim, Thập Ngũ cộng xứ thổ.” Tức là
từ tầng thấp nhất bắt đầu tính là tầng một và tầng 6 là Thủy, tầng 2 với
tầng 7 tính là Hỏa, tấng 3 với tầng 8 tính là Mộc, tầng 4 với tầng 9 tính là
Kim, tầng 5 với tầng 10 tính là Thổ.Từ tầng 11 lại quay trở lại, y theo thứ
tự Thủy Hoả Mộc Kim Thổ.
4/ “Phong Thủy Chân Truyền Chỉ một Câu”
Từ xưa đến nay, Phong Thủy Sư Phó chân truyền đệ tử đều chỉ nói một
câu:
“Tiên thiên là thể, Hậu thiên là dụng, Tiên thiên cố định không biến đổi,
Hậu thiên theo Khí Vận lưu chuyển, Tinh tức Quái, Quái tức Tinh”
Nói rõ ràng, chân lý chính nằm ở đây, rất đơn giản, chẳng có gì cho người
ta chú ý, vậy mà nói linh tinh liên chi hồ điệp dông dài có khi lại làm cho
người ta chú ý! Thế mới thành nói giản đơn nhìn không đẹp, nói phức tạp
lại thành khó tiêu. Trừ các sách về “Loan Đầu” ra còn như các sách về Lý
Luận, đặc biệt các sách bán trên thị trường hầu như đều làm người đọc
nhầm lẫn!
Khai môn mở lớp, chiêu mộ nhiều đệ tử, học thì được, dùng chẳng được.
Chân chính hiểu được Thầy nói, hỏi được mấy người, dạy đã không đúng,
mà sao tiền học vẫn thu. Nghiên cứu mấy năm, nhiều người tự cho mình
là Thầy giỏi, đúng là ngốc nghếch! Vớ lấy một đống tri thức vô dụng, lộng
xưng có được bí quyết gia truyền quý báu để truyền nghệ, tất cả chỉ là tự
mình lừa dối mình mà thôi! Chẳng dám đàm luận hỏi ai là cao thủ. Có
được chút Đạo Lý rất nông cạn, chẳng dám lộ cho người xem.
Một môn Phong Thủy, lưu truyền nghìn năm. Tính chân thực của nó không
cần hoài nghi, có thể không tin, nhưng đừng bài xích nó! Nó xuất phát
chính từ hiện thực, bao quát một môn Phong Thủy, tri thức cổ truyền cần
kết hợp với hiện thực thời nay. Chẳng phải cứ mệnh tốt, Phong Thủy tốt là
Tọa Địa Hoa Khai. Nó chẳng qua là 99% phấn đấu+1% Vận Khí = Thành
Công.
Học tri thức Phong Thủy, đầu tiên là cần có tinh thần Duy Vật biên Chứng,
dùng Thực Tiễn Làm Tiêu Chuẩn Kiểm Nghiệm. Bỏ những cái mê vọng.
Gốc là cái nhìn với thái độ tin tưởng để nhận thức, song cũng cần hoài
nghi để học tập. Một người nói chưa chắc đã là đúng, kể cả đối với các
Thầy Cao Minh, sự truyền dạy nhất định cũng có hạn định. Phong Thủy là
sự lưu chuyển, mỗi cá nhân đều có cơ hội.
5/ Để Chọn Lựa Được Mộ Phong Thủy Cát Huyệt
Tại đây chúng tôi tổng hợp và trình bày một số nhân tố ảnh hưởng đến
Mộ trong nghĩa trang quy hoạch. Có thể căn cứ vào nguyên lý Phong
Thủy, sơ bộ xác định vị trí đất Phong Thủy của Mộ tập thể.
Ở vấn đề Long Mạch, cần quan sát kỹ xung quanh khu vực mộ, chọn lựa
tối chuẩn, sao cho tối đa tiếp thu được Long Khí Cát Huyệt. Bởi vì tại mộ
tập thể có thể tiếp thu Long Khí yếu hay mạnh trực tiếp quan hệ con cháu
bần tiện hay phú quý. Cuối cùng đứng tại chỗ Huyệt Vị xem Minh Đường,
đường thủy, Sa Hướng ….Xem có hợp Cục hay không, đó là bước quan
trọng thứ nhất của một Mộ Địa Cát Huyệt tại nghĩa trang tập trung.
Ngoài ra còn cần tránh những nhân tố bất lợi sau:
Cần ấm áp (tức Tàng Phong Tụ Khí), đó là khi chọn mộ cần ở chỗ tránh
gió thổi, cần cố gắng chọn chỗ không có gió hoặc gió nhẹ.
Cố gắng tránh trước mặt mộ có cống nước chảy thẳng đến, rồi đi đó là
Khiên Ngưu Thủy, chọn nó ắt phá tài tổn đinh.
Do mộ ở nghĩa trang là sắp xếp theo hàng bậc, từ cao xuống thấp, bởi
vậy các mộ chôn về sau có nguy cơ bị giáp vào chỗ sườn đồi hoặc tường,
dễ bị hiện tượng Lâm Đầu Thủy hoặc Xạ Thủy là tai họa, dễ vì thế mà đời
sau bị tổn đinh, phá tài hoặc nhiễm bệnh chứng kỳ quái.
Quá gần cây to cũng không tốt, ngày nay có một số gia đình đem cây cối
lớn như đào, mai tròng ngay cạnh mộ thậm chí trên nóc mộ, điều này rất
nguy hiểm, rễ cây có thể bó chặt hoặc xuyên qua quan tài, dẫn đến hậu
nhân bất an tâm mà gia cảnh lộn xộn.
Cần tránh các tuyến hoàng tuyền độ số, bởi thu phải Hoàng Thuyền Thủy
là bại sản tổn nhân, quyết không thể dùng.
Tuyệt đối không dùng độ số Không Vong. Bởi các độ tuyến không vong dễ
khiến đời sau thoái bại vì là tuyến vô Khí.
Tóm lại chọn lựa Huyệt Mộ tốt, cần dựa vào Lai Long cùng trước sau phải
trái Sa Thủy, cần cố gắng tận dụng các vị trí lợi, kết hợp tiên mệnh, niên
vận để lập chuẩn hướng tốt, như thế mới có hiệu ứng di truyền tốt cho
con cháu đời sau.
(Theo A Tư Tiểu Khang .)
Xin theo dõi tiếp bài 41. dienbatn.
PHONG THỦY LUẬN. BÀI 41.
Phần 8.
MỘT SỐ NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý KHÁC.
7/ MỘT SỐ KINH NGHIỆM THỰC TẾ KHI XỬ DỤNG CON LẮC .
Khi xử dụng con lắc trong Phong thủy, phải tuyệt đối tuân thủ những quy
định sau :
1. Nâng Khí gọi Mầu : Buổi sáng sớm, hướng về phía mặt trời mọc , thực
hiện các bước:
a/ Hít vào : Trong quá trình hít vào đưa thông tin : " năng lượng màu đỏ
vào khu vực 1, tôi có ý chí mạnh mẽ ". Miệng nói thầm, óc tưởng tượng
màu đỏ tràn ngập vùng hạ bộ.
b/ Thở ra : Phải thở ra trong tình trạng vô thức .
Làm tương tự từ màu đỏ đến các màu : vàng, cam, lục, tím, xanh ,
chàm . Mội vòng như vậy làm ít nhất 3 lần.
c/ Nội âm thanh : Phát âm trong cổ họng một hơi : I..P - A - Ê -AI -U - Ô
- A Âm. Làm như vậy ít nhất 3 lần.
2/ Định hướng thần : Tập trung tư tưởng cao độ vào vấn đề định hỏi lắc.
3/ Xả lắc : Quay lắc trong lòng bàn tay ngước chiều kim đồng hồ 7 lần
nếu là nam, 9 lần nếu là nữ.
Chớ nên quên việc xả lắc sau mỗi lần sử dụng.
4/ Tiến hành hỏi lắc trong việc chuẩn bị :
a/ Lắc đã hết nhiễu xạ chưa ? " nếu hết xin quay thuận ".
b/ Tôi đã đủ thần Khí để sử dụng lắc chưa ? Nếu lắc quay nghịch thì phải
làm lại động tác nâng Khí gọi màu lại.
5/ Quy ước thầm : Quy ước rõ ràng với lắc: Quay thuận có ý nghĩa gì ?
Quay nghịch có ý nghĩa gì ?
6/ Khi đặt câu hỏi cho lắc , cần phải có ý nghĩa rõ ràng . Nâng Khí, Gọi
Màu, Quy ước thầm, đặt câu hỏi rõ ràng là 4 phần chính khi sử dụng lắc.
Trong khi lắc quay , óc phải để hoàn toàn vô thức , không có định kiến
sẵn trong đầu . Muốn sử dụng lắc được hiệu quả , phải đảm bảo 3 điều
sau :
+ Tâm hoàn toàn trong sáng.
+ Nâng Khí gọi Màu tốt.
+ Đầu óc hoàn toàn vô thức.
Những điểm cần lưu ý :
+ Phải coi lắc như một người thân thiết của mình . Đặt cho lắc cái tên và
hỏi xem lắc có đồng ý hay không . Tuyệt đối không cho người khác mượn
lắc hay sờ vào lắc.
+ Khi làm việc với lắc, tinh thần phải sảng khoái , thoải mái, sức khỏe tốt,
cách xa bữa ăn.
+ Không làm việc với lắc khi trời mưa to , gió lớn, sấm sét , dưới đường
dây cao thế, gần máy tính, ti vi , điện thoại đang hoạt động.
+ Chú tâm vào công việc , tác phong thoải mái, tốt nhất là đi chân trần
không dày dép . Không bắt chéo 2 tay, không thắt lưng chặt quá, không
đeo đồng hồ hay dây kim loại khi sử dụng lắc.
+ Nên mặc quần áo vải, ngồi quay lưng về hướng Đông . Khi làm việc
không thay đổi chỗ ngồi . Cách xa người xung quanh tối thiểu 2 m.
+ Khi kết luận không nên nói như đinh đóng cột mà chỉ nên nói " Tôi cảm
thấy...Tôi dự đoán ...".
+ Quy ước chung có tính phổ biến :
* Quay thuận : Dương - Được - Vâng - Đúng - Tốt .
* Quay nghịch : Âm - Không - Sai - Xấu .
* Quay hình bầu dục thuận là chuẩn bị trả lời : Vâng nhưng chưa chắc
chắn lắm.
* Quanh hình bầu dục thuận trái : Không , nhưng chưa chắc chắn lắm.
* Dao động tới - Lui : Từ phải sang trái : Lưỡng lự , không chắc chắn. Từ
trái qua phải : Hãy chờ đợi .
Chúc các bạn xử dụng con lắc thành công . Thân ái , dienbatn.
Xin xem tiếp bài 42.
PHONG THỦY LUẬN. BÀI 42.
Phần 8.
Quan sát hình 4 ta thấy: Khi một dòng Khí tác động vào thành mộ tròn
thì phần Tà khí (TK) sẽ tách ra lao xuống dưới. Còn Sinh khí (SK) thì vừa
chạy viền quanh đường cong thành mộ, vừa đổ vào mặt trên của mộ để
thẩm thấu vào mộ theo mọi hướng. Như vậy mộ tròn có ưu điểm là nhận
được nhiều Sinh khí hơn là mộ xây hình chữ nhật.
Quan sát một ngôi mộ xây hình chữ nhật như hình 5 ta thấy: Ngôi mộ
này không có đường Sinh khí bao quanh như ở mộ xây tròn vì mặt tường
là mặt phẳng. Mặt khác, bức tường cao để đặt bia đã làm thoát mất Sinh
khí SK2, không rơi xuống mặt mộ, mà vượt qua mộ đi mất. Mộ này chỉ có
thể thường xuyên nhận Sinh khí SK1 từ 3 hướng mà thôi.
Như vậy, mộ có thể xây hình tròn hay hình chữ nhật đều được, nhưng xây
tròn thì vẫn hơn. Có một nguyên tắc cần nhớ là trên mộ phải có cỏ xanh.
Đó là cửa giao lưu thông thoáng Âm Dương giúp cho mộ luôn nhận được
Sinh khí và cân bằng Âm Dương khí.
Ở một vài tỉnh miền Trung nước ta, nhân dân xây mộ không làm tường
cao gắn bia, mà đặt bia ngay trên thành mộ (Hình 6). Ưu điểm của những
mộ này là không cản đường Sinh khí vào mộ. Mộ có thể nhận Sinh khí từ
mọi phía. Mộ này vừa đơn giản, đủ lịch sự, lại vừa phù hợp với quy luật
vận hành Khí của vũ trụ. Ở những mộ này bia được gắn trên thành mộ
theo nguyên tắc: người đứng lễ phía chân người chết phải nhìn thấy bia.
Nghĩa là: nếu gắn trên thành mộ thì bia gắn ở phía chân người chết
(ngoài thành mộ). Còn gắn trên cao thì gắn phía đầu người chết (trong
thành mộ).
Theo GS TS Nguyễn Tiến Đích ."