Professional Documents
Culture Documents
BÍ GIẢI ĐẠI HUYỀN KHÔNG BẢN ĐỦ
BÍ GIẢI ĐẠI HUYỀN KHÔNG BẢN ĐỦ
Đại Huyền Không phong thủy tất cần phải "Thể Dụng cùng trọng, Hình Khí hợp nhau",
đây chính là công thức nghìn xưa! ! !
Hình, là chỉ hình thế loan đầu. Khí, là chỉ Lý khí Ai tinh.
Nhất Loan Đầu; Nhị Lý Khí. Loan Đầu là Thể, Lý Khí là Dụng, cả hai đều không thể vứt
bỏ.
Loan Đầu luận Long, Huyệt, Sa, Thủy, để khảo sát Thể sinh khí vậy; Lý khí là nói đến
Nguyên vận, Linh Chính, để dùng trắc nhân sự hưng phế.
"Thể" —— là có thể mắt thấy sơn thủy, tức là chương tấu trọng Sơn "Nhãn pháp" ở
trong《 Tâm Nhãn chỉ yếu 》.
"Dụng" —— là một loại lý luận về Lý khí thu Sơn nạp Thủy, tức là chương tấu trọng Sơn
"Tâm pháp" ở trong 《 Tâm Nhãn chỉ yếu 》.
"Thể không có Dụng không linh, Dụng không có Thể không nghiệm" tức là thuyết minh
rõ về quan hệ Thể Dụng.
Cũng chính là nói, mặc dù sơn thủy đều hữu tình mà kết thành đất tốt, nhưng không
dùng lý luận thu sơn nạp thủy để vận hành, thì dễ dàng đem sơn hướng lập sai, đã làm
hướng đối lập, cũng không biết lúc nào là vận hưng, lúc nào vận suy.
Ngoài phương diện này ra, nếu như cụ thể hình thế sơn thủy ly khai mà không nói đến
Dụng (Lý khí), vậy thì cũng chẳng nên đàm luận. Cho dù là đại địa, lấy huyệt dựa vào sa
hoặc là thoát khí (thể đã phá), Lý khí (Dụng) dù có chính xác thì cũng uổng phí. Cho nên
có thể biết, Thể và Dụng là cùng dựa vào nhau, là hai phương diện tổ thành phụ thuộc
vào nhau, khuyết một là không thể được. Tuy có đọc hàng quyển 《 Thanh Nang 》,
chẳng qua cũng là hai chữ "Thể Dụng", tức là ý này vậy. Chỉ có kết hợp Thể, Dụng, mới
cóHai chữ Huyền Không, bao hàm từ số 1 đến số 9, mượn dời chuyển ở nguyên vận,
huyền cơ điên đảo thuận nghịch.
Sách nói: "Tam nguyên nhất thư, áo diệu vô cùng. Nhìn chung vạn vật trời đất, đều dựa
vào ngũ hành để thành bại; vượng tướng hưu tù, đều dựa tam nguyên để vận hành."
《 Thanh Nang áo ngữ 》 nói: "Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất. Cấn Bính Tân, vị
vị thị Phá Quân. Tốn Thìn Hợi, tẫn thị Vũ Khúc vị. Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ
hành."
Khương Nhữ Cao chú viết: "Áo ngữ thủ yết thử chương, nãi Ai tinh điều lệ.
" Phạm Nghi Tân cũng viết: "Dương Công thử thiên, nhân đắc Thanh Nang chính quyết,
cụ ngôn Huyền Không Đại Quái Ai tinh chi xử."
Lại nói: "Áo ngữ quát tẫn Thanh Nang chi chỉ, dĩ Huyền Không chi Lý khí thi Cửu tinh chi
đảo bài, cao sơn bình địa chi tác, tẫn tại kỳ trung, bất khả tróc mạc. Nhược phi khẩu
khẩu tương truyện, khứ tác vu chương cú chi trung, chung bất năng biện."
Đúng như trong chỗ 《 Áo ngữ 》 nói: "Động bất động, trực đãi cao nhân thi diệu dụng
dã." Áo ngữ Ai tinh còn ẩn giấu trong đó, về phần phép dùng Nhị Trạch điên đảo, không
lộ bức ảnh.
Tóm lại, Bí thuật Đại Huyền Không cần phải —— Biết Nguyên vận, dụng để phân ra Linh
Chính; Điên đảo điên, rõ Cửu tinh được mất; nhận Kim Long, biện Long quý tiện; đón
sinh khí, được chân Long lập huyệt phù hợp. thể làm ra hiệu quả phong thủy tốt nhất.
《 Thiên Ngọc kinh 》 nói: Hiểu được Linh thần và Chính thần, có ngày vào mây xanh;
không hiểu Linh thần và Chính thần, đời đời tuyệt trừ căn.
Phân định âm dương quy về hai lộ, thuận nghịch sắp xếp mà đi, biết sinh biết tử cũng
biết bần, lưu lại mà dạy dỗ con cháu.
Lại nói: Hiểu được hai đường đi âm dương, phú quý đạt kinh thành, không hiểu hai
đường đi âm dương, rơi hố lửa vạn trượng.
《 Thanh Nang tự 》 nói: Sơn thượng Long thần bất hạ thủy, Thủy lý Long thần bất
thượng sơn. Sơn quản sơn hề Thủy quản thủy, đây là âm dương không đợi nói.
Hiểu được lý lẽ huyền diệu của âm dương, thì biết suy vượng sinh và tử. không hỏi tọa
sơn và lai thủy, nhưng phùng tử khí đều chớ thủ.
Phong thủy Đại Huyền Không, nhất nhị tam tứ, lục thất bát cửu cùng phong thủy《
Huyền Không lục pháp 》không khác nhiều. Tiên Hậu thiên thông khí giới thiệu cùng 《
Địa Lý băng hải 》là như nhau.
Thuật phong thủy Đại Huyền Không là truyền lại chính tông, lý lẽ vô cùng áo diệu. Chân
lý Đạo xuất Thái Cực, Hà Lạc, là tổ tông của các loại thuật phong thủy. Hà Lạc tinh hoa
mà vô tận, phạm vi rộng lớn mà không đổi dời.
Đạo thường nói: "Y dược sai lầm hại một người, phong thủy sai lầm họa cả nhà" .
Xã hội hiện nay mạo danh Dương Công, lại có không ít giang hồ thuật sĩ, lấy ở văn
chương, nhiều lời ngon tiếng ngọt, không được chân truyền. Ai không biết, "Thế gian
phong thủy thiên thiên vạn, chỉ có Ai tinh là chân ngôn". Cho nên không được khẩu
truyền tâm thụ, khó mà nhập môn. Ngô Kim tiết lộ bí quyết Ai tinh của Tưởng Công, lấy
bản chính làm gốc.
Thuật Ai tinh Đại Huyền Không xuất phát từ các Kinh《 Thanh Nang 》, là do hai họ
Dương, Tăng chân truyền cho họ Tưởng, trên lịch sử chưa hề công khai qua. Sách Tam
nguyên, bày ra cũng nhiều, 《 Bí bản 》 nói: "Tam nguyên tam thập lục môn, chân giả
độc nhất dã", tức là chỉ thuật Ai tinh Đại Huyền Không mà nói.
Đại Huyền Không là lấy Thái Cực, Hà Lạc, Tiên Hậu thiên Bát Quái làm lý luận cơ bản.
Trình bày khái niệm chân chính về Thư Hùng, Kim Long, Thành Môn, nói rõ chân cơ điên
đảo thuận nghịch, lập hướng nạp thủy, thu sơn xuất sát. Từ 24 Sơn trừu hào hoán tượng
mà ra các tinh sao Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất
Xích, Bát Bạch, Cửu Tử, theo nguyên vận, phân chia âm dương, nhập Trung cung, hoặc
thuận hoặc nghịch, theo thứ tự lần lượt mà đi, cho nên viết là Ai tinh (chữ Ai nghĩa là
sắp xếp lần lượt). Bất luận là ai thuận hoặc là phi nghịch, đại đạo chí giản, đều là một
bàn mà thành, thao tác giản tiện; vận hành phong thủy, phú quý có chuẩn. Mà tĩnh tọa
ở trong nhà, biết sơn hướng, biết thủy khẩu, trong vài phút có thể đoán ra nhanh cát
hung họa phúc. Bí thuật Dương Công, lần đầu công khai. Chân Giả độc nhất, thuật này là
vậy.
4 9 2
3 5 7
8 1 6
Khẩu quyết: Đội 9 đạp 1. Tả 3 Hữu 7. 2-4 là vai. 6-8 là chân.
Lấy 5 làm trung tâm, bất luận thẳng nghiêng cộng lại đều là con số 15.
Tốn Ly Khôn
《 Thiên Ngọc kinh 》 viết: "Chỉ có Ai tinh là quý nhất, tiết lộ bí mật thiên cơ ".
Khanh
5. 10-10-17, 19:23#9
lesoi
1, Đại Huyền Không luận Nguyên vận là phân ra Thượng nguyên và Hạ nguyên (Thượng
Hạ Nhị nguyên Bát vận), Tam nguyên phân ra làm Nhị nguyên, Ngũ vận phân ra 46 đều
quản trước sau 10 năm. (Ngũ Hoàng 10 năm trước quy về vận 4, 10 năm sau quy về vận
6. ) Thực ra vẫn là Tam nguyên Cửu vận, chẳng qua chỉ là đem ngũ vận chia ra mỗi nửa,
nửa trước là Thượng nguyên, nửa sau là Hạ nguyên. 《 Thanh Nang Tam Tự kinh 》
viết: "Đại Huyền Không, dụng Cửu tinh". Tức là dụng phép Cửu tinh ai bài thuận nghịch
để công bố ảnh hưởng của thiên vận tự nhiên đối với xã hội nhân loại, để phá giải cỏi mê
của nhị trạch cát hung Đại Huyền Không mượn trên dưới nguyên vận khác nhau, đem
Cửu tinh phân ra làm âm dương, dương thuận âm nghịch. Tức là Dương nhất lộ, Âm nhất
lộ.
2, Đại Huyền Không ai tinh âm dương trạch dụng tinh khác nhau. Có hai loại Ai tinh
Dương trạch và Âm trạch, cả hai không thể lẫn lộn vậy.
Ai tinh Nhị thập tứ sơn, chỉ dùng Chân quyết Ai tinh bày ra Tinh tọa sơn, Dương trạch
nhập trung cung lập cực xếp bàn, Ai tinh dụng Bản Sơn tinh; Âm trạch nhập trung cung
lập cực xếp bàn, Ai tinh dụng Phụ Mẫu tinh. Phụ Mẫu tinh từ Bản Sơn tinh nghịch kinh tứ
vị (987654321←) mà ra. Cũng theo trên dưới nguyên vận khác nhau mà điên đảo điên,
thuận nghịch hành. Dụng chân quyết Ai tinh mà khởi Cửu cung phi tinh sắp xếp.
Ai Tinh Chân quyết Bản Sơn tinh (Dương trạch)
+ Tọa sơn Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành; Nhất Bạch là bản sơn tinh, thượng
nguyên dụng Nhất Bạch nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Nhất Bạch nhập trung
cung nghịch hành.
+ Tọa sơn Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất; Nhị Hắc là bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Nhị Hắc nhập trung cung thuận hành, Hạ Nguyên Nhị Hắc nhập trung cung
nghịch hành.
+ Tọa sơn Tý Mão Mùi, Tam Bích Lộc Tồn đáo; Tam Bích là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Tam Bích nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tam Bích nhập trung cung
nghịch hành.
+ Tọa sơn Tuất Càn Tị, Tứ Lục Văn Khúc chiếu; Tứ Lục là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Tứ Lục nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tứ Lục nhập trung cung nghịch
hành.
+ Tọa sơn Thìn Tốn Hợi, Lục Bạch Vũ Khúc vị, Lục Bạch là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Lục Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Lục Bạch nhập trung cung
thuận hành.
+ Tọa sơn Cấn Bính Tân, Thất Xích thị Phá Quân; Thất Xích là Bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Thất Xích nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Thất Xích nhập trung
cung thuận hành.
+ Tọa sơn Dần Canh Đinh, Bát Bạch Tả Phụ ứng; Bát Bạch là bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Bát Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung
cung thuận hành.
+ Tọa sơn Ngọ Dậu Sửu, Cửu Tử Hữu Bật tinh. Cửu Tử là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Cửu Tử nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Cửu Tử nhập trung cung thuận
hành.
+ Thất Xích là Phụ Mẫu tinh Nhất Bạch (1→7), Thượng nguyên dụng Thất Xích nhập
trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Thất Xích nhập trung thuận hành.
+ Bát Bạch là Phụ Mẫu tinh Nhị Hắc (2→8), Thượng nguyên dụng Bát Bạch nhập trung
cung nghịch hành. Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung cung thuận hành.
+ Cửu Tử là Phụ Mẫu tinh Tam Bích (3→9), Thượng nguyên dụng Cửu Tử nhập trung
cung nghịch hành. Hạ nguyên Cửu Tử nhập trung cung thuận hành.
+ Nhất bạch là Phụ Mẫu tinh Tứ Lục (4→1), Thượng nguyên dụng Nhất Bạch nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Nhất Bạch nhập trung cung nghịch hành.
+ Nhị Hắc là Phụ Mẫu tinh Ngũ Hoàng (5→2), Thượng nguyên dụng Nhị Hắc nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Nhị Hắc nhập trung cung nghịch hành.
+ Tam Bích là Phụ Mẫu tinh Lục Bạch (6→3), Thượng nguyên dụng Tam Bích nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Tam Bích nhập trung cung nghịch hành.
+ Tứ Lục là Phụ Mẫu tinh Thất Xích (7→4), Thượng nguyên dụng Tứ Lục nhập trung ung
thuận hành, Hạ nguyên Tứ Lục nhập trung cung nghịch hành. + Ngũ Hoàng là Phụ Mẫu
tinh Bát Bạch (8→5), Thượng nguyên dụng Ngũ Hoàng nhập trung cung thuận hành, Hạ
nguyên Ngũ Hoàng nhập trung cung nghịch hành.
+ Lục Bạch là Phụ Mẫu tinh Cửu Tử (9→6), Thượng nguyên dụng Lục Bạch nhập trung
cung nghịch hành. Hạ Nguyên Lục Bạch nhập trung cung thuận hành.
(còn tiếp)
3, Ai tinh Đại Huyền Không chỉ lấy Ai tinh Tọa sơn (24 sơn) phi tinh nhập trung cung, mà
luận bát phương Linh Chính cát hung; cùng một sơn hướng Thượng Hạ nguyên sắp xếp
khác nhau. Không có Vận tinh, hướng tinh nhập trung cung.
+ Phàm Tọa sơn Ai tinh là 1, 2, 3, 4, gặp vận Thượng nguyên thì phi thuận Cửu cung,
vận Hạ nguyên thì nghịch phi Cửu cung. (1, 2, 3, 4 Thượng thuận Hạ nghịch)
+ Phàm Tọa sơn Ai tinh là 6, 7, 8, 9, gặp vận Thượng nguyên thì phi nghịch Cửu cung,
vận Hạ nguyên thì phi thuận Cửu cung. (6, 7, 8, 9 Thượng nghịch Hạ thuận)
+ Âm Dương trạch lấy chỗ này thuận theo thứ tự Cửu cung (trung ngũ → lục → thất →
bát → cửu → nhất → nhị → tam → tứ cung) ai bài, Phi tinh đến Cửu cung, mỗi cung tinh
phi đến ở Thượng nguyên hoặc là Hạ nguyên ở trong 90 năm là bất động. Chỉ cần sơn
Hướng bất biến, tinh nhập trung cung vĩnh viễn là bất biến.
Như: Dương trạch sơn Dần hướng Thân, 3 sơn Dần Canh Đinh bản sơn tinh là Bát Bạch,
tức là dụng Bát Bạch tinh nhập trung cung. Bất luận là kiến tạo ở Thượng nguyên hoặc là
Hạ nguyên, Thượng nguyên dụng Bát Bạch tinh nhập trung cung xếp bàn nghịch hành,
đến Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung cung xếp bàn thuận hành.
Lại như sơn Nhâm hướng Bính, 3 sơn Khôn Nhâm Ất bản sơn tinh là Nhị Hắc, tức là lấy
Nhị Hắc tinh nhập trung cung lần lượt theo thứ tự. Bất luận là kiến tạo ở Thượng nguyên
hoặc là Hạ nguyên, Thượng nguyên dụng Nhị Hắc tinh nhập trung cung xếp bài thuận
hànĐưa ra ví dụ thuyết minh:
1, Dương trạch sơn Ngọ hướng Tý, dụng quyết "Ngọ Dậu Sửu Cửu Tử Hữu Bật thủ", sơn
Ngọ dụng Cửu Tử, Cửu Tử tức là bản sơn tinh, dụng Cửu Tử nhập trung cung xếp bày.
2, Lúc ở Hạ nguyên, Cửu Tử thuộc Dương tinh, thì nhập trung cung phi thuận Cửu cung.
Cửu tử cư ở Trung cung 5, Nhất Bạch đến Càn 6, Nhị Hắc đến Đoài 7, Tam Bích đến Cấn
8, Tứ Lục đến Ly 9, Ngũ Hoàng đến Khảm 1, Lục Bạch đến Khôn 2, Thất Xích đến Chấn
3, Bát Bạch đến Tốn 4, tinh phi đến mỗi cung ở Hạ nguyên 90 năm là bất động.
3, Nếu như là lúc Thượng nguyên, thì Cửu Tử nhập trung cung phi nghịch Cửu cung. Cửu
Tử cư ở Trung cung 5, Bát Bạch đến Càn 6, Thất Xích đến Đoài 7, Lục Bạch đến Cấn 8,
Ngũ Hoàng đến Ly 9, Tứ Lục đến Khảm 1, Tam Bích đến Khôn 2, Nhị Hắc đến Chấn 3,
Nhất Bạch đến Tốn 4, chỗ Tinh đến mỗi cung ở Thượng nguyên 90 năm cũng là bất
động. Âm trạch chỗ mỗi cung Ai tinh đến ở Thượng nguyên trong vòng 90 năm cũng bất
động.
VD Dương trạch: Sơn Ngọ hướng Tý bản sơn tinh là Cửu Tử nhập trung cung.
Thượng nguyên Ai tinh nghịch hành
4, Đại Huyền Không nhấn mạnh pháp tắc Hợp cục (Chính Thần chính vị trang, bát
thủy nhập Linh Đường).
Chỗ đến xứ Chính thần, Linh thần, tất cần phải cùng địa thế Hư Thực Không Mãn phối
hợp nhau, kết hợp phân tích. Nếu không, phạm Linh Chính đảo điên, xếp bàn cũng chỉ là
phí công.
+ Thượng nguyên lấy 1, 2, 3, 4 làm Chính thần, ứng với cao Mãn, hỉ thủy đến, phong
đến, khí đến; 6, 7, 8, 9 là Linh thần, ứng với Không Hư, hỉ xuất thủy, xuất phong, xuất
khí.
+ Hạ nguyên lấy 6, 7, 8, 9 làm Chính thần,, ứng cới cao Mãn, hỉ thủy đến, phong đến,
khí đến; 1, 2, 3, 4 là Linh thần, ứng với không hư, hỉ xuất thủy, xuất phong, xuất khí.
Hình thế Sơn thủy là giảng cứu Hợp cục, cũng chính là "Long thần ở trong Thủy không
thượng sơn, Long thần trên Sơn không hạ thủy", không được Hình cục, chớ nói Ai tinh.
Nhận Kim Long, một Kinh một Vĩ kỳ diệu vô cùng, động bất động, đợi đến cao nhân thi
hành diệu dụng.
5, Mỗi cung Cửu tinh cát hung, dựa theo pháp tắc Hợp cục phán đoán. Bản thân Ai tinh
Cửu tinh cũng không có phân ra cát hung, kết quả cát hung hoàn toàn là căn cứ ở Hợp
cục (Chính Thần chính vị trang, bát thủy nhập Linh Đường) hoặc là phản cục (Thượng
sơn Hạ thủy) mà định. Về phần cát hung ứng ở trên người nào chuyện nào, thì sau khi
sử dụng Cửu tinh phối quẻ phân tích tượng Cửu tinh là được.
6, Đại Huyền Không Linh Chính đảo điên
Dụng địa lý Tam nguyên thuật Ai tinh Đại Huyền Không ở lúc thiết kế lập hướng, là kỹ
pháp tối thượng thừa ở trong các phái phong thủy. Đại Huyền Không là nghiên cứu thiết
kế đến:
(1) Tổng nguyên tắc Lý khí Đại huyền không là "Bất thượng sơn, bất hạ thủy", Lệnh tinh
đi đến Thủy khẩu, phạm Sơn Long hạ thủy, tất tổn thương nhân đinh (viên công đơn vị
hoặc là thành viên gia đình). Địa lý Tam nguyên tối kỵ phản cục "Thượng sơn hạ thủy".
Nếu bởi vì sơn kiến thủy, bởi vì thấy thủy lại thành sơn, hình thành phản cục chính là
Linh Chính đảo điên (thượng sơn hạ thủy).
"Sơn Long bất hạ thủy, Thủy Long bất thượng sơn". Dụng số từ 1 đến 9, theo
nguyên vận là Đế quân, không có luận vận Thượng, Hạ nguyên, đều nắm Linh thần đặt ở
trên thủy, nến như cục không có thủy, đem đến chỗ lõm thấp, đây chính là kỹ thuật ứng
dụng Đại Huyền Không ở lúc lập thiết kế. Như đại vận Thượng nguyên Nhất Bạch, chỗ lai
Long lai Thủy đặt ở Chính thần (Nhất Bạch Nhị Hắc Tam Bích Tứ Lục), xuất thủy chỗ hãm
thấp đặt ở Linh thần (Lục Bạch Thất Xích Bát Bạch Cửu Tử). Ví dụ như hiện thời đến vận
Hạ nguyên, thì 6, 7, 8, 9 thuộc về Chính thần, nên cao mà không nên thấy thủy; mà 1,
2, 3, 4 thì thuộc về Linh thần, không nên cao, phải thấy thủy. Nếu bởi vì cao thấy thủy,
vì thấy thủy lại thành sơn, thì là phạm Linh Chính đảo điên.
(2) Ở trong 4 Linh thần, càng ưu tiên thủ dụng là Chính Linh thần cùng thúc Linh thần
xuất thủy. Vị trí Phụ Mẫu xuất thủy dụng thúc tài để chấn hưng kinh tế tác dụng càng
lớn.
(3) Thủy ở nội cục, ngoại cục đều nên dụng phép Ai tinh để tiêu tan. Như mặt thủy rộng
mở, gần kề cung bên cạnh, lúc phạm sơn Long hạ Thủy là hung, thì lấy phép Ai tinh
kiêm Hướng tiêu nạp, để cho chuyển họa thành phúc.
Quy hoạch Thành phố nếu có thể có đề cao trọng điểm cùng bảo đảm hiệu ích kinh tế xí
nghiệp hữu hiệu rất tốt, đơn vị sự nghiệp có thể phát triển ổn định, tránh khỏi nhân tài
tổn thất không cần thiết, để chấn hưng kinh tế địa phương, tiến nhất bước xúc tiến phát
triển thành phố. Thiết kế chỗ ở gia đình, nếu có thể cùng hoàn cảnh tự nhiên hòa hợp, có
thể khiến cho mọi nhà khỏe mạnh giàu có, bình an ít tai họa, con cái có nối tiếp, mọi
người an cư lạc nghiệp, đối với xã hội ổn định khởi được tác dụng tích cực. Nhưng mà
cửa kế hoạch này cùng thiết kế kỹ thuật ứng dụng lại một mực ẩn tàng ở trong cửa nhà
thuật sĩ, đó chính là thuật phong thủy Địa lý Tam nguyên Đại Huyền Không.
Phong thủy học Đại Huyền Không, ở trong chỗ chúng ta kiến thiết khởi tác dụng chủ đạo,
lý luận của nó nghiêm cách mà hệ thống, ở trong quá trình phát triển dài đến mấy nghìn
năm, đã dần dần hình thành hoàn chỉnh hệ thống lý luận, thực ra là lý luận kinh điển
kiến trúc kế hạch học. Dụng thuật phong thủy Địa lý Tam nguyên Đại Huyền Không ở lúc
thiết kế quy hoạch lập hướng, là kỹ pháp tối thượng thừa trong phong thủy của các phái.
Học thuyết Kham dư phong thủy, là một môn học vấn của nước ta thời cổ đại liên quan
đến quy hoạch hoàn cảnh kiến trúc và thiết kế, cũng là liên quan đến con người cùng tự
nhiên đạt đến một loại lý luận cao thâm về sự hài hòa thống nhất, thời kỳ lịch sử lâu dài,
chảy dài nguồn cội, ở trong quá trình phát triển dài đến mấy nghìn năm, từng bước nó
đã hình thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh thể và các loại môn phái. Trong xã hội ngày
nay phát triển công ty sự nghiệp, kinh tế phồn vinh càng không ly khai khỏi sự chỉ đạo
kỹ thuật phong thủy, ở trong kham dư các loại môn phái, lý luận Ai tinh Địa lý Tam
nguyên Đại Huyền Không, càng có đủ tính quyền uy ở trên học thuật, thực ra là tác
phẩm kinh điển về quy hoạch kiến trúc học. Hiện đưa ra ví dụ để chứng minh tính trọng
yếu của thuật phong thủy Đại Huyền Không hiện đại trong kiến thiết.
VD 1: Một Trạch kiến tạo ở vận 7 sơn Ngọ hướng Tý, cửa mở phương tây, phương Khôn
xuất thủy.
8 4 6
7 9 2
3 5 1
1, Sơn Ngọ hướng Tý Cửu Tử là bản sơn tinh, Hạ nguyên dụng Cửu Tử nhập trung cung
ai bài thuận hành.
2, Nếu như nhà chủ nhân thiết kế Tốn, Chấn thì hợp cục, nhân đinh hưng vượng, cung
khác thì không hợp cục.
3, Thực tế là nhà chủ nhân là cung Cấn, năm 2004 chủ nhân bị thương, tai họa không
ngừng.
4, Bởi vì nhà chủ nhân cung Cấn Ai tinh Tam Bích, Hạ nguyên là Linh thần, năm 2004
Thái Tuế đến Thủy khẩu, từng cung phục ngâm, Tam Bích Bát Bạch hợp sinh thành, ở
dưới tình huống không hợp cục thì có họa.
5, Xuất Thủy khẩu phương Khôn không hợp cục, Lục Bạch là Chính thần, Hạ nguyên xuất
thủy thì phá tài, độc cư, đầu bệnh, ung thư.
6, Cửa mở phương tây, địa thế cao hợp cục, không cao thì phản cục, dễ phá tài, tổn thư
VD 2: Một xưởng kiến tạo ở vận 7 Hạ nguyên sơn Mão hướng Dậu, phá tài, quan ti, khẩu
thiệt không ngừng.
Thuyết minh: Cửa Khôn, xuất thủy phương Thân, làm việc phương Tốn, chỗ ở phương
Cấn, phân xưởng trung cung, nhà kho phương Khảm, táo ở phương Càn.
4 8 6
5 3 1
9 7 2
Lý giải:
1, Sơn Mão hướng Dậu, Tam Bích là Bản sơn tinh, Hạ nguyên dụng Tam Bích nhập trung
cung nghịch hành.
2, Mở cửa phương Khôn xuất thủy, Hạ nguyên Lục Bạch là Chính thần, xuất thủy phản
cục, phá tài, nhưng Địa vận Nhị Hắc hợp cục, cho nên nữ nắm quyền, không dễ tụ tài.
3, Phương phục ngâm, làm việc, dễ có chuyện bất thuận phát sinh tâm sự. Như: Công
nhân bất hòa, khẩu thiệt thị phi.
4, Nơi ở phương Cấn, Ai tinh Cửu Tử thì hợp cục, chủ nữ nắm quyền.
5, Phân xưởng ở Trung cung Ai tinh Tam Bích không hợp cục, bởi vì Hạ nguyên Tam bích
là Linh thần, Phân xưởng nên dụng vượng tinh hoặc là Nhất, Lục, Bát 3 cát tinh mới
được. Không hợp cục thì công nhân bị thụ thương, bởi vì Tam Bích ở vận 7 là đối đầu với
Sát, ứng năm phùng Thất Xích nhập trung cung, ở trong vận 8, Bát Bạch nhập trung
cung là tổn thương người, vận 7 nữ dễ tổn thương, vận 8 là nam.
6, Nhà kho ở phương Khảm, bình, bởi vì nhà kho dụng Suy tinh là được, nhưng Hạ
nguyên Vượng tinh Thất Xích đến Khảm, kim sinh thủy không ngại.
7, Táo ở phương Càn, Ai tinh Nhị Hắc, Nhị Hắc ở Hạ nguyên là Linh thần, táo tọa nên
thiết lập ở vị trí Chính thần, cho nên không hợp cục dễ có chuyện tật bệnh, quan ti phát
sinh.
Chỗ đoán việc ở bên trên đều ứng, về sau trải qua bố cục điều chỉnh lại, đi vào tốt đẹp,
mỗi tháng doanh lợi thu vào thập vạn nguyên.ơng nữ đinh, thương tai, khẩu thiệt. Nữ
phạm đào hoa, bệnh phổi, đau bao tử.
VD 3: Một cửa hàng chuyên mua bán hàng trang phục hưng vượng và phát đạt bởi do
mở cửa hiệu ở năm 2001, thuộc Hạ nguyên vận 7 sơn Tý hướng Ngọ, mở cửa chữ Nhất
(一), đến nay làm ăn hưng vượng mở them mấy chi nhánh, thử phân tích ở dưới: Căn cứ
theo cục Hạ nguyên vận 7 sơn Tý hướng Ngọ, Tam Bích là Bản Sơn tinh, Hạ nguyên Tam
Bích dụng ai tinh nhập trung cung nghịch hành.
Sơ Đồ như sau ——
4 8 6
5 3 1
9 7 2
Các bạn giải thích tại sao phát giàu?
1, Hiện nay sách nói về Địa học, chất chồng như núi, đen
trắng khó phân. Như Quyết Ai tinh của Khương Nhữ Cao
nói: "Tý Quý cùng Giáp Thân, Tham Lang nhất lộ hành"
cũng không phải là chính quyết. Thanh Thẩm Trúc là từ
trong chương Trọng Sơn nói《 Âm Dương nhị trạch lục
nghiệm 》, lấy trí tuệ giải ngộ ra 《 Thẩm thị Huyền Không
Học 》(Tức là Huyền Không phi tinh pháp), trên tập quán
xưng là Tiểu Huyền Không. Bí thuật Đại Huyền Không chân
chính đến hiện nay chưa bao giờ công khai qua, trên thị
trường có sách Quan Đại Huyền Không, đều không phải là
của họ Tưởng chân truyền. Thế văn《 Đại Huyền Không 》,
sẽ khiến cho Kham Dư yêu thích mà cảm nhận đến Tiểu
Huyền Không (Tức là Thẩm thị Huyền Không học) cùng Đại
Huyền Không ở trên trình tự thao tác cùng giá trị thực
dụng khác nhau một trời một vực. Ở trên trình tự thao tác,
Thẩm thị Tiểu Huyền Không phải khởi 3 bàn: Một là Vận
Tinh bàn, hai là Sơn Tinh bàn, ba là Hướng Tinh bàn, lại có
khởi tinh Hạ quái cùng Thế quái khác nhau, thập phần
phức tạp, nói gạt học giả. Còn Đại Huyền Không hết sức
giản tiện dễ học, bất luận ai thuận hoặc là phi nghịch, đều
là một bàn là thành, đại đạo chí giản, phương tiện chuyên
làm.
2, Thẩm thị Huyền Không ở lúc quan trắc tất phải cần làm
rõ một sơn một hướng kiêm mấy độ, trong mấy độ thì
dung Hạ quái, ngoài mấy độ thì dung Thế tinh. Vậy ở lúc
quan trắc mộ cũ thì sẽ xuất hiện vấn đề, bởi vì mộ cũ ai
cũng không có cách nào phân biện rõ là kiêm bao nhiêu độ,
không có khả năng đem đào ra xem chứ! Chưa nói tới kiêm
tọa hướng mấy độ, càng không cần nói Quyết khởi tinh vốn
là ngụy quyết, lúc đang dụng bí thuật Đại Huyền Không
khám trắc âm dương trạch, lúc mộ cũ mới óng ánh, những
vấn đề này đều là không tồn tại.
3, Ở phương diện đảo điên thuận nghịch, Thẩm thị Huyền
Không là lấy Vận tinh làm Tinh lập cực, điên đảo thuận
nghịch hoàn toàn là lấy trên địa bàn sơn hướng quái vị
Thiên Địa Nhân hắc hồng âm dương làm căn cứ, để quyết
định pháp phi Tinh ở sơn bàn cùng hướng bàn thuận
nghịch. Đại Huyền Không mượn Thượng Hạ nguyên vận
khác nhau, đem Cửu tinh phân ra âm dương, dương thuận
âm nghịch tức là Dương nhất lộ, Âm nhất lộ. Mà Dương
trạch nhập trung cung lập cực lấy Bản Sơn tinh, Âm trạch
nhập trung cung lập cực là lấy Phụ Mẫu tinh, hợp theo
nguyên vận mà điên đảo điên. Do vậy có thể thấy, 《Bí
thuật Đại Huyền Không 》 cùng 《 Thẩm thị Huyền Không
học 》 ở phương diện lý luận Ai tinh điên đảo thuận nghịch
tồn tại bản chất khác nhau, cũng không khó nhìn ra Thẩm
thị Tiểu Huyền Không căn cứ âm dương thuận nghịch cũng
là một loại ngụy pháp ngốc quyết, ứng dụng thực tế, sai
lầm mà hại mình, dụng không phát hoặc phát sinh hung
họa, chỗ nói đại pháp chẳng qua là như vậy. Thảo nào
Chung Nghĩa Minh tiên sinh cũng cho rằng: "Ứng dụng
thực tế nghiệm cố hữu, dụng mà không phát, thậm chí là
phát hung họa, cũng không phải là thiểu sổ" .
4, Mặc dù Tiểu Huyền Không ở trên nguyên lý Phi tinh là có
khuyết hãm thực chất, nhưng ở phương diện khác, chỗ nó
nhấn mạnh "Chính thần chính vị trang, bát thủy nhập Linh
đường" là một pháp tắc Hợp cục, cùng tối kỵ "Thượng sơn
hạ thủy cục" (Sơn Long hạ thủy, Thủy Long thượng sơn), ở
trên một điểm này cùng nguyên tắc Ai tinh Đại Huyền
Không nhấn mạnh hoàn toàn nhất trí. Ở trong quá trình
ứng dụng lý luận Tiểu Huyền Không, thủy chung đều có thể
nắm chắc được Lý khí Huyền Không là một tinh thần thực
chất, là hết sức đáng quý.
Bên trên là pháp làm so sánh vắn tắt đối với Thẩm thị
Huyền Không cùng Đại Huyền Không, nói lên điểm khác
nhau của cả hai, mục đích là khiến cho học giả mới học có
đủ khởi cảm tính nhận thức ở trong quá trình kiến lập đối
với Đại Huyền Không mà so sánh, đối với sau này học tập
khởi đến tác dụng tích cực.
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.
2. Cảm ơn bởi:
Khanh
3. 14-10-17, 05:33#22
lesoi
4 8 6
5 3 1
9 7 2
Phân tích:
1, Bàn Thẩm thị: Mở cửa Bát Bạch, kim cư Cấn vị, phú sánh Đào Chu; sơn tinh Thất
Xích, tọa lâm Vượng tinh, nơi nhà xưởng, nhất lục thất cùng dụng, ứng vận 7,8 đại phát,
tại sao vận 7,8 phá tài liên miên, chỉ vì Thẩm thị không phải là chân quyết vậy.
2, Bàn Đại Huyền Không: Thủy xuất ở Khôn là lâm Chính thần, Càn là lĩnh đạo, cho
nên lĩnh đạo gặp nhiều đau khổ. Vốn là nơi phòng làm việc ở phương Tốn, Tứ Lục phùng
năm Tứ Lục gia lâm là Phục ngâm, Phục ngâm chủ tư duy phản phục, không có lực thi
thố tài năng. Năm 2004 là Nhị Hắc, Thái Tuế lại lâm thủy khẩu, cho nên là phá tài quan
ti.
Dụng Đại Huyền Không điều chỉnh cửa sau đổi thành chính nam 8, phòng làm việc dời
đến khu vực nhà xưởng phương đông bắc. Phân tích: Cửa mở chính nam, Bát Bạch lâm
đến, miệng cửa chính có địa thế hơi cao là hợp cục, chính tây cùng tây bắc đều thấp,
Linh thần Tài thần đắc vị; phòng làm việc ở đông bắc, tọa phương lâm sinh khí, cho nên
chủ quyết sách lĩnh đạo đắc lực, hiệu ích xí nghiệp đi vào tuần hoàn tốt đẹp, từ suy mà
chuyển thịnh.
3, Chỗ nói ở trên đều là Lý khí, dưới đây tôi đưa ra ví dụ Lý khí phối hợp Hình
gia. Nói đến sát từ nóc nhà ——
Tưởng công nói: Chỗ này đều thuộc loại Kiệu tinh. Ở trước đây, trước đây được phân
tích phân tích Hình gia và Loan đầu. Hình gia có thể dụng ở đồng bằng, trên núi, các loại
Kiệu tinh đều có thể xưng là Hình gia, còn Loan đầu chỉ có thể xem ở vùng trên núi. Cho
nên, Dương trạch chỉ có thể xưng là Hình gia Lý Khí, không thể lấy Loan đầu mà xưng.
Tưởng Công lại nói:
Đứng thẳng lâu đài cung điện cao,
Tử Sinh Suy Vượng tra một chút,
Ai tinh đã định Linh Thần quyết,
Xem ra nắm tốt xấu gần xa,
Hồi phong Phản khí là bất biến,
Cát hung họa phúc thấy kịp thời,
Nếu còn đảo ngược tùy cơ tiện,
Cát không cát còn hung thể trốn,
Một nóc bắn đến một đại phát,
Hai gian bắn tới hai hào kiệt,
Suy cung xung khởi lật để xem,
Một nóc giống như một bả đao,
Đại ước Vượng cung danh cát diệu,
Nếu gặp Suy Tử liền ưu sầu.
Có biết nóc nhà nào có Sát,
Ứng lấy suy vượng đến phân chia.
5, Nói thần ở trước miếu ở sau: Trong sách chỉ nói thần trước miếu sau mà không
phải là mộ, chưa nói đến thần trước miếu sau không phải là Dương trạch.
Các vị đều biết, xung quanh miếu đều là náo nhiệt, đương nhiên không thích hợp làm
mộ. Sao ở trong sách đều nói, người xung quanh chỗ ở đa số đều ue3 oải lười nhác,
thuyết này là nói không có căn cứ.
6, Cửa đối Cửa: Chỗ nói trong sách, cửa đối cửa giống như hai người kê miệng cải
nhau, cho nên bất lợi, nhưng nói ngược lại, cũng có thể nói là cửa đối cửa giống như
miệng đối miệng là đại biểu thân mật... Cho nên, chỗ này đều là thuyết pháp không có
căn cứ. Rất nhiều loại như vậy, trong sách có rất nhiều vấn đề cát hung, đều có dùng
"Thường thức" giải thích, không phải nói Địa lý.
7, Nói đến "Địa phạm Linh sát", "Cô Âm sát": Ở lúc Trần Thủy Biển còn chưa phá
Lâm Sâm bắc lộ, nguyên là xứ nghĩa trang của người Nhật Bản, người quỷ sống lẫn tạp,
còn chưa phải là rất tốt; Nơi Tây Môn trước đây cũng là nghĩa trang, cũng chỉ vì nhà cao
ốc, đào bới đất nền, thường đào ra xương người, có từng phạm qua Sát này không?
Trong sách còn bày ra rất nhiều loại Sát, chỉ có thể nói là không có căn cứ! Vì chưa từng
khảo chứng cùng nghiệm chứng.
Luận Cửu tinh
Hợp Cục cùng Phản Cục được mất
Cửu tinh: Là Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích,
Bát Bạch, Cửu Tử vậy.
Cửu tinh là đại biểu nguyên vận, là thể hiện Sơn tinh. Cửu tinh có tượng Bát Quái, phân
ra ngũ hành, phân biệt luận thuật như sau:
(1) Cửu tinh
◇ Nhất Bạch là sao Thiên Bồng Tham Lang, ở trên cùng Thiên Xu đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Nhất cung trong Lạc thư. Đắc lệnh thì Trung nam làm giàu, xuất người
thông minh, hành nghề thuyền cá y dược là hưng lợi. Thất lệnh chủ Trung nam đoản thọ,
đàn ông bệnh di tinh, đàn bà bệnh huyết bạch, cũng chủ bệnh về tai thận, hoạ eo lưng bị
cong.
◇ Nhị Hắc là sao Thiên Nhuế Cự Môn, ở trên Thiên Tuyền đồng cung Bắc Đẩu, ở dưới
ứng với Nhị cung trong Lạc Thư. Đắc lệnh thì lão mẫu lập nghiệp, điền thổ hưng vượng,
xuất ra y sinh. Thất lệnh thì Lão mẫu chết trước, lại xuất ra đạo cô, tranh giành hương
nông, mà còn chủ lao ngục khẩu thiệt thị phi, bệnh tật tỳ vị, đau bụng phù thũng.
◇ Tam Bích là sao Thiên Xung Lộc Tồn, ở trên cùng với Thiên Ki đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Tam cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì trưởng nam hưng gia, xuất ra người làm kỹ
xảo điêu khắc. Thất lệnh thì trưởng nam yểu trước, hoặc là mắc bệnh gan mật chân
cẳng.
◇ Tứ Lục là sao Thiên Phụ Văn Khúc, ở trên cùng với Thiên Quyền đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Tứ cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì gia đình hòa thuận, phụ nữ quả lý gia đình,
nghề mộc nghề xe nhận lợi. Thất lệnh thì phụ nữ dâm loạn, chân tay bại liệt, cùng bệnh
gan mật, ấm ức.
◇ Ngũ Hoàng là sao Thiên Cầm Liêm Trinh, ở trên cùng với Ngọc Hành đồng cung Bắc
Đẩu, ở dưới ứng với Trung cung trong Lạc Thư. Đắc lệnh thì trưởng nam lập nghiệp, tài
bạch hưng vượng, dễ được tài bất ngờ. Thất lệnh thì trưởng nam yểu trước, trong nhà
xảy ra chuyện khẩu thiệt thị phi, cũng chủ mắc bệnh tỳ hư phù thũng, tiêu hóa không
tốt.
◇ Lục Bạch là sao Thiên Tâm Vũ Khúc, ở trên cùng với Khai Dương đồng cung Bắc Đẩu,
ở dưới ứng với Lục cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì Lão phụ cao thọ mà còn quan lý nhà cửa,
đa số là chủ phát tài loại đá quý vàng bạc. Thất lệnh thì Lão phụ chết trước, trong nhà
đa số bởi vì bị chén ép mà sinh kiện tụng, hoặc là có chứng bệnh đau đầu hoa mắt.
◇ Thất Xích là sao Thiên Trụ Phá Quân, ở trên cùng với Dao Quang đồng vị Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Thất cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì thiếu nữ hiển quý, xuất ra người thông
minh giỏi biện luận, làm ăn mua bán sắt thép có lợi. Thất lệnh thì thiếu nữ bị tai hoạ, dễ
gặp cướp của phá tài, nhiều khẩu thiệt thị phi, sinh chuyện yêu tà quái sự, bệnh rang
miệng.
◇ Bát Bạch là sao Thiên Nhâm Tả Phụ, ở trên cùng vị với Khai Dương bên cạnh sao Bắc
Đẩu, ở dưới ứng với Bát cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì chủ nam nữ thông minh, làm giàu
nghề đất đá. Thất lệnh thì gia đình thoái bại, con cháu bất hiếu, đa số mắc bệnh mũi
lưng, chân tay cong quặp cùng khí huyết ứ đọng.
◇ Cửu Tử là sao Thiên Anh Hữu Bật, ở trên cùng với Khai Dương bên cạnh Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Cửu cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì trung nữ hiển quý, làm giàu cây thuốc lá.
Thất lệnh đa số chủ hỏa tai, phong nhiệt bệnh mắt, trung nữ thì bất lợi.
Chú thích: "Đắc lệnh" là chỉ Đắc vận cùng Hợp cục, "Thất lệnh" là chỉ Thất vận cùng
Phản cục.
-----------------------------------------------
★ Hạ nguyên 6, 7, 8, 9
-----------------------------------------------
(3) Hạ nguyên:
+ 20 năm từ Giáp Tý đến Giáp Tuất: Thất Xích tinh giữ lệnh, thuỷ đến trên Thất Xích là
tốt, xuất thủy trên Thất Xích là đại bại. Xuất thủy phương Nhị Hắc là thúc quan, xuất
thủy trên Tam Bích là sinh vượng.
+ 20 năm từ Giáp Thân đến Giáp Ngọ: Bát Bạch tinh nắm lệnh, xuất thủy trên Tam Bích
là thúc quan, xuất thủy trên Nhị Hắc là thúc tài. Kỵ xuất thủy trên Bát Bạch, thuỷ đến
phương Bát Bạch cuộn quanh Đường xuất ra ở trên Nhị Tam là cát.
+ 20 năm từ Giáp Thìn đến Giáp Dần: Cửu Tử nắm lệnh, thuỷ trên Tứ Nhất là thúc
vượng, nên là xuất thủy khẩu, thủy nên đến phương Cửu Tử cuộn quanh Đường. Kỵ Cửu
Tử xuất thủy, như xung phá Lệnh tinh thì tang đinh.
Coi trọng là quan hệ giữa Ai tinh và Vận ở Thủy khẩu xuất ra, là phương pháp tư duy độc
đặc của Đại Huyền Không. Căn cơ Huyền Không ở trong Hà Đồ là mối quan hệ giữa
"Cộng tông, Đồng đạo" cùng "Hợp thập" ở Lạc Thư, chính là chỉ ra mối liên hệ giữa Ai
tinh và Vận của Thủy khẩu.
Như Ai tinh của Nhị trạch Thủy khẩu lúc xuất ra là Nhị Hắc (Linh thần), bắt đầu khoảng
20 năm từ năm 1984 đến năm 2003 là chủ danh khí, tức là Nhị Hắc tinh cùng vận 7 cấu
thành quan hệ "Nhị Thất cộng đạo" (2-7 là Đồng đạo, theo Hà Đồ).
Ai tinh Thủy khẩu là Tam Bích, ở giữa 20 năm từ 1984 đến 2003, Tam Bích tinh cùng vận
7 cấu thành quan hệ "Tam Thất hợp Thập" (3+7=10), thì ở trong vận 7 chủ tài vượng.
Đương nhiên cũng phải phối hợp với hình thế Loan đầu để phân tích, trên hướng có núi
đẹp hoặc có dạng lông mày cong đẹp, hình mắt cung Án sơn, đoán có chuyện thăng
quan hoặc có thanh danh, hoặc xuất ra đại học sinh là càng nghiệm.
Lúc xuất thủy khẩu cong uốn khúc mà đi hoặc là cửa Thủy khẩu cản lại có tình, trước
Minh Đường không nghiêng xuống quá thấp, nước quy về một chỗ mà đi ra, đoán vận 7
tiền tài rất tốt cũng hết sức chuẩn xác. Ở trong vận 7, thủy khẩu đi tuy Linh thần không
phải là thúc quan (Nhị Hắc) cùng thúc tài (Tam Bích), nhưng chỉ cần là Linh thần, tài vận
đều sẽ không quá kém.
Phép phân tích loại Tinh và Vận này ở Thủy khẩu, là con đường thường dung của Đại
Huyền Không, giả như một đất nào đó mà Địa vận có dài hơn, là chỉ có thể vượng 90
năm (Một Nguyên là 90 năm) hoặc là 180 năm đều là bất bại (Đất Tam Nguyên bất bại),
cũng là dung vận để phán đoán, Tam Hợp phái Lý khí không kết hợp Nguyên vận, cho
nên, thì không hiểu Cục "Tam Nguyên bất bại".
① Thái Tuế
Thái Tuếà 12 địa chi ở trên Địa bàn, lúc một chữ địa chi cùng một chữ tương đồng ở trên
Địa bàn ở trong can chi năm đó, tức là một vị trí nào đó Thái Tuế đến trên Địa bàn. Tức
là năm Tý Thái Tuế ở Địa bàn phương chính bắc, năm Sửu và năm Dần Thái Tuế đều ở
địa bàn phương đông bắc, năm Mão Thái Tuế ở Địa bàn phương chính đông, năm Thìn và
năm Tị Thái Tuế đều ở địa bàn phương đông nam, năm Ngọ Thái Tuế ở địa bàn phương
chính nam, năm Mùi và năm Thân Thái Tuế ở địa bàn phương tây nam, năm Dậu Thái
Tuế ở địa bàn phương chính tây, năm Tuất và năm Hợi Thái Tuế ở địa bàn phương tây
bắc. Thái Tuế là chủ tể của một năm, lúc cung vị Thái Tuế gia lâm Hợp cục, thông
thường sự tượng phát sinh cát hung không rõ ràng, nếu lúc Thái Tuế gia lâm ở cửa khẩu
Thủy khẩu phản cục, nhất định sẽ có hung sự phát sinh.
② Tử Bạch tinh
+ Năm Tử Bạch tinh: Năm Tử Bạch là lấy Thống vận (Thượng nguyên 60 năm Nhất
Bạch thống vận, Trung nguyên 60 năm Tứ Lục thống vận, Hạ nguyên 60 năm Thất Xích
thống vận) để sắp xếp. Như Thượng nguyên năm Giáp Tý Nhất Bạch giữ lệnh, năm Ất
Sửu Cửu Tử giữ lệnh, năm Bính Dần Bát Bạch giữ lệnh ... Trung nguyên năm Giáp Tý Tứ
Lục giữ lệnh, năm Ất Sửu Tam Bích giữ lệnh, năm Bính Dần Nhị Hắc giữ lệnh... . Hạ
nguyên năm Giáp Tý Thất Xích giữ lệnh, năm Ất Sửu Lục Bạch giữu lệnh, năm Bính Dần
Ngũ Hoàng giữ lệnh... .
Gặp năm Tử Bạch tinh nhập trung cung đều là phi thuận, bát phương đều có một năm
Tử Bạch tinh trực ban, bởi vì Tinh ở trên mỗi một phương vị là một năm thay đổi một
lần, biến động không dừng, cho nên xưng là Khách tinh. Như năm 1984 là năm Giáp Tý
bắt đầu 60 năm Hạ nguyên, Hạ nguyên năm Giáp Tý là Thất Xích giữ lệnh tinh, thì đem
Thất Xích đặt vào Trung cung thuận bài, Bát Bạch đến Càn, Cửu Tử đến Đoài, Nhất Bạch
đến Cấn, Nhị Hắc đến Ly, Tam Bích đến Khảm, Tứ Lục đến Khôn, Ngũ Hoàng đến Chấn,
Lục Bạch đến Tốn.
+ Tháng Tử Bạch tinh: Tháng Tử Bạch tinh là từ năm suy ra mà sắp xếp, tức là tháng
giêng năm Tý Ngọ Mão Dậu Bát Bạch giữ lệnh, tháng 2 Thất Xích giữ lệnh, tháng 3 Lục
Bạch giữ lệnh...; Tháng giêng năm Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ Hoàng giữ lệnh, tháng 2 Tứ
Lục giữ lệnh, tháng 3 Tam Bích giữ lệnh...; Tháng giêng năm Dần Thân Tị Hợi Nhị Hắc
giữ lệnh, tháng 2 Nhất Bạch giữ lệnh, tháng 3 Cửu Tử giữ lệnh... .
Gặp tháng Tử Bạch tinh nhập trung cung thuận phi 8 phương, mỗi cung vị có một tháng
Tử Bạch tinh bay đi, chúng nó cứ một tháng một lần thay đổi, cho nên cũng gọi là Khách
tinh. Vẫn lấy năm 1984 để phân tích, năm 1984 là năm Giáp Tý, chi năm là Tý, căn cứ
năm Tý Ngọ Mão Dậu tháng giêng quy định là khởi Bát Bạch tinh, lấy tháng giêng làm ví
dụ để phi bài Cửu tinh, phép xếp là: Bát Bạch cư trung cung, Cửu Tử đến Càn, Nhất Bạch
đến Đoài, Nhị Hắc đến Cấn, Tam Bích đến Ly, Tứ Lục đến Khảm, Ngũ Hoàng đến Khôn,
Lục Bạch đến Chấn, Thất Xích đến Tốn.
Phương pháp phán đoán năm, tháng Tử Bạch Cửu tinh đến các cung vị, phân ra cát hung
cùng phân tích Ai tinh tọa sơn (chủ tinh) là không giống nhau. Bởi vì bản thân Cửu tinh
ai tinh tọa sơn cũng không có phân chia ra cát hung, kết quả cát hung hoàn toàn là căn
cứ Hợp cục (Chính thần chính vị trang, bát thủy nhập linh đường) và Phản cục (Thượng
sơn hạ thủy) mà định. Còn bản thân năm tháng Cửu tinh Tử Bạch đã có đủ tượng cát
hung. Như Nhị Hắc chủ bệnh, như tháng giêng năm 1984 Nhị Hắc tinh phi đến phương
Cấn, mỗi nhà Dương trạch cửa khẩu phải là vừa đúng ở cung vị Cấn, như vậy người
trong nhà ở tháng 2 năm 1984 thì sẽ có người sinh bệnh. Nếu như cửa khẩu ở phương
Ly, năm 1984 Tử Bạch Nhị Hắc phi đến cung Ly, như vậy ở trong năm này sẽ có người
mắc bệnh tai triền miên hoặc là trong một năm sẽ có nhiều người sinh bệnh tai.
Ngũ Hoàng lâm môn (Đoài cung): Năm nay là thị phi quan tai, dễ dàng bị chỗ kim loại
làm tổn thương.
+ Tháng 1: Phát tài.
+ Tháng 2: Đề phòng bị chỗ kim loại gây tổn thương.
+ Tháng 3: Thị phi quan tai, dễ dàng bị chỗ thuộc kim gây tổn thương.
+ Tháng 4: Dễ dàng bị chỗ kim loại gây tổn thương, dịch nhạ đào hoa kiếp.
+ Tháng 5: Phòng hoạ máu đổ, bị người hại.
+ Tháng 6: Đau dạ dày, đề phòng hỏa tai, có hoạ máu đổ.
+ Tháng 7: Gia nhân hiếu động, đa số có duyên với người khác giới. Dễ gặp Đào Hoa
kiếp.
+ Tháng 8: Cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 9: Tài bạchcó thể được, nhưng dễ dàng phá hao.
+ Tháng 10: Phát tài.
+ Tháng 11: Đề phòng bị kim loại gây tổn thương.
+ Tháng 12: Thị phi quan tai, dễ dàng bị kim loại gây tổn thương.
- Lục Bạch lâm môn (Cấn cung): Năm nay phát tiểu tài, được địa sản hoặc hành nghề
ngũ kim.
+ Tháng 1: Vượng tài, lợi nhất là địa sản.
+ Tháng 2: Tài vận tốt, lợi nhất là địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 3: Nhà có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ, như hỉ sự, có tiền tài bất ngờ.
+ Tháng 4: Phát tài, lợi địa sản.
+ Tháng 5: Tài bạch có thể được, nhưng dễ hao tán.
+ Tháng 6: Phát tiểu tài, lợi địa sản hoặc hành nghề ngũ kim.
+ Tháng 7: bệnh đường ruột bao tử, vận khí trì trệ.
+ Tháng 8: Trẻ em nhiều bệnh hoặc thành tích thoái lui. Mũi dễ mẫn cảm.
+ Tháng 9: Kinh nói: "Tam bát phùng nhi tổn tiểu khẩu", bất lợi trẻ em.
+ Tháng 10: Vượng tài, nhất là lợi địa sản.
+ Tháng 11: Tài vận tốt, lợi về địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 12: Nhà có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ, như hỉ sự, có tiền tài bất ngờ.
Thất Xích lâm môn (Ly cung): Năm nay cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 1: Gia nhân đầu óc linh hoạt, thông minh.
+ Tháng 2: Gia nhân ngu độn, phòng nạn máu đổ.
+ Tháng 3: Hào Trung đắc phối, thủy hỏa tương giao, hỉ khánh thuận lợi.
+ Tháng 4: Tài vận và sự nghiệp thuận lợi.
+ Tháng 5: Hỉ khánh, có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ.
+ Tháng 6: Cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 7: Con cái dễ dàng cùng bản thân phát sinh tranh chấp, đề phòng tật bệnh hệ
thống hô hấp.
+ Tháng 8: Tật bệnh mắt, phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 9: Đi học thông minh, lợi văn chức, hỉ khánh.
+ Tháng 10: Gia nhân đầu óc linh hoạt, thông minh.
+ Tháng 11: Gia nhân ngu độn, phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 12: Hào Trung đắc phối, thủy hỏa tương giao, hỉ khánh thuận lợi.
- Bát Bạch lâm môn (Khảm cung): Năm nay tài vận tốt, có lợi về địa sản, có thể lập
nghiệp.
+ Tháng 1: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 2: Tính khí táo bạo, gia nhân sẽ có chuyện di dời hoặc đi xa.
+ Tháng 3: Gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột, giới nữ nắm quyền.
+ Tháng 4: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 5: Thủy Hỏa ký tế, hỉ khánh, thuận lợi.
+ Tháng 6: Tài vận tốt, rất có lợi là địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 7: Gia nhân hiếu động, Đào Hoa vận.
+ Tháng 8: Thông minh tài trí, phát tiểu tài.
+ Tháng 9: Bệnh đau, đề phòng tật bệnh hệ thống tiết niệu, giới nữ đề phòng bệnh phụ
khoa.
+ Tháng 10: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 11: Tính khí bạo táo, gia nhân sẽ di dời hoặc đi xa.
+ Tháng 12: Gia nhân dễ mắc bệnh kiết lỵ đường ruột, giới nữ nắm quyền.
Cửu Tử lâm môn (Khôn cung): Năm nay gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.
+ Tháng 1: Thân thể nhiều bệnh.
+ Tháng 2: Giới Nữ nắm quyền, gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột.
+ Tháng 3: Gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.
+ Tháng 4: Lợi địa sản, vượng tài.
+ Tháng 5: Bệnh kiết lỵ, đề phòng hỏa tai, hoạ máu đổ.
+ Tháng 6: Tư tưởng hỗn loạn, thần kinh suy nhược.
+ Tháng 7: Bệnh Cấp tính, đề phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 8: Bệnh ruột bao tử, thị phi quấy nhiễu.
+ Tháng 9: Quan tai thị phi, Bệnh ruột bao tử, bệnh chân.
+ Tháng 10: Thân thể nhiều bệnh.
+ Tháng 11: Giới Nữ nắm quyền, gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột.
+ Tháng 12: Gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.
- Nhất Bạch lâm môn (Chấn cung): Năm nay gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá
là táo bạo.
+ Tháng 1: Quan tai thị phi, tranh chấp.
+ Tháng 2: Quan tai thị phi, đau chân, bệnh đường ruột.
+ Tháng 3: Gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá là táo bạo.
+ Tháng 4: Gia nhân đầu óc linh hoạt, con cái đi học thông minh.
+ Tháng 5: Bất lợi trẻ em, thành tích thoái lui.
+ Tháng 6: Phòng hoạ máu đổ, bị người hại, phá tài.
+ Tháng 7: Bệnh chân, có nhiều tiểu nhân.
+ Tháng 8: Dễ bị thương chân cẳng, vì tài gây họa.
+ Tháng 9: Vận khí phản phục, tình tự khởi phục.
+ Tháng 10: Quan tai thị phi, tranh chấp.
+ Tháng 11: Quan tai thị phi, bệnh chân, bệnh đường ruột.
+ Tháng 12: Gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá là táo bạo.
Nhị Hắc lâm môn (Tốn cung): Năm nay nhiều thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ
thống Hô hấp.
+ Tháng 1: Kinh nói: "Bởi do Tứ Lục là thần Văn Xương", thông minh.
+ Tháng 2: Vận khí phản phục, lúc tốt lúc xấu.
+ Tháng 3: Thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ thống Hô hấp.
+ Tháng 4: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 5: Đi học thông minh, lợi văn chức, nhà có chuyện hỉ khánh.
+ Tháng 6: Trẻ em nhiều bệnh hoặc thành tích thoái lui, mũi mẫn cảm.
+ Tháng 7: Dễ dàng bị kim loại gây tổn thương, dễ bị hoạ Đào Hoa kiếp.
+ Tháng 8: Bất lợi giới nữ, bôn ba lao lục.
+ Tháng 9: Bệnh ngoài da, lở loét.
+ Tháng 10: Kinh nói: "Bởi do Tứ Lục là thần Văn Xương", thông minh.
+ Tháng 11: Vận khí phản phục, lúc tốt lúc xấu.
+ Tháng 12: Thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ thống Hô hấp.
Phụ chú: Phương vị đồ Lưu niên Tử Bạch cát hung, lấy Phi tinh lâm môn, lấy chỗ các vị
trí như phòng ốc, ông táo, thần linh, giường ngũ làm chủ mà định cát hung, cát thì thúc
đẩy, hung thì hóa đi.
—— HẾT ——
3720
0
Chủ khách luận đắc thất - Ngũ hành thống cửu tinh
Tại sơn thì sơn tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ trợ
Tại hướng thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận tinh bổ trợ
Tại các sơn khác thì dụng thủy thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận
tinh bổ trợ. Dụng sơn thì sơn tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ
trợ.
Lấy ví dụ tọa Tân hướng Ất 104 độ bên trên:
Tại hướng, hướng thì hướng tinh 4 cùng sơn tinh 3 đều là Mộc nên tỷ hòa,
hướng tinh đắc vị, hướng tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận
tinh).
Tại sơn, sơn tinh 8 hướng tinh 8 cùng là Thổ nên tỷ hòa, sơn tinh đắc vị, sơn
tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận tinh).
Nhà khai chính môn tại Giáp, dụng thủy nên lấy hướng tinh làm chủ, hướng
tinh tại Giáp là 3 Mộc, sơn tinh là 5 Thổ. Mộc khắc Thổ là chủ khinh khách
nên dù có đắc vị nhưng chỉ trung bình mà thôi.
Phối dùng Tam đại quái 3 phương Giáp Bính Tuất, dùng thủy nên hướng tinh
làm chủ. Tại Giáp đã luận như trên; Tại Bính hướng tinh 9 Hỏa, sơn tinh 8
Thổ, Hỏa sinh Thổ là sinh xuất nên khách khinh chủ, hướng tinh không đắc
vị, luận đến vận tinh bổ trợ là 3 Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Bính là đất
vượng Hỏa mà không vượng Thổ, 9 Hỏa lại được 3 Mộc bổ trợ nên dù sinh
xuất vẫn dùng được; Tại Tuất hướng tinh 6 Kim, sơn tinh 2 Thổ. Sơn tinh
sinh hướng tinh là cát.
Như vậy trong phối dùng bộ Tam đại quái này thì đắc vị và phát huy được tác
dụng. Nếu dùng bộ Tam đại quái tại Tý Tốn Dậu thì không thể đắc vị do tại
Tý và Dậu 6-9 khắc sát ác liệt mà trợ tinh 4 (tại Tý) và 1 (tại Dậu) đều không
giúp ích được gì.
"Chủ nhân hữu lễ khách tôn trọng, khách tại Tây hề chủ tại Đông". Dụng 9
tinh đắc thất phải xét đến Ngũ hành.
Chính thần, Linh thần và Chiếu thần
Vận 2: 2 nhập trung nghịch phi, 3 đến Tốn, 4 đến Chấn, 5 đến Khôn. Khôn là
chính thần vận 2.
Vận 3: 3 nhập trung nghịch phi, 4 đến Tốn, 5 đến Chấn. Chấn là chính thần
vận 3.
Vận 1 - Khảm, 2 Khôn, 3 Chấn, 4 Tốn, 6 Càn, 7 Đoài, 8 Cấn, 9 Ly; 10 năm
đầu vận 5 tại Tốn, 10 năm sau vận 5 tại Càn.
Linh thần
Hành độ Xuân Hạ Thu Đông một năm khởi từ Dần đi thuận đến Mão, Thìn,
Tị... về lại Dần là hết một năm. Xuân Hạ Thu Đông thực là chuyển động của
Địa(địa cầu) quanh Thiên(mặt trời, Thái dương). Quan niệm này cho thấy Địa
động. 9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ tinh, hành độ thuận phi, nơi Ngũ hoàng
trú đóng chính là Linh thần vị.
Vận 1: 1 nhập trung thuận phi, 2 đến Càn, 3 đến Đoài, 4 đến Cấn, 5 đến Ly.
Ly là Linh thần vị.
Vận 2: 2 nhập trung thuận phi, 3 đến Càn, 4 đến Đoài, 5 đến Cấn, Cấn là
Linh thần vị.
Vận 1 - Ly, 2 Cấn, 3 Đoài, 4 Càn, 6 Tốn, 7 Chấn, 8 Khôn, 9 Khảm; 10 năm
đầu vận 5 tại Càn, 10 năm sau vận 5 tại Tốn.
Chiếu thần
Các sách viết về Chiếu thần đều nói lấy Hà đồ số với vận tinh làm Chiếu
thần, như vận 1 lấy 6 làm chiếu thần, hợp số 1-6 Hà đồ; như vận 8 lấy 3 làm
chiếu thần, hợp số 8-3 Hà đồ... cũng tạm chấp nhận, nhưng vì sao phương
Chiếu thần cần thủy, lộ, động khí thì lại bế tắc, không giải thích được.
Chính thần vốn là âm, tĩnh tại. Quản vận số thời gian lưu chuyển nên cần
dương tương phối. Phương Linh thần vốn không thể tương phối do 2 khí Cửu
tinh thuận nghịch không cùng đường nên không phối được.
9 tinh thì khởi thủy tại 1 và chung cuộc tại 9. Nguyên vận 3 nguyên 9 vận
(123456789) thực dùng là 2 nguyên 8 vận (12346789). Thượng nguyên
1234 thì lấy chung số (9) làm Chiếu thần. Hạ nguyên 6789 thì lấy khởi thủy
số (1) làm Chiếu thần. Đây là do 2 khí Tiên thiên Khảm Ly giao nhau mà
thành, thượng nguyên khởi Ly, hạ nguyên khởi Khảm.
- Vận 1 nhập trung nghịch phi: 2 Tốn, 3 Chấn, 4 Khôn, 5 Khảm, 6 Ly, 7 Cấn,
8 Đoài, 9 Càn. 5 Khảm là Chính thần, 9 Càn là Chiếu thần.
- Vận 2 nhập trung nghịch phi: 3 Tốn, 4 Chấn, 5 Khôn, 6 Khảm, 7 Ly, 8 Cấn,
9 Đoài, 1 Càn. 5 Khôn là Chính thần, 9 Đoài là Chiếu thần.
- Vận 3 nhập trung nghịch phi: 4 Tốn, 5 Chấn, 6 Khôn, 7 Khảm, 8 Ly, 9 Cấn,
1 Đoài, 2 Càn. 5 Chấn là Chính thần, 9 Cấn là Chiếu thần.
- Vận 4 nhập trung nghịch phi: 5 Tốn, 6 Chấn, 7 Khôn, 8 Khảm, 9 Ly, 1 Cấn,
2 Đoài, 3 Càn. 5 Tốn là Chính thần, 9 Ly là Chiếu thần.
- Vận 6 nhập trung nghịch phi: 7 Tốn, 8 Chấn, 9 Khôn, 1 Khảm, 2 Ly, 3 Cấn,
4 Đoài, 5 Càn. 5 Càn là Chính thần, 1 Khảm là Chiếu thần.
- Vận 7 nhập trung nghịch phi: 8 Tốn, 9 Chấn, 1 Khôn, 2 Khảm, 3 Ly, 4 Cấn,
5 Đoài, 6 Càn. 5 Đoài là Chính thần, 1 Khôn là Chiếu thần.
- Vận 8 nhập trung nghịch phi: 9 Tốn, 1 Chấn, 2 Khôn, 3 Khảm, 4 Ly, 5 Cấn,
6 Đoài, 7 Càn. 5 Cấn là Chính thần, 1 Chấn là Chiếu thần.
- Vận 9 nhập trung nghịch phi: 1 Tốn, 2 Chấn, 3 Khôn, 4 Khảm, 5 Ly, 6 Cấn,
7 Đoài, 8 Càn. 5 Ly là Chính thần, 1 Tốn là Chiếu thần.
"Khảm Ly nhị khí quán Càn Khôn". Chính thần là âm tĩnh tại, phối cùng Chiếu
thần là dương nên tất nhiên Chiếu thần là động, cần thủy, lộ, động khí. Đây
là cái lẽ tự nhiên của Âm Dương giao cấu, động tĩnh tương hợp. Phép làm
nhà nếu phù hợp Linh-Chính-Chiếu thần, tức nơi phương Chính thần thì sơn
vượng lại có sơn, nơi linh thần và chiếu thần thì thủy vượng lại có thủy lộ thì
tốc phát rất nhanh, nếu ngược lại phương Chính thần hướng tinh vượng mà
lại có thủy, lộ... nơi phương Linh thần, Chiếu thần sơn tinh vượng mà lại có
thực sơn thì đó là "Thượng sơn Hạ thủy", trong cái cát có cái hung, nếu sơn
tán thủy loạn thì đại hung.
Cần đặc biệt lưu ý.
Lời kết
Đây tuy chưa phải là toàn bộ Áo ngữ Huyền không Phi tinh nhưng là những
cái tinh túy nhất. Tôi đã lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa lên diễn
đàn. Ngõ hầu giúp các bạn ít nhiều trong việc tìm một nơi ở tốt hoặc cải tạo
những chổ chưa phù hợp hiện nay của ngôi nhà sao cho được tốt hơn.
Đến đây thì phần kiến thức Huyền không Phi tinh 6 phái dường như không
còn lại được bao nhiêu. Tuy nhiên đối với các bạn mới học về Huyền không
thì đó lại là bước khởi đầu rất tốt cho việc học về Phong thủy Huyền không.
Cảm ơn rất nhiều những lời ẩn giấu của cổ thư và ẩn nghĩa của Tưởng Công
đã giúp Nam Phong hoàn thành Huyền không Phi tinh.
PHẦN CƠ BẢN
Mục lục
Chương 1: Cơ sở thiên
Lão thiếu âm dương
Tiên hậu thiên âm dương điên đảo
Tiên thiên âm dương biến hoá đại giao cấu
Huyền không nhị thập tứ sơn phối âm dương
Tam nguyên cửu vận
Huyền không là hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ
LỜI DẪN:
Liên Thành là một trong những chi lớn của Phong thủy Huyền không, nổi
danh ở phía Bắc Trung Hoa. Từ Triệu Liên Thành lưu truyền ra dân gian các
bí quyết và quyển di thư:”HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI ANH TINH BÍ TRUYỀN”
mà từ đó người đời biết đến Liên Thành Phong thủy. Thông căn quyết là một
trong những bí quyết nổi tiếng của phái và là một quyết rất đáng giá. Rất
nhiều người học phép này trong nhiều năm vẫn không lý giải được tại sao lại
có cách thông căn này. Họ Triệu đưa bí quyết ra nhân gian có công rất lớn
nhưng không dám nói về cội nguồn là có lý do. Bí mật nằm sâu bên trong Âm
dương,Tứ tượng, chỉ có tường giải được Lão,Thái Thiếu Âm Dương đồ mới có
thể hiểu được mà thôi.
Liên Thành lấy:”quyết thông căn” bày Cửu tinh trên 8 quái 24 sơn theo vòng
tròn thuận nghịch làm cốt tủy, rất gần với vòng Trường sinh của Tam hợp;
Trường sinh thì 12 vị thể hiện một vòng từ mầm sống xuất hiện, lớn lên, suy
yếu và diệt vong, vòng Cửu tinh của Liên Thành cũng thế.Cái khác biệt là
LIÊN THÀNH CÓ ĐỦ THIÊN ĐỊA,THỜI VÀ NHÂN GIAO HÒA, có hiểu được mới
biết đón sinh vượng, tránh suy tử, đó cũng là thu sơn xuất sát của Liên
Thành.
Cửu tinh thì 5 quy trung, Liên Thành cũng 5 quy trung, xem xét tận tường
phép của Liên Thành thấy có sự thâm sâu trong đó, cũng như sự vận hành
của Thái Dương hệ không phải vô cớ mà Mặt trời ở tâm, nên cũng không phải
vô cớ mà 5 quy trung, đều có cái lý trong đó, phải như vậy mới “ngũ triệu
sinh thành, lưu hành thủy chung”.
Chương 1: Cơ sở thiên
Cửu: Huyền không là hợp ngũ hợp thập hợp thập ngũ
[1-6] với [4-9] nhất phiến: Phối hợp 10, hợp 5,15.
nhất tứ hợp ngũ (1-4=5) kim thuỷ tương sinh, lục cửu hợp thập ngũ (6-
9=15) kim thuỷ tương sinh;
nhất cửu hợp thập (1-9=10) kim thuỷ tương sinh, tứ lục hợp thập (4-6=10)
kim thuỷ tương sinh.
[2-7] với [3-8] nhất phiến: Phối hợp 10, hợp 5,15.
nhị tam hợp ngũ (2,3=5) mộc hoả tương sinh, thất bát hợp thập ngũ
(7,8=15) mộc hoả tương sinh.
nhị bát hợp thập (2,8=10) mộc hoả tương sinh, tam thất hợp thập (3,7=10)
mộc hoả tương sinh
Thể: hay bản chất nhất phiến theo trục Sửu mùi của Hà đồ!
Nhưng khi đem đi sử dụng thì chuyển thành trục Thìn tuất của Lạc thư!
Liên Thành 24 sơn lập hướng thì sơn, hướng, phong, sa, thủy đều phù hợp
với các luật hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ bên trên, đây là yếu quyết sinh
thành của ngũ hành, được Liên Thành hiểu và vận dụng rất sâu sắc và cũng
liên hệ rất mật thiết với phép thu sơn xuất sát của Liên Thành mà cho đến
nay vẫn ít người hiểu được. Chỉ có thể là "tâm thọ khẩu truyền hoặc người
đắc thiên cơ" mới có thể hiểu được mà thôi.
Quyết là:
Tiên thiên âm dương biến hóa giao cấu đồ(Thông căn đồ),
hay còn gọi là Lưới Đế Thích(lưới trời Đế Thích bên Đạo gia)
Tam nguyên Thiên-Địa-Nhân giao cấu này thực sự là chính pháp của Huyền
không đại quái: Thiên –địa-nhân nguyên Tiên thiên âm dương biến hóa giao
cấu (nhập thủ long phối xuất thủy khẩu) diễn giải như sau:
1, Thiên nguyên: Diên Niên, Hợp 10.
Tý long nhập thủ, thủy khẩu phối ngọ → tý tiên thiên là khôn, lão âm
Ngọ long nhập thủ, thủy khẩu phối tý → ngọ tiên thiên là kiền, lão dương
Càn long nhập thủ, thủy khẩu phối tốn → Càn tiên thiên là cấn, lão âm
Tốn long nhập thủ, thủy khẩu phối Càn → tốn tiên thiên là đoài, lão dương
Mão long nhập thủ, thủy khẩu phối dậu → mão tiên thiên là ly, thiểu âm
Dậu long nhập thủ, thủy khẩu phối mão → dậu tiên thiên là khảm, thiểu
dương
Khôn long nhập thủ, thủy khẩu phối cấn → khôn tiên thiên là tốn, thiểu âm
Cấn long nhập thủ, thủy khẩu phối khôn → cấn tiên thiên là chấn, thiểu
dương
2, Nhân nguyên
Quý long nhập thủ, thủy khẩu xuất tị → quý tiên thiên là (thân: nhân nguyên
tại Khôn) quái chi tử lão âm
Tị long nhập thủ, thủy khẩu xuất quý → tị tiên thiên là (tân: nhân nguyên tại
đoài) quái chi tử lão dương
Tân long nhập thủ, thủy khẩu xuất dần → tân tiên thiên chi (quý: nhân
nguyên tại khảm) quái chi tử thiểu dương
Dần long nhập thủ, thủy khẩu xuất tân → quý tiên thiên chi (ất chấn) quái
chi tử thiểu âm
Ất long nhập thủ, thủy khẩu xuất thân → ất tiên thiên chi (đinh ly) quái chi
tử thiểu âm
Thân long nhập thủ, thủy khẩu xuất ất → thân tiên thiên chi (tị tốn) quái chi
tử thiểu dương
Đinh long nhập thủ, thủy khẩu xuất hợi → đinh tiên thiên chi (hợi kiền) quái
chi tử lão dương
Hợi long nhập thủ, thủy khẩu xuất đinh → hợi tiên thiên chi (dần cấn) quái
chi tử lão âm
3, Địa nguyên
Nhâm long nhập thủ, thủy khẩu xuất thần → nhâm tiên thiên chi (mùi khôn)
quái chi tử lão âm
Thần long nhập thủ, thủy khẩu xuất nhâm → thần tiên thiên chi (canh đoái)
quái chi tử lão dương
Canh long nhập thủ, thủy khẩu xuất sửu → canh tiên thiên chi (nhâm khảm)
quái chi tử thiểu dương
Sửu long nhập thủ, thủy khẩu xuất canh → sửu tiên thiên chi (giáp chấn)
quái chi tử thiểu âm
Giáp long nhập thủ, thủy khẩu xuất mùi → giáp tiên thiên chi (bính ly) quái
chi tử thiểu âm
Mùi long nhập thủ, thủy khẩu xuất giáp → Mùi tiên thiên chi (thìn tốn) quái
chi tử thiểu dương
Bính long nhập thủ, thủy khẩu xuất tuất → bính tiên thiên chi (tuất kiền)
quái chi tử lão dương
Tuất long nhập thủ, thủy khẩu xuất bính → tuất tiên thiên chi (sửu cấn) quái
chi tử lão âm
Ở phần trên: thiên, nhân, địa nguyên thể hiện tiên thiên âm dương biến hóa
giao cấu (long nhập thủ, thủy xuất khẩu) , tiên thiên âm dương biến hóa.
Như vậy nguyên lý thông căn đều hợp Thư Hùng (âm dương); Hợp tứ tượng
16 27 38 49; và hợp Thiên-địa-nhân nguyên.
Đây là Sơn thượng thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất
của Liên Thành, sẽ nói rõ chi tiết ở phần sau).
Quyết là:
Nhâm _ Mùi
Tý _ Ngọ
Quý _ Thân
Sửu _ Bính
Cấn _ Khôn
Dần _ Đinh
Giáp _ Tuất
Mão _ Dậu
Ất _ Hợi
Thìn _ Canh
Tốn _ Càn
Tị _ Tân
Bính _ Sửu
Ngọ _ Tý
Đinh _ Dần
Mùi _ Nhâm
Khôn _ Cấn
Thân _ Quý
Canh _ Thìn
Dậu _ Mão
Tân _ Tị
Tuất _ Giáp
Càn _ Tốn
Hợi _ Ất
Đây là Thủy lí thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất của
Liên Thành. Cũng là bí quyết dụng "thủy pháp"
Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái;
Nhâm sơn:
Nhâm sơn thượng thông căn tại thìn, thìn tại Tốn tứ cung, từ tốn tứ cung khởi
4, nhâm sơn dương nghịch hành , 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại chấn, 7 tại
Cấn, 8 tại Khảm, 9 tại Càn, 1 tại Đoài, 2 tại Khôn, 3 tại Ly.
8 đến nhâm là địa quái ,thiên quái tại đối cung, nên nhâm sơn thiên quái là 3
chấn.
Tý sơn:
Tý sơn thượng thông căn tại ngọ ,ngọ tại li cửu cung ,theo li cung khởi
cửu ,tý sơn âm thuận hành, 9 tại Ly, 1 tại Khôn, 2 tại Đoài, 3 tại Càn, 4 tại
Khảm, 5 nhập trung, 6 tại Cấn, 7 tại Chấn, 8 tại Tốn.
4 đến tý là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên tý sơn thiên quái là cửu li
Quý sơn:
Quý sơn thượng thông căn tại tị ,tị tại tốn tứ cung, theo tốn tứ cung khởi
tứ ,quý sơn âm thuận hành, 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại Ly, 7 tại Khôn, 8
tại Đoài, 9 tại Càn, 1 tại Khảm, 2 tại Cấn, 3 tại Chấn.
1 đến quý là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên quý sơn thiên quái là lục
càn
Sửu sơn:
Sửu sơn thượng thông căn tại canh ,canh tại đoài thất cung ,theo đoài thất
cung khởi thất ,sửu sơn âm thuận hành
nhất đáo sửu là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên sửu sơn thiên quái là
lục càn.
Cấn sơn:
Cấn sơn thượng thông căn tại khôn ,khôn nhị cung ,theo khôn nhị cung khởi
nhị dương sơn nghịch hành
thất đáo cấn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên cấn sơn thiên quái
là nhị khôn
Dần sơn:
Dần sơn thượng thông căn tại tân ,tân tại đoài thất cung ,theo đó đoài thất
cung khởi thất ,dần sơn dương nghịch hành .
tam đáo dần là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên dần sơn thiên quái
là bát cấn.
Giáp sơn:
giáp sơn thượng thông căn tại mùi ,mùi tại khôn nhị cung ,theo đó khôn nhị
cung khởi nhị ,giáp sơn dương nghịch hành
lục đáo giáp là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên giáp sơn thiên quái
là nhất khảm .
Mão sơn:
mão sơn thượng thông căn tại dậu ,dậu tại đoài thất cung ,theo đó đoài thất
cung khởi thất ,mão sơn âm thuận hành ,
nhị đáo mão là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên mão sơn thiên quái
là thất đoài.
Ất sơn:
ất sơn thượng thông căn tại thân ,dậu tại khôn nhị cung ,theo đó khôn nhị
cung khởi nhị ,ất sơn âm thuận hành ,
bát đáo ất là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên ất sơn thiên quái là
tam chấn .
Thìn sơn:
thìn sơn thượng thông căn tại nhâm ,nhâm tại khảm nhất cung ,theo đó
khảm nhất cung khởi nhất ,thìn sơn âm thuận hành ,
tứ đáo thìn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên thìn sơn thiên quái là
cửu li .
Tốn sơn:
tốn sơn thượng thông căn tại càn ,càn tại càn lục cung ,theo đó càn lục cung
khởi lục ,tốn sơn dương nghịch hành ,
Nhất đáo tốn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên tốn sơn thiên quái
là lục càn
Tị sơn:
tị sơn thượng thông căn tại quý ,quý tại khảm nhất cung ,theo đó khảm nhất
cung khởi nhất ,tị sơn dương nghịch hành ,
thất đáo tị là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên tị sơn thiên quái là nhị
khôn
Huyền không sơn thượng thiên quái địa nguyên cửu cung đồ
Vậy thì tại sao lại cần đến khẩu quyết của thủy lý thông căn?
Thực tế ứng dụng thủy pháp thì đây là một quyết quan trọng. Qua nghiên cứu
thì thấy ứng dụng này cũng tương đồng với pháp "Tam đại quái" của Tưởng Đại
Hồng.
Cổ thư cũng có chép về quyết này, xin được đưa ra để làm minh chứng.
“thuỷ tòng địa hạ nhị bàng cầu ”: thuỷ là hậu thiên khảm vậy ,địa là hậu thiên
khôn vậy ,nhị bàng tức hai hào hai bên ,tức là khảm quái thì nhâm quý với khôn
quái hai sơn mùi thân tương thông .
“xuân lôi tự tòng thiên thượng lai ”:
xuân lôi là hậu chấn vậy ,thiên thượng là hậu thiên càn vậy ,tức chấn hai
hào(sơn) giáp ất với càn quái hai hào tuất hợi tương thông .
“nhật chiếu sơn đầu dung dung ý ”:
nhật là hậu thiên li vậy ,sơn là hậu thiên cấn vậy ,tức li quái hai hào bính đinh
với cấn quái hai hào sửu dần tương thông .
“phong xuy trạch chiểu thị bàng thu ”:
phong là hậu thiên tốn vậy ,trạch, chiểu, thu đều là nói hậu thiên đoái vậy ,tức là
hậu thiên tốn hai hào thìn tị với hậu thiên đoài quái hai hào canh tân tương
thông .
“tứ chính nam lai bắc vãng gian ”:
Chính là tứ chính quái trung hào(sơn thiên nguyên) tương ứng nhau, nam bắc
chính là tý ngọ tương thông ,đương nhiên đông tây quái thì mão dậu cũng là
tương thông như vậy .
“tứ duy hoàn thị tòng trung thủ ”:
tứ duy quái chính là trung hào càn khôn cấn tốn cùng dạng với tứ chính đối đãi
tương thông.
“âm dương thuận nghịch chiếu cục chuyển ,nhất vị nhất cung tư tế luân ”.
Chính là nói âm sơn thuận chuyển, dương sơn nghịch chuyển bài pháp .
Nhâm thuỷ:
Nhâm thuỷ lí thông căn tại mùi , mùi tại khôn nhị cung, theo đó khôn thượng
không khởi nhị mà khởi tứ nghịch hành.
Nhất đáo nhâm ,cho nên nhâm thuỷ lí địa quái là nhất
Tý thuỷ:
Tý thuỷ lí thông căn tại ngọ ,ngọ tại li cửu theo đó li thượng khởi cửu nghịch
hành
Tứ đáo tý ,cho nên tý thuỷ lí địa quái là Tứ
Quý thuỷ lí thông căn tại thân ,thân tại khôn cung theo đó khôn cung không
khởi nhị mà thượng khởi tứ thuận hành
Nhất lục thuỷ cục: bao gồm nhất lục thượng nguyên cục và nhất lục hạ nguyên
cục .
Tứ cửu kim cục: bao gồm tứ cửu thượng nguyên cục và tứ cửu hạ nguyên cục
Nhị thất hoả cục: bao gồm nhị thất thượng nguyên cục và nhị thất hạ nguyên
cục
Tam bát mộc cục: bao gồm tam bát thượng nguyên cục và tam bát hạ nguyên
cục
Nhị: Nhị thập tứ sơn chi tứ đại cục
VH Chú:
- Nhâm sơn bính hướng, thượng nguyên tam bát cục . Phát ở thượng nguyên
nếu bố trí hợp cách, đặc biệt vận 3.
- Tý sơn ngọ hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục. Phát ở hạ nguyên nếu bố trí hợp
cách, đặc biệt vận 9.
Các sơn khác cũng quyền như vậy
《 Thiên Ngọc kinh 》 viết: “Đông tây lưỡng quái chân kỳ dị, tu tri bản hướng,
bản thủy tứ thần kỳ, đại đại trứ phi y”. Tức sơn thủy đồng một quái hay còn gọi
là “nhất gia cốt nhục” là một trong các cách đặc biệt của Liên Thành phái.
Nhất quái thuần thanh cách cục cộng lại thành 8 cách:
1, tham lang cách.
2, cự môn cách.
3, lộc tồn cách.
4, văn khúc cách.
5, vũ khúc cách.
6, phá quân cách.
7, tả phụ cách.
8, hữu bật cách.
VH chú: "nhất quái thuần thanh" hay còn gọi là "bổn hướng thủy" là nguyên lý
của "nhất dương chỉ" một trong các chiêu thức tuyệt kỷ của Liên Thành".
Ngũ: Tam nguyên bất bại hướng thủy kiêm thu chi cách cục.
“Kiền sơn kiền hướng thủy triều kiền, kiền phong xuất trạng nguyên;
Mão sơn mão hướng mão nguyên thủy, sậu phú thạch sùng bỉ
Ngọ sơn ngọ hướng ngọ lai đường, đại tướng trấn biên cương;
Khôn sơn khôn hướng khôn thủy lưu, phú quý vĩnh vô hưu”
Tý Cấn Tốn Dậu, cũng như trên. Đây chính là sơn, hướng, thủy loan đầu kết
hợp lý khí đồng tại nhất quái chi nghiệm.
Lục: Kiêm sơn kiêm thủy của Huyền không.
Để tiện cho việc áp dụng HK Đại quái Liên thành đây là bản tổng hợp Thiên
quái (ai sơn) và địa quái (ai thủy) của mỗi cung
a). Nguyên lý cơ bản phải đồng nguyên long: Để phát huy tác dụng điều bắt
buộc khi bố trí sơn thủy phải đồng nguyên long. Cho dù có hợp các nguyên tắc
sau mà không đồng nguyên long thì chỉ bình chứ không phát.
- Thượng nguyên lấy Sửu Khôn Hợi là tài tinh thủy, địa quái là Chấn vì Chấn là
thiên mệnh tài tinh; thiên quái là Cấn vì Cấn là thiên khố tài tinh.
- Thượng nguyên lại lấy Bính Mão Tân địa quái là Khôn, vì Khôn là Cự Môn tài
tinh thủy.
- Trung nguyên lấy Mùi thủy địa quái Bính, vì Bính là Thiên quỷ tài tinh thủy.
- Hạ nguyên lấy Giáp Dậu Quý thiên quái là Chấn, địa quái là Cấn, Chấn và
Cấn là tài tinh thủy. Lại lấy Thìn thủy địa quái canh, vì Canh là Thiên hán tài
tinh thủy.
- Thượng nguyên lấy Nhâm Tốn Dần, địa quái là tham lang là ngũ quỷ thủy và
cũng chủ ngũ quỷ đới tài lai.
- Trung nguyên lấy Tuất Ngọ Ất, địa quái Càn là ngũ quỷ thủy lộ.
- Hạ nguyên có Tuất Ngọ Ất là chiếu thần, cũng chủ ngũ quỷ đới tài lai.
Giải mã cho Tam nguyên sơn thủy tương phối chánh cuộc
- Hạ nguyên tọa:Canh, Mão,Đinh tam sơn. Canh Mão Đinh thiên quái là Đoài.
Nếu thủy lai :Thìn, Cấn,Thân 3 thủy đều là hạ nguyên 2 7 thủy với tọa sơn đồng
thuộc 1 quái, tức là thủy lai đương diện là chân long, còn gọi là thạch phá thiên
kinh, vả lại thủy lai và khứ toàn tại Thìn Cấn Thân tức là Đoài sơn thủy lưu
Đoài Hỏa cuộc, còn gọi là tận dương nhứt cuộc; nếu thủy lai khứ có 3 thủy Giáp
Dậu Quý là đều thuộc hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy, bát Cấn lại với tọa sơn thất
Đoài giao cấu, chủ hạ nguyên đại phú; nếu thủy lai khứ có 3 thủy Tuất Ngọ Ất
là đều thuộc trung nguyên 1 6 thủy tức hạ nguyên chiếu thần, lục Càn lại với tọa
sơn nhị Khôn giao cấu nên trung nguyên phát, hạ nguyên cũng phát. Nhưng 2-7
không phối được với 1-6 nên dù phát nhưng về sai bại, chủ dâm loạn, ly tán…
Nếu thủy lai khứ có 3 thủy Mùi Càn Đinh thì tuy hạ nguyên 4 9 thủy nhưng 4 9
với tọa sơn 2 7 không phối, dù phát cũng bị tật bịnh, về sau thì tuyệt tự.
- Hạ nguyên 3 sơn Tuất Khôn Dần thì Tuất Khôn Dần thiên quái là Cấn, địa
quái là Chấn, nếu thủy lai khứ Giáp Dậu Quý tức hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy với
tọa sơn đồng thuộc 1 quái, là thủy lai đương diện, là chân long, cũng tức là
thạch phá thiên kinh quyết.
Vả lại thủy lai khứ đều tại Giáp Quý Dậu, tức là Cấn Sơn Cấn hướng thủy lưu
Cấn đại cuộc, cũng là tịnh âm nhất cuộc; cuộc này tọa sơn là tài tinh mà thủy lộ
cũng tài tinh, đại cuộc chủ phát tài bạch, trung cuộc cũng phú gia nhứt huyện,
tiểu cuộc cũng phú 1 vòng, đều chủ hạ nguyên phát phước.
Nếu thủy lai khứ có Thìn Cấn Thân 3 thủy đều hạ nguyên 2 7 thủy, thất Đoài
với tọa sơn bát Cấn giao cấu nên chủ hạ nguyên phát, Thìn thủy địa quái là
Canh, Canh là Thiên hán tài tinh nên phát phước rất nhiều.
Nếu thủy lai khứ có Mùi Càn Đinh 3 thủy đều thuộc hạ nguyên, 9 thủy trung
nguyên chiếu thần, Tốn 4 với tọa sơn Chấn 3 giao cấu chủ trung nguyên phát
phước; Mùi thủy địa quái là Bính, Bính là Thiên quỷ tài tinh thủy nên phát tài
lộc nhiều như không bền vì 3-8 không phối được 4-9.
Nếu thủy lai khứ có Tuất Ngọ Ất 3 thủy, thì tuy trung nguyên 1 6 thủy, hạ
nguyên chiếu thần nhưng 1 6 với 3 8 không phối, dù phát cũng dâm loạn, bệnh
gân xương...
- Hạ nguyên 3 sơn Thìn Tí Tân, 3 cung đều là tam dương sơn 9, tọa sơn thiên
quái là ly, địa quái là Tốn, nếu thủy lai khứ Mùi Càn Đinh 3 thủy đều thuộc 4-9
tam dương thủy với tọa sơn đồng thuộc 1 quái, tức thủy lai đương diện là chân
long, cũng tức là thạch phá thiên kinh quyết.
Vả thủy lai khứ đều tại Mùi Càn Đinh là Ngọ sơn Ngọ hướng thủy lưu Ngọ đại
cuộc, là tịnh âm nhứt cuộc, cuộc này tọa sơn với thủy lộ đều là tam dương nhật
tinh chủ đại quý. Nay vận hạ nguyên đã phát tiết 60 năm, chỉ còn lại 30 năm đại
phát.
Nếu thủy lai khứ có Giáp Dậu Quý 3 thủy là đều hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy, tọa
sơn Chấn 3 với Tốn 4 giao cấu, chủ hạ nguyên đại phú nhưng lâu dài thì bại vì
3-8 không giao được 4-9.
Nếu thủy lai khứ có Tuất Ngọ Ất 3 thủy là đều trung nguyên 1 6 thủy chiếu
thần, Khảm 1 với tọa sơn ly 9 giao cấu, chủ trung nguyên phát phước, hạ
nguyên cũng phát.
Nếu thủy lai khứ có Thìn Cấn Thân 3 thủy là 2 7 thủy, nhưng 2 7 với tọa 4 9
không phối, dù phát cũng dâm loạn, về sau thì tuyệt tự.
Như chúng ta đã biết đối với dương trạch thì nơi giao thoa của thủy lộ chính là
điểm cần xét khi coi một ngôi nhà củng như những nhà cao cây cao chung
quanh, đó chính là :" Tiên khán kim long động bất động, thứ xét huyết mạch
nhận lai long"
3) Bếp:
Cân bằng thủy hỏa là một yếu tố quan trọng. Cho nên vị trí bếp cần xét thật kỹ
vì bếp chủ về sức khỏe và nhân đinh trong nhà. Có những người bị bệnh nan y,
sau khi chuyển bếp mà có thể gặp thầy gặp thuốc để khỏi bệnh hoặc trở nên nhẹ
nhàng hơn.
Bếp xét ai sơn và cần đồng nguyên long. Đặt biệt là nhân nguyên và địa nguyên
Bếp so với tọa đồng khí hoặc hợp 5 10 15 hay hợp khí tiên thiên.
Huyền Không Đại Quái Liên Thành Phái, Một bí mật trong các bí mật đang dần
được bật mí. Lý thuyết thì sâu xa nhưng cách dụng thì thật đơn giản mà hiệu
quả. Trên các trang mạng phong thủy của Trung Quốc cũng bàn luận rất nhiều
nhưng việc tổng hợp được qui tắc của dụng pháp và đưa lên cho mọi người thì
chưa thấy.
Với vòng ai tinh sơn thủy trên là một sự kết hợp kỳ diệu của "sơn thượng thông
căn" và "thủy lý thông căn" nền tảng của lý thuyết Liên Thành phái cùng với
Thành môn, thành môn ai tinh, Khôn nhâm ất quyết, các loại ai tinh.... Tất cả lý
thuyết Liên Thành đã nằm gọn trong tay các bạn.
Toạ sinh hướng là hướng thượng tốt nhất được trống thóang hoặc có thuỷ .
Hướng sinh toạ là hướng thượng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn
phía sau thủy.
Tý sơn ngọ hướng, tý sơn thượng là cửu, ngọ thuỷ lí là lục, tứ cửu kim sinh nhất
lục thuỷ ,chính là tọa thượng sinh xuất cho hướng. Do vậy nơi đầu hướng cần
trống thoánng hoặc là có thuỷ .
Quý sơn đinh hướng, quý sơn lục, đinh hướng cửu ,là tứ cửu kim sinh nhất lục
thủy, là hướng thượng tứ cửu sinh tọa sơn nhất lục thuỷ ,là sinh nhập ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Nhâm sơn bính hướng ,thượng nguyên tam bát cục ,sơn sinh hướng ,hướng
thượng cần có thuỷ .
Bính sơn nhâm hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,Do vậy nơi
đầu hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tí sơn ngọ hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,Do vậy nơi đầu
hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Ngọ sơn tý hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Quý sơn đinh hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Đinh sơn quý hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Sửu sơn mùi hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Mùi sơn sửu hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Cấn sơn khôn hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Khôn sơn cấn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Dần sơn thân hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Thân sơn dần hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Giáp sơn canh hướng ,thượng nguyên nhất lục cục. hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Canh sơn giáp hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Mão sơn dậu hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Dậu sơn mão hướng ,thượng nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu
hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Ất sơn tân hướng ,thượng nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tân sơn ất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng cần
trống thóang hoặc là có thuỷ .
Thìn sơn tuất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng cần
trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tuất sơn thìn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tốn sơn càn hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Càn sơn tốn hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tị sơn hợi hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Hợi sơn tị hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Chương 4: Nhâm Khôn Ất quyết với các loại Ai tinh
Nhâm ai là Cự môn, Nhâm thông Thìn, khởi Cự môn tại Thìn, Nhâm dương nên
thuận ai, Lộc tại Bính, Văn tại Mùi, Liêm nhập trung, Vũ tại Canh… Theo đó
sơn thượng đáo hướng đồ:
cự tốn _ lộc li _ văn khôn
tham chấn _ trung cung _ vũ đoài
bật cấn _ phụ khảm _ phá càn
Bính ai là Phá quân, Bính thông Tuất, khởi Phá quân tại Tuất, Bính dương nên
thuận ai, Phụ tại Nhâm, Bật tại Sửu… Theo đó hướng thượng đáo sơn đồ:
cự tốn _ lộc li _ văn khôn
tham chấn _ trung cung _ vũ đoài
bật cấn _ phụ khảm _ phá càn
Nhâm sơn thượng đắc tả phụ.
Tý ai là Lộc tồn, Tý thông Ngọ, khởi Lộc tồn tại Ngọ, Tý âm nên nghịch ai,
Văn tại Tốn, Liêm nhập trung, Vũ tại Mão… Theo đó sơn thượng đáo hướng
đồ:
văn tốn _ lộc li _ cự khôn
vũ chấn _ trung cung _ tham đoài
phá cấn _ phụ khảm _ bật càn
Ngọ ai là Hữu bật, Ngọ thông Tý, khởi Bật tại Tý, Ngọ âm nên nghịch ai, Tham
tại Càn, Cự tại Dậu… Theo đó hướng thượng đáo sơn đồ
vũ tốn _ văn li _ lộc khôn
phá chấn _ trung cung _ cự đoài
phụ cấn _ bật khảm _ tham càn
Quyết này dùng phối hợp tam nguyên linh chính. Thượng nguyên và 30 năm
đầu trung nguyên lấy Tham Cự Lộc Văn Vũ 5 phương này có thủy là ngũ cát
thủy, Hạ nguyên và 30 năm sau của trung nguyên thì lấy Vũ Phá Phụ Bật Tham
5 phương này có thủy là ngũ cát.
Đặc biệt 30 năm sau của trung nguyên và hạ nguyên thì dùng Tham lang là thôi
chiếu thần, phương vị của Tham lang nếu có thủy thì thôi tài lộc đại phát. Tại
thượng nguyên và 30 năm đầu của trung nguyên thì dùng Tả phụ là thôi chiếu
thần, phương vị của Tả phụ tinh nếu có thủy thì thôi tài lộc đại phát.
Như tý sơn ngọ hướng, dùng khẩu quyết trên khởi tham lang tại bản cung
nghịch hành, tức là Tý khởi Tham, cự tại càn, lộc tại dậu, văn tại khôn, liêm
trinh tinh nhập trung ngũ bất động, vũ đến ngọ, phá đến tốn, phụ đến mão, bật
đến cấn. Trong thời gian thượng nguyên và 30 năm đầu trung nguyên thì các
phương khảm càn đoài khôn li có thuỷ là ngũ cát thuỷ, riêng phương Mão nếu
kiến thủy thì đại phát tài lộc. Trong thời gian 30 năm sau trung nguyên và hạ
nguyên thì các phương li tốn chấn cấn khảm có thuỷ là ngũ cát thuỷ, riêng
phương Tý nếu kiến thủy thì đại phát tài lộc.
Tý sơn ngọ hướng triều nghênh thuỷ lộ khởi tham lang đồ:
Thôi chiếu thần thượng nguyên và 30 năm đầu trung nguyên dùng Phụ tinh, hạ
nguyên và 30 năm sau của trung nguyên dùng Tham tinh, chính là kinh văn viết:
“Tham Phụ bất đồng luận”(Tham tinh và Phụ tinh thì luận không giống nhau),
đúng vậy, vì Tham tinh là thượng nguyên tinh lại dùng làm cát thủy ở hạ
nguyên, Phụ tinh là hạ nguyên tinh lại dùng làm cát thủy ở thượng nguyên.
“Thủ đắc Phụ tinh thành ngũ cát, sơn trung hữu thủy thị chân long”(giữ lấy Phụ
tinh để thành ngũ cát, trong núi mà có nước thì đấy là chân long), đúng như vậy,
nếu thượng nguyên mà phương Phụ tinh có nước, lại là cục thế sơn long chứ
không phải bình dương long thì có thể chắc đó là dấu tích chân long.
Tý khởi tham lang ở tại bản cung nghịch hành: Tý Tham, Càn Cự, Dậu Lộc…
Tốn tham lang khởi ở càn thuận hành: Càn Tham, Tý Cự, Cấn Lộc, Mão Văn,
Liêm quy trung cung, Tốn Vũ…
Càn khởi tham lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu
Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ…
Ngọ Mão Dậu khởi tham lang ở tốn nghịch hành: Tốn Tham, Mão Cự, Cấn
Lộc, Tý Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ, Dậu Phá, Khôn Phụ, Ngọ Bật
Khôn Cấn khởi tham lang ở ngọ thuận hành: Ngọ Tham, Khôn Cự, Dậu Lộc,
Càn Văn, Liêm quy trung, Tý Vũ, Cấn Phá…
Nhâm Canh Bính khởi tham lang ở tuất thuận hành: Tuất Tham, Nhâm Cự,
Sửu Lộc, Giáp Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ, Bính Phá, Mùi Phụ, Canh Bật.
Sửu Mùi khởi tham lang ở canh nghịch hành: Canh Tham, Mùi Cự, Bính Lộc,
Thìn Văn, Liêm quy trung, Giáp Vũ, Sửu phá…
Thìn khởi tham lang ở tuất nghịch hành: Tuất Tham, Canh Cự, Mùi Lộc, Bính
Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ…
Tuất khởi tham lang ở thìn nghịch hành: Thìn Tham, Giáp Cự, Sửu Lộc, Nhâm
Văn, Liêm quy trung, Tuất Vũ…
Giáp khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Giáp Tham…
Ất Tân Đinh khởi tham lang ở tị nghịch hành: Tị Tham, Ất Cự, Dần Lộc, Quý
Văn, Liêm quy trung, Hợi Vũ, Tân Phá, Thân Phụ, Đinh Bật.
Hợi khởi tham lang ở tị thuận hành: Tị Tham, Đinh Cự, Thân Lộc, Tân Văn,
Liêm quy trung, Hợi Vũ…
Tị khởi tham lang ở hợi thuận hành: Hợi Tham, Quý Cự, Dần Lộc, Ất Văn,
Liêm quy trung, Tị Vũ…
Thân khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Thân Tham…
Quý khởi tham lang ở bản cung nghịch hành: Quý Tham…
Dần khởi tham lang ở ất thuận hành: Ất Tham, Tị Cự, Đinh Lộc, Thân Văn,
Liêm quy trung, Tân Vũ, Hợi Phá, Quý Phụ, Dần Bật
Xếp lại toàn bộ sẽ thấy các sơn ai tinh lần lượt được như sau:
Tý Quý Giáp Thân: Tham lang
Nhâm Mão Ất Mùi Khôn: Cự môn
Càn Hợi Thìn Tốn Tị Tuất: Vũ khúc
Dậu Tân Sửu Cấn Bính: Phá quân
Dần Ngọ Canh Đinh: Hữu bật
Vừa trùng khớp với Thế quái ca quyết của Thẩm là huyền không phi tinh, thực
ra đây chính là khẩu quyết của Đại quái, họ Thẩm hiểu nhầm và dùng nhầm, Phi
tinh thực vẫn lập bằng bàn hạ quái, kiêm ngoài 7 độ thì tạp loạn không dùng
được mà thôi, dùng thế quái lập bàn thì không nghiệm.
1-6 kỵ 3-8 do không hợp thư hùng-Thuần dương bất sinh, dương thịnh thì âm
suy nên bất lợi đặc biệt cho nữ nhân;
4-9 kỵ 2-7 do không hợp thư-hùng-Thuần âm bất trưởng, âm thịnh thì dương
suy, nên có bất lợi đặc biệt cho nam nhân
Dùng Cung mệnh của người so với cục của nhà và các hình thế chung quanh
nhà để tìm cát hung
Thí dụ: Nhà Tọa Nhâm hướng Bính là cục 3-8 tức hợp với những người có cung
mệnh là 3 - 8 - 2 - 7 Khắc người có cung mệnh là 1 – 6
Thế gian có phép dùng mệnh quái, phân ra một phiến Đông mệnh, một phiến
Tây mệnh. Phép của mệnh quái này là lấy năm sinh làm mệnh quái, dùng ở
Thuyết Bát Trạch, Đông mệnh phối hợp với Đông trạch, Tây mệnh phối hợp với
Tây trạch. Thuyết này không phải là Chân thuật, trong cùng một năm có vạn
người được sinh ra, vì sao có thể cùng vui buồn, cùng cát hung cho được? Tiên
thiên mệnh quái nhất pháp là cái bí truyền ngàn năm nay của bản môn(Liên
Thành) mới là cái tạo phúc cho con người.
Cái lý của Kham dư xuất phát từ âm dương của quái lý, Tiên thiên tứ đại
cục(Nam Phong: ý nói thiên địa, lôi phong, thủy hỏa, sơn trạch), Hà Lạc sinh
thành, Hậu Thiên hợp thập qua trung tâm(Nam Phong: ý nói 5 ở giữa chủ 9 tinh,
8 tinh an 8 cung hợp thập qua trung ương 5). Thiên Địa sơn xuyên là hình, lưu
hành là khí(Nam Phong: ý nói hình là cái tĩnh là âm; khí là cái động là dương).
Nhất quái Nhân mệnh với quái lý của Hà Lạc có sự liên quan mật thiết với
nhau. Thánh nhân xưa phân Đông Tây, chính là nói ý nghĩa của tứ đại cục, đó là
nói thiên địa, nói lôi phong, nói thủy hỏa, nói sơn trạch. Địa lý với tứ đại cục có
sự liên quan và tương quan, Tiên thiên quái của nhân mệnh với tứ đại cục càng
có sự liên quan nhau. Bởi vì Thiên Địa Sơn Trạch hợp Tiên thiên một phiến là
Tây quái, Thủy Hỏa Lôi Phong hợp Tiên thiên một phiến là Đông quái. Ở Lạc
Thư thì hợp Hậu thiên 1 6 4 9 Kim Thủy một phiến là Tây quái, 2 7 3 8 hợp
Hậu thiên Mộc Hỏa một phiến là Đông quái. Thiê Địa Sơn Trạch có hình và chủ
tĩnh một phiến là Tây quái, Thủy Hỏa Phong Lôi vô hình và chủ động một
phiến là Đông quái.
Thế tục luận đồ là Tiên thiên nhập Hậu thiên, nhưng thực chất đồ là cái ý Tiên
Hậu thiên giao nhau, tức Tiên thiên tứ đại cục Thiên Địa Thủy Hỏa Sơn Trạch
Lôi Phong, ở Hậu thiên là cái ý hợp thập. Nên Phong thủy chú trọng Tứ đại hợp
thập với Hà Lạc sinh thành. Cái ý của mệnh quái chính là đó.
Phật giáo có phù hiệu chữ Vạn với Tiên Hậu thiên Hà Lạc chính là đồng tính
đồng nguyên.
Kinh viết: Tiên thiên là thể, Hậu thiên là dụng, Tiên thiên là thể thực chính là ý
nói cái khí vô hình, là nguyên lý vận động của vũ trụ, cũng là nguyên lý vận
động của thế nhân. Hậu thiên là dụng chính là thế gian vạn sự vạn vật sinh sinh
diệt diệt, giao nhau mà thành phải có thực hình thực thể.
Tiên thiên là thể, là bản thể, Thiên Địa Sơn Trạch lão âm lão dương một phiến,
Thủy Hỏa Lôi Phong thiếu âm thiếu dương một phiến, lão âm lão dương là vật
tĩnh âm nên xưng là âm tĩnh một phiến Tây; thiếu âm thiếu dương là vật dương
động nên xưng là dương động một phiến dương.
Hậu thiên là dụng, là thực thể, Thủy Hỏa Càn Tốn thư hùng một phiến, Sơn
Trạch Địa Lôi thư hùng một phiến, chính là tứ đại cục hợp thập, hợp sinh thành
chi nghĩa. Nên mới có 1 6 nam quái với 4 9 nữ quái tương hợp một phiến, 2 7
nữ quái với 3 8 nam quái tương giao một phiến. Do đó 1 6 3 8 nam quái không
giao được. Do đó 2 7 4 9 nữ quái không giao được.
Nam Phong: từ đây đọc và ngẫm cẩn thận sẽ thấy rõ 1 6 và 4 9 là chính giao
nhưng 1 6 vẫn có thể giao cùng 2 7(bàng giao); 2 7 và 3 8 là chính giao nhưng 3
8 vẫn có thể giao cùng 4 9(bàng giao). Tất nhiên khi phối như vậy là lão phối
thiếu, sơn thủy cần xem hợp hình hợp cách mới dùng được(hãy quan sát trong
đời các cặp hôn nhân lệch tuổi nhiều giữa chồng và vợ, những cặp nào phải tan
rã, những cặp nào hạnh phúc là sẽ hiểu nguyên lý của tự nhiên, tựu trung lại
quái Lão cần Nhu hình sơn thủy(già cần nhường nhịn vợ(chồng) trẻ) là bền,
quái Lão mà lại đắc Cương hình sơn thủy(già mà không nhường vợ(chồng) trẻ)
tất bại ở trước mắt). Như 1 giao 7, sơn thủy phía 1 là núi hoặc nhà cao sừng
sững, độc lập, hoặc nước lớn chảy mạnh thì đây là thất cách, kiểu gì cũng bại.
Sự sinh tồn của nhân loại trong vũ trụ từ xưa đến nay đã có vô số lần khảo
nghĩa như kiến trúc nhà ở phải cầu được những hoàn cảnh lợi ích, che mưa
tránh gió, phương tiện môn lộ, có thủy, có quang, từ đó mà phát sinh thuyết
Phong thủy như Bốc lạc của Chu Công, Thiên U của Lưu Công đều chọn Sơn
Thủy tương phối; Đến đời Tấn có Táng Kinh của Quách Phác thì đều trọng âm
dương nhị trạch. Đạo Phong thủy rất chú trọng ý nghĩa về hình thế và lý khí,
cũng có sách chuyên trọng hình thế mà không chú trọng lý khí. Ngày xưa phong
thủy chân nghĩa bị Hoàng gia cất giữ trong cung điện do sợ người vận dụng
làm bất lợi cho ngôi vị, đến khi Hoàng Sào vào Trường An, Dương Quân Tùng
mới truyền bá cho dân gian chân nghĩa Phong thủy. Tuy nhiên, do người được
truyền thụ có kiến thức bất đồng từ đó mà ra phân phái hình thế, lý khí, tam
hợp, huyền không tam pháp.
Hình thế thì theo nhãn lực mà xét tới Sơn thủy,
Lý khí thì xét hình thế hợp Sơn thủy để thẩm nguyên vận mà biện cát hung;
Tam hợp là pháp xét hình thế hợp sơn thủy lấy can chi sinh vượng mộ;
Huyền không là cái thuật xét hình thế hợp Sơn thủy mà thẩm định nguyên vận
hợp tiên hậu thiên quái lý; Quái lý là cái huyền cơ thâm tạng (?) của thiên địa
nên chẳng phải ai cũng có thể thẩm thấu được, cho nên từ Dương Công về sau
trong dân gian thuyết về hình thế và luận tam hợp là rất nhiều, chiếm địa vị chủ
đạo trong giới phong thủy. Đến đời Minh Thanh, Tưởng Đại Hồng do không
chịu làm việc cho ngoại di nên công danh thất chí bèn lấy Kham Dư làm tiêu
khiển, sau được Vô Cực Tử truyền cho Huyền không thuật rồi soạn bộ “Địa lý
biện chính”, chú giải Thanh nang Kinh Áo ngữ, Thiên ngọc Kinh, Đô thiên bảo
chiếu kinh. Nhưng văn cú trong sách quá nhiều ẩn ngữ, bởi cho rằng thiên cơ
không dám tiết lộ cho nên hậu nhân chỉ đắc được Thư mà không đắc được
Quyết, từ đó huyền không học phát sinh nhiều môn phái vậy.
Có câu hỏi rằng: anh phong thủy, tôi phong thủy, mọi người nói phong thủy,
cuối cùng thì thế nào là phong, thế nào là thủy? Hay câu: Đại huyền không,
tiểu huyền không, ai cũng nói huyền không vậy ai là huyền, ai là không? Ở đây
không nói ai đúng ai sai mà chỉ câu trong các loại học thuyết đó, thuyết nào có
lý, có chứng cứ hợp được thực dụng và có ứng nghiệm thì là loại học thuyết nên
theo, bất kể là dùng bát trạch hay tam hợp, huyền không hoặc những phương
pháp nào khác, miễn là có lợi đối với nhân loại.
Đồng một thời với Tưởng Đại Hồng (đời Minh Thanh) có Triệu Liên Thành ở
Vũ Ninh thâm đắc huyền không chân quyết, dân gian thời đó thường nói Nam
Tưởng Bắc Triệu; Do Triệu Liên Thành đơn truyền ít có người biết nên hậu thế
chỉ biết Tưởng Đại Hồng là người đắc được huyền không pháp quyết mà không
biết Triệu Liên Thành.
Người được Triệu Liên Thành truyền thừa là Lưu Nguyệt Tuyền, Lưu Nguyệt
Tuyền lại truyền cho Thái Lương Tài; Thái lương Tài lại truyền cho Đông Duy
Sở người Hồ Bắc; Đông Duy Sở truyền cho Tiền Dư Anh người Vũ Ninh; Tiền
Dư Anh truyền cho Trịnh Ngọc Phân và Lưu Chỉ An; Lưu chỉ An là cháu đích
tôn 5 đời của Lưu Nguyệt Tuyền, thông triệt Liên Thành tinh yếu, kết bạn thân
thiết với Vương Yêu Đạt, Vương Yêu Đạt sinh năm 1886 mất năm 1976, Ông là
một danh y nổi tiếng của Trung quốc và cũng là minh sư địa lý; Ông soạn
quyển “ngưỡng quán phủ sát” và quyển “Địa lý biện chính yết ẩn”, là tinh túy
của Liên thành phái. Ông không sợ tiết lộ thiên cơ mà công khai những điều
Tưởng Công không dám làm nên gọi là Yết ẩn.
Ngày nay có nhiều sách viết về Liên Thành Huyền Không. Nhưng chủ yếu vẫn
dựa trên 2 quyển
- Huyền Không đại Quái Ai Tinh Mật Chỉ là di thư của Triệu Liên Thành trước
khi mất
- Huyền Không đại Quái Địa lý biện chính yết ẩn của Vương Yêu Đạt
Chúng ta may có cơ duyên được cao tăng hậu ái ban truyền chân quyết, nên cố
gắng trau dồi yếu nghĩa của Huyền Không Liên Thành mà đem sở học giúp đời
ngõ hầu tạo phước cho dân gian để khỏi phụ cái đại tâm của Tiên Thánh.
Thủy thần suy vượng hữu quyền hành lập hướng na di yếu biện minh
Không vị lưu thần tối dịch phạm nhất ti thất sát tiện vô tình
Cự môn phiên hướng phi lâm cấn dần vị khước xưng không vị danh
Nhâm cự phiên lâm lai đáo Bính, Đinh cung không ngoại thị môn trướng
Nhược hoàn xoa cảng chi hà nhiễu trùng pha âm dương đa thụ kinh
Trùng phá dương cung nam bất dục âm cung trùng phá nữ vô thành
Đan cung trùng trứ nhân tài giảm song vị trùng lai tiện thiểu đinh
Canh lự vi quan đa bác lạc triêu đường nhất đáo họa căn sinh
Công động hách liệt minh chung đỉnh chích phạ trung đồ tẩu cẩu phanh
Mạc vị loạn lưu như chức cẩm nhất phùng thử kiếp phúc chung khinh
Xét 2 cung bên cạnh đầu hướng nếu có thủy, xem có phạm sát là không vị
+ Tốn tối kỵ, cung tốn thủy vi khảm (thủy lý 1 – Xem đồ hình), Nhâm
sơn chấn (Sơn thượng 3) chi sát [không hợp thư hùng, cô dương bất
trưởng],
+ Tị là tứ tốn (thủy lý 4), bính hướng địa quái/thủy lý là nhị (2) khôn,
khôn (2) - tốn (4) là sát. Nhâm sơn bính hướng tị tốn thủy trùng phá giả,
chủ nam nữ cụ hung. Trùng tọa sơn quái giả khắc đinh. Trùng hướng thủy
quái giả khắc đinh bại tài. 〈 bính hướng khôn (2 thủy lý),
+ Ngọ vị thị không vị, ai càn (6), Chấn (3)- càn (6) Tam -bát ; nhất - lục
vi sát, vi khắc bại đinh tài. 〉
+ Đinh vị diệc diệc thị không vị, ai ly (9), khôn (2)- ly (9) nhị cửu vi sát,
vi khắc bại đinh tài. 〉
2. Tý sơn ngọ hướng
Tý sơn ngọ hướng lấy bính là không vị, tý sơn cửu (sơn thượng 9), ngọ
hướng lục 6, bính thủy lý nhị (2), giao phối tọa sơn (9) là sát [không hợp
thư hùng, thuần âm bất sinh hại nữ nhân], Tị thủy lý vi tứ (4), giao phối
với tọa sơn (9) hướng thượng (6) hợp,
Tại thông căn quyết cầu thiên quái, dương sơn thì dùng nghịch ai, âm sơn thì
dụng thuận ai. Dùng để xét sơn phong sa thuỷ để thủ tài.
NHÂM SƠN AI TINH(NHÂM THÔNG THÌN 4- )
Bên trái là địa quái bên phải là thiên quái, các sơn còn lại cũng theo đó mà suy
ra. Xem sơn thượng bài thiên quái bên trên, đó là địa quái, thiên quái là đối
cung tầm, tức lấy đối diện lại là thiên quái vậy.
Trước tiên, muốn hiểu về thu sơn xuất sát thì phải quay lại ải tinh - ở đây chỉ nó
đến ải tinh của Liên thành . Nói chung, hình như mọi thứ đều từ ải tinh mà ra.
Quyết này chuyên nói huyền không 48 cuộc thiên địa đại quái ải tinh, phối
thành 24 sơn âm dương thủy khẩu, vốn thuộc bí quyết không truyền cho
người. Thuyết về 24 sơn đại quái phối thành thủy khẩu này thì tác dụng
thần chỉ tại nơi tam bàn quái.
(*) Chính ngũ hành: này ám chỉ là bộ ngũ hành của liên Thành; chứ không
phải chính ngũ hành của Huyền không, tam hợp.
Ví dụ: càn sơn - Đại quái ngũ hành thuộc cửu tinh, đại quái là 4-9; cặp 4-9 thì:
+ Tốn 4 phối Chấn 3 thì thấy 3-8 phong loan thủy lộ khả dụng [do thiếu âm,
thiếu dương phối].
+ Ly 9 (kim) phối khảm 1 (Mộc) thì thấy phong loan thủy lộ khả dụng. [do thiếu
âm, thiếu dương phối].
Cho nên đại quái 4-9 lấy 4 (thủy)-9 (Kim), 3 (Thổ)-8 (thổ), 1 (Mộc)-6 (Hỏa) ->
[Đủ trọn Thổ sinh kim, sinh thủy, sinh mộc, sinh hỏa, sinh thổ], 4-9 & 1-6 &
3-8: Tam quái cộng làm nhất quái;
=> Lấy 2-7 phong loan thủy lộ là SÁT, 2-7 mà quản vận hoặc đáo cung cũng
xấu, bởi 2-7 không thể phối với 4-9 vậy.
8-3------------9-4-----------1-6
7-2------------5-5-----------2-7
6-1------------4-9-----------3-8
Tý sơn Ngọ hướng Địa quái Tý là 4, thiên quái Tý là 9, 4-9 sát ở 2-7, do vậy
xuất sát pháp là xem phương 2-7 mà phóng thủy, hoặc phương này phải trống
thóang.
-----------------------------------------------
Quay lại sơn thượng có: sơn thượng dụng thiên quái; nhưng sơn cũng có thiên
quái của sơn, sơn có địa quái của sơn - nên bàn xuất sát thường có 2 số ải kèm
nhau: 1 thiên, 1 địa của sơn thượng:
Ví dụ trên; Tý sơn ngọ hướng; thiên quái là Ly (9), địa quái là tốn (4): (để thiên
quái trong ngoặc, địa ngoài ngoặc)
[8-(3)][9-(4)][1-(6)]
[7-(2)][--5--][2-(7)]
[6-(1)][4-(9)][3-(8)]
Bởi vì 4-9 kỵ 2-7 do 2 cặp thuần âm, Nên, cần thu dương khí, đồng thời lại biến
chúng thành dụng thần:
+ Cung Đoài- tại Canh 2-(7) mới là cung sát, nên phải đem sơn tiêm phóng/đặt
ở [尖放 đặt; để] ngoài canh cung [NP viết: phương Đoài gồm Canh Dậu Tân, 2
phương Dậu Tân có sơn mà phương Canh trống thoáng (hoặc 2 phương Dậu
Tân cao và thấp trống thoáng về phương Canh)], để biến khôn (tức địa quái 2)
[cao phong thì dụng thiên quái; trống thoáng nên, dụng địa quái] hành thổ trở về
vi (giúp đỡ, bảo vệ) sơn tý có Ly (thiên quái 9) kim chi ấn thực; Đoài (thiên
quái 7) kim phản/trở lại vi/giúp sơn tý có tốn (địa quái 4) thủy chi ấn thực.
Đây chính là cách dụng thiên quái, địa quái của liên thành, biến sát thành Dụng;
biến thuần âm dương, thành tương phối!
2 câu này đọc 100 quyển sách Tàu và Ta cũng không có đâu.
Cho đến nay vẫn chưa lý giải được tại sao LT lại tính như vậy
Tam: Nhị thập tứ sơn ngũ hành (hay còn gọi Túc độ ngũ hành)
Do Nhật Nguyệt biến đổi với thời gian, vị trí Thái dương (mặt trời) và Địa cầu
khi chuyển động trong không gian qua thời gian thực tế có sự biến động, ngũ
hành 24 sơn khi xưa so với nay do đó mà có thay đổi, tuy nhiên vẫn ghi chép ra
cả ở đây để người học có thể chiêm nghiệm và đối chứng.
(Nam Phong chú: như ngũ hành đại quái bên trên, căn nguyên 24 sơn ngũ hành
của Liên Thành rất khó hiểu)
Nhất, hợp vận, hợp nguyên, hợp sinh thành (1-6, 2-7, 3-8, 4-9); hợp 5, hợp 10,
hợp 15.
Nhị, [Tọa-Long, Tọa-Hướng, Hướng-thủy]: Tọa khứ hợp long đệ nhất nghĩa,
Tọa hướng tương hợp vị nhị yếu; Hướng dữ thủy hợp thị tam chân.
Huyền không chi Long Sơn Hướng Thủy: Tọa sinh hướng thì nghi (cần phải) tú
thủy, hướng khứ sinh Tọa yếu (yêu cầu) kỳ phong.
Sơn thượng tý (9) quý (6)=[hợp 15] có thể kiêm dùng nhưng thuỷ lí tý (4) quý
(8) [không hợp 5, 10, 15] không thể kiêm dùng, sơn thượng tý là cửu quý là lục
thành thập ngũ khả kiêm, thuỷ lí tý tứ quý bát không hợp nên không thể kiêm
dùng.
Nhâm sơn là tam (3) chấn, tý sơn là cửu (9) li, là thập nhị nên không thể kiêm
dùng, hợi sơn là nhất (1) khảm cùng với Nhâm sơn tam (3) chấn là tứ cũng
không thể kiêm dùng. Nhâm thuỷ là nhất (1) khảm, tý thuỷ là tứ lục (4), hợp
ngũ nên có thể kiêm dùng, hợi thuỷ là tam bích (3) với nhâm thủy là nhất (1)
khảm, là tứ không hợp nên không thể kiêm dùng.
Chương 7: Long-Sơn-Tọa-Hướng-Thuỷ
Lấy toạ huyệt là chủ là nội, hướng với sa thuỷ là khách là ngoại
Lấy long là chủ, lấy toạ sơn là khách.
Lấy toạ sơn là chủ, hướng thuỷ là khách.
Lấy lai thuỷ là chủ, khứ thuỷ là khách,
Long hợp toạ, toạ hợp hướng và lai thuỷ, hướng hợp khứ thuỷ.
Dương Long (+) cần phải lập âm Chi (-) tọa hướng, dương tọa (+) thì tất cần âm
hướng (-).
Như Càn long lập tý sơn ngọ hướng vậy,
+ Càn tứ (4), Tý cửu (9), tứ âm (4-) cửu dương (9+). Long với tọa nhất âm (-)
nhất dương (+),
+ Tý sơn cửu (9), ngọ thuỷ lục (6), cửu dương (9+) lục âm (6-) hướng thuỷ cũng
vậy là nhất âm (-) nhất dương (+).
Sơn long mà không phát tú, thì có quý mà không vinh hiển, không khai khiếu,
thì nhân đinh sẽ không phồn vượng.
Dùng tiên hậu thiên hỗ Tham. Long ở hậu thiên phương có phong là khiếu, Tiên
thiên phương có thuỷ là tú .
Nhâm Tý Quý long, tất cần mùi khôn thân phương kiến phong, canh dậu tân
phương hội thuỷ. Do Nhâm Tý Quý là tiên thiên khôn vị, canh dậu tân là tiên
thiên khảm vị.
Bính ngọ đinh long, lấy tuất càn hợi là khiếu, tất cần tuất càn hợi phương có
phong, lấy giáp mão ất là tú, giáp mão ất phương có thuỷ. Do bính ngọ đinh là
tiên thiên càn vị, giáp mão ất phương là tiên thiên li vị. Dụng hậu thiên ứng tiên
thiên, cho nên tuất càn hợi phương cần phong ,giáp mão ất phương cần thuỷ
Khai khiếu phát tú biểu :
Đương nguyên thuỷ chính là tự khố, hợp với nguyên vận thì là tá khố .
Đương vận chi thuỷ thì lực đại .hợp vận chi thuỷ thì lực tiểu
Lấy thuỷ lí bài quái để mà luận .
Như nhất vận đắc nhất khảm thuỷ là tự khố thuỷ, nhất vận đắc tứ tốn, lục càn,
cửu li chi thuỷ là tá khố thuỷ.
(Nam Phong chú: nói hợp nguyên vận ở đây chính là 1 6, 4 9 vận cùng hợp với
nhau(Kim Thủy tương sinh); 2 7, 3 8 vận cùng hợp với nhau(Mộc Hỏa tương
sinh), chứ không phải là thượng, trung, hạ nguyên hợp nhau.)
(Nam Phong chú: nói hợp nguyên vận ở đây chính là 1 6, 4 9 vận cùng hợp với
nhau(Kim Thủy tương sinh); 2 7, 3 8 vận cùng hợp với nhau(Mộc Hỏa tương
sinh), chứ không phải là thượng, trung, hạ nguyên hợp nhau.)
đương vận chi thuỷ thì xưng là đắc thời, hợp vận chi thuỷ thì xưng là đắc vị. đắc
thì đắc vị dần táng mão phát, phú quý cửu trường .
Cũng như trên lấy thuỷ lí bài quái để luận.