You are on page 1of 134

Bí giải Đại Huyền Không phong thủy học

Đại Huyền Không phong thủy tất cần phải "Thể Dụng cùng trọng, Hình Khí hợp nhau",
đây chính là công thức nghìn xưa! ! !
Hình, là chỉ hình thế loan đầu. Khí, là chỉ Lý khí Ai tinh.
Nhất Loan Đầu; Nhị Lý Khí. Loan Đầu là Thể, Lý Khí là Dụng, cả hai đều không thể vứt
bỏ.
Loan Đầu luận Long, Huyệt, Sa, Thủy, để khảo sát Thể sinh khí vậy; Lý khí là nói đến
Nguyên vận, Linh Chính, để dùng trắc nhân sự hưng phế.
"Thể" —— là có thể mắt thấy sơn thủy, tức là chương tấu trọng Sơn "Nhãn pháp" ở
trong《 Tâm Nhãn chỉ yếu 》.
"Dụng" —— là một loại lý luận về Lý khí thu Sơn nạp Thủy, tức là chương tấu trọng Sơn
"Tâm pháp" ở trong 《 Tâm Nhãn chỉ yếu 》.
"Thể không có Dụng không linh, Dụng không có Thể không nghiệm" tức là thuyết minh
rõ về quan hệ Thể Dụng.
Cũng chính là nói, mặc dù sơn thủy đều hữu tình mà kết thành đất tốt, nhưng không
dùng lý luận thu sơn nạp thủy để vận hành, thì dễ dàng đem sơn hướng lập sai, đã làm
hướng đối lập, cũng không biết lúc nào là vận hưng, lúc nào vận suy.
Ngoài phương diện này ra, nếu như cụ thể hình thế sơn thủy ly khai mà không nói đến
Dụng (Lý khí), vậy thì cũng chẳng nên đàm luận. Cho dù là đại địa, lấy huyệt dựa vào sa
hoặc là thoát khí (thể đã phá), Lý khí (Dụng) dù có chính xác thì cũng uổng phí. Cho nên
có thể biết, Thể và Dụng là cùng dựa vào nhau, là hai phương diện tổ thành phụ thuộc
vào nhau, khuyết một là không thể được. Tuy có đọc hàng quyển 《 Thanh Nang 》,
chẳng qua cũng là hai chữ "Thể Dụng", tức là ý này vậy. Chỉ có kết hợp Thể, Dụng, mới
cóHai chữ Huyền Không, bao hàm từ số 1 đến số 9, mượn dời chuyển ở nguyên vận,
huyền cơ điên đảo thuận nghịch.
Sách nói: "Tam nguyên nhất thư, áo diệu vô cùng. Nhìn chung vạn vật trời đất, đều dựa
vào ngũ hành để thành bại; vượng tướng hưu tù, đều dựa tam nguyên để vận hành."
《 Thanh Nang áo ngữ 》 nói: "Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất. Cấn Bính Tân, vị
vị thị Phá Quân. Tốn Thìn Hợi, tẫn thị Vũ Khúc vị. Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ
hành."
Khương Nhữ Cao chú viết: "Áo ngữ thủ yết thử chương, nãi Ai tinh điều lệ.
" Phạm Nghi Tân cũng viết: "Dương Công thử thiên, nhân đắc Thanh Nang chính quyết,
cụ ngôn Huyền Không Đại Quái Ai tinh chi xử."
Lại nói: "Áo ngữ quát tẫn Thanh Nang chi chỉ, dĩ Huyền Không chi Lý khí thi Cửu tinh chi
đảo bài, cao sơn bình địa chi tác, tẫn tại kỳ trung, bất khả tróc mạc. Nhược phi khẩu
khẩu tương truyện, khứ tác vu chương cú chi trung, chung bất năng biện."
Đúng như trong chỗ 《 Áo ngữ 》 nói: "Động bất động, trực đãi cao nhân thi diệu dụng
dã." Áo ngữ Ai tinh còn ẩn giấu trong đó, về phần phép dùng Nhị Trạch điên đảo, không
lộ bức ảnh.

Tóm lại, Bí thuật Đại Huyền Không cần phải —— Biết Nguyên vận, dụng để phân ra Linh
Chính; Điên đảo điên, rõ Cửu tinh được mất; nhận Kim Long, biện Long quý tiện; đón
sinh khí, được chân Long lập huyệt phù hợp. thể làm ra hiệu quả phong thủy tốt nhất.

《 Thiên Ngọc kinh 》 nói: Hiểu được Linh thần và Chính thần, có ngày vào mây xanh;
không hiểu Linh thần và Chính thần, đời đời tuyệt trừ căn.
Phân định âm dương quy về hai lộ, thuận nghịch sắp xếp mà đi, biết sinh biết tử cũng
biết bần, lưu lại mà dạy dỗ con cháu.

Lại nói: Hiểu được hai đường đi âm dương, phú quý đạt kinh thành, không hiểu hai
đường đi âm dương, rơi hố lửa vạn trượng.

《 Thanh Nang tự 》 nói: Sơn thượng Long thần bất hạ thủy, Thủy lý Long thần bất
thượng sơn. Sơn quản sơn hề Thủy quản thủy, đây là âm dương không đợi nói.
Hiểu được lý lẽ huyền diệu của âm dương, thì biết suy vượng sinh và tử. không hỏi tọa
sơn và lai thủy, nhưng phùng tử khí đều chớ thủ.
Phong thủy Đại Huyền Không, nhất nhị tam tứ, lục thất bát cửu cùng phong thủy《
Huyền Không lục pháp 》không khác nhiều. Tiên Hậu thiên thông khí giới thiệu cùng 《
Địa Lý băng hải 》là như nhau.
Thuật phong thủy Đại Huyền Không là truyền lại chính tông, lý lẽ vô cùng áo diệu. Chân
lý Đạo xuất Thái Cực, Hà Lạc, là tổ tông của các loại thuật phong thủy. Hà Lạc tinh hoa
mà vô tận, phạm vi rộng lớn mà không đổi dời.
Đạo thường nói: "Y dược sai lầm hại một người, phong thủy sai lầm họa cả nhà" .
Xã hội hiện nay mạo danh Dương Công, lại có không ít giang hồ thuật sĩ, lấy ở văn
chương, nhiều lời ngon tiếng ngọt, không được chân truyền. Ai không biết, "Thế gian
phong thủy thiên thiên vạn, chỉ có Ai tinh là chân ngôn". Cho nên không được khẩu
truyền tâm thụ, khó mà nhập môn. Ngô Kim tiết lộ bí quyết Ai tinh của Tưởng Công, lấy
bản chính làm gốc.

Tam Nguyên Địa lý Đại Huyền Không 《 Ai tinh chân tủy 》

Biết huyền cơ Ai tinh Huyền Không,


Tĩnh tâm ngộ hiểu thông thần linh.

Thuật Ai tinh Đại Huyền Không xuất phát từ các Kinh《 Thanh Nang 》, là do hai họ
Dương, Tăng chân truyền cho họ Tưởng, trên lịch sử chưa hề công khai qua. Sách Tam
nguyên, bày ra cũng nhiều, 《 Bí bản 》 nói: "Tam nguyên tam thập lục môn, chân giả
độc nhất dã", tức là chỉ thuật Ai tinh Đại Huyền Không mà nói.

Đại Huyền Không là lấy Thái Cực, Hà Lạc, Tiên Hậu thiên Bát Quái làm lý luận cơ bản.
Trình bày khái niệm chân chính về Thư Hùng, Kim Long, Thành Môn, nói rõ chân cơ điên
đảo thuận nghịch, lập hướng nạp thủy, thu sơn xuất sát. Từ 24 Sơn trừu hào hoán tượng
mà ra các tinh sao Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất
Xích, Bát Bạch, Cửu Tử, theo nguyên vận, phân chia âm dương, nhập Trung cung, hoặc
thuận hoặc nghịch, theo thứ tự lần lượt mà đi, cho nên viết là Ai tinh (chữ Ai nghĩa là
sắp xếp lần lượt). Bất luận là ai thuận hoặc là phi nghịch, đại đạo chí giản, đều là một
bàn mà thành, thao tác giản tiện; vận hành phong thủy, phú quý có chuẩn. Mà tĩnh tọa
ở trong nhà, biết sơn hướng, biết thủy khẩu, trong vài phút có thể đoán ra nhanh cát
hung họa phúc. Bí thuật Dương Công, lần đầu công khai. Chân Giả độc nhất, thuật này là
vậy.

Địa bàn Lạc Thư Cửu cung

4 9 2

3 5 7
8 1 6

Khẩu quyết: Đội 9 đạp 1. Tả 3 Hữu 7. 2-4 là vai. 6-8 là chân.
Lấy 5 làm trung tâm, bất luận thẳng nghiêng cộng lại đều là con số 15.

Địa bàn Hậu thiên Bát Quái phối Cửu cung

Tốn Ly Khôn

Chấn Thiên tâm Đoài

Cấn Khảm Càn

Địa bàn Phương vị Hậu thiên Bát Quái

Đông Nam Chính Nam Tây Nam

Chính Đông Trung cung Chính Tây

Đông bắc Chính Bắc Tây bắc


Địa bàn Huyền Không Cửu tinh

Tứ lục Cửu tử Nhị hắc

Tam bích Ngũ Hoàng Thất xích

Bát bạch Nhất bạch Lục bạch

Huyền Không Cửu tinh

TT Màu sắc Cung Sao Ngũ hành

1 Bạch Khả Tham lang Thủy


m

2 Hắc Khôn Cự môn Thổ


(Bệnh phù)

3 Bích Chấn Lộc tồn Mộc


4 Lục Tốn Văn khúc Mộc

5 Hoàng Trun Liêm trinh Thổ


g

6 Bạch Càn Vũ khúc Kim

7 Xích Đoài Phá quân Kim

8 Bạch Cấn Tả phụ Thổ

9 Tử Ly Hữu bật Hỏa


Đại Huyền Không Ai tinh chân quyết (Khôn Nhâm Ất quyết)

Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành;


Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất;
Tý Mão Mùi, Tam Bích Lộc Tồn đáo;
Tuất Càn Tị, Tứ Lục Văn Khúc chiếu;
Thìn Tốn Hợi, tẫn thị Vũ Khúc vị;
Cấn Bính Tân, vị vị thị Phá Quân;
Dần Canh Đinh, nhất lệ Tả Phụ tinh;
Ngọ Dậu Sửu, Cửu Tử Hữu Bật thủ.
(Hoặc lấy: Thìn Tốn Hợi, Lục Bạch Vũ Khúc vị, Cấn Bính Tân, Thất Xích thị Phá Quân;
Dần Canh Đinh, Bát Bạch Tả Phụ ứng, Ngọ Dậu Sửu, Cửu Tử Hữu Bật tinh. )

《 Thiên Ngọc kinh 》 viết: "Chỉ có Ai tinh là quý nhất, tiết lộ bí mật thiên cơ ".

1. La Bàn Nhị thập tứ sơn bản Sơn tinh

Phương Quái Nhị Góc độ Bản Sơn tinh


vị vị thập
tứ sơn

Nhâm 337. 6 ~ Nhị Hắc - Cự


352. 5 Môn 2

Chính Khảm Tý 352. 6 ~ Tam Bích -


Bắc 22. 5 Lộc Tồn 3

Quý 7. 6 ~ 22. Nhất Bạch -


5 Tham Lang 1

Sửu 22. 6 ~ Cửu Tử - Hữu


37. 5 Bật 9

Đông bắc Cấn Cấn 376 ~ 52. Thất Xích -


5 Phá Quân 7

Dần 52. 6 ~ Bát Bạch - Tả


67. 5 Phụ 8

Giáp 67. 6 ~ Nhất Bạch -


82. 5 Tham Lang 1

Chính Chấn Mão 82. 6 ~ Tam Bích -


Đông 97. 5 Lộc Tồn 3

Ất 97. 6 ~ Nhị Hắc - Cự


112. 5 Môn 2

Thìn 112. 6 ~ Lục Bạch - Vũ


127. 5 Khúc 6

Đông Tốn Tốn 127. 6 ~ Lục Bạch - Vũ


nam 142. 5 Khúc 6

Tị 142. 6 ~ Tứ Lục - Văn


157. 5 Khúc 4

Bính 157. 6 ~ Thất Xích -


172. 5 Phá Quân 7

Chính Ly Ngọ 172. 6 ~ Cửu Tử - Hữu


nam 187. 5 Bật 9

Đinh 187. 6 ~ Bát Bạch - Tả


202. 5 Phụ 8

Mùi 202. 6 ~ Tam Bích -


217. 5 Lộc Tồn 3

Tây nam Khôn Khôn 217 ~ Nhị Hắc - Cự


232. 5 Môn 2

Thân 232. 6 ~ Nhất Bạch -


247. 5 Tham Lang 1

Canh 247. 6 ~ Bát Bạch - Tả


262. 5 Phụ 8

Chính tây Đoài Dậu 262. 6 ~ Cửu Tử - Hữu


277. 5 Bật 9

Tân 277. 6 ~ Thất Xích -


292. 5 Phá Quân 7

Tuất 292. 6 ~ Tứ Lục - Văn


307. 5 Khúc 4

Tây bắc Càn Càn 307. 6 ~ Tứ Lục - Văn


Hợi 322. 5 Khúc 4
322. 6 ~
337. 5 Lục Bạch - Vũ
Khúc 6
2. Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.

3. Trả lời kèm Trích dẫn


4. Cảm ơn bởi:

Khanh
5. 10-10-17, 19:23#9
lesoi

Ban quản trị

Ngày tham gia


May 2012
Bài viết
5,723
Tường giải Phép Ai tinh Đại Huyền Không

1, Đại Huyền Không luận Nguyên vận là phân ra Thượng nguyên và Hạ nguyên (Thượng
Hạ Nhị nguyên Bát vận), Tam nguyên phân ra làm Nhị nguyên, Ngũ vận phân ra 46 đều
quản trước sau 10 năm. (Ngũ Hoàng 10 năm trước quy về vận 4, 10 năm sau quy về vận
6. ) Thực ra vẫn là Tam nguyên Cửu vận, chẳng qua chỉ là đem ngũ vận chia ra mỗi nửa,
nửa trước là Thượng nguyên, nửa sau là Hạ nguyên. 《 Thanh Nang Tam Tự kinh 》
viết: "Đại Huyền Không, dụng Cửu tinh". Tức là dụng phép Cửu tinh ai bài thuận nghịch
để công bố ảnh hưởng của thiên vận tự nhiên đối với xã hội nhân loại, để phá giải cỏi mê
của nhị trạch cát hung Đại Huyền Không mượn trên dưới nguyên vận khác nhau, đem
Cửu tinh phân ra làm âm dương, dương thuận âm nghịch. Tức là Dương nhất lộ, Âm nhất
lộ.

2, Đại Huyền Không ai tinh âm dương trạch dụng tinh khác nhau. Có hai loại Ai tinh
Dương trạch và Âm trạch, cả hai không thể lẫn lộn vậy.
Ai tinh Nhị thập tứ sơn, chỉ dùng Chân quyết Ai tinh bày ra Tinh tọa sơn, Dương trạch
nhập trung cung lập cực xếp bàn, Ai tinh dụng Bản Sơn tinh; Âm trạch nhập trung cung
lập cực xếp bàn, Ai tinh dụng Phụ Mẫu tinh. Phụ Mẫu tinh từ Bản Sơn tinh nghịch kinh tứ
vị (987654321←) mà ra. Cũng theo trên dưới nguyên vận khác nhau mà điên đảo điên,
thuận nghịch hành. Dụng chân quyết Ai tinh mà khởi Cửu cung phi tinh sắp xếp.
Ai Tinh Chân quyết Bản Sơn tinh (Dương trạch)

+ Tọa sơn Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành; Nhất Bạch là bản sơn tinh, thượng
nguyên dụng Nhất Bạch nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Nhất Bạch nhập trung
cung nghịch hành.
+ Tọa sơn Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất; Nhị Hắc là bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Nhị Hắc nhập trung cung thuận hành, Hạ Nguyên Nhị Hắc nhập trung cung
nghịch hành.
+ Tọa sơn Tý Mão Mùi, Tam Bích Lộc Tồn đáo; Tam Bích là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Tam Bích nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tam Bích nhập trung cung
nghịch hành.
+ Tọa sơn Tuất Càn Tị, Tứ Lục Văn Khúc chiếu; Tứ Lục là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Tứ Lục nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tứ Lục nhập trung cung nghịch
hành.
+ Tọa sơn Thìn Tốn Hợi, Lục Bạch Vũ Khúc vị, Lục Bạch là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Lục Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Lục Bạch nhập trung cung
thuận hành.
+ Tọa sơn Cấn Bính Tân, Thất Xích thị Phá Quân; Thất Xích là Bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Thất Xích nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Thất Xích nhập trung
cung thuận hành.
+ Tọa sơn Dần Canh Đinh, Bát Bạch Tả Phụ ứng; Bát Bạch là bản sơn tinh, Thượng
nguyên dụng Bát Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung
cung thuận hành.
+ Tọa sơn Ngọ Dậu Sửu, Cửu Tử Hữu Bật tinh. Cửu Tử là bản sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Cửu Tử nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Cửu Tử nhập trung cung thuận
hành.

Ai tinh Chân quyết Phụ Mẫu tinh (Âm trạch)

+ Thất Xích là Phụ Mẫu tinh Nhất Bạch (1→7), Thượng nguyên dụng Thất Xích nhập
trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Thất Xích nhập trung thuận hành.
+ Bát Bạch là Phụ Mẫu tinh Nhị Hắc (2→8), Thượng nguyên dụng Bát Bạch nhập trung
cung nghịch hành. Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung cung thuận hành.
+ Cửu Tử là Phụ Mẫu tinh Tam Bích (3→9), Thượng nguyên dụng Cửu Tử nhập trung
cung nghịch hành. Hạ nguyên Cửu Tử nhập trung cung thuận hành.
+ Nhất bạch là Phụ Mẫu tinh Tứ Lục (4→1), Thượng nguyên dụng Nhất Bạch nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Nhất Bạch nhập trung cung nghịch hành.
+ Nhị Hắc là Phụ Mẫu tinh Ngũ Hoàng (5→2), Thượng nguyên dụng Nhị Hắc nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Nhị Hắc nhập trung cung nghịch hành.
+ Tam Bích là Phụ Mẫu tinh Lục Bạch (6→3), Thượng nguyên dụng Tam Bích nhập trung
cung thuận hành, Hạ nguyên Tam Bích nhập trung cung nghịch hành.
+ Tứ Lục là Phụ Mẫu tinh Thất Xích (7→4), Thượng nguyên dụng Tứ Lục nhập trung ung
thuận hành, Hạ nguyên Tứ Lục nhập trung cung nghịch hành. + Ngũ Hoàng là Phụ Mẫu
tinh Bát Bạch (8→5), Thượng nguyên dụng Ngũ Hoàng nhập trung cung thuận hành, Hạ
nguyên Ngũ Hoàng nhập trung cung nghịch hành.
+ Lục Bạch là Phụ Mẫu tinh Cửu Tử (9→6), Thượng nguyên dụng Lục Bạch nhập trung
cung nghịch hành. Hạ Nguyên Lục Bạch nhập trung cung thuận hành.

(còn tiếp)

3, Ai tinh Đại Huyền Không chỉ lấy Ai tinh Tọa sơn (24 sơn) phi tinh nhập trung cung, mà
luận bát phương Linh Chính cát hung; cùng một sơn hướng Thượng Hạ nguyên sắp xếp
khác nhau. Không có Vận tinh, hướng tinh nhập trung cung.
+ Phàm Tọa sơn Ai tinh là 1, 2, 3, 4, gặp vận Thượng nguyên thì phi thuận Cửu cung,
vận Hạ nguyên thì nghịch phi Cửu cung. (1, 2, 3, 4 Thượng thuận Hạ nghịch)
+ Phàm Tọa sơn Ai tinh là 6, 7, 8, 9, gặp vận Thượng nguyên thì phi nghịch Cửu cung,
vận Hạ nguyên thì phi thuận Cửu cung. (6, 7, 8, 9 Thượng nghịch Hạ thuận)
+ Âm Dương trạch lấy chỗ này thuận theo thứ tự Cửu cung (trung ngũ → lục → thất →
bát → cửu → nhất → nhị → tam → tứ cung) ai bài, Phi tinh đến Cửu cung, mỗi cung tinh
phi đến ở Thượng nguyên hoặc là Hạ nguyên ở trong 90 năm là bất động. Chỉ cần sơn
Hướng bất biến, tinh nhập trung cung vĩnh viễn là bất biến.
Như: Dương trạch sơn Dần hướng Thân, 3 sơn Dần Canh Đinh bản sơn tinh là Bát Bạch,
tức là dụng Bát Bạch tinh nhập trung cung. Bất luận là kiến tạo ở Thượng nguyên hoặc là
Hạ nguyên, Thượng nguyên dụng Bát Bạch tinh nhập trung cung xếp bàn nghịch hành,
đến Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung cung xếp bàn thuận hành.
Lại như sơn Nhâm hướng Bính, 3 sơn Khôn Nhâm Ất bản sơn tinh là Nhị Hắc, tức là lấy
Nhị Hắc tinh nhập trung cung lần lượt theo thứ tự. Bất luận là kiến tạo ở Thượng nguyên
hoặc là Hạ nguyên, Thượng nguyên dụng Nhị Hắc tinh nhập trung cung xếp bài thuận
hànĐưa ra ví dụ thuyết minh:
1, Dương trạch sơn Ngọ hướng Tý, dụng quyết "Ngọ Dậu Sửu Cửu Tử Hữu Bật thủ", sơn
Ngọ dụng Cửu Tử, Cửu Tử tức là bản sơn tinh, dụng Cửu Tử nhập trung cung xếp bày.
2, Lúc ở Hạ nguyên, Cửu Tử thuộc Dương tinh, thì nhập trung cung phi thuận Cửu cung.
Cửu tử cư ở Trung cung 5, Nhất Bạch đến Càn 6, Nhị Hắc đến Đoài 7, Tam Bích đến Cấn
8, Tứ Lục đến Ly 9, Ngũ Hoàng đến Khảm 1, Lục Bạch đến Khôn 2, Thất Xích đến Chấn
3, Bát Bạch đến Tốn 4, tinh phi đến mỗi cung ở Hạ nguyên 90 năm là bất động.
3, Nếu như là lúc Thượng nguyên, thì Cửu Tử nhập trung cung phi nghịch Cửu cung. Cửu
Tử cư ở Trung cung 5, Bát Bạch đến Càn 6, Thất Xích đến Đoài 7, Lục Bạch đến Cấn 8,
Ngũ Hoàng đến Ly 9, Tứ Lục đến Khảm 1, Tam Bích đến Khôn 2, Nhị Hắc đến Chấn 3,
Nhất Bạch đến Tốn 4, chỗ Tinh đến mỗi cung ở Thượng nguyên 90 năm cũng là bất
động. Âm trạch chỗ mỗi cung Ai tinh đến ở Thượng nguyên trong vòng 90 năm cũng bất
động.

VD Dương trạch: Sơn Ngọ hướng Tý bản sơn tinh là Cửu Tử nhập trung cung.
Thượng nguyên Ai tinh nghịch hành

Tứ 1 Cửu 5 Nhị 3

Tam 2 Ngũ 9 Thất 7

Bát 6 Nhất 4 Lục 8


Hạ nguyên Ai tinh thuận hành

Tứ 8 Cửu 4 Nhị 6

Tam 7 Ngũ 9 Thất 2

Bát 3 Nhất 5 Lục 1


h, đến Hạ nguyên Nhị Hắc tinh nhập trung cung xếp bày nghịch hành.

4, Đại Huyền Không nhấn mạnh pháp tắc Hợp cục (Chính Thần chính vị trang, bát
thủy nhập Linh Đường).
Chỗ đến xứ Chính thần, Linh thần, tất cần phải cùng địa thế Hư Thực Không Mãn phối
hợp nhau, kết hợp phân tích. Nếu không, phạm Linh Chính đảo điên, xếp bàn cũng chỉ là
phí công.
+ Thượng nguyên lấy 1, 2, 3, 4 làm Chính thần, ứng với cao Mãn, hỉ thủy đến, phong
đến, khí đến; 6, 7, 8, 9 là Linh thần, ứng với Không Hư, hỉ xuất thủy, xuất phong, xuất
khí.
+ Hạ nguyên lấy 6, 7, 8, 9 làm Chính thần,, ứng cới cao Mãn, hỉ thủy đến, phong đến,
khí đến; 1, 2, 3, 4 là Linh thần, ứng với không hư, hỉ xuất thủy, xuất phong, xuất khí.
Hình thế Sơn thủy là giảng cứu Hợp cục, cũng chính là "Long thần ở trong Thủy không
thượng sơn, Long thần trên Sơn không hạ thủy", không được Hình cục, chớ nói Ai tinh.
Nhận Kim Long, một Kinh một Vĩ kỳ diệu vô cùng, động bất động, đợi đến cao nhân thi
hành diệu dụng.

5, Mỗi cung Cửu tinh cát hung, dựa theo pháp tắc Hợp cục phán đoán. Bản thân Ai tinh
Cửu tinh cũng không có phân ra cát hung, kết quả cát hung hoàn toàn là căn cứ ở Hợp
cục (Chính Thần chính vị trang, bát thủy nhập Linh Đường) hoặc là phản cục (Thượng
sơn Hạ thủy) mà định. Về phần cát hung ứng ở trên người nào chuyện nào, thì sau khi
sử dụng Cửu tinh phối quẻ phân tích tượng Cửu tinh là được.
6, Đại Huyền Không Linh Chính đảo điên
Dụng địa lý Tam nguyên thuật Ai tinh Đại Huyền Không ở lúc thiết kế lập hướng, là kỹ
pháp tối thượng thừa ở trong các phái phong thủy. Đại Huyền Không là nghiên cứu thiết
kế đến:
(1) Tổng nguyên tắc Lý khí Đại huyền không là "Bất thượng sơn, bất hạ thủy", Lệnh tinh
đi đến Thủy khẩu, phạm Sơn Long hạ thủy, tất tổn thương nhân đinh (viên công đơn vị
hoặc là thành viên gia đình). Địa lý Tam nguyên tối kỵ phản cục "Thượng sơn hạ thủy".
Nếu bởi vì sơn kiến thủy, bởi vì thấy thủy lại thành sơn, hình thành phản cục chính là
Linh Chính đảo điên (thượng sơn hạ thủy).
"Sơn Long bất hạ thủy, Thủy Long bất thượng sơn". Dụng số từ 1 đến 9, theo
nguyên vận là Đế quân, không có luận vận Thượng, Hạ nguyên, đều nắm Linh thần đặt ở
trên thủy, nến như cục không có thủy, đem đến chỗ lõm thấp, đây chính là kỹ thuật ứng
dụng Đại Huyền Không ở lúc lập thiết kế. Như đại vận Thượng nguyên Nhất Bạch, chỗ lai
Long lai Thủy đặt ở Chính thần (Nhất Bạch Nhị Hắc Tam Bích Tứ Lục), xuất thủy chỗ hãm
thấp đặt ở Linh thần (Lục Bạch Thất Xích Bát Bạch Cửu Tử). Ví dụ như hiện thời đến vận
Hạ nguyên, thì 6, 7, 8, 9 thuộc về Chính thần, nên cao mà không nên thấy thủy; mà 1,
2, 3, 4 thì thuộc về Linh thần, không nên cao, phải thấy thủy. Nếu bởi vì cao thấy thủy,
vì thấy thủy lại thành sơn, thì là phạm Linh Chính đảo điên.
(2) Ở trong 4 Linh thần, càng ưu tiên thủ dụng là Chính Linh thần cùng thúc Linh thần
xuất thủy. Vị trí Phụ Mẫu xuất thủy dụng thúc tài để chấn hưng kinh tế tác dụng càng
lớn.
(3) Thủy ở nội cục, ngoại cục đều nên dụng phép Ai tinh để tiêu tan. Như mặt thủy rộng
mở, gần kề cung bên cạnh, lúc phạm sơn Long hạ Thủy là hung, thì lấy phép Ai tinh
kiêm Hướng tiêu nạp, để cho chuyển họa thành phúc.

6, Lý khí Ai tinh phân chia dụng âm dương trạch.


Chú trọng môn hướng, trọng hai Thủy khẩu đến và đi. Bởi vì hai thuỷ khẩu đến đi, chính
là cửa sinh tử vậy. Thủy khẩu có phân ra là có thể thấy và không thể thấy, địa thế có
phân biệt Hư Thực Không Mãn, lúc xem xét Thủy khẩu là do tâm ngộ ra. Thủy pháp phân
ra "Sinh, Vượng, Bình, Khốn, Suy, Bại, Phục, Hưng" .
Âm trạch xung phá Lệnh tinh phản cục

Đoạn quyết viết:


Càn phản đầu đau Khôn đau bụng,
Chấn phản chân què Tốn là đùi.
Khảm sau tai điếc Ly mắt mù,
Sứt môi miệng méo Đoài cung phụ.
Tay quẹo sáu ngón ứng phương nào,
Chỉ vì Cấn cung không hợp quy.
Tốn chủ hói đầu mắt trợn trắng,
Trưởng nữ cầm đao tự đi tìm.
Chấn Tốn đều phản nhà sinh tặc,
Nam nữ bệnh điên thuốc nan y.
7, Lý luận kết hợp mật thiết giữa Ai tinh, Địa vận, Tiên Hậu thiên.
Ai tinh chỉ có cùng Địa vận, phối hợp sử dụng lý luận Tiên Hậu thiên, mới có thể đề cao
tỷ lệ chuẩn nghiệm. Như vận 7, Thất Xích tinh nhập vào Thủy khẩu, rốt cuộc là tổn
thương nhân đinh hay là phá đại tài, phải cùng Địa vận kết hợp để phân tích, thì vừa
xem hiểu ngay.

8, Bí mã Đại Huyền Không định Cục


(1) Bí mã định cục có:
+ Thượng nguyên: 1—6789; 2—6789; 3—6789; 4—6789;
+ Hạ nguyên: 6—1234; 7—1234; 8—1234; 9—1234
(2) Bí mã tốt nhất là:
+ Thượng nguyên: 1—69; 2—78; 3—87; 4—96;
+ Hạ nguyên: 6—14; 7—23; 8—32; 9—41.
(3) Bí mã định cục đến từ tổ hợp mả số Hà Đồ, Lạc Thư.
★ Chú thích: Như 1— 6789 chữ số tổ này, chữ số phía trước là số "1" đại biểu vận 1,
chữ số phía sau "6789" đại biểu Ai tinh Thủy khẩu, những bí mã khác lần lượt theo thứ
tự mà loại suy. Bí mã tốt nhất dùng để tác dụng thúc tài, thúc quan.
9, Từng tầng sinh nhập:
Đối với xí sự nghiệp đơn vị, ở lúc vận hành phong thủy thì phải chú ý nguyên tắc từng
tầng sinh nhập. Nguyên tắc từng tầng sinh nhập, tức là đặt la bàn ở cửa chính của đơn
vị, để thu thuỵ ngoại cục. Đặt la bàn ở cửa lầu nhà làm việc, để thu vượng khí ngay cửa
chính. Đặt la bàn ở cửa phòng làm việc, để thu khí Linh thần thang lầu. Đặt la bàn ở trên
bàn làm việc, để thu cát khí cửa phòng làm việc. Mỗi vị trí then chốt đều theo nguyên tắc
hợp cục tính toán, phàm là cánh cửa đều kỵ sát khí Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, văn phòng cao
ốc cùng bàn làm việc kỵ hướng Ngũ Hoàng tinh.
Đây là lý lẽ thiên cơ Đạo môn bí truyền "Địa lý Tam nguyên Ai tinh Đại Huyền Không",
được nên giấu kín vào trong hòm chứa vàng bạc.

Đại Huyền Không Ứng dụng Chính thần Linh thần


Đại Huyền Không lấy phép Nhị phân định Chính thần và Linh thần. Đại Huyền Không lấy
Chính thần thu Sơn, thu Phong, thu Khí, lấy Linh thần thu Thủy, hiệu ứng hết sức rõ
ràng.
Tam nguyên Cửu vận, mỗi vận đều có Chính thần, Linh thần, tùy thời mà biến thiên.
Chính thần tức là Vượng tinh đương nguyên, Linh thần tức là Tử khí đương nguyên.
Vận dụng Chính thần, Linh thần ở Âm Dương nhị trạch. Như ——
+ Lúc vận 1, thu lai Long và Sơn phong ở quẻ Khảm phương bắc, thu thủy tối vượng ở
quẻ Ly phương nam.
+ Lúc vận 2, thu lai long và sơn phong ở quẻ Khôn phương tây nam, thu thủy tối cát ở
quẻ Cấn phương đông bắc.
+ Lúc vận 3, thu lai long và sơn phong ở quẻ Chấn phương đông, thu thủy tối cát ở quẻ
Đoài phương tây.
+ Lúc vận 4, thu lai long và sơn phong ở quẻ Tốn phương đông nam, thu thủy tối cát ở
quẻ Càn phương tây bắc.
+ Lúc vận 6, thu lai long và sơn phong ở quẻ Càn phương tây bắc, thu thủy tối cát ở quẻ
Tốn phương đông nam.
+ Lúc vận 7, thu lai long và sơn phong ở quẻ Đoài phương tây, thu thủy tối cát ở quẻ
Chấn phương đông.
+ Lúc vận 8, thu quẻ Cấn phương đông bắc lai long và sơn phong, thu thủy tối cát ở quẻ
Khôn tây nam.
+ Lúc vận 9, thu lai long và sơn phong ở quẻ Ly phương nam, thu thủy tối cát ở quẻ
Khảm phương bắc.
(Có liên quan đến vận 5, đại bộ phận học giả kham dư chủ trương đem trong 20 năm
của vận 5, 10 năm trước quy về vận 4, 10 năm sau quy về vận 6. Vận Ngũ Hoàng, tức là
lấy Ngũ hoàng, trước Tứ Lục, sau Lục Bạch làm Chính thần. Lấy Nhị Hắc cùng Bát Bạch
làm Linh thần).
VD như: Lúc vận 6 Tốn cung đông nam có thủy thì phát trước. Đại lục Trung quốc phía
đông nam là biển. Cho nên đất Hương cảng, Quảng Châu phát trước. Còn lúc vận 7,
phương đông có thủy thì phát trước. Như hiện nay ở Thượng Hải, Chiết Giang, Sơn đông
lâm vùng biển phát trước. Hiên nay bước vào vận 8, Hương cảng phồn vinh đã không còn
như ngày trước.

Ví dụ thực tế ứng dụng Đại Huyền Không phong thủy

Quy hoạch Thành phố nếu có thể có đề cao trọng điểm cùng bảo đảm hiệu ích kinh tế xí
nghiệp hữu hiệu rất tốt, đơn vị sự nghiệp có thể phát triển ổn định, tránh khỏi nhân tài
tổn thất không cần thiết, để chấn hưng kinh tế địa phương, tiến nhất bước xúc tiến phát
triển thành phố. Thiết kế chỗ ở gia đình, nếu có thể cùng hoàn cảnh tự nhiên hòa hợp, có
thể khiến cho mọi nhà khỏe mạnh giàu có, bình an ít tai họa, con cái có nối tiếp, mọi
người an cư lạc nghiệp, đối với xã hội ổn định khởi được tác dụng tích cực. Nhưng mà
cửa kế hoạch này cùng thiết kế kỹ thuật ứng dụng lại một mực ẩn tàng ở trong cửa nhà
thuật sĩ, đó chính là thuật phong thủy Địa lý Tam nguyên Đại Huyền Không.
Phong thủy học Đại Huyền Không, ở trong chỗ chúng ta kiến thiết khởi tác dụng chủ đạo,
lý luận của nó nghiêm cách mà hệ thống, ở trong quá trình phát triển dài đến mấy nghìn
năm, đã dần dần hình thành hoàn chỉnh hệ thống lý luận, thực ra là lý luận kinh điển
kiến trúc kế hạch học. Dụng thuật phong thủy Địa lý Tam nguyên Đại Huyền Không ở lúc
thiết kế quy hoạch lập hướng, là kỹ pháp tối thượng thừa trong phong thủy của các phái.
Học thuyết Kham dư phong thủy, là một môn học vấn của nước ta thời cổ đại liên quan
đến quy hoạch hoàn cảnh kiến trúc và thiết kế, cũng là liên quan đến con người cùng tự
nhiên đạt đến một loại lý luận cao thâm về sự hài hòa thống nhất, thời kỳ lịch sử lâu dài,
chảy dài nguồn cội, ở trong quá trình phát triển dài đến mấy nghìn năm, từng bước nó
đã hình thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh thể và các loại môn phái. Trong xã hội ngày
nay phát triển công ty sự nghiệp, kinh tế phồn vinh càng không ly khai khỏi sự chỉ đạo
kỹ thuật phong thủy, ở trong kham dư các loại môn phái, lý luận Ai tinh Địa lý Tam
nguyên Đại Huyền Không, càng có đủ tính quyền uy ở trên học thuật, thực ra là tác
phẩm kinh điển về quy hoạch kiến trúc học. Hiện đưa ra ví dụ để chứng minh tính trọng
yếu của thuật phong thủy Đại Huyền Không hiện đại trong kiến thiết.

VD 1: Một Trạch kiến tạo ở vận 7 sơn Ngọ hướng Tý, cửa mở phương tây, phương Khôn
xuất thủy.

8 4 6

7 9 2

3 5 1

1, Sơn Ngọ hướng Tý Cửu Tử là bản sơn tinh, Hạ nguyên dụng Cửu Tử nhập trung cung
ai bài thuận hành.
2, Nếu như nhà chủ nhân thiết kế Tốn, Chấn thì hợp cục, nhân đinh hưng vượng, cung
khác thì không hợp cục.
3, Thực tế là nhà chủ nhân là cung Cấn, năm 2004 chủ nhân bị thương, tai họa không
ngừng.
4, Bởi vì nhà chủ nhân cung Cấn Ai tinh Tam Bích, Hạ nguyên là Linh thần, năm 2004
Thái Tuế đến Thủy khẩu, từng cung phục ngâm, Tam Bích Bát Bạch hợp sinh thành, ở
dưới tình huống không hợp cục thì có họa.
5, Xuất Thủy khẩu phương Khôn không hợp cục, Lục Bạch là Chính thần, Hạ nguyên xuất
thủy thì phá tài, độc cư, đầu bệnh, ung thư.
6, Cửa mở phương tây, địa thế cao hợp cục, không cao thì phản cục, dễ phá tài, tổn thư
VD 2: Một xưởng kiến tạo ở vận 7 Hạ nguyên sơn Mão hướng Dậu, phá tài, quan ti, khẩu
thiệt không ngừng.
Thuyết minh: Cửa Khôn, xuất thủy phương Thân, làm việc phương Tốn, chỗ ở phương
Cấn, phân xưởng trung cung, nhà kho phương Khảm, táo ở phương Càn.

4 8 6

5 3 1

9 7 2

Lý giải:
1, Sơn Mão hướng Dậu, Tam Bích là Bản sơn tinh, Hạ nguyên dụng Tam Bích nhập trung
cung nghịch hành.
2, Mở cửa phương Khôn xuất thủy, Hạ nguyên Lục Bạch là Chính thần, xuất thủy phản
cục, phá tài, nhưng Địa vận Nhị Hắc hợp cục, cho nên nữ nắm quyền, không dễ tụ tài.
3, Phương phục ngâm, làm việc, dễ có chuyện bất thuận phát sinh tâm sự. Như: Công
nhân bất hòa, khẩu thiệt thị phi.
4, Nơi ở phương Cấn, Ai tinh Cửu Tử thì hợp cục, chủ nữ nắm quyền.
5, Phân xưởng ở Trung cung Ai tinh Tam Bích không hợp cục, bởi vì Hạ nguyên Tam bích
là Linh thần, Phân xưởng nên dụng vượng tinh hoặc là Nhất, Lục, Bát 3 cát tinh mới
được. Không hợp cục thì công nhân bị thụ thương, bởi vì Tam Bích ở vận 7 là đối đầu với
Sát, ứng năm phùng Thất Xích nhập trung cung, ở trong vận 8, Bát Bạch nhập trung
cung là tổn thương người, vận 7 nữ dễ tổn thương, vận 8 là nam.
6, Nhà kho ở phương Khảm, bình, bởi vì nhà kho dụng Suy tinh là được, nhưng Hạ
nguyên Vượng tinh Thất Xích đến Khảm, kim sinh thủy không ngại.
7, Táo ở phương Càn, Ai tinh Nhị Hắc, Nhị Hắc ở Hạ nguyên là Linh thần, táo tọa nên
thiết lập ở vị trí Chính thần, cho nên không hợp cục dễ có chuyện tật bệnh, quan ti phát
sinh.
Chỗ đoán việc ở bên trên đều ứng, về sau trải qua bố cục điều chỉnh lại, đi vào tốt đẹp,
mỗi tháng doanh lợi thu vào thập vạn nguyên.ơng nữ đinh, thương tai, khẩu thiệt. Nữ
phạm đào hoa, bệnh phổi, đau bao tử.

VD 3: Một cửa hàng chuyên mua bán hàng trang phục hưng vượng và phát đạt bởi do
mở cửa hiệu ở năm 2001, thuộc Hạ nguyên vận 7 sơn Tý hướng Ngọ, mở cửa chữ Nhất
(一), đến nay làm ăn hưng vượng mở them mấy chi nhánh, thử phân tích ở dưới: Căn cứ
theo cục Hạ nguyên vận 7 sơn Tý hướng Ngọ, Tam Bích là Bản Sơn tinh, Hạ nguyên Tam
Bích dụng ai tinh nhập trung cung nghịch hành.
Sơ Đồ như sau ——

4 8 6

5 3 1

9 7 2
Các bạn giải thích tại sao phát giàu?

1. Phân biệt giữa 《 Đại Huyền Không bí


thuật 》 cùng 《 Thẩm Thị Huyền Không học 》

1, Hiện nay sách nói về Địa học, chất chồng như núi, đen
trắng khó phân. Như Quyết Ai tinh của Khương Nhữ Cao
nói: "Tý Quý cùng Giáp Thân, Tham Lang nhất lộ hành"
cũng không phải là chính quyết. Thanh Thẩm Trúc là từ
trong chương Trọng Sơn nói《 Âm Dương nhị trạch lục
nghiệm 》, lấy trí tuệ giải ngộ ra 《 Thẩm thị Huyền Không
Học 》(Tức là Huyền Không phi tinh pháp), trên tập quán
xưng là Tiểu Huyền Không. Bí thuật Đại Huyền Không chân
chính đến hiện nay chưa bao giờ công khai qua, trên thị
trường có sách Quan Đại Huyền Không, đều không phải là
của họ Tưởng chân truyền. Thế văn《 Đại Huyền Không 》,
sẽ khiến cho Kham Dư yêu thích mà cảm nhận đến Tiểu
Huyền Không (Tức là Thẩm thị Huyền Không học) cùng Đại
Huyền Không ở trên trình tự thao tác cùng giá trị thực
dụng khác nhau một trời một vực. Ở trên trình tự thao tác,
Thẩm thị Tiểu Huyền Không phải khởi 3 bàn: Một là Vận
Tinh bàn, hai là Sơn Tinh bàn, ba là Hướng Tinh bàn, lại có
khởi tinh Hạ quái cùng Thế quái khác nhau, thập phần
phức tạp, nói gạt học giả. Còn Đại Huyền Không hết sức
giản tiện dễ học, bất luận ai thuận hoặc là phi nghịch, đều
là một bàn là thành, đại đạo chí giản, phương tiện chuyên
làm.
2, Thẩm thị Huyền Không ở lúc quan trắc tất phải cần làm
rõ một sơn một hướng kiêm mấy độ, trong mấy độ thì
dung Hạ quái, ngoài mấy độ thì dung Thế tinh. Vậy ở lúc
quan trắc mộ cũ thì sẽ xuất hiện vấn đề, bởi vì mộ cũ ai
cũng không có cách nào phân biện rõ là kiêm bao nhiêu độ,
không có khả năng đem đào ra xem chứ! Chưa nói tới kiêm
tọa hướng mấy độ, càng không cần nói Quyết khởi tinh vốn
là ngụy quyết, lúc đang dụng bí thuật Đại Huyền Không
khám trắc âm dương trạch, lúc mộ cũ mới óng ánh, những
vấn đề này đều là không tồn tại.
3, Ở phương diện đảo điên thuận nghịch, Thẩm thị Huyền
Không là lấy Vận tinh làm Tinh lập cực, điên đảo thuận
nghịch hoàn toàn là lấy trên địa bàn sơn hướng quái vị
Thiên Địa Nhân hắc hồng âm dương làm căn cứ, để quyết
định pháp phi Tinh ở sơn bàn cùng hướng bàn thuận
nghịch. Đại Huyền Không mượn Thượng Hạ nguyên vận
khác nhau, đem Cửu tinh phân ra âm dương, dương thuận
âm nghịch tức là Dương nhất lộ, Âm nhất lộ. Mà Dương
trạch nhập trung cung lập cực lấy Bản Sơn tinh, Âm trạch
nhập trung cung lập cực là lấy Phụ Mẫu tinh, hợp theo
nguyên vận mà điên đảo điên. Do vậy có thể thấy, 《Bí
thuật Đại Huyền Không 》 cùng 《 Thẩm thị Huyền Không
học 》 ở phương diện lý luận Ai tinh điên đảo thuận nghịch
tồn tại bản chất khác nhau, cũng không khó nhìn ra Thẩm
thị Tiểu Huyền Không căn cứ âm dương thuận nghịch cũng
là một loại ngụy pháp ngốc quyết, ứng dụng thực tế, sai
lầm mà hại mình, dụng không phát hoặc phát sinh hung
họa, chỗ nói đại pháp chẳng qua là như vậy. Thảo nào
Chung Nghĩa Minh tiên sinh cũng cho rằng: "Ứng dụng
thực tế nghiệm cố hữu, dụng mà không phát, thậm chí là
phát hung họa, cũng không phải là thiểu sổ" .
4, Mặc dù Tiểu Huyền Không ở trên nguyên lý Phi tinh là có
khuyết hãm thực chất, nhưng ở phương diện khác, chỗ nó
nhấn mạnh "Chính thần chính vị trang, bát thủy nhập Linh
đường" là một pháp tắc Hợp cục, cùng tối kỵ "Thượng sơn
hạ thủy cục" (Sơn Long hạ thủy, Thủy Long thượng sơn), ở
trên một điểm này cùng nguyên tắc Ai tinh Đại Huyền
Không nhấn mạnh hoàn toàn nhất trí. Ở trong quá trình
ứng dụng lý luận Tiểu Huyền Không, thủy chung đều có thể
nắm chắc được Lý khí Huyền Không là một tinh thần thực
chất, là hết sức đáng quý.
Bên trên là pháp làm so sánh vắn tắt đối với Thẩm thị
Huyền Không cùng Đại Huyền Không, nói lên điểm khác
nhau của cả hai, mục đích là khiến cho học giả mới học có
đủ khởi cảm tính nhận thức ở trong quá trình kiến lập đối
với Đại Huyền Không mà so sánh, đối với sau này học tập
khởi đến tác dụng tích cực.
Nhược năng liễu đạt Âm Dương lý,
Thiên Địa đô lai nhất tưởng trung.

Trả lời kèm Trích dẫn

2. Cảm ơn bởi:

Khanh
3. 14-10-17, 05:33#22
lesoi

Ban quản trị

Ngày tham gia


May 2012
Bài viết
5,723
Đưa VD để thuyết minh: Một xưởng chế biến dược phẩm có sơn Tý hướng Ngọ, thuỷ
đến từ phương Cấn, thủy xuất ra ở Khôn, mời người dùng Thẩm thị để bố cục, mở cửa
chính ở Khôn, nhà làm việc ở Tốn, nhà xưởng ở Khảm. Theo Thẩm thị lý luận ở vận 7, 8
ứng đại phát, tình huống thực tế là gặp quan tai phá tài, thương người kiện tụng liên
miên, sau đó dung Đại Huyền Không bố cục, khiến cho hình thế thay đổi rõ ràng, có triển
vọng.

Ai tinh đồ 《 Thẩm thị Huyền Không học 》:

4-1 8-6 5-8


Lục Nhị Tứ

5-9 3-2 1-4


Ngũ Thất Cửu

9-5 7-7 2-3


Nhất Tam Bát

Ai tinh đồ 《 Đại Huyền Không 》:

4 8 6

5 3 1

9 7 2

Phân tích:
1, Bàn Thẩm thị: Mở cửa Bát Bạch, kim cư Cấn vị, phú sánh Đào Chu; sơn tinh Thất
Xích, tọa lâm Vượng tinh, nơi nhà xưởng, nhất lục thất cùng dụng, ứng vận 7,8 đại phát,
tại sao vận 7,8 phá tài liên miên, chỉ vì Thẩm thị không phải là chân quyết vậy.
2, Bàn Đại Huyền Không: Thủy xuất ở Khôn là lâm Chính thần, Càn là lĩnh đạo, cho
nên lĩnh đạo gặp nhiều đau khổ. Vốn là nơi phòng làm việc ở phương Tốn, Tứ Lục phùng
năm Tứ Lục gia lâm là Phục ngâm, Phục ngâm chủ tư duy phản phục, không có lực thi
thố tài năng. Năm 2004 là Nhị Hắc, Thái Tuế lại lâm thủy khẩu, cho nên là phá tài quan
ti.
Dụng Đại Huyền Không điều chỉnh cửa sau đổi thành chính nam 8, phòng làm việc dời
đến khu vực nhà xưởng phương đông bắc. Phân tích: Cửa mở chính nam, Bát Bạch lâm
đến, miệng cửa chính có địa thế hơi cao là hợp cục, chính tây cùng tây bắc đều thấp,
Linh thần Tài thần đắc vị; phòng làm việc ở đông bắc, tọa phương lâm sinh khí, cho nên
chủ quyết sách lĩnh đạo đắc lực, hiệu ích xí nghiệp đi vào tuần hoàn tốt đẹp, từ suy mà
chuyển thịnh.

Bí đồ Ai tinh Nhị thập tứ sơn Dương trạch


Chân quyết Ai tinh Nhị thập tứ Sơn tọa sơn
(Bản Sơn tinh 1, 2, 3, 4 Thượng thuận Hạ nghịch, 6, 7, 8, 9 Hạ thuận Thượng nghịch).

Bí đồ Nhất Bạch Ai tinh


Sơn Giáp hướng Canh · Sơn Quý hướng Đinh · sơn Thân hướng Dần.
Giáp Quý Thân, Tham Lang nhất lộ hành; Nhất Bạch là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên
dụng Nhất Bạch nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Nhất Bạch nhập trung cung
nghịch hành.
Thượng nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 9 Cửu Nhị 7


5

Tam Ngũ Thất


8 1 3

Bát 4 Nhất Lục


6 2

Hạ nguyên ai tinh nghịch hành


Tứ 2 Cửu Nhị 4
6

Tam Ngũ Thất


3 1 8

Bát 7 Nhất Lục


5 9
Bí đồ Ai tinh Nhị Hắc
Sơn Khôn hướng Cấn · sơn Nhâm hướng Bính · sơn Ất hướng Tân.
Khôn Nhâm Ất, Cự Môn tòng đầu xuất; Nhị Hắc là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng
Nhị Hắc nhập trung cung thuận hành, Hạ Nguyên Nhị Hắc nhập trung cung Nghịch hành.
Thượng nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 1 Cửu Nhị 8


6

Tam Ngũ Thất


9 2 4

Bát 5 Nhất Lục


7 3
Hạ nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 3 Cửu Nhị 5


7

Tam Ngũ Thất


4 2 9

Bát 8 Nhất Lục


6 1

Bí đồ Ai tinh Tam Bích


Sơn Tý hướng Ngọ · sơn Mão hướng Dậu · sơn Mùi hướng Sửu.
Tý Mão Mùi, Tam Bích Lộc Tồn đáo; Tam Bích là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng Tam
Bích nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tam Bích nhập trung cung nghịch hành.
Thượng nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 2 Cửu Nhị 9


7

Tam Ngũ Thất


1 3 5

Bát 6 Nhất Lục


8 4
Hạ nguyên ai tinh nghịch hành
Tứ 4 Cửu Nhị 6
8

Tam Ngũ Thất


5 3 1

Bát 9 Nhất Lục


7 2
Bí đồ Ai tinh Tứ Lục
Sơn Tuất hướng Thìn · sơn Càn hướng Tốn · sơn Tị hướng Hợi.
Tuất Càn Tị, Tứ Lục Văn Khúc chiếu; Tứ Lục là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng Tứ
Lục nhập trung cung thuận hành, Hạ nguyên Tứ Lục nhập trung cung nghịch hành.
Thượng nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 3 Cửu Nhị 1


8

Tam Ngũ Thất


2 4 6

Bát 7 Nhất Lục


9 5
Hạ nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 5 Cửu Nhị 7


9

Tam Ngũ Thất


6 4 2

Bát 1 Nhất Lục


8 3

Bí đồ Ai tinh Lục Bạch


Sơn Thìn hướng Tuất · sơn Tốn hướng Càn· sơn Hợi hướng Tị.
Thìn Tốn Hợi, Lục Bạch Vũ Khúc vị; Lục Bạch là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng Lục
Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên dụng Lục Bạch nhập trung cung thuận
hành.
Thượng nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 7 Cửu Nhị 9


2

Tam Ngũ Thất


8 6 4

Bát 3 Nhất Lục


1 5
Hạ nguyên ai tinh thuận hành
Tứ 5 Cửu Nhị 3
1

Tam Ngũ Thất


4 6 8

Bát 9 Nhất Lục


2 7

Bí đồ Ai tinh Thất Xích


Sơn Cấn hướng Khôn · sơn Bính hướng Nhâm · sơn Tân hướng Ất.
Cấn Bính Tân, Thất Xích thị Phá Quân; Thất Xích là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng
Thất Xích nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Thất Xích nhập trung cung thuận
hành.
Thượng nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 8 Cửu Nhị 1


3

Tam Ngũ Thất


9 7 5

Bát 4 Nhất Lục


2 6
Hạ nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 6 Cửu Nhị 4


2

Tam Ngũ Thất


5 7 9

Bát 1 Nhất Lục


3 8

Bí đồ Ai tinh Bát Bạch


Sơn Dần hướng Thân · sơn Canh hướng Giáp · sơn Đinh hướng Quý
Dần Canh Đinh, Bát Bạch Tả Phụ ứng; Bát Bạchà Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng Bát
Bạch nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Bát Bạch nhập trung cung thuận hành.
Thượng nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 9 Cửu Nhị 2


4

Tam Ngũ Thất


1 8 6

Bát 5 Nhất Lục


3 7
Hạ nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 7 Cửu Nhị 5


3

Tam Ngũ Thất


6 8 1

Bát 2 Nhất Lục


4 9
Bí đồ Ai tinh Cửu Tử
Sơn Ngọ hướng Tý· sơn Dậu hướng Mão · sơn Sửu hướng Mùi.
Ngọ Dậu Sửu, Cửu Tử Hữu Bật tinh. Cửu Tử là Bản Sơn tinh, Thượng nguyên dụng Cửu
Tử nhập trung cung nghịch hành. Hạ nguyên Cửu Tử nhập trung cung thuận hành.
Thượng nguyên ai tinh nghịch hành

Tứ 1 Cửu Nhị 3


5

Tam Ngũ Thất


2 9 7

Bát 6 Nhất Lục


4 8
Hạ nguyên ai tinh thuận hành

Tứ 8 Cửu Nhị 6


4

Tam Ngũ Thất


7 9 2

Bát 3 Nhất Lục


5 1

Dương Trạch Loan Đầu thuật yếu

(1) Địa hình, Thể Trạch, Khí Trạch, Tường thành.


□ Địa hình: Địa hình là chỉ hình trạng khối đất chỗ ở Dương trạch. Địa hình Dương trạch
nên chỉnh tề, kỵ nhô lên sừng nhọn hình tam giác.
□ Thể Trạch: Còn gọi là Tướng Trạch, thể trạch phải là hình bàn cờ ngay ngắn, lại có đủ
độ sâu mới có thể tụ khí, nếu vai rộng mà cạn, thì khí tán vô lực.
□ Khí Trạch: Là chỉ sinh khí ở trong chỗ ở. Có mọi hình bên trong, tất có mọi hình bên
ngoài. Khí Trạch đều tốt, thì có thể che chở người ở trong nhà. Xung quanh Trạch có cây
cỏ xanh tốt, chất đất trơn bòng, thì khí trạch vượng. Nếu cây cối khô héo, chất đất khô
táo thì khí trạch suy.
□ Tường thành: Chỗ ở vùng nông thôn, xung quanh trống không rộng rãi, tường thành có
thể khiến cho khí tụ ở nơi chỗ ở. Lúc chỗ ở bên ngoài có góc phòng, nóc nhà bắn thẳng
tới, thì tường thành có thể khiến cho hung tai giảm nhẹ. Tường thành nói chung nên
ngay ngắn là tốt, kỵ trước sau rộng hẹp không đồng đều. Phía trước rộng phía sau nhọn
hẹp gọi là "Hỏa tinh kéo đuôi", chủ tre cổ. Truước nhọn sau rộng gọi là "Thoái điền bút",
chủ nhân tài thoái bại. Xung quanh bức tường nên đóng chặt, không nên khuyết hãm, sợ
có tà ma theo gió nhập vào, ở phương Cấn Dần càng nặng, rước hoạ quan phi bệnh tai.
(2) Hung sát Dương trạch (Nhân tố bất lợi bên ngoài)
□ Hung sát hình thành từ nhà bên cạnh:
① Xem sơn quản vật kiến trúc cao hơn so với nhà mình. Hình trạng xinh đẹp, cảm giác
thư thích, mà hơi xa một chút là được, nếu gần kề áp bức thì là hung sát. Đúng như
Tưởng Đại Hồng trong《 Thiên Nguyên Ca · Đệ tứ 》 có nói: "Trước Trạch cận bức có kỳ
phong, bất phân suy vượng cũng thành hung. Ngẩng đầu gang tấc nguy nga khởi, Thái
sơn áp đảo nào có công." Ở Lý khí ai tinh phương suy có sơn phong, lầu cao gần ép, là
phạm "Thủy Long thượng sơn". Ở phương vượng vó sơn phong, lầu cao áp bức, thì tắc
nghẽn khí vượng.
② Trước Trạch đường khí nên rộng rãi, nếu có nóc nhà, góc tường, tường thẳng đứng,
ống khí cùng vật kiến trúc góạnh ăắn tớiạ, phùng Thái Tuế, Ngũ Hoàng phi tới, tất phát
hung tai.
□ Thủy ở ngoài Trạch ( nơi ở) hình thành hung sát:
Thủy thích uốn khúc từ phương xa êm ái mà đến, mà còn ôm bọc bên trong, thủy xung
quanh Trạch thích về đến một chỗ mà ra. Nếu thủy bắn thẳng, phản cung, chữ bát (八)
phân chia thủy, trước mặt có song rộng to lớn, nước chảy xiết có âm thanh, đều thuộc
hung sát. Lúc Thái Tuế phi đến xông bắn, nơi phản cun, phát hung họa là không nghi
ngờ.
Xung quanh Trạch có góc ruộng xông bắn tới, hoặc có ao lõm nhọn bắn tới, đều thuộc về
loại hung sát, cũng là điểm quan sát đoán cát hung Dương trạch.

Đường lộ bên ngoài Trạch hình thành Hung sát:


Đường lộ bên ngoài Trạch, hướng thẳng làm khí đến, đường bang ngang làm khí dừng,
ẩn dụ làm giới thủy, đường nên uốn lượn ôm quanh Trạch. Lộ hung sát có mấy loại như
sau:
① Xung bắn: Trước xung sau xung đều hung, ở phía trước là gươm sang (đâm phía
trước), ở phía sau gọi là ám tiễn (đâm sau lưng), dẫn đến yểu vong.
② Phản cung: Hướng Lộ phía bên ngoài cong ra gọi là Phản cung, thủy lộ phản cung rất
hại người, hình trạng bên ngoài trạch bất luận ở phương vị lộ trình phản cung nào, đều là
dẫn đến tai hoạ hung sát.
③ Tiễn Đao sát: Lộ thẳng xung đến, từ trước trạch tách ra, đi qua hai bên trạch, gọi là
Tiễn Đao sát, bất luận là nguyên vận nào đều hung.
④ Trướng thổ sát: Dương trạch bên đại lộ, lộ diện nền cao hơn so với Trạch, xưng là
"Trướng thổ sát", chỗ ở mắc bệnh trong bụng.
⑤ Phong sát: Dương trạch hết sức kỵ đường hầm xung bắn dài thẳng. Đường hầm là lối
nhỏ gió đi qua, hung sát tàng ẩn ở bên trong đường nhỏ (hầm dài âm khí nặng), cho nên
Trạch sẽ hưu tù, hướng về con người mà gây tai ách (mắc bệnh tinh thần).
□ Nhịp cầu hình thành hung sát: Cầu vượt bắt cầu nên ở xa, xem như Sa, Trạch nên
ở phương vượng, chủ thúc đinh, thúc quý. Cầu Tiên xuất ra thánh hiền. Cầu vượt ở gần,
xưng là "Bức áp Sát", dẫn đến nhiều tai họa. Thân cầu thấp làm Án sơn, Đạo lộ. Cầu
xung Trạch, xung cửa, rất dễ phát họa.
□ Tháp hình thành hung sát: Tháp nhọn là ngọn núi văn bút, nêu ở phương Tứ Lục.
Đình nghỉ mát trong nhà trường lấy "Văn bút" để xem, Tháp chuông cũng xem như núi
văn bút. Nếu Tháp ở trước Trạch, cửa mở thấy đỉnh Tháp là bất lợi. Nơi nhà lầu, lúc mở
cửa sổ thấy Tháp nhọn ở phía trước, chớ làm phòng ngũ.
□ Cây cối hình thành hung sát: Đồng ruộng rộng rãi Cục tán, trồng cây để bảo vệ sức
sống. Khe núi gió thổi mạnh, chỗ này chế ngự hàn khí. Nhưng chỉ nên ở phía sau Trạch
cùng trồng trọt ở xung quanh hai bên, trước Trạch không nên che phủ. Trước cửa có cây
đại thụ, dễ dẫn tới bệnh tật ôn dịch. Cổ nhân nói: "Trước cửa sáng tỏ không che đậy,
sau Trạch cứ nên trồng cây xanh. Bốn mùa xanh tốt hình không lộ, an cư lâu dài lộc
nghìn chung."

3, Chỗ nói ở trên đều là Lý khí, dưới đây tôi đưa ra ví dụ Lý khí phối hợp Hình
gia. Nói đến sát từ nóc nhà ——
Tưởng công nói: Chỗ này đều thuộc loại Kiệu tinh. Ở trước đây, trước đây được phân
tích phân tích Hình gia và Loan đầu. Hình gia có thể dụng ở đồng bằng, trên núi, các loại
Kiệu tinh đều có thể xưng là Hình gia, còn Loan đầu chỉ có thể xem ở vùng trên núi. Cho
nên, Dương trạch chỉ có thể xưng là Hình gia Lý Khí, không thể lấy Loan đầu mà xưng.
Tưởng Công lại nói:
Đứng thẳng lâu đài cung điện cao,
Tử Sinh Suy Vượng tra một chút,
Ai tinh đã định Linh Thần quyết,
Xem ra nắm tốt xấu gần xa,
Hồi phong Phản khí là bất biến,
Cát hung họa phúc thấy kịp thời,
Nếu còn đảo ngược tùy cơ tiện,
Cát không cát còn hung thể trốn,
Một nóc bắn đến một đại phát,
Hai gian bắn tới hai hào kiệt,
Suy cung xung khởi lật để xem,
Một nóc giống như một bả đao,
Đại ước Vượng cung danh cát diệu,
Nếu gặp Suy Tử liền ưu sầu.
Có biết nóc nhà nào có Sát,
Ứng lấy suy vượng đến phân chia.

4, Lại đưa ra một ví dụ về đường hầm xung:


Nhà in Vũ Lăng, là Phan lão sư kiểm tra sau khi lựa chọn. Ông chủ cửa tiệm người Lâm
Xuyên, đã phát tài và di dân sang Canada, đem nhà in nhượng lại cho em trai ông ta để
kinh doanh. Các bạn có thể đi xem đường hầm xung của nhà in nhà này một chút. Mà
cửa đường xe chạy, đường đi dưới hầm hoặc người đi ra vào cửa miệng, đều lấy suy
vượng luận.

5, Nói thần ở trước miếu ở sau: Trong sách chỉ nói thần trước miếu sau mà không
phải là mộ, chưa nói đến thần trước miếu sau không phải là Dương trạch.
Các vị đều biết, xung quanh miếu đều là náo nhiệt, đương nhiên không thích hợp làm
mộ. Sao ở trong sách đều nói, người xung quanh chỗ ở đa số đều ue3 oải lười nhác,
thuyết này là nói không có căn cứ.

6, Cửa đối Cửa: Chỗ nói trong sách, cửa đối cửa giống như hai người kê miệng cải
nhau, cho nên bất lợi, nhưng nói ngược lại, cũng có thể nói là cửa đối cửa giống như
miệng đối miệng là đại biểu thân mật... Cho nên, chỗ này đều là thuyết pháp không có
căn cứ. Rất nhiều loại như vậy, trong sách có rất nhiều vấn đề cát hung, đều có dùng
"Thường thức" giải thích, không phải nói Địa lý.

7, Nói đến "Địa phạm Linh sát", "Cô Âm sát": Ở lúc Trần Thủy Biển còn chưa phá
Lâm Sâm bắc lộ, nguyên là xứ nghĩa trang của người Nhật Bản, người quỷ sống lẫn tạp,
còn chưa phải là rất tốt; Nơi Tây Môn trước đây cũng là nghĩa trang, cũng chỉ vì nhà cao
ốc, đào bới đất nền, thường đào ra xương người, có từng phạm qua Sát này không?
Trong sách còn bày ra rất nhiều loại Sát, chỉ có thể nói là không có căn cứ! Vì chưa từng
khảo chứng cùng nghiệm chứng.
Luận Cửu tinh
Hợp Cục cùng Phản Cục được mất
Cửu tinh: Là Nhất Bạch, Nhị Hắc, Tam Bích, Tứ Lục, Ngũ Hoàng, Lục Bạch, Thất Xích,
Bát Bạch, Cửu Tử vậy.
Cửu tinh là đại biểu nguyên vận, là thể hiện Sơn tinh. Cửu tinh có tượng Bát Quái, phân
ra ngũ hành, phân biệt luận thuật như sau:
(1) Cửu tinh
◇ Nhất Bạch là sao Thiên Bồng Tham Lang, ở trên cùng Thiên Xu đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Nhất cung trong Lạc thư. Đắc lệnh thì Trung nam làm giàu, xuất người
thông minh, hành nghề thuyền cá y dược là hưng lợi. Thất lệnh chủ Trung nam đoản thọ,
đàn ông bệnh di tinh, đàn bà bệnh huyết bạch, cũng chủ bệnh về tai thận, hoạ eo lưng bị
cong.
◇ Nhị Hắc là sao Thiên Nhuế Cự Môn, ở trên Thiên Tuyền đồng cung Bắc Đẩu, ở dưới
ứng với Nhị cung trong Lạc Thư. Đắc lệnh thì lão mẫu lập nghiệp, điền thổ hưng vượng,
xuất ra y sinh. Thất lệnh thì Lão mẫu chết trước, lại xuất ra đạo cô, tranh giành hương
nông, mà còn chủ lao ngục khẩu thiệt thị phi, bệnh tật tỳ vị, đau bụng phù thũng.
◇ Tam Bích là sao Thiên Xung Lộc Tồn, ở trên cùng với Thiên Ki đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Tam cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì trưởng nam hưng gia, xuất ra người làm kỹ
xảo điêu khắc. Thất lệnh thì trưởng nam yểu trước, hoặc là mắc bệnh gan mật chân
cẳng.
◇ Tứ Lục là sao Thiên Phụ Văn Khúc, ở trên cùng với Thiên Quyền đồng cung Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Tứ cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì gia đình hòa thuận, phụ nữ quả lý gia đình,
nghề mộc nghề xe nhận lợi. Thất lệnh thì phụ nữ dâm loạn, chân tay bại liệt, cùng bệnh
gan mật, ấm ức.
◇ Ngũ Hoàng là sao Thiên Cầm Liêm Trinh, ở trên cùng với Ngọc Hành đồng cung Bắc
Đẩu, ở dưới ứng với Trung cung trong Lạc Thư. Đắc lệnh thì trưởng nam lập nghiệp, tài
bạch hưng vượng, dễ được tài bất ngờ. Thất lệnh thì trưởng nam yểu trước, trong nhà
xảy ra chuyện khẩu thiệt thị phi, cũng chủ mắc bệnh tỳ hư phù thũng, tiêu hóa không
tốt.
◇ Lục Bạch là sao Thiên Tâm Vũ Khúc, ở trên cùng với Khai Dương đồng cung Bắc Đẩu,
ở dưới ứng với Lục cung Lạc Thư. Đắc lệnh thì Lão phụ cao thọ mà còn quan lý nhà cửa,
đa số là chủ phát tài loại đá quý vàng bạc. Thất lệnh thì Lão phụ chết trước, trong nhà
đa số bởi vì bị chén ép mà sinh kiện tụng, hoặc là có chứng bệnh đau đầu hoa mắt.
◇ Thất Xích là sao Thiên Trụ Phá Quân, ở trên cùng với Dao Quang đồng vị Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Thất cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì thiếu nữ hiển quý, xuất ra người thông
minh giỏi biện luận, làm ăn mua bán sắt thép có lợi. Thất lệnh thì thiếu nữ bị tai hoạ, dễ
gặp cướp của phá tài, nhiều khẩu thiệt thị phi, sinh chuyện yêu tà quái sự, bệnh rang
miệng.
◇ Bát Bạch là sao Thiên Nhâm Tả Phụ, ở trên cùng vị với Khai Dương bên cạnh sao Bắc
Đẩu, ở dưới ứng với Bát cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì chủ nam nữ thông minh, làm giàu
nghề đất đá. Thất lệnh thì gia đình thoái bại, con cháu bất hiếu, đa số mắc bệnh mũi
lưng, chân tay cong quặp cùng khí huyết ứ đọng.
◇ Cửu Tử là sao Thiên Anh Hữu Bật, ở trên cùng với Khai Dương bên cạnh Bắc Đẩu, ở
dưới ứng với Cửu cung ở Lạc Thư. Đắc lệnh thì trung nữ hiển quý, làm giàu cây thuốc lá.
Thất lệnh đa số chủ hỏa tai, phong nhiệt bệnh mắt, trung nữ thì bất lợi.
Chú thích: "Đắc lệnh" là chỉ Đắc vận cùng Hợp cục, "Thất lệnh" là chỉ Thất vận cùng
Phản cục.

(2) Cửu tinh phối Quái


+ Nhất Bạch phối quẻ Khảm: Khảm là trung nam, là thận tạng, là lỗ tai, tượng con Heo,
số sao là 1,7.
+ Nhị Hắc phối quẻ Khôn: Khôn là Lão mẫu, là tỳ tạng, bụng, tượng Trâu bò, số sao là
2,1.
+ Tam Bích phối quẻ Chấn: Chấn là trưởng nam, là gan tạng, chân, tượng con Rồng, số
sao là 3,8.
+ Tứ Lục phối quẻ Tốn: Tốn là trưởng nữ, là phủ mật, bắp đùi, tượng con Gà, số sao là
4,2.
+ Lục Bạch phối quẻ Càn: Càn là Lão phụ, là tạng phổi, đầu, tượng con Ngựa, số sao là
6,9.
+ Thất Xích phối quẻ Đoài: Đoài là thiếu nữ, là phổi, miệng, tượng con Dê, số sao là 7,
4.
+ Bát Bạch phối quẻ Cấn: Cấn là thiếu nam, dạ dày, lưng, tượng con Chó, số sao là 8, 6.
+ Cửu Tử phối quẻ Ly: Ly là trung nữ, tim, mắt, tượng con chim Trĩ, số sao là 9, 3.

(3) Ngũ hành Cửu tinh


Nhất Bạch Tham Lang: Thủy, Nhị Hắc Cự Môn: Thổ, Tam Bích Lộc Tồn: Mộc, Tứ Lục Văn
Khúc: Mộc, Ngũ Hoàng Liêm Trinh: Hỏa, Lục Bạch Vũ Khúc: kim, Thất Xích Phá Quân:
Kim, Bát Bạch Tả Phụ: Thổ, Cửu Tử Hữu Bật: Hỏa.

(4) Cửu tinh cát hung


Thế nhân luôn luôn lấy Tam Bạch Cửu Tử là cát, Hắc Lục là hung, hoàn toàn không biết
thời đó chỉ có nói đến quý mà thôi! Hắc Lục đương thời, tuy là hung tinh mà hiển quý. Tử
Bạch không đương thời, tuy là Cát tinh hung cũng bại.
Kinh nói:
Muốn biết lý Cửu tinh cát hung,
Xem kĩ đại vận phương triệt huyền,
Ngũ Hoàng là sát ai dám phạm, đương vận thì sao? Bản thân ai tinh Tọa sơn Cửu tinh
cũng không có phân ra cát hung, kết quả cát hung hoàn toàn là căn cứ ở Hợp cục (Chính
Thần chính vị trang, bát Thủy nhập Linh đường) Phản cục (Thượng sơn Hạ thủy) mà
định. Nếu không rõ sao Cửu tinh cát hung, sao dám vọng ngôn nói họa phúc chứ!

Biểu đồ thiên cơ Đại Huyền Không Thủy pháp


-----------------------------------------------
★ Thượng Nguyên 1, 2, 3, 4
-----------------------------------------------

Nguyên Vị trí Chính thần Vị trí Linh Chiếu


vận thần thần

Tinh nắm Chính Linh thần thúc


lệnh Linh thần

Nhất vận Nhất Bạch Cửu Tử Lục


Bạch

Nhị vận Nhị Hắc Bát Bạch Thất


Xích

Tam vận Tam Bích Thất Xích Bát


Bạch

Tứ vận Tứ Lục Lục Bạch Cửu Tử


Ngũ vận Ngũ Hoàng 10 năm Lục Bạch Cửu Tử
trước Tứ Lục

-----------------------------------------------
★ Hạ nguyên 6, 7, 8, 9
-----------------------------------------------

Nguyên Vị trí Chính thần Vị trí Linh


vận thần

Tinh nắm Chính Linh thần thúc


lệnh Linh thần

Ngũ vận Ngũ Hoàng 10 năm Tứ Lục Nhất


sau Lục Bạch Bạch

Lục vận Lục Bạch Cửu Tử Lục


Bạch

Thất vận Thất Xích Tam Bích Nhị


Hắc

Bát vận Bát Bạch Nhị Hắc Tam


Bích

Cửu vận Cửu Tử Nhất Bạch Tứ Lục


-----------------------------------------------
Chân giải: Căn cứ Nguyên vận là Đế quân, Cửu tinh đương vận là Lệnh tinh, là Chính
thần, thủy đến cát, là Hợp cục chính vượng. Nếu xuất thủy ở trên vị trí Chính thần, là
xung phá Lệnh tinh, trong vận tất là chủ thương đinh thoái bại. Sao vùng với Lệnh tinh
hợp 10, Chính Linh thần là mất vận, là sinh vượng thúc tài. Sao cùng với Lệnh tinh hợp
ngũ hành Hà Đồ số Sinh Thành, là thúc Linh thần, là xuất thủy thúc quan. Phàm thủy
khẩu xuất ra ở trên vị trí Linh thần đều chủ đại phát tài lộc, gia đình phú quý.

Giải thích Tam Nguyên Thượng Trung Hạ Thủy pháp


(1) Thượng nguyên:
+ 20 năm Giáp Tý đền Giáp Tuất: Nhất Bạch là sao thống soái, Lục Bạch thúc quan, Cửu
Tử sinh vượng. trong 20 năm này, thuỷ đến phương Nhất Bạch, xuất thủy ở trên Lục
Bạch Cửu Tử, là Hợp Cục chính vượng. Nếu ở trên Nhất Bạch, là xung phá Lệnh tinh,
trong vận Nhất Bạch sẽ tổn đinh bại tài.
+ 20 năm Giáp Thân đến Giáp Ngọ: Nhị Hắc làm chủ Lệnh tinh, Thất Xích thúc quan, Bát
Bạch là sinh vượng. Phàm Thủy khẩu xuất ra ở trên Thất Xích Bát Bạch là đại phát tài
lộc. Thủy Khẩu xuất ra ở trên Nhị Hắc là xung phá Lệnh tinh, trong vận Nhị Hắc chủ tổn
đinh thoái bại.
+ 20 năm Giáp Thìn đến Giáp Dần: Tam Bích làm chủ Lệnh tinh, xuất thủy ở trên Thất
Xích là thuỷ sinh vượng, xuất thủy ở trên Bát Bạch là thuỷ thúc quan, đều chủ đại phát.
Xuất thủy ở trên Tam Bích, xung phá Lệnh tinh tất chủ gia bại.
(2) Trung nguyên:
+ 20 năm Giáp Tý đến Giáp Tuất: Tứ Lục làm chủ Lệnh tinh, xuất thủy phương Lục Bạch
là sinh vượng, xuất thủy trên Cửu Tử là thúc quan, xuất thủy trên Tứ Lục chủ đại bại.
+ 20 năm Giáp Thân đến Giáp Ngọ: Ngũ Hoàng là chủ Lệnh tinh. 10 năm Giáp Thân
thuộc Tứ Lục cai quản, 10 năm Giáp Ngọ thuộc Lục Bạch cai quản. Phương Ngũ Hoàng ở
vận Tứ Lục cũng không thể xuất thủy, chỉ có thể mời thuỷ đến phương Ngũ Hoàng. 10
năm Giáp Ngọ lấy Lục Bạch làm chủ Lệnh tinh, thuỷ đến trên Lục Bạch là cát, phương
Lục Ngũ xuất thủy cũng chủ suy bại.
+ 20 năm Giáp Thìn đến Giáp Dần: Lục Bạch làm chủ Lệnh tinh, thuỷ đến trên Lục Bạch
là cát, xuất thủy trên Tứ Nhất gia đình phú quý.

(3) Hạ nguyên:
+ 20 năm từ Giáp Tý đến Giáp Tuất: Thất Xích tinh giữ lệnh, thuỷ đến trên Thất Xích là
tốt, xuất thủy trên Thất Xích là đại bại. Xuất thủy phương Nhị Hắc là thúc quan, xuất
thủy trên Tam Bích là sinh vượng.
+ 20 năm từ Giáp Thân đến Giáp Ngọ: Bát Bạch tinh nắm lệnh, xuất thủy trên Tam Bích
là thúc quan, xuất thủy trên Nhị Hắc là thúc tài. Kỵ xuất thủy trên Bát Bạch, thuỷ đến
phương Bát Bạch cuộn quanh Đường xuất ra ở trên Nhị Tam là cát.
+ 20 năm từ Giáp Thìn đến Giáp Dần: Cửu Tử nắm lệnh, thuỷ trên Tứ Nhất là thúc
vượng, nên là xuất thủy khẩu, thủy nên đến phương Cửu Tử cuộn quanh Đường. Kỵ Cửu
Tử xuất thủy, như xung phá Lệnh tinh thì tang đinh.

Quan hệ giữa Ai tinh và Vận Thủy khẩu

Coi trọng là quan hệ giữa Ai tinh và Vận ở Thủy khẩu xuất ra, là phương pháp tư duy độc
đặc của Đại Huyền Không. Căn cơ Huyền Không ở trong Hà Đồ là mối quan hệ giữa
"Cộng tông, Đồng đạo" cùng "Hợp thập" ở Lạc Thư, chính là chỉ ra mối liên hệ giữa Ai
tinh và Vận của Thủy khẩu.
Như Ai tinh của Nhị trạch Thủy khẩu lúc xuất ra là Nhị Hắc (Linh thần), bắt đầu khoảng
20 năm từ năm 1984 đến năm 2003 là chủ danh khí, tức là Nhị Hắc tinh cùng vận 7 cấu
thành quan hệ "Nhị Thất cộng đạo" (2-7 là Đồng đạo, theo Hà Đồ).
Ai tinh Thủy khẩu là Tam Bích, ở giữa 20 năm từ 1984 đến 2003, Tam Bích tinh cùng vận
7 cấu thành quan hệ "Tam Thất hợp Thập" (3+7=10), thì ở trong vận 7 chủ tài vượng.
Đương nhiên cũng phải phối hợp với hình thế Loan đầu để phân tích, trên hướng có núi
đẹp hoặc có dạng lông mày cong đẹp, hình mắt cung Án sơn, đoán có chuyện thăng
quan hoặc có thanh danh, hoặc xuất ra đại học sinh là càng nghiệm.
Lúc xuất thủy khẩu cong uốn khúc mà đi hoặc là cửa Thủy khẩu cản lại có tình, trước
Minh Đường không nghiêng xuống quá thấp, nước quy về một chỗ mà đi ra, đoán vận 7
tiền tài rất tốt cũng hết sức chuẩn xác. Ở trong vận 7, thủy khẩu đi tuy Linh thần không
phải là thúc quan (Nhị Hắc) cùng thúc tài (Tam Bích), nhưng chỉ cần là Linh thần, tài vận
đều sẽ không quá kém.
Phép phân tích loại Tinh và Vận này ở Thủy khẩu, là con đường thường dung của Đại
Huyền Không, giả như một đất nào đó mà Địa vận có dài hơn, là chỉ có thể vượng 90
năm (Một Nguyên là 90 năm) hoặc là 180 năm đều là bất bại (Đất Tam Nguyên bất bại),
cũng là dung vận để phán đoán, Tam Hợp phái Lý khí không kết hợp Nguyên vận, cho
nên, thì không hiểu Cục "Tam Nguyên bất bại".

Luận Chủ, Khách tinh


(1) Chủ tinh
Chủ tinh chỉ dụng quyết Ai tinh bài ra Tinh tọa sơn, Dương trạch là lấy Bản Sơn tinh, Âm
trạch là lấy Phụ Mẫu tinh. Lấy chỗ Ai tinh này đến Cửu cung ở Thượng nguyên hoặc là Hạ
nguyên trong vòng 90 năm là bất động, giống như người khách cùng chủ nhân ở đằng
sau nhà, cho nên xưng là Chủ tinh. Như: Dương trạch sơn Ngọ hướng Tý, dụng Quyết:
"Ngọ Dậu Sửu Cửu Tử Hữu Bật thủ" quyết, sơn Ngọ dụng Cửu Tử, Cửu Tử tức là Bản Sơn
tinh, nhập trung cung ai bài. Lúc ở Hạ nguyên, Cửu Tử thuộc Dương tinh, thì nhập trung
cung thuận bài, Cửu Tử cư trung cung, Nhất Bạch đến Càn, Nhị Hắc đến Đoài, Tam Bích
đến Cấn, Tứ Lục đến Ly, Ngũ Hoàng đến Khảm, Lục Bạch đến Khôn, Thất Xích đến Chấn,
Bát Bạch đến Tốn. Tinh phi đến mỗi cung ở Hạ nguyên 90 năm là bất động. Như là
Thượng nguyên Cửu Tử nhập trung cung nghịch bài, chỗ Tinh phi đến mỗi cung ở Thượng
nguyên 90 năm cũng bất động. Âm trạch chỗ Ai tinh đến mỗi cung ở Thượng nguyên
hoặc Hạ nguyên trong vòng 90 năm cũng bất động. Cửu tinh cát hung ở mỗi cung, sau
khi dụng pháp tắc Hợp cục để phán đoán, cát hung ứng ở trên người nào chuyện nào,
dụng Cửu tinh phối quẻ thì phân tích Tượng Cửu tinh là được.

(2) Khách tinh


Khách tinh giống như người khách đến và đi bất định, cho nên xưng là Khách tinh. Khách
tinh có Thái Tuế và phân ra Tử Bạch Niên Nguyệt, phân biệt luận thuật như sau:

① Thái Tuế
Thái Tuếà 12 địa chi ở trên Địa bàn, lúc một chữ địa chi cùng một chữ tương đồng ở trên
Địa bàn ở trong can chi năm đó, tức là một vị trí nào đó Thái Tuế đến trên Địa bàn. Tức
là năm Tý Thái Tuế ở Địa bàn phương chính bắc, năm Sửu và năm Dần Thái Tuế đều ở
địa bàn phương đông bắc, năm Mão Thái Tuế ở Địa bàn phương chính đông, năm Thìn và
năm Tị Thái Tuế đều ở địa bàn phương đông nam, năm Ngọ Thái Tuế ở địa bàn phương
chính nam, năm Mùi và năm Thân Thái Tuế ở địa bàn phương tây nam, năm Dậu Thái
Tuế ở địa bàn phương chính tây, năm Tuất và năm Hợi Thái Tuế ở địa bàn phương tây
bắc. Thái Tuế là chủ tể của một năm, lúc cung vị Thái Tuế gia lâm Hợp cục, thông
thường sự tượng phát sinh cát hung không rõ ràng, nếu lúc Thái Tuế gia lâm ở cửa khẩu
Thủy khẩu phản cục, nhất định sẽ có hung sự phát sinh.

② Tử Bạch tinh

+ Năm Tử Bạch tinh: Năm Tử Bạch là lấy Thống vận (Thượng nguyên 60 năm Nhất
Bạch thống vận, Trung nguyên 60 năm Tứ Lục thống vận, Hạ nguyên 60 năm Thất Xích
thống vận) để sắp xếp. Như Thượng nguyên năm Giáp Tý Nhất Bạch giữ lệnh, năm Ất
Sửu Cửu Tử giữ lệnh, năm Bính Dần Bát Bạch giữ lệnh ... Trung nguyên năm Giáp Tý Tứ
Lục giữ lệnh, năm Ất Sửu Tam Bích giữ lệnh, năm Bính Dần Nhị Hắc giữ lệnh... . Hạ
nguyên năm Giáp Tý Thất Xích giữ lệnh, năm Ất Sửu Lục Bạch giữu lệnh, năm Bính Dần
Ngũ Hoàng giữ lệnh... .
Gặp năm Tử Bạch tinh nhập trung cung đều là phi thuận, bát phương đều có một năm
Tử Bạch tinh trực ban, bởi vì Tinh ở trên mỗi một phương vị là một năm thay đổi một
lần, biến động không dừng, cho nên xưng là Khách tinh. Như năm 1984 là năm Giáp Tý
bắt đầu 60 năm Hạ nguyên, Hạ nguyên năm Giáp Tý là Thất Xích giữ lệnh tinh, thì đem
Thất Xích đặt vào Trung cung thuận bài, Bát Bạch đến Càn, Cửu Tử đến Đoài, Nhất Bạch
đến Cấn, Nhị Hắc đến Ly, Tam Bích đến Khảm, Tứ Lục đến Khôn, Ngũ Hoàng đến Chấn,
Lục Bạch đến Tốn.

+ Tháng Tử Bạch tinh: Tháng Tử Bạch tinh là từ năm suy ra mà sắp xếp, tức là tháng
giêng năm Tý Ngọ Mão Dậu Bát Bạch giữ lệnh, tháng 2 Thất Xích giữ lệnh, tháng 3 Lục
Bạch giữ lệnh...; Tháng giêng năm Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ Hoàng giữ lệnh, tháng 2 Tứ
Lục giữ lệnh, tháng 3 Tam Bích giữ lệnh...; Tháng giêng năm Dần Thân Tị Hợi Nhị Hắc
giữ lệnh, tháng 2 Nhất Bạch giữ lệnh, tháng 3 Cửu Tử giữ lệnh... .
Gặp tháng Tử Bạch tinh nhập trung cung thuận phi 8 phương, mỗi cung vị có một tháng
Tử Bạch tinh bay đi, chúng nó cứ một tháng một lần thay đổi, cho nên cũng gọi là Khách
tinh. Vẫn lấy năm 1984 để phân tích, năm 1984 là năm Giáp Tý, chi năm là Tý, căn cứ
năm Tý Ngọ Mão Dậu tháng giêng quy định là khởi Bát Bạch tinh, lấy tháng giêng làm ví
dụ để phi bài Cửu tinh, phép xếp là: Bát Bạch cư trung cung, Cửu Tử đến Càn, Nhất Bạch
đến Đoài, Nhị Hắc đến Cấn, Tam Bích đến Ly, Tứ Lục đến Khảm, Ngũ Hoàng đến Khôn,
Lục Bạch đến Chấn, Thất Xích đến Tốn.

Phương pháp phán đoán năm, tháng Tử Bạch Cửu tinh đến các cung vị, phân ra cát hung
cùng phân tích Ai tinh tọa sơn (chủ tinh) là không giống nhau. Bởi vì bản thân Cửu tinh
ai tinh tọa sơn cũng không có phân chia ra cát hung, kết quả cát hung hoàn toàn là căn
cứ Hợp cục (Chính thần chính vị trang, bát thủy nhập linh đường) và Phản cục (Thượng
sơn hạ thủy) mà định. Còn bản thân năm tháng Cửu tinh Tử Bạch đã có đủ tượng cát
hung. Như Nhị Hắc chủ bệnh, như tháng giêng năm 1984 Nhị Hắc tinh phi đến phương
Cấn, mỗi nhà Dương trạch cửa khẩu phải là vừa đúng ở cung vị Cấn, như vậy người
trong nhà ở tháng 2 năm 1984 thì sẽ có người sinh bệnh. Nếu như cửa khẩu ở phương
Ly, năm 1984 Tử Bạch Nhị Hắc phi đến cung Ly, như vậy ở trong năm này sẽ có người
mắc bệnh tai triền miên hoặc là trong một năm sẽ có nhiều người sinh bệnh tai.

Luận Tử Bạch tinh


Khưu Bình Phủ viết: "Nhiều nhà năm tháng đều sai lầm, chỉ có Tử Bạch có bằng
chứng. Cổ nhân rất hay khó khảo cứu, vận thủ toàn đồ thứ tự hành." Tử Bạch có phân ra
năm tháng, biện cát hung, vụ tất tường cứu.

(1) Ví dụ khởi năm Tử Bạch


Thượng nguyên Giáp Tý Nhất Bạch cầu,
Ất Sửu Cửu Tử dụng nghịch du.
Trung nguyên Tứ Lục hướng Tam Bích,
Hạ nguyên Thất Xích chuyển can đầu.
Chú giải: Dụng bài sơn nắm từ bản cung khởi Giáp Tý nghịch hành, xem Thái Tuế lạc
cung nào, thuộc tinh nào, tức là lấy tinh này phi nhập trung cung thuận phi.

(2) VD khởi tháng Tử Bạch


Khởi quyết tháng Tử Bạch:
Tý Ngọ Mão Dậu Bát Bạch cung,
Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ Hoàng trung.
Dần Thân Tị Hợi cư chỗ nào,
Nghịch tầm Nhị Hắc là chính tông.
Tháng giêng năm Tý Ngọ Mão Dậu khởi Bát Bạch, tháng giêng năm Thìn Tuất Sửu Mùi
khởi Ngũ Hoàng, tháng giêng năm Dần Thân Tị Hợi khởi Nhị hắc.
Chú giải: Tháng thuận Tinh nghịch, cầu xuất tinh nắm nguyệt lệnh, năm Tử Bạch giữ
lệnh một năm, tháng Tử Bạch giữ lệnh một tháng, năm tháng Tử Bạch đều nhập trung
cung thuận phi.

(3) Bản nghĩa cát hung của Cửu tinh Tử Bạch


① Nhất Bạch Lục Bạch Bát Bạch, là 5 Cát tinh. Bởi vì Nhất Bạch là Khôi tinh (Hưu môn),
Lục Bạch là Quan tinh (Khai môn), Bát Bạch là Tả Phụ tinh (Sinh môn), cho nên Nhất Lục
Bát Bạch là 3 cát tinh.
② Nhị Hắc Ngũ Hoàng Thất Xích, là 3 Hung tinh. Bởi vì Nhị Hắc tinh là sao Bệnh phù, lại
là Tử môn, thường chủ bệnh tai. Ngũ Hoàng tinh, phi xuất Trung Cung là Liêm Trinh hỏa,
tính bạo liệt, là Đại Hung tinh, cho nên xưng là "Ngũ Hoàng Sát". Ngũ Hoàng phi đến
cung vị nhà bếp, bản thân vị trí nhà bếp lại là Phản cục, đa số chủ chuyện hỏa tai. Thất
Xích còn gọi là Phá Quân tinh, quẻ Đoài lại là tượng phá hoại, thông thường Phá Quân
tinh là chủ chuyện quan ti, thương tàn, hỏa tai, đạo tặc. Nhị Hắc cùng Thất Xích tinh, chỉ
có nắm lệnh vượng, cùng vận tương hợp là vượng, trừ chỗ này ra thì đều lấy hung tinh
luận.
③ Tam Bích tinh phối quẻ Chấn, Chấn chủ Lôi có tượng thương tàn; là Xi Vưu tinh, thích
đấu tranh; lâm Thương môn, đa số chủ hung tượng, chỉ lúc vận vượng. Tứ Lục, Cửu Tử,
là nửa cát nửa hung tinh. Tứ Lục là Văn Khúc tinh, chủ Khoa Giáp là cát, nhưng lại có
hung tượng như chuyện nữ nam dâm đãng, tự tử. Cửu Tử phối quẻ Ly, Ly chủ văn minh,
văn tài khoa giáp là cát tượng. Nhưng lại bởi vì tính người thuộc hỏa, cho nên cũng chủ
hỏa tai, bệnh huyết. Ở lúc phân tích, tất phải cần kết hợp cùng tổ hợp Thống vận sinh
khắc chế hóa cùng Tinh với Tinh, mới có thể làm ra phán đoán chính xác.

Đoán Niên tinh lâm môn cát hung:


- Tứ Lục lâm môn (Càn cung): Năm nay bất lợi nữ tính, vị trí Dịch Mã, gia nhân có đi xa
hoặc di dời.
+ Tháng giêng: Dịch Mã động, có đi xa. Quan phi hoặc giao thông xảy ra bất ngờ.
+ Tháng 2: Tật bệnh phần đầu, đi xa gặp nhiều trở ngại, thân thể bệnh tật.
+ Tháng 3: Bất lợi giới nữ, gặp Dịch Mã, gia nhân có đi xa hoặc di dời.
+ Tháng 4: Kinh nói: "Lấy đủ tiền mà lảo đảo", chân bị thương, gia nhân dễ dàng phát
sinh tranh chấp.
+ Tháng 5: Thần kinh suy nhược, tư tưởng hỗn loạn.
+ Tháng 6: Thông minh tài trí, phát tiểu tài.
+ Tháng 7: Con cái dễ dàng cùng bản thân phát sinh tranh chấp, đề phòng tật bệnh hệ
thống hô hấp.
+ Tháng 8: Phát tiểu tài, lợi địa sản hoặc hành nghề ngũ kim.
+ Tháng 9: Đề phòng bị chỗ thuộc kim gây tổn thương, quan phi tranh chấp.
+ Tháng 10: Dịch Mã động, có đi xa. Quan phi hoặc giao thông xảy ra bất ngờ.
+ Tháng 11: Tật bệnh phần đầu, đi xa nhiều trắc trở, thân thể nhiều bệnh.
+ Tháng 12: Bất lợi giới nữ, gặp Dịch Mã, gia nhân có đi xa hoặc di dời.

Ngũ Hoàng lâm môn (Đoài cung): Năm nay là thị phi quan tai, dễ dàng bị chỗ kim loại
làm tổn thương.
+ Tháng 1: Phát tài.
+ Tháng 2: Đề phòng bị chỗ kim loại gây tổn thương.
+ Tháng 3: Thị phi quan tai, dễ dàng bị chỗ thuộc kim gây tổn thương.
+ Tháng 4: Dễ dàng bị chỗ kim loại gây tổn thương, dịch nhạ đào hoa kiếp.
+ Tháng 5: Phòng hoạ máu đổ, bị người hại.
+ Tháng 6: Đau dạ dày, đề phòng hỏa tai, có hoạ máu đổ.
+ Tháng 7: Gia nhân hiếu động, đa số có duyên với người khác giới. Dễ gặp Đào Hoa
kiếp.
+ Tháng 8: Cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 9: Tài bạchcó thể được, nhưng dễ dàng phá hao.
+ Tháng 10: Phát tài.
+ Tháng 11: Đề phòng bị kim loại gây tổn thương.
+ Tháng 12: Thị phi quan tai, dễ dàng bị kim loại gây tổn thương.

- Lục Bạch lâm môn (Cấn cung): Năm nay phát tiểu tài, được địa sản hoặc hành nghề
ngũ kim.
+ Tháng 1: Vượng tài, lợi nhất là địa sản.
+ Tháng 2: Tài vận tốt, lợi nhất là địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 3: Nhà có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ, như hỉ sự, có tiền tài bất ngờ.
+ Tháng 4: Phát tài, lợi địa sản.
+ Tháng 5: Tài bạch có thể được, nhưng dễ hao tán.
+ Tháng 6: Phát tiểu tài, lợi địa sản hoặc hành nghề ngũ kim.
+ Tháng 7: bệnh đường ruột bao tử, vận khí trì trệ.
+ Tháng 8: Trẻ em nhiều bệnh hoặc thành tích thoái lui. Mũi dễ mẫn cảm.
+ Tháng 9: Kinh nói: "Tam bát phùng nhi tổn tiểu khẩu", bất lợi trẻ em.
+ Tháng 10: Vượng tài, nhất là lợi địa sản.
+ Tháng 11: Tài vận tốt, lợi về địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 12: Nhà có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ, như hỉ sự, có tiền tài bất ngờ.

Thất Xích lâm môn (Ly cung): Năm nay cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 1: Gia nhân đầu óc linh hoạt, thông minh.
+ Tháng 2: Gia nhân ngu độn, phòng nạn máu đổ.
+ Tháng 3: Hào Trung đắc phối, thủy hỏa tương giao, hỉ khánh thuận lợi.
+ Tháng 4: Tài vận và sự nghiệp thuận lợi.
+ Tháng 5: Hỉ khánh, có sự tình phát sinh khiến người vui vẻ.
+ Tháng 6: Cẩn thận hỏa tai, trong nhà giới nữ bất hòa.
+ Tháng 7: Con cái dễ dàng cùng bản thân phát sinh tranh chấp, đề phòng tật bệnh hệ
thống hô hấp.
+ Tháng 8: Tật bệnh mắt, phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 9: Đi học thông minh, lợi văn chức, hỉ khánh.
+ Tháng 10: Gia nhân đầu óc linh hoạt, thông minh.
+ Tháng 11: Gia nhân ngu độn, phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 12: Hào Trung đắc phối, thủy hỏa tương giao, hỉ khánh thuận lợi.

- Bát Bạch lâm môn (Khảm cung): Năm nay tài vận tốt, có lợi về địa sản, có thể lập
nghiệp.
+ Tháng 1: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 2: Tính khí táo bạo, gia nhân sẽ có chuyện di dời hoặc đi xa.
+ Tháng 3: Gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột, giới nữ nắm quyền.
+ Tháng 4: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 5: Thủy Hỏa ký tế, hỉ khánh, thuận lợi.
+ Tháng 6: Tài vận tốt, rất có lợi là địa sản, có thể lập nghiệp.
+ Tháng 7: Gia nhân hiếu động, Đào Hoa vận.
+ Tháng 8: Thông minh tài trí, phát tiểu tài.
+ Tháng 9: Bệnh đau, đề phòng tật bệnh hệ thống tiết niệu, giới nữ đề phòng bệnh phụ
khoa.
+ Tháng 10: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 11: Tính khí bạo táo, gia nhân sẽ di dời hoặc đi xa.
+ Tháng 12: Gia nhân dễ mắc bệnh kiết lỵ đường ruột, giới nữ nắm quyền.

Cửu Tử lâm môn (Khôn cung): Năm nay gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.
+ Tháng 1: Thân thể nhiều bệnh.
+ Tháng 2: Giới Nữ nắm quyền, gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột.
+ Tháng 3: Gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.
+ Tháng 4: Lợi địa sản, vượng tài.
+ Tháng 5: Bệnh kiết lỵ, đề phòng hỏa tai, hoạ máu đổ.
+ Tháng 6: Tư tưởng hỗn loạn, thần kinh suy nhược.
+ Tháng 7: Bệnh Cấp tính, đề phòng hoạ máu đổ.
+ Tháng 8: Bệnh ruột bao tử, thị phi quấy nhiễu.
+ Tháng 9: Quan tai thị phi, Bệnh ruột bao tử, bệnh chân.
+ Tháng 10: Thân thể nhiều bệnh.
+ Tháng 11: Giới Nữ nắm quyền, gia nhân dễ mắc bệnh đường ruột.
+ Tháng 12: Gia nhân ngu độn, thành tích con cái thoái lui.

- Nhất Bạch lâm môn (Chấn cung): Năm nay gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá
là táo bạo.
+ Tháng 1: Quan tai thị phi, tranh chấp.
+ Tháng 2: Quan tai thị phi, đau chân, bệnh đường ruột.
+ Tháng 3: Gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá là táo bạo.
+ Tháng 4: Gia nhân đầu óc linh hoạt, con cái đi học thông minh.
+ Tháng 5: Bất lợi trẻ em, thành tích thoái lui.
+ Tháng 6: Phòng hoạ máu đổ, bị người hại, phá tài.
+ Tháng 7: Bệnh chân, có nhiều tiểu nhân.
+ Tháng 8: Dễ bị thương chân cẳng, vì tài gây họa.
+ Tháng 9: Vận khí phản phục, tình tự khởi phục.
+ Tháng 10: Quan tai thị phi, tranh chấp.
+ Tháng 11: Quan tai thị phi, bệnh chân, bệnh đường ruột.
+ Tháng 12: Gia nhân di dời hoặc có đi xa, tính khí khá là táo bạo.

Nhị Hắc lâm môn (Tốn cung): Năm nay nhiều thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ
thống Hô hấp.
+ Tháng 1: Kinh nói: "Bởi do Tứ Lục là thần Văn Xương", thông minh.
+ Tháng 2: Vận khí phản phục, lúc tốt lúc xấu.
+ Tháng 3: Thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ thống Hô hấp.
+ Tháng 4: Đi học thông minh, lợi văn chức.
+ Tháng 5: Đi học thông minh, lợi văn chức, nhà có chuyện hỉ khánh.
+ Tháng 6: Trẻ em nhiều bệnh hoặc thành tích thoái lui, mũi mẫn cảm.
+ Tháng 7: Dễ dàng bị kim loại gây tổn thương, dễ bị hoạ Đào Hoa kiếp.
+ Tháng 8: Bất lợi giới nữ, bôn ba lao lục.
+ Tháng 9: Bệnh ngoài da, lở loét.
+ Tháng 10: Kinh nói: "Bởi do Tứ Lục là thần Văn Xương", thông minh.
+ Tháng 11: Vận khí phản phục, lúc tốt lúc xấu.
+ Tháng 12: Thị phi, sức khoẻ kém. Tật bệnh hệ thống Hô hấp.

Phụ chú: Phương vị đồ Lưu niên Tử Bạch cát hung, lấy Phi tinh lâm môn, lấy chỗ các vị
trí như phòng ốc, ông táo, thần linh, giường ngũ làm chủ mà định cát hung, cát thì thúc
đẩy, hung thì hóa đi.

Hạ Nguyên Dương trạch nhị thập tứ cục


Sơn Nhâm hướng Bính ◇ Hạ nguyên 1 Cục
⑴ Hướng lâm Phá Quân, Địa thế hơi cao, có thể mở cửa chữ Nhất (一).
⑵ Phương Ly xuất thủy, vận 7 tang đinh, phá đại tài.
⑶ Chấn Tốn xuất thủy, hoặc phương Càn có ao hồ, đều chủ tài vượng, lợi công danh.
⑷ Phương Khôn hơi cao, thủy đến, chủ phát tài bất ngờ. Xuất thủy thì chủ quan ti.
⑸ Phương Cấn cao, chủ vận khí thiếu nam hanh thông.
Sơn Tý hướng Ngọ ◇ Hạ Nguyên 2 cục
⑴ Ở phương Đông nam cùng Chính nam đều thấp, chỉ có thể mở cửa ở phương Tốn.
⑵ Phương Cấn Ly põm thấp hoặc xuất thủy, chủ nhân đinh yểu vong.
⑶ Phương Càn Đoài Tốn cao lớn, gia cảnh bần khổ.
⑷ Phương Khôn trống thấp, lão phụ bị đau đầu hoa mắt.
⑸ Phương Chấn có hố lớn nước sâu, trưởng tử tai hoạ nặng.
Sơn Quý hướng Đinh ◇ Hạ nguyên 3 Cục
⑴ Mở cửa cung Tốn, bệnh tai triền miên.
⑵ Thủy xuất phương Khôn Chấn Tốn, nhà phú quý.
⑶ Càn Đoài Ly Cấn thực đầy cao lớn, nhân đinh khoẻ mạnh.
⑷ Phương Cấn có hồ nước, phá tài thương đinh.
⑸ Sau nhà có nóc nhà láng giềng xung bắn tới, năm Tý phát nhiều hung tai.
Sơn Sửu hướng Mùi ◇ Hạ nguyên 4 Cục
⑴ Cung Đoài là Nhị Hắc, không thể mở cửa.
⑵ Cung Chấn tụ thủy, hoặc có xuất thủy, chủ phá tài.
⑶ Cung Càn nên bằng phẳng, có kênh rạch sâu, con cái khó nối dõi.
⑷ Đoài xuất thủy, vận 7 chủ công danh, vận còn lại phạm đào hoa.
⑸ Thủy đến Khảm nhiễu trạch xuất ra Ly, tài quan vượng.
⑹ Phương Tốn có văn phong, xuất đại học sinh.
⑺ Cung Khôn thấp lõm, lão phụ bị bệnh biến đầu não.
Sơn Cấn hướng Khôn ◇ Hạ nguyên 5 Cục
⑴ Cung Ly phi tinh Nhị Hắc, mở cửa nhiều bệnh tai.
⑵ Thuỷ đi từ Khảm, Khôn, Hạ nguyên tài vượng.
⑶ Đoài thấp lõm, vận 9 tổn thương đinh.
⑷ Cung Tốn nên cao, thấp thì lão phụ bệnh đầu.
⑸ Cung Cấn cao, bệnh thận tạng.
⑹ Thuỷ đến bên phía đông xuất ra chỗ Khôn, chủ đinh kiện tài vượng.

Sơn Dần hướng Thân ◇ Hạ nguyên 6 Cục


⑴ Trên hướng phi tinh Ngũ Hoàng, mở cửa vào khí hung sát.
⑵ Cung Tốn thủy tụ, hoặc là xuất thủy, chủ phá đại tài.
⑶ Phương Ly xuất thủy, tài quan lưỡng vượng.
⑷ Cung Càn nếu thấp hãm, nhân đinh không vượng.
⑸ Thuỷ đi trên hướng, khó tránh quan ti, đề phòng năm Mùi Thân.
Sơn Giáp hướng Canh ◇ Hạ nguyên 7 cục
⑴ Hướng lâm Bát Bạch là Chính thần, địa thế hơi cao, mở cửa chữ Nhất.
⑵ Tốn thấp hãm, xuất thủy phương Khôn, chủ tài vượng.
⑶ Quẻ Khảm vị trí thủy đến nhiễu trước Đường xuất ra cung Khôn, là cục tài vượng.
⑷ Cung Cấn nên cao, lõm thấp thì thương đinh phá tài.
⑸ Vị trí quẻ Càn ở Tiên Hậu thiên, địa thế cao là nhân vượng gia hưng.
Sơn Mão hướng Dậu ◇ Hạ nguyên 8 Cục
⑴ Cung Càn Bệnh phù chính lâm, không thể mở cửa.
⑵ Trên hướng nên thấp, có nước đen đi, chủ tài vượng.
⑶ Cung Tốn cao, gọi là cục "Thủy Long thượng sơn", thiếu tiền tài.
⑷ Phương Càn có thủy đi, tài vượng đào hoa khởi.
⑸ Phương Khôn Cấn Ly cao lớn, nhân tài lưỡng vượng.
⑹ Phương Khảm có thủy đi, tất phá đại tài.
Sơn Ất hướng Tân ◇ Hạ nguyên 9 Cục
⑴ Trên hướng có ai tinh Cửu Tử, địa thế nếu cao, mở cửa chữ Nhất.
⑵ Thủy đến Khôn nhiễu trước Đường hình trạng như trình đai ngọc, xuất ra ở Càn, chủ
phát tài bất ngờ.
⑶ Khảm Cấn cao, nhân đinh vượng.
⑷ Cung Tốn tích thủy, hoặc thấp trống không, chủ tài phong.
⑸ Ly có thủy đi, tất thương đinh phá đại tài.
⑹ Trung Cung cao, chủ bệnh tai.
Sơn Thìn hướng Tuất ◇ Hạ nguyên 10 Cục
⑴ Hướng lâm Phá Quân, địa thế hơi cao, có thể mở cửa chữ Nhất.
⑵ Cung Khảm xuất thủy, tuy tài vượng nhưng nhiều hoạ dâm loạn.
⑶ Cung Khôn thấp hãm xuất thủy, tài vượng nhân đinh hiếm.
⑷ Phương Càn thủy đi, chủ phá tài, thương đinh.
⑸ Đoài Cấn cao, nhân đinh ít hoạ.
⑹ Ly Chấn tụ thủy, tài nguyên nhiều.
⑺ Cửa chính ở Khôn, năm Cửu Tử bệnh tai phá tài.
Sơn Tốn hướng Càn ◇ Hạ nguyên 11 Cục
⑴ Trên hướng xuất thủy, phá tài thương đinh.
⑵ Cửa chính ở vị trí Càn, năm Nhị Hắc nhiều hoạ đau thương.
⑶ Thủy từ Cấn nhiễu trước mặt Đường đến phương Khôn xuất ra, chủ tài vượng.
⑷ Phương Đoài Cấn cao, thiếu nam trung nữ không có hoạ.
⑸ Chấn cao Cấn lõm, tổn thương trưởng nam.
Sơn Tị hướng Hợi ◇ Hạ Nguyên 12 Cục
⑴ Hướng lâm Tam Bích, nếu thủy đi có tình, vận 8 thúc tài quan.
⑵ Phương Khôn Khảm Chấn Ly mãn đầy, chủ nhân vượng tài phong.
⑶ Cung Đoài xuất thủy, vận 7 chủ thanh danh, vận khác là trọc phú.
⑷ Cung Khôn thủy Đường, tất phá đại tài. Con cháu khô bảo tồn.
⑸ Sau nhà có nóc nhà bắn tới, năm Thìn Tị tổn thương nhân đinh.

Sơn Bính hướng Nhâm ◇ Hạ nguyên 13 Cục


⑴ Hướng thủ Tam Bích tinh, địa thế thấp, mở cửa chữ Nhất.
⑵ Phương Chấn có tụ thủy, vượng tài. Như rãnh quá sâu, bất lợi trưởng tử.
⑶ Nơi Cấn Khôn có tụ thủy, hoặc xuất thủy, Hạ nguyên tài vượng.
⑷ Cung Càn Tốn Đoài cao, chủ nhân tài song toàn.
⑸ Sau nhà có ao nước, tài vượng nhân phong lưu.
Sơn Ngọ hướng Tý ◇ Hạ nguyên 14 Cục
⑴ Mở cửa vị trí Quẻ Khảm, dễ mắc bệnh phá tài.
⑵ Phương Đoài Càn Cấn thấp, hoặc xuất thủy, chủ tài vượng.
⑶ Cung vị 2,3,4 cao, nhân đinh ít hoạ.
⑷ Thuỷ đi trên hướng, năm Tý phạm quan tai.
⑸ Nhà kề gần phương Chấn bất hòa.
⑹ Phía đông xuất thủy, vận 7 phá đại tài, nhân đinh không vượng.
Sơn Đinh hướng Quý ◇ Hạ nguyên 15 Cục
⑴ Thuỷ ở trên hướng uốn khúc mà đi, chủ tài vượng.
⑵ Nhị Hắc ở Cấn, mở cửa chính gặp bệnh tai.
⑶ Cung Khôn thủy đến xuất ra phương Khảm, đại phát tài bất ngờ.
⑷ Cung Chấn thấp trống không, lão phụ có bệnh đầu, cốt hoặc phổi.
⑸ Chủ đề phòng bên trái có cửa sổ, dễ phát hung họa.
⑹ Cung Tốn nên cao, thấp thì phá tài.
Sơn Mùi hướng Sửu ◇ Hạ nguyên 16 Cục
⑴ Hướng lâm Cửu Tử là Chính thần, địa thế phương Cấn cao, có thể mở cửa ở phương
Cấn.
⑵ Cung khảm thấp hãm xuất thủy, tất phá đại tài, mà nhân đinh còn thoái lạnh.
⑶ Khôn đầy Ly cao, nhân đinh khoẻ mạnh.
⑷ Thủy xuất ra Càn, Đoài, Tốn, nhân tài lưỡng vượng.
⑸ Cung Chấn lõm thấp, trưởng tử hoạ nặng.
Sơn Khôn hướng Cấn ◇ Hạ nguyên 17 Cục
⑴ Cung Cấn Bát Bạch, địa thế cao, mở cửa chữ Nhất.
⑵ Khảm cao, nhân đinh vượng. Thủy xuất Khảm, phá Tiên thiên.
⑶ Khôn Tốn đều cao, tổn thương con trưởng.
⑷ Thủy xuất ra cung lục, tam, tứ, thúc tài thúc quan.
⑸ Đoài Ly đều cao, thiếu nữ hiển quý.
⑹ Chính Nam cùng nhà kề bên mất giao hoà.
Sơn Thân hướng Dần ◇ Hạ nguyên 18 Cục
⑴ Thất Xích lâm hướng, hướng thủ địa thế nên cao, có thể dẫn vào vượng khí.
⑵ Ngũ Hoàng ở cung Khảm, thủy đến chủ tài vượng. Thủy đi thì tang đinh, quan ti.
⑶ Thủy chảy ra từ Chấn Tốn, tất nhiên phú quý.
⑷ Cung Càn Đoài nên cao, như xuất thủy, hai vận 8, 9 tang đinh là không nghi ngờ.
⑸ Phương Ly thấp hãm, lão phụ chết trước.
Sơn Canh hướng Giáp ◇ Hạ nguyên 19 Cục
⑴ Hướng lâm Lục Bạch, địa thế hơi cao, mở cửa phương Chấn.
⑵ Ba phương Càn Chấn Tốn nên cao, thấp thì nhân khẩu đa tai.
⑶ Cung Tốn lõm thấp, tang đinh phá tài.
⑷ Thủy chảy đi từ phương Khảm Cấn Ly, nhân tài lưỡng vượng.
⑸ Phương Khôn thủy đến nhiễu trước Đường xuất ra Cấn hoặc Khảm, rất dễ dàng phát
tài.
Sơn Dậu hướng Mão ◇ Hạ nguyên 20 Cục
⑴ Hướng thủ xuất thủy, tất phá tài.
⑵ Cung Khảm xuất thủy, gây hoạ quan ti.
⑶ Ba cung Cấn Càn Ly thấp trống rỗng hoặc xuất thủy, nhân đinh lưỡng thịnh.
⑷ Cung vị 2,3,4 cao, thì gia nhân bình an, con cháu có nối dõi.
⑸ Cùng nhà bên cạnh ở bên đông mâu thuẫn nặng.
Sơn Tân hướng Ất ◇ Hạ nguyên 21 Cục
⑴ Ngũ Hoàng hung sát ở Chấn, mở cửa chủ phá tài, bệnh tai.
⑵ Cung Khảm, Cấn, Ly xuất thủy, nhân tài lưỡng vượng.
⑶ Cung Khôn thủy tụ, hoặc thấp hãm, vận 9 thúc công danh.
⑷ Ba cung Đoài Càn Tốn cao, nhân đinh không có hoạ.
⑸ Cung Chấn xuất thủy, là cục thuận thủy, rước hoạ quan ti thị phi.
⑹ Hướng thủ có cửa sổ, khó tránh hung tai.
Sơn Tuất hướng Thìn ◇ Hạ Nguyên 22 Cục
⑴ Hướng lâm Ngũ Hoàng, kỵ mở cửa ở Tốn.
⑵ Cung nhị, tam cao thì đinh vượng, thấp thì bệnh tai, phá tài.
⑶ Cung Đoài Cấn thấp thì tài vượng, cao thì thiếu tài.
⑷ Cung Ly dầy thực, con cháu có ẩn ngữ (đố chữ).
⑸ Khôn xuất thủy, chủ phá tài. Tốn xuất thủy, tang đinh quan ti.
Sơn Càn hướng Tốn ◇ Hạ nguyên 23 Cục
⑴ Thuận thủy cục, tất gây hoạ quan ti.
⑵ Cung vị 3, 9 cao, đều có thể mở cửa.
⑶ Tây nam có ao hồ, định phá tài.
⑷ Cung 6,9 đều thấp, lão phụ đoản thọ.
⑸ Cung Cấn Đoài có tụ thủy, chủ tài vượng.
Sơn Hợi hướng Tị ◇ Hạ Nguyên 24 Cục
⑴ Hướng thủ Ngũ Hoàng tinh phi lâm, kỵ mở cửa.
⑵ Thủy xuất cung Khôn, Chấn, Ly, chủ tài vượng.
⑶ Phương Đoài Cấn Càn thực đầy, nhân đinh ít hoạ.
⑷ Phương Ly nếu có mương sâu, gia nhân có đại tai.
⑸ Tốn quái xuất thủy, năm Thìn Tị tất phạm quan ti, phá tài.

—— HẾT ——

THANH NANG ÁO NGỮ


Áo Ngữ Huyền không Phi tinh
Bài này của Nam Phong... trong web Huyền Không Lý Số... :
Áo Ngữ Huyền không Phi tinh
Lời tựa
Huyền không phi tinh là một trong các hệ phái của Phong thủy Huyền không,
Huyền không phi tinh được phổ biến rộng rãi hiện nay căn cứ vào việc phối hợp
Cửu tinh Lạc thư và phương vị của Hậu thiên bát quái. Lạc Thư vốn là Thiên
văn chi dụng nên khi kết hợp với Hậu thiên bát quái sẽ hình thành nên sự phân
bố thiên khí trên phương vị Hậu thiên bát quái, do Lạc Thư là phản ánh thiên
thời, hay nói đúng hơn là thời gian nên hệ thống phân bố thiên khí trên phương
vị Hậu thiên bát quái này sẽ không cố định mà biến đổi theo thời gian.
Từ thời Tưởng Công(Tưởng Đại Hồng), đến nay Huyền không phi tinh đã phát
triển mạnh mẽ, hiện nay tại cái nôi của hệ phái này là đất nước Trung Quốc đã
chính thức hình thành 6 phái Phi tinh đó là: Vô Thường phái, Điền Nam phái,
Chiết Giang phái, Tô Châu phái, Tương Sở phái và Trung Châu phái. Mỗi phái
có lý luận và sở đắc riêng, tuy nhiên đều có điểm chung:
+ Lấy An tinh pháp làm chủ yếu, bài tinh bàn trên 9 cung, mỗi cung bao gồm 3
tinh: Vận tinh-Hướng tinh-Sơn tinh. + Khi lập hướng nếu kiêm quá một độ số
nhất định(thường từ 3 đến 4,5 độ) thì sẽ sử dụng Thế quái để lập Sơn bàn và
Hướng bàn. .....
Trong thực tế Huyền không phi tinh đã cho thấy sự ứng nghiệm, tuy nhiên sự
ứng nghiệm chưa thật sự thuyết phục. Với những người nghiên cứu nhiều về Phi
tinh sẽ thấy có những băn khoăn đối với lý luận của chính nó, các vấn đề mà
cho đến nay chưa được giải đáp thỏa đáng như: - Lập tinh bàn sẽ có những bàn
giống nhau, như vận 8 này tọa Tý hướng Ngọ và tọa Quý hướng Đinh thì tinh
bàn như nhau, theo lý thì cát hung cũng như nhau nhưng trên thực tế cát hung
khác hẳn nhau dù các điều kiện khác như nhau? vấn đề gì ở đây? - Khi kiêm
hướng dùng Thế quái để lập bàn thì nhiều trường hợp hiến thành hung mặc dù
đã bố trí đúng cách? vấn đề gì ở đây? - Vì sao vận 1 chính thần lại là Khảm linh
thần lại là Ly, vận 2 chính thần là Khôn linh thần là Cấn mà không phải là vị trí
khác? - Định phương hướng để lập tinh bàn thì dùng 24 sơn, nhưng khi lập tinh
bàn thì chỉ dùng có 8 cung(không kể trung cung), tại sao lại như vậy? và còn
hàng loạt câu hỏi vẫn chưa có đáp án thỏa đáng.....
Như vậy Huyền không phi tinh là không đáng tin cậy? Hoàn toàn không phải
vậy. Sự tồn tại và phát triển mấy trăm năm nay đã chứng minh rằng hệ phái này
không phải không đáng tin, chẳng qua do sự công khai hệ phái này cho rộng rãi
mọi người chỉ là một vài nét cọ trên bức tranh mà thôi, chỉ những người được
chọn để chân truyền thực thụ mới có thể nắm được toàn bộ bức tranh.
Trong Lục phái bên trên đến nay Nam Phong đã khẳng định được 3 phái mật
truyền những tinh túy cho truyền nhân của mình mà không bao giờ để lọt ra bên
ngoài đó là: Vô Thường phái, Trung Châu phái và Điền Nam phái, riêng 3 phái
còn lại thì không đủ cơ sở để xét họ có mật truyền hay kiến thức môn phái chỉ
có vậy.
Tưởng Công (Tưởng Đại Hồng), Chương Công (Chương Trọng Sơn-Vô
Thường), Sái Công (Sái Mân Sơn-Trung Châu), Triệu Công (Triệu Liên Thành)
là những người nắm giữ bí quyết cao nhất của Huyền không phi tinh, trong đó
Tưởng Công là xuất sắc nhất. Họ truyền bá học thuật của mình ra cho đời, bên
cạnh đó đề cao một vài quyển cổ thư(chủ yếu là các quyển Thanh Nang) và viết
cả vài quyển rất khó hiểu. Mọi học thuật được truyền bá của họ chỉ là căn bản
mà thôi, từ đây người có duyên và tận tâm tận lực nghiên cứu cổ thư sẽ có thể
thấu hiểu những bí mật ẩn giấu trong đó. Nói tóm lại cái học thuật truyền thế
của họ chính là chìa khóa để mở bí mật nằm trong các cổ thư.
Thời gian qua, gạt bỏ vô vàn sách vở và ý kiến làm mình mê muội, Nam Phong
đã bước được vào huyền cơ, hôm nay dùng một số trong đó để mở cánh cửa
Huyền không Phi tinh, lộ thiên cơ vì mong những điều tốt đẹp hơn cho mọi
người. Biết điều này là tự gây nghiệp cho mình. Rất mong người sử dụng để tạo
phúc, đừng lợi dụng để gây họa cho người.
Bao gồm:
Sự thực về Thế quái ca quyết<p> </p>Khởi Tam nguyên 9 tinh, dụng Nhị
nguyên 8 vận<p> </p>Đại Thư Hùng<p> </p>Sự thực về Sơn tinh trong Tinh
bàn<p> </p>Nhị thập tứ sơn Áo ngữ An tinh pháp a. Bài vận bàn b. Bài hướng
bàn c. Bài sơn và bài long bàn<p> </p>Huyền không Tam đại quái<p>
</p>Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh 24 cung vị<p> </p>Hướng
bàn hợp Tam đại quái và Nguyên vận định Tài lộc suy vượng<p> </p>Sơn bàn
hợp Bài long định Nhân đinh suy vượng<p> </p>Chủ khách luận đắc thất-Ngũ
hành thống 9 tinh<p> </p>Chính thần Linh thần và Chiếu thần
Sự thực về Thế quái ca quyết:
Người học Huyền không phi tinh cho đến nay, dù ở Trung Châu phái, Vô
Thường phái, Tương Sở phái, Chiết Giang Thượng ngu phái, Điền Nam phái
hay Tô Châu phái nói chung sở đắc được An tinh pháp, còn Bài long pháp và
Thu sơn xuất sát pháp thì các phái bất đồng, đây tạm không nói đến. Đối với An
tinh pháp thì hầu như thống nhất, bao gồm cách lập bàn Hạ quái ai tinh và bàn
Thế quái ai tinh, mặc dù bàn Thế quái ai tinh có sự lựa chọn kiêm hướng ít
nhiều khác nhau(phái 3 độ thì lập thế quái, phái 4,5 độ thì lập thế quái…) nhưng
tựu trung đều thống nhất cách lập bàn là sử dụng ca quyết sau (gọi là thế quái ca
quyết):
"TÝ, QUÝ tịnh GIÁP, THÂN, Tham Lang nhất lộ hành, NHÂM, MÃO, ẤT,
MÙI, KHÔN, ngũ vị vi Cự Môn, CÀN, HỢI, THÌN, TỐN, TỴ, liên TUẤT Vũ
Khúc danh, DẬU, TÂN, SỬU, CẤN, BÍNH, thiên tinh thuyết Phá Quân, DẦN,
NGỌ, CANH, ĐINH thượng, Hữu Bật tứ tinh lâm, Bản sơn tinh tác chủ, phiên
hướng trục hào hành, Liêm Trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận, nghịch luân,
Hung, cát tùy thời chuyển, Tham-Phụ bất đồng luận, Tiện hữu tiên hiền quyết,
không vị kỵ lưu thần, Phiên hướng phi lâm bính, thủy khẩu bất nghi đinh, Vận
thế tinh bất cát, họa khởi chí diệt môn, Vận vượng tinh cách hợp, bách phúc hựu
thiên trinh, Suy, vượng đa bằng thủy, quyền hành giả tại tinh, Thủy kiêm tinh
cộng đoán, diệu dụng cánh thông linh."
Ở đây tôi không nói chi tiết về cách bài bàn Hạ quái (chính hướng) và bàn Thế
quái (kiêm hướng), các thứ đó đã có sẵn ở trên diễn đàn này. Tôi chỉ bàn về
thực chất của Thế quái. Ca quyết thế quái bên trên thực chất chính là “Triều
nghênh thủy lộ khởi Tham ai tinh nhất pháp” của Huyền không đại quái Liên
Thành phái, khẩu quyết như sau:
Tý khởi bản cung nghịch hành, Tốn Càn Càn Tốn thuận hành, Ngọ Mão Dậu
tham Tốn nghịch luân, Khôn Cấn khí Ngọ hành thuận. Nhâm Canh Bính khởi
Tuất thuận, Sửu Mùi Canh thượng nghịch luân, Thìn Tuất Tuất Thìn giai nghịch
hành, Giáp khởi Mùi cung thuận ứng. Ất Tân Đinh khởi Tị nghịch, Hợi Tị Tị
Hợi thuận hành, Thân dương Quý âm khởi bản cung, Dần khởi Ất hề đại thuận .
Chú thích giải khẩu quyết:
Tý khởi tham lang ở tại bản cung nghịch hành: tại Tý an Tham , tại Càn an Cự,
tại Dậu an Lộc, tại Khôn an Văn, Liêm nhập trung cung, tại Ngọ an Vũ, tại Tốn
an Phá, tại Mão an Phụ, tại Cấn an Bật.
Tương tự:
Tốn tham lang khởi ở càn thuận hành: Càn Tham, Tý Cự, Cấn Lộc, Mão Văn,
Liêm quy trung cung, Tốn Vũ …
Càn khởi tham lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu Văn,
Liêm quy trung, Càn Vũ …
Ngọ Mão Dậu khởi tham lang ở tốn nghịch hành: Tốn Tham, Mão Cự, Cấn Lộc,
Tý Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ, Dậu Phá , Khôn Phụ, Ngọ Bật
Khôn Cấn khởi tham lang ở ngọ thuận hành: Ngọ Tham, Khôn Cự, Dậu Lộc,
Càn Văn, Liêm quy trung, Tý Vũ, Cấn Phá …
Nhâm Canh Bính khởi tham lang ở tuất thuận hành: Tuất Tham, Nhâm Cự, Sửu
Lộc, Giáp Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ, Bính Phá , Mùi Phụ, Canh Bật .
Sửu Mùi khởi tham lang ở canh nghịch hành: Canh Tham, Mùi Cự, Bính Lộc,
Thìn Văn, Liêm quy trung, Giáp Vũ, Sửu Phá …
Thìn khởi tham lang ở tuất nghịch hành: Tuất Tham, Canh Cự, Mùi Lộc, Bính
Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ …
Tuất khởi tham lang ở thìn nghịch hành: Thìn Tham, Giáp Cự, Sửu Lộc, Nhâm
Văn, Liêm quy trung, Tuất Vũ …
Giáp khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Giáp Tham …
Ất Tân Đinh khởi tham lang ở tị nghịch hành: Tị Tham, Ất Cự, Dần Lộc, Quý
Văn, Liêm quy trung, Hợi Vũ, Tân Phá , Thân Phụ, Đinh Bật.
Hợi khởi tham lang ở tị thuận hành: Tị Tham, Đinh Cự, Thân Lộc, Tân Văn,
Liêm quy trung, Hợi Vũ …
Tị khởi tham lang ở hợi thuận hành: Hợi Tham, Quý Cự, Dần Lộc, Ất Văn,
Liêm quy trung, Tị Vũ …
Thân khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Thân Tham …
Quý khởi tham lang ở bản cung nghịch hành: Quý Tham …
Dần khởi tham lang ở ất thuận hành: Ất Tham, Tị Cự, Đinh Lộc, Thân Văn,
Liêm quy trung, Tân Vũ, Hợi Phá, Quý Phụ, Dần Bật
Xếp lại toàn bộ sẽ thấy các sơn ai tinh lần lượt được như sau:
Tý Quý Giáp Thân: Tham lang Nhâm Mão Ất Mùi Khôn: Cự môn Càn Hợi
Thìn Tốn Tị Tuất: Vũ khúc Dậu Tân Sửu Cấn Bính: Phá quân Dần Ngọ Canh
Đinh: Hữu bật
Vừa trùng khớp với Thế quái ca quyết của Huyền không phi tinh bên trên. Hay
nói đúng hơn thế quái ca quyết của Huyền không phi tinh là Ai tinh triều
nghênh thủy lộ khởi Tham lang pháp tại sơn đó. Sâu xa hơn đây là phép định
long thủy tương phùng của Tiên thiên pháp để xem nơi đất đó có thể lập thôn,
trấn, nhà ở được hay không, lấy lai long tại vùng đó khởi Tham lang pháp này
để xem thủy của vùng đó có phải là sinh vượng hay không, có hợp với long tại
nơi đó thành Long Thủy tương phùng không. Phép bài là theo vòng tròn lần lượt
qua từng quái, Liêm trinh(sao 5) luôn nhập trung cung để chế ngự 8 phương
Long Thủy. Phép Ai tinh này là dùng cho Không gian. Ví dụ đến một nơi hình
thế sơn thủy đẹp, thấy Lai long đến từ Càn, sơn khởi đỉnh ở Càn hình tròn cao
to, thủy tại Tốn chầu về, định Long thủy tương phùng của vùng đó, khởi tham
lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu Văn, Liêm quy
trung, Càn Vũ, Tý Phá, Cấn Phụ, Mão Bật. Như vậy Càn là Vũ ứng với sơn
hình tròn cao to, thủy Tham lang chầu về, đây chính là đậi địa có thể kiến lập
thôn xóm... Nếu để ý kỹ thì phép ai tinh này 8 cung luôn luôn là các cặp số đối
diện nhau là các cặp số của Hà đồ: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9, không thể khác, nếu khác
tức là bài sai tinh bàn. Vì sao lại vậy? Do bản chất của thủy là phải dùng Tiên
thiên để luận đoán, do đó trong Địa Lí Băng Hải có một câu rất có giá trị là:
"Hậu thiên Lai long, Tiên thiên Hướng", nghĩa của câu này cao thâm nhưng hầu
hết lại bị người đọc xem nhẹ, tôi không giải thích sâu điều này vì nó không
thuộc chủ đề này.
An tinh pháp của Phi tinh thì bản chất là theo hành độ của Lường thiên xích,
đây là một điều cần phải ghi tâm, nếu không sẽ sai lầm. Phép Ai tinh theo
Lường thiên xích là dùng cho Thời gian. Thế quái ca quyết bên trên xuất pháp
từ phép bài Tham lang quyết pháp theo vòng tròn(không gian), như vậy không
phù hợp để dùng vào An tinh pháp của Huyền không phi tinh.
PHI TINH DO ĐÓ CHỈ LẬP BẰNG TINH BÀN HẠ QUÁI, khi kiêm ngoài 7
độ thì tạp loạn không dùng được, không lập được tinh bàn mà thôi, không dùng
thế quái để lập tinh bàn vì thực chất không ứng nghiệm. <p> </p>
(Do một số mục liên quan nhau nên Nam Phong bổ sung thêm một số vấn đề)
Khởi Tam nguyên 9 tinh, dụng Nhị nguyên 8 vận:
Lạc thư bàn là số của Thiên vận, tiên thiên số của thiên vận đối đãi nhau là bí
quyết hình thành nguyên vận:
Dương giao âm, âm tái giao dương, 9 cung đối đãi, 9 tinh phân minh, mỗi cung
hợp số là 20, 9 cung là 180, tự nhiên mà hình thành Tam nguyên 9 tinh 180
năm, đều là từ 9 tinh số đối đãi mà ra. Trên đồ hinh hai vòng ngoài là dương
giao âm, hai vòng trong là âm giao dương. Mỗi vận lấy số nguyên vận nhập
trung thuận phi, đây là thước đo của thời gian, thời gian chỉ đi tới mà không lùi
lại, đó là cái lẽ nguyên vận tinh luôn là thuận phi. 9 tinh ở tình huống này không
phải là thứ tự Tham 1, Cự 2... mà chính là đạo lý sinh thành, 1 sinh 1 thành(1
sinh 6 thành, 2 sinh 7 thành, 3 sinh 8 thành, 4 sinh 9 thành), 5 là cái giới hạn
giữa sinh số và thành số.
Tam nguyên cửu tinh 180 năm, mỗi một cung hợp số đều là 20 nên mỗi tiểu vận
là 20 năm, vận 5 ký thác nơi vận 4 và 6, cái này áo ngữ đã ghi rõ trong câu
quyết “Tốn Thìn Hợi tận thị vũ khúc vị”, vừa là nói Ai tinh vừa là nói cái phép
dùng của 5. 10 năm đầu của 5 tính theo vận 4, 10 năm sau của 5 tính theo vận 6.
Cổ quyết Huyền không đã khẳng định điều này:
"nhất nhị tam hề cửu bát thất , sơn tình thuỷ ý lưỡng tương hợp . thất bát cửu hề
nhất nhị tam , sơn tình thuỷ ý lưỡng tương quan . ngũ kiêm càn tốn lưỡng biên
suy , khảm li kí vị bát thần quy . tốn vị thuộc thiên thuỷ thâu địa , càn cung liên
địa thâu thiên thuỷ ."
Thời gian trước Nam Phong có từng giải thích quyết này nhưng chỉ giải thích ở
mức hiểu từ, cao hơn nữa các câu này nói nguyên lý hình thành Tam nguyên
cửu vận và Nhị nguyên bát vận.
Như vậy khởi Tam nguyên cửu tinh, dụng Nhị nguyên bát vận như sau: Vận 1:
Khảm quản vận 20 năm Vận 2: Khôn quản vận 20 năm Vận 3: Chấn quản vận
20 năm Vận 4: Tốn quản vận 30 năm Vận 6: Càn quản vận 30 năm Vận 7: Đoài
quản vận 20 năm Vận 8: Cấn quản vận 20 năm Vận 9: Ly quản vận 20 năm Mỗi
một cục thế lại tùy theo sơn hướng và đương vận mà sơn hướng tinh có thuận
phi và nghịch phi, đây là thước đo của không gian, không gian thì có trước có
sau, có trên có dưới, có trái có phải, cũng gọi là lục hư, đây là cái lẽ mà sơn
hướng tinh có thuận phi và nghịch phi.
Đại Thư hùng
Thế nhân hay nói Thìn Tuất là nơi giao giới âm dương, lại có thuyết nói Tý Ngọ
là nơi phân âm dương. Thực ra lời nói nào cũng đúng, chỉ là dùng trong ngữ
cảnh nào mà thôi.
Thái dương tuần hoàn nghịch hành, khởi từ cung Tuất mà đi nghịch đến Dậu,
Thân, Mùi… đến Hợi là xong một vòng tuần hoàn một năm, gọi là Thái dương
quá cung, mỗi tháng 1 cung, hành độ 1 năm 12 cung là trọn vẹn.
Niên độ thì lại tuần hoàn thuận hành theo 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông, khởi từ
cung Dần, đến Mão, Thìn, Tị… đến Sửu là xong một năm, gọi là niên cung
hành độ, mỗi tháng hành 1 cung, hành độ 1 năm 12 cung là trọn vẹn.
Khởi từ Tuất nghịch hành và khởi từ Dần thuận hành thì sẽ giao nhau lần 1 tại
Ngọ và lần 2 tại Tý. 2 vòng này thực ra chính là Tiên thiên Hỏa Thủy hành độ
trong năm.
Tiên thiên hỏa hành độ từ Dần mà đi, hỏa tính nóng bốc lên nên đi theo chiều
thuận, Dần do đó là nơi khởi của hỏa tiên thiên nhập dụng thành hỏa hậu thiên,
do đó mà Trường sinh hỏa khởi tại Dần, đến Ngọ giao cùng vòng tiên thiên thủy
lần 1 nên là nơi cực vượng của Hỏa, do đó mà Đế vượng của Hỏa tại Ngọ, đến
Tuất là nơi khởi phát của vòng tiên thiên thủy nên hỏa đã kiệt, do đó mà Tuất là
nơi Mộ của Hỏa.
Tiên thiên Thủy theo hành độ của Tuất, tuy khởi từ Tuất nhưng thực tính từ
Thân. Vì sao? Nhất dương sinh tại Tý, quẻ là Địa lôi phục, nhị dương sinh tại
Sửu, quẻ là Địa trạch lâm, Tam dương sinh tại Dần, quẻ là Địa thiên thái, nơi
tam dương thành mới thực là nơi khởi của hỏa tiên thiên bên trên. Cũng vậy nơi
tam âm thành mới thực là nơi khởi của thủy tiên thiên. Nhất âm sinh tại Ngọ,
quẻ là Thiên phong cấu, Nhị âm sinh tại Mùi, quẻ là thiên sơn độn, tam âm sinh
tại Thân, quẻ là Thiên địa bĩ. Thủy tính lạnh trầm nên đi theo chiều nghịch,
Thân do đó là nơi khởi của thủy tiên thiên nhập dụng thành thủy hậu thiên, do
đó mà Trường sinh thủy khởi tại Thân, đến Tý giao cùng vòng tiên thiên hỏa lần
2 nên là nơi cực vượng của Thủy, do đó mà Đế vượng của thủy tại Tý, đến Thìn
là nơi khởi đối xung của vòng tiên thiên thủy nên thủy đã kiệt, do đó mà Thìn là
nơi Mộ của Thủy.
Xem sơn xuyên vạn vật, địa khí hình thành nên núi non hùng vĩ, thảo mộc bách
cốc vươn thẳng lên trời nghênh đón thiên khí. Thiên khí hạ giáng ứng cùng địa
khí hình thành nên sông hồ uốn khúc, núi đến đâu nước theo đến đó. Cái thâm
thúy của thiên địa giao thái chính là vậy.
Trên là Đại thư hùng chi phối vạn vật, hình thành Xuân Hạ Thu Đông, âm
dương đắp đổi tuần hoàn không dứt, một năm khí vận là ở đây, ngàn năm khí
vận cũng là đây.
Sự thực về Sơn tinh trong Tinh bàn
Trên tinh bàn Huyền không phi tinh bao gồm: vận bàn-hướng bàn-sơn bàn,
trong đó vận tinh bàn là cơ sở để lập hướng bàn và sơn bàn. Các phái phi tinh
đều thống nhất quan điểm hướng bàn và hướng tinh quản tài lộc suy vượng.
Riêng sơn bàn và sơn tinh thì 5 phái cho rằng quản nhân đinh suy vượng, riêng
Trung Châu thì lại cho rằng sơn bàn và sơn tinh có liên quan đến nhân đinh
nhưng không thực là yếu tố quản sự suy vượng của nhân đinh, sơn bàn và
hướng bàn là yếu tố cần thiết khi luận nhân đinh suy vượng chứ không phải yếu
tố quyết định. Yếu tố quyết định quản nhân đinh chính là Bài long bí quyết. Có
sự khác biệt này giữa Trung Châu và 5 phái còn lại do xuất phát từ lý luận của
phái này cho rằng
Bài long quyết thuộc tiên thiên, lập hướng thuộc hậu thiên. Tiên thiên là dương,
hậu thiên là âm. Huyền không phong thuỷ rất trọng âm dương tương ứng.
Thanh nang kinh viết “âm dương tương ứng, phúc lộc vĩnh trinh; âm dương
tương thừa, hoạ cữu chủng môn” .
Đây là nguyên văn của Trung Châu phái, như vậy phái này cho rằng yếu tố
quyết định suy vượng của nhân đinh(và cả tài lộc) chính là tiên thiên, từ tiên
thiên bài long pháp mà quyết định hướng cát là hậu thiên.
Thực ra đây là đoạn lý luận không rõ ràng (cũng có thể Nam Phong chưa hiểu
thấu đáo thâm ý bên trong). Nếu căn cứ vào 2 phép dùng của Ai tinh bên trên thì
sẽ thấy mọi thứ được lý giải hết sức dễ dàng: Huyền không phi tinh sau khi lập
vận bàn, căn cứ vào vận bàn này mà lập hướng bàn và sơn bàn. Hướng bàn chủ
tài lộc, lấy thủy làm căn cứ để luận, thủy vốn thuộc tiên thiên, hướng động cũng
thuộc tiên thiên nên dùng phương vị Lường thiên xích để lập bàn vì Lường
thiên xích phản ánh thiên vận và chủ về thời gian biến đổi. Sơn bàn liên quan
nhân đinh, lấy sơn làm căn cứ để luận, sơn vốn thuộc hậu thiên, tọa tĩnh cũng
thuộc hậu thiên nên dùng phương vị 8 quái Hậu thiên bài theo vòng tròn để lập
bàn vì 8 quái Hậu thiên phản ánh địa vận và chủ về không gian. Điều này đã
được Địa Lí Băng Hải viết “Hậu thiên lai long Tiên thiên hướng”, Nguyên
Không Pháp Giám viết “Nội tầng Tiên thiên chủ thủy, ngoại tầng Hậu thiên chủ
khí, long sơn” “Thiên vận ở trên chủ động dùng để tiêu thủy, địa trấn ở dưới
chủ tĩnh dùng để cách long lập huyệt”, Tam Tinh Long Quyết viết “Tiên thiên
luận thủy, hướng. Hậu thiên định long, huyệt”
Như vậy thì rõ ràng sơn bàn trong tinh bàn Huyền không phi tinh hiện nay cũng
áp dụng phương vị Lường thiên xích để bài như hướng bàn thực sự không phải
yếu tố quyết định quản nhân đinh suy vượng. Điều này ai đã từng thực nghiệm
nhiều và đối chiếu ắt có biết, có băn khoăn nhưng vì sách vở viết như vậy nên
chẳng dám nghi ngờ. Thực chất người khá thành thạo Huyền không phi tinh và
hay sử dụng nhiều sẽ xem trọng hướng tinh hơn sơn tinh , và trong đoán nghiệm
cũng hay dùng hướng tinh chứ ít dùng sơn tinh, và thực tế hướng tinh ứng
nghiệm chuẩn xác, sơn tinh thì khá mơ hồ, những người hiểu điều này thực đã
có căn duyên với Phong thủy, sơn tinh quả thực ít ứng nghiệm do nó chỉ là phần
phụ chứ không phải quyết định quản nhân đinh suy vượng.
Như vậy thì sơn bàn và cụ thể là sơn tinh tại sơn làm gì? Nam Nữ gặp nhau mà
thành chồng vợ, từ đó sinh con cái, nuôi dưỡng tốt thì con cái nên người, nuôi
dưỡng không tốt thì con cái hư hỏng,
SƠN BÀN VÀ SƠN TINH TẠI SƠN LÀ CÁI QUYẾT ĐỊNH CON CÁI
ĐƯỢC NUÔI DƯỠNG TỐT(SƠN TINH SINH VƯỢNG) HAY KHÔNG
TỐT(SƠN TINH SUY TỬ), VIỆC CHỒNG VỢ CÓ CON CÁI HAY KHÔNG
LẠI ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH Ở BÀI LONG, NHƯ VẬY CHO DÙ SƠN TINH
SINH VƯỢNG MÀ BÀI LONG HUNG (TỨC KHÔNG CON CÁI) THÌ CÓ Ý
NGHĨA GÌ?
“Thư dự Hùng giao hội hợp Nguyên không Hùng dự Thư Nguyên không quái
nội thôi”
Như vậy Sơn bàn và sơn tinh sinh vượng thực ra là cái túi, là cái “tàng phong tụ
khí” để nhân đinh sinh vượng, sơn bàn và sơn tinh suy tử là “tán khí” làm nhân
đinh suy. Cái yếu tố quyết định sinh tử của nhân đinh chính là Phép ai tinh trên
vòng Hậu thiên quái, vòng chu thiên Xuân Hạ Thu Đông tuần hoàn mãi mãi.
Sơn bàn và Ai tinh theo vòng chu thiên là hai yếu tố không thể tách rời nhau,
chúng liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Hợp hai điều
này để luận mới đẩy đủ cho việc định suy vượng nhân đinh.
(Phần sau Nam Phong sẽ nói rõ hơn về sự kết hợp hai yếu tố này trong tinh bàn
Phi tinh 24 sơn)
Nhị thập tứ sơn Áo ngữ An tinh pháp.
Như vậy đến đây cho thấy Huyền không phi tinh thực chất chỉ có một phương
thức lập tinh bàn mà thôi (bàn Hạ quái, không dùng Thế quái). Người học
Huyền không phi tinh đã hiểu sự ứng nghiệm của môn này nhưng khi tìm hiểu
sâu thì đến một lúc nào đó sẽ cảm thấy trong lý luận của phái này còn có một số
vấn đề khiến họ phân vân. Một trong những vấn đề lớn nhất đó là: trong một
quái 3 sơn thì lúc nào cũng có 2 sơn đồng âm dương với nhau có cùng một tinh
bàn như nhau, như tọa Tý hướng Ngọ, tọa Quý hướng Đinh, tọa Cấn hướng
Khôn, tọa Khôn hướng Cấn... Theo tinh bàn(không bàn về loan đầu) thì các sơn
hướng này cát hung như nhau, tuy nhiên thực tế có phải như vậy không? Hoàn
toàn không như nhau. Điều này làm người học lo lắng và đặt nghi vấn: liệu
Huyền không phi tinh có phải là chân pháp của phong thủy? Nghi vấn này hoàn
toàn có cơ sở và chính đáng.
Tôi từ khi rõ phép Ai tinh của Áo ngữ đã cẩn thận đọc nhiều lần sách này và
Bảo chiếu, qua đó đã hiểu rõ phép Ai tinh của Áo ngữ là sự chỉ dẫn cách Ai
tinh, tuân thủ luật của Ai tinh này có thể dùng không phải chỉ một phép Ai tinh.
Căn bản có 2 cách mà cổ thư gọi là: Cửu tinh cửu cung ai tinh và Bát cung
chưởng quyết ai tinh. Từ đây xem xét đã hiểu rõ Tinh bàn huyền không phi tinh
cho các sơn đồng âm dương như đã nói ở trên thì cát hung thực sự khác nhau,
không phải như nhau. Tưởng Công đã hiểu rõ điều này nhưng không bao giờ
nói rõ, dấu nó ở trong phần chú thích sách Áo ngữ và Bảo chiếu trong quyển
Địa lí biện chính của mình, Khương Diêu một đời theo thầy (Tưởng Đại Hồng)
nhưng cũng không đắc được chân quyết. Chương Công (Chương Trọng Sơn)
trong âm dương nhị trạch đoán nghiệm cũng không hề đề cập đến điều này dù
ông biết rõ nó. Triệu Công (Triệu Liên Thành) cũng rõ điều này nhưng điên đảo
thế nhân bằng thông căn quyết 8 quái (Nhâm thông Thìn, Quý thông Tị…)...
ngẫm lại các tôn sư đó thật không phải cố tình dấu giếm, chẳng qua lo người đời
hám lợi hám danh mà làm xằng bậy nên ẩn dấu bí quyết trong câu chữ của các
kinh văn phong thủy, người thật tâm cầu và thận trọng cuối cùng sẽ ngộ được
những cái bí ẩn đó và khi đó sẽ không sợ sai nhầm vì muốn hiểu được bắt buộc
phải tôi luyện kiến thức về Tiên Hậu thiên tâm pháp ở một mức cao. Ngoài ra
những ai đã nắm khá rõ về Tam đại quái nếu biết cách kết hợp với tinh bàn
huyền không phi tinh bài theo cách này sẽ thấy uy lực thật sự của nó, đó chính
là Đại-Tiểu huyền không hợp nhất.
Áo ngữ Huyền không Phi tinh pháp (tiểu huyền không)
Từ sách Áo ngữ và chú thích của Tưởng Công mà tôi rõ được phép Ai tinh này
nên chính thức dùng tên gọi Áo ngữ Huyền không phi tinh. Phép bài tinh bàn
này tinh vi hơn phép của Thẩm Thị rất nhiều (Thẩm Thị công bố đầu tiên nên
gọi như vậy cho xứng công của họ Thẩm), từ đây thay đổi gần như toàn bộ nền
tảng của Phi tinh.
Bài vận bàn:
Vận tinh nhập trung thuận phi 9 cung làm lệ, như vận 8 thì 8 nhập trung phi
động 9 cung như sau
7---3---5 6---8---1 2---4---9
Theo vận bàn làm lệ bên trên, bài vận bàn trên 24 sơn, tinh ở quái nào sẽ trú
đóng tại cả 3 sơn đó, như vận bàn bên trên thì 7 đóng tại quái Tốn nên cả 3 sơn
Thìn Tốn Tị đều là 7, như sau:
Bài hướng bàn:
Lấy sao vận tại hướng nhập trung, căn cứ vào âm dương của sơn sao vận đó tại
địa bàn mà thuận phi hay nghịch phi qua 24 sơn, mỗi vòng 8 sơn (và cả trung
cung nửa là 9) kết thúc thì lấy số kết thúc làm số khởi đầu vòng tiếp theo.
Dương Thuận phi thì theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân, Thiên-Nhân-Địa, Nhân-Địa-
Thiên; Âm Nghịch phi thì theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, Thiên-Địa-Nhân, Địa-
Nhân-Thiên.
Lấy nhà vận 8 tọa Tân hướng Ất 104 độ làm ví dụ:
Tại hướng sao vận là 6, vận tinh 6 ứng với sơn Nhân tại địa bàn là Hợi, là
dương nên thuận phi theo thứ tự Nhân-Địa-Thiên, lấy sao 6 nhập trung thuận
phi, 7 đến Hợi, 8 đến Tân, 9 đến Dần, 1 đến Đinh, 2 đến Quý, 3 đến Thân, 4 đến
Ất, 5 đến Tỵ, là hết vòng ai Nhân quái.
Sao 5 hồi trung cung bắt đầu vòng Địa: 6 đến Tuất, 7 đến Canh, 8 đến Sửu, 9
đến Bính, 1 đến Nhâm, 2 đến Mùi, 3 đến Giáp, 4 đến Thìn, là hết vòng ai Địa
quái.
Sao 4 hồi trung cung bắt đầu vòng Thiên: 5 đến Càn, 6 đến Dậu, 7 đến Cấn, 8
đến Ngọ, 9 đến Tý, 1 đến Khôn, 2 đến Mão, 3 đến Tốn.
Vòng trong là vận bàn vận 8, vòng ngoài là hướng bàn hướng Ất
Như vậy sao đầu hướng lần lượt theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân là 3-2-4, vận 8 nhà
tọa Tân hướng Ất mở cửa chính tại Ất thì suy, tại Mão thì tài lộc rất xấu, riêng
tại Giáp khã dĩ dùng được do 3 hợp cùng vận 8 là hợp số của Hà đồ, nếu không
mở tại Giáp được mà phải dùng Ất(do nhà dài nên cung Ất chiếm trọn đầu
hướng) thì phải dùng cách bổ cứu, tuy nhiên không thể luận riêng Hướng bàn
mà phải kết hợp toàn bàn để luận, do đó phần này Nam Phong chỉ dẫn lập bàn
mà thôi, phần sau sẽ luận sâu về cách cục khi đã lập hoàn chỉnh Tinh bàn.
Bài sơn và bài long bàn:
Bài sơn bàn Lấy sao vận tại tọa nhập trung, căn cứ vào âm dương của sơn sao
vận đó tại địa bàn mà thuận phi hay nghịch phi qua 24 sơn, mỗi vòng 8 sơn(và
cả trung cung nửa là 9) kết thúc thì lấy số kết thúc làm số khởi đầu vòng tiếp
theo. Dương Thuận phi thì theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân, Thiên-Nhân-Địa, Nhân-
Địa-Thiên; Âm Nghịch phi thì theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, Thiên-Địa-Nhân,
Địa-Nhân-Thiên.
Vẫn dùng nhà tọa Tân hướng Ất 104 độ bên trên, ví dụ có ngã ba đường tại Tý,
như vậy xem như thủy khẩu tại Tý. Lai khí đến từ Tý.
Tại sơn sao vận là 1, vận tinh 1 ứng với sơn Nhân tại địa bàn là Quý, là âm nên
nghịch phi theo thứ tự Nhân-Thiên-Địa, lấy sao 1 nhập trung thuận phi, 9 đến
Hợi, 8 đến Tân, 7 đến Dần, 6 đến Đinh, 5 đến Quý, 4 đến Thân, 3 đến Ất, 2 đến
Tỵ, là hết vòng ai Nhân quái. Sao 2 hồi trung cung bắt đầu vòng Thiên: 1 đến
Càn, 9 đến Dậu, 8 đến Cấn, 7 đến Ngọ, 6 đến Tý, 5 đến Khôn, 4 đến Mão, 3 đến
Tốn. Sao 3 hồi trung cung bắt đầu vòng Địa: 2 đến Tuất, 1 đến Canh, 9 đến Sửu,
8 đến Bính, 7 đến Nhâm, 6 đến Mùi, 5 đến Giáp, 4 đến Thìn, là hết vòng ai Địa
quái.
Bài long bàn
- 24 sơn chia làm 12 cung vị, 2 sơn một cung vị: Tý Quý, Sửu Cấn, Dần Giáp,
Mão Ất, Thìn Tốn, Tị Bính, Ngọ Đinh, Mùi Khôn, Thân Canh, Dậu Tân, Tuất
Càn, Hợi Nhâm.
- 12 địa chi là âm: Tý Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi,
thuận bài 12 cung vị.
- 8 can và 4 duy quái là dương: Giáp Canh Nhâm Bính Ất Tân Đinh Quý Càn
Khôn Cấn Tốn, nghịch bài 12 cung vị.
- Phép bài lần lượt sắp theo thứ tự:
Thuận bài:
Phá quân, Hữu bật, Liêm trinh, Phá quân, Vũ khúc, Tham lang, Phá quân, Tả
phụ, Văn khúc, Phá quân, Cự môn, Lộc tồn
Nghịch bài:
Phá quân, Lộc tồn, Cự môn, Phá quân, Văn khúc, Tả phụ Phá quân, Tham lang,
Vũ khúc Phá quân, Liêm trinh, Hữu bật.
- Cát long: Hữu bật, Tham lang, Vũ khúc, Cự môn, Tả phụ. Còn lại là hung
long, tuy nhiên đây chỉ là đại ước, trong từng trường hợp cụ thể cát hung long
sẽ cụ thể hơn.
(Đây cũng chính là Bài long pháp của Trung Châu, tuy nhiên về bản chất có
khác chút ít, cái này thuộc Tiên Thiên tâm pháp nên Nam Phong không giải
thích sâu ở mục này)
Theo ví dụ trên, lai khí đến từ Tý, âm nên thuận bài: Tý Quý: Phá quân, Sửu
Cấn: Hữu bật, Dần Giáp: Liêm trinh...
Vòng trong là Vận bàn, vòng kế đó là hướng Ất bàn, vòng kế là sơn Tân bàn,
vòng ngoài cùng là bài long bàn.
Như vậy tọa sơn theo thứ tự Địa-Thiên-Nhân là 1-9-8.
Bài long Phá quân long đến đầu hướng, Phá quân long đến tọa sơn.
Tại vận 8 Phá quân long là hung long lại trấn ngay đầu hướng và tọa sơn nên
xấu. Tại tọa sơn các sơn tinh đều là sinh vượng 1-9-8, tại phương Tân và Dậu
(sao 8 và 9) nên phong bế để tàng giữ sinh vượng khí, tại phương Canh (sao 1)
lại cần nên trống thoáng hoặc mở cửa để Xuất sát, bởi vì sao 1 tuy là tiến khí
nhưng lại khắc sát vận 8 và lại khiến Phá quân long đầu hướng bị sinh xuất
(Kim sinh Thủy), Phương Dậu và Tân phong bế để tàng khí chính là "THU
SƠN", phương Canh trống thoáng và mở cửa để hóa sát chính là "XUẤT SÁT".
Thu sơn xuất sát tại sơn (đầu hướng thì cách dùng khác) của Áo Ngữ Huyền
Không Phi tinh chính là cái này.
Tuy nhiên Phá quân long lại ở đầu hướng nên cho dù thực hiện phong bế Dậu
Tân, khai mở Canh thì cũng chỉ bình an, không thể sinh vượng do Phá quân
long tại vận 8 là hung long. Trong 12 cung vị cát long chỉ có 5 mà hung long lại
đến 7, như vậy thì sao? Thực ra trong bài long pháp khởi 4 Phá quân đi đầu là
có lý do của nó, nếu bài long thực sự gặp Phá quân ngay tại đầu hướng mà ở
vận 7 (đương vận Phá quân) hoặc vận 2 (7-2 sinh thành nguyên vận số, không
phải Hà đồ số, cái này Nam Phong sẽ nói rõ trong phần Linh thần, chính thần và
chiếu thần) thì lại trở thành cát long, các vận khác nếu muốn dùng Phá quân
long "chuyển họa vi tường đại cát xương" thì phải dụng cả 4 Phá quân cùng lúc.
Như trường hợp này phong bế Ngọ Đinh, Tý Quý, Mão Ất, Dậu Tân. 4 phương
Phá quân không đương vận được phong bế tức "hóa sát vi quyền", chuyển họa
thành phúc. Nếu không đủ điều kiện làm được như trên, chỉ phong bế được 2
hoặc 3 phương thì bại rất nhanh không gì cứu vãn được, đây là một trong những
bí mật của Áo Ngữ Phi tinh, các bạn phải lưu tâm cho kỹ.
Như vậy cơ bản mà nói thì khai chính môn tại Giáp, Phong bế Dậu Tân, Ngọ
Đinh, Tý Quý, Mão Ất, mở cửa sau tại Canh thì tài lộc được khá, nhân đinh
bình an.
(Phần sau sẽ luận sâu hơn về cục thế này bằng Tam đại quái-Tam nguyên vận)
Huyền không Tam đại quái:
Tam đại quái là linh hồn của Huyền không nhưng người hiểu được nó thì lại rất
ít và hầu như đều giấu đi không nói rõ. Từ Dương, Tằng, Tưởng Công chưa ai
thực sự công khai Tam đại quái, nói về nó sách Biện chính của Đái Công có các
đồ hình bát quái phân tam quái, bát quái phân nhị quái, bát quái thống nhất quái,
tuy nhiên lời giải nghĩa hết sức mơ hồ, đồ hình thì mù mịt; Mộng Giác Sơn
Nhân trong quyển Hoàng Kim Đỉnh cũng chỉ nói thoáng qua; Địa Lý Băng Hải
cũng có đề cập nhưng không giải thích nên người đọc qua gần như không để
tâm tìm hiểu; Nguyên Không Pháp Giám thì Tằng Hoài Ngọc có nêu tại Tiên
thiên nguyên vận đồ nhưng cũng không nói rõ.
Xem qua các sách thì chỉ có Thiên Ngọc kinh viết “Nhị thập tứ long quản Tam
quái, mạc dữ thời sư thoại”(24 long quản Tam quái, điều này có mấy thầy
phong thủy hiểu được). Tưởng Công(Tưởng Đại Hồng) chú trong sách Địa lý
biện chính của mình mở đầu viết về Thiên Ngọc Kinh như sau: “Thiên Ngọc nội
truyện, tức là Thanh Nang Áo Ngữ Ai tinh Ngũ hành…”. Như vậy rõ ràng
Thiên Ngọc giải thích nhiều thứ cho Thanh Nang Áo Ngữ.
Tam đại quái sơ giải:
Tam đại quái là Giang đông nhất quái 1-4-7; Giang tây nhất quái 3-6-9; Nam
Bắc nhất quái 2-5-8.
Tại Hậu thiên phương vị thì nhất quái 1-4-7: Khảm Tốn Đoài; nhất quái 3-6-9:
Chấn Càn Ly; nhất quái 2-5-8: Khôn Trung Cấn.
Tại phương vị 24 sơn thì 8 thần Thiên nguyên Tý Ngọ Mão Dậu Càn Khôn Cấn
Tốn là nhất quái 1-4-7; 8 thần Nhân nguyên Quý Ất Đinh Tân Dần Thân Tị Hợi
là nhất quái 3-6-9; 8 thần Địa nguyên Giáp Canh Nhâm Bính Thìn Tuất Sửu
Mùi là nhất quái 2-5-8.
Tại nguyên vận thì 1-4-7 là thượng nguyên; 2-5-8 là trung nguyên; 3-6-9 là hạ
nguyên. Tại quái vị thì 1-4-7 quản Nhâm Tý Quý Thìn Tốn Tị Canh Dậu Tân;
2-5-8 quản Mùi Khôn Thân Trung cung Sửu Cấn Dần; 3-6-9 quản Giáp Mão Ất
Tuất Càn Hợi Bính Ngọ Đinh.
Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh 24 cung vị:
Ngũ hành vốn là chủ tể chi phối tất cả, vạn vật sinh thành hoại diệt không ngoài
sự biến đổi của Ngũ hành. Các Thánh nhân xưa từ “ngẩng xem thiên văn, cúi
xét địa lý” đã rõ cái huyền diệu của Ngũ hành, thế nhưng để người đời có thể
hiểu, có thể học nên đã lấy Bắc đẩu Cửu tinh bao gồm 9 sao: Tham lang, Cự
môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân, Tả phụ, Hữu bật làm
cái dùng để rõ phép biến hóa của Ngũ hành, kinh văn viết “Ngũ tinh phối xuất
Cửu tinh danh” là lẽ đó. Mặc dù đã rõ Cửu tinh nhưng cái lý biến hóa của nó chỉ
có thể hiểu thông qua Tam đại quái. Thanh Nang Áo Ngữ mở đầu viết:
“Khôn Nhâm Ất Cự môn tòng đầu xuất Cấn Bính Tân vị vị thị Phá quân Tốn
Thìn Hợi tận thị Vũ khúc vị Giáp Quý Thân Tham lang nhất lộ hành”
Đây là phép Ai tinh chân chính của Dương Công, về sau có thêm 4 câu nữa như
sau:
“Tý Mùi Mão tam sơn Lộc tồn đáo Càn Tuất Tỵ Văn khúc quái nội khởi Dần
Canh Đinh Phụ tinh tùng thử luân Ngọ Dậu Sửu Bật tinh quái nội tẩu”
4 câu sau này không biết ai công khai nhưng chắc chắn là Tôn sư Phong thủy
mới có thể hiểu 8 câu này và mong muốn truyền lại hậu thế, lấy đó lưu tâm
người học về sự quan trọng của Tam đại quái. Tiếc rằng nhiều người đã hiểu sai
và dùng sai, nhiều chi phái lấy đây làm vòng Ai tinh của 24 sơn, thật hết sức sai
lầm. 4 câu đầu là chỉ dẫn Ai tinh. 8 câu thì lại là sự chỉ dẫn Tam đại quái và sự
suy vượng của 9 tinh theo nguyên vận:
xét Khảm quái 3 sơn:
Nhâm sơn là Cự môn Tý sơn là Lộc tồn Quý sơn là Tham lang
xét Tốn quái 3 sơn:
Thìn sơn là Vũ khúc Tốn sơn là Vũ khúc (thực chất chính là Liêm trinh) Tị sơn
là Văn khúc
Xét Đoài quái 3 sơn:
Canh sơn là Tả phụ Dậu sơn là Hữu bật Tân sơn là Phá quân
Nhất quái 1-4-7 Khảm-Tốn-Đoài có 9 tinh bài liệt đầy đủ và không trùng lắp:
Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
xét Chấn quái 3 sơn:
Giáp sơn là Tham lang Mão sơn là Lộc tồn Ất sơn là Cự môn
xét Càn quái 3 sơn:
Tuất sơn là Văn khúc Càn sơn là Văn khúc (thực chất là Liêm trinh) Hợi sơn là
Vũ khúc
xét Ly quái 3 sơn:
Bính sơn là Phá quân Ngọ sơn là Hữu bật Đinh sơn là Tả phụ
Nhất quái 3-6-9 Chấn-Càn-Ly có 9 tinh bài liệt đầy đủ và không trùng lắp:
Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
xét Khôn quái 3 sơn:
Mùi sơn là Lộc tồn Khôn sơn là Cự môn Thân sơn là Tham lang
xét Cấn quái 3 sơn:
Sửu sơn là Hữu bật Cấn sơn là Phá quân Dần sơn là Tả phụ
Trung cung Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc cùng tại đó(điều này nếu liên hệ 3
nguyên 9 vận biến thành 2 nguyên 8 vận sẽ hiểu)
Nhất quái 2-5-8 Khôn-Trung-Cấn có 9 tinh bài liệt đầy đủ và không trùng lắp:
Tham Cự Lộc Văn Liêm Vũ Phá Phụ Bật
Như vậy nhất quái 1-4-7 thống 9 tinh, nhất quái 3-6-9 thống 9 tinh và nhất quái
2-5-8 cũng thống 9 tinh.
Xét về nguyên vận thì tại vận 1 do Khảm quản, tinh là Tham Cự Lộc; vận 2 do
Khôn quản tinh là Tham Cự Lộc; vận 3 do Chấn quản tinh cũng là Tham Cự
Lộc. Trong thượng nguyên vận này Tham Cự Lộc chính là Tam cát tinh của
nguyên vận.
Tại vận 4 do Tốn quản, tinh là Văn Liêm Vũ; tại vận 6 do Càn quản, tinh cũng
là Văn Liêm Vũ. Trong trung nguyên vận này Văn Liêm Vũ chính là Tam cát
tinh của nguyên vận. Tại vận 7 do Đoài quản, tinh là Phá Phụ Bật; vận 8 do Cấn
quản tinh là Phá Phụ Bật; vận 9 do Ly quản tinh cũng là Phá Phụ Bật. Trong hạ
nguyên vận thì Phá Phụ Bật chính là Tam cát tinh của nguyên vận.
Dương Công Tam đại quái thống quản Cửu tinh trên 24 cung vị, định suy
vượng 3 nguyên 9 vận, 2 nguyên 8 vận. Lấy đó mà suy lường sơn thủy vượng
hợp hay suy bại, lấy đó mà định cục phát lúc nào và không phát lúc nào, lấy đó
mà xem sơn thủy tương giao hay khắc sát… hầu hết dùng cho Âm trạch.
Một ví dụ về sự kỳ lạ của Tam đại quái-Bí quyết nhận long thủy lập hướng của
Huyền không:
Kinh văn hay viết rằng: “cục cục không ngoài 2-5-8, long hướng thủy không
ngoài 2-5-8 là tương hợp, ngoài thì không tương hợp” là sao? Như lai long ở
Khảm, lai thủy ở Tốn, lập huyệt thế nào? Lấy khảm 1 nhập trung nghịch phi:
2---6---4 3---1---8 7---5---9
Như vậy long Khảm là 5, thủy Tốn là 2, hướng thì phải 8 tức Đoài, lập huyệt
tọa Mão hướng Đoài, Khảm Tốn Đoài, Long Thủy Hướng không phải 1-4-7
nhất quái sao? Không phải tất cả đều là 2-5-8 hay sao?
Thêm ví dụ lai long ở Càn, thủy tại Chấn, lập huyệt thế nào? Lấy Càn 6 nhập
trung nghịch phi:
7---2---9 8---6---4 3---1---5
Như vậy long Càn là 5, thủy Chấn là 8, hướng thì phải 2 tức là Ly, lập huyệt tọa
Khảm hướng Ly, Chấn Càn Ly, Thủy Long Hướng không phải 3-6-9 nhất quái
sao? Không phải tất cả đều là 2-5-8 hay sao?
48 cục thế Long Hướng Thủy đúng phép đều không ngoài Tam đại quái(24 sơn,
thuận 1 cục, nghịch 1 cục thành 48 chính cục), đều không ngoài 2-5-8 đảo bài
pháp. Đây mới là chân chính dụng pháp Tam đại quái của Dương Công, các cục
thế đều tọa 5 cả, không ngoài con số 5 này, từ đây mới là Long Thủy tương
phùng. Nhầm lẫn con số 5 này là Ngũ hoàng hung tinh nên phái nói gặp 5 thì
tốt, phái cho gặp 5 thì xấu, cãi loạn cả lên.
Các bạn có thể khảo sát các mộ huyệt xưa, các đình chùa lớn sẽ thấy phần nhiều
hợp với Tam đại quái Long-Hướng-Thủy như trên, đương nhiên trong âm trạch
ngoài phép này ra còn Khảm Ly giao cấu và Tiên Hậu thiên lập hướng
pháp(Hậu thiên lai long Tiên thiên hướng) là hai phép định long nhận thủy lập
hướng rất quan trọng nửa, tuy nhiên xét về mức độ thì Tam đại quái bao trùm
hơn.
Nam Phong trích lời chú giải của Tưởng Đại Hồng một đoạn của Thiên Ngọc
Kinh để nói về Tam đại quái Long Thủy Hướng bên trên:
Càn sơn Càn hướng thuỷ triều Càn Càn phong xuất trạng nguyên Mão sơn mão
hướng mão nguyên thuỷ Sậu phú thạch sùng bỉ Ngọ sơn ngọ hướng ngọ lai
đường Đại tướng trị biên cương Khôn sơn khôn hướng khôn thuỷ lưu Phú quý
vĩnh vô hưu
Đó là Huyền không đại quái pháp hướng thủy kiêm thu, cử 4 sơn làm lệ, kỳ dư
đều thuần thanh trong quẻ nội, sơn ở trong quẻ Càn là hướng quẻ nội cung Càn,
mà thu nước quẻ nội cung Càn, tức long hướng thủy 3 điều đều quy sinh vượng
vậy.
Đây không phải thuyết hồi long cố tổ, hoặc nói trạng nguyên hoặc nói đại
tướng, hoặc nói chợt giàu, đều cử làm ý là vậy không nên câu chấp Trên là một
trong những bí mật sâu kín của Huyền không. Tam đại quái biến hóa thiên hình
vạn trạng, không thể diễn tả hết trong đôi ba bài viết, và cũng để không rối các
bạn đọc, Nam Phong chốt lại các vấn đề cơ bản cần nhớ về Tam đại quái trước
khi đi tiếp các phần sau:
Nhất quái 1-4-7: Khảm Tốn Đoài; nhất quái 3-6-9: Chấn Càn Ly; nhất quái 2-5-
8: Khôn Trung Cấn.
Thiên nguyên Tý Ngọ Mão Dậu Càn Khôn Cấn Tốn là nhất quái 1-4-7; Nhân
nguyên Quý Ất Đinh Tân Dần Thân Tị Hợi là nhất quái 3-6-9; Địa nguyên Giáp
Canh Nhâm Bính Thìn Tuất Sửu Mùi là nhất quái 2-5-8.
Hướng bàn hợp Tam đại quái và Nguyên vận định Tài lộc suy vượng:
Ứng dụng Tam đại quái vào Huyền không Phi tinh là một bí mật, đòi hỏi sự
thấu hiểu rất rõ về Tam đại quái nếu không thì phúc chưa đến mà họa lại đến rất
nhanh. Thiên Ngọc kinh viết:
"Thức đắc phụ mẫu tam ban quái, Tiện thị chân thần lộ Bắc đẩu thất tinh khứ đã
kiếp, Ly cung yếu tương hợp"
Nhiều người đã giải thích 2 câu này nhưng Huyền cơ bên trong vẫn còn ẩn giấu,
kinh văn đã nói rất rõ muốn hiểu được "Bắc Đẩu thất tinh", "Ly cung tương
hợp" thì phải hiểu thấu Tam quái, hiểu Tam quái thì chân thần tất nhiên sẽ lộ.
Lấy bàn nhà Hướng Ất 104 độ bên trên:
Vòng đỏ là hướng tinh.
Ở mức căn bản thì chúng ta sẽ tìm nơi hướng tinh sinh vượng để bài thủy, khai
môn, lộ... để làm vượng thủy, đó là các nơi có hướng tinh 8, 9 và 1. Đó là các
sơn: Tân Ngọ Sửu Bính Tý Dần Đinh Khôn Nhâm.
Do là hướng Ất Nhân nguyên nên ưu tiên các sơn đồng Nhân nguyên: Tân Dần
Đinh.
Nhân nguyên khả kiêm dùng Thiên nguyên nên ưu tiên kế tiếp các sơn Thiên
nguyên: Ngọ Tý Khôn. Riêng các sơn Địa nguyên thì miễn cưỡng có thể dùng
nhưng tác dụng không nhiều.
Ở mức cao hơn một chút thì
Khai chính môn tại Giáp (như bài trước đã nói):
Giáp địa nguyên nên ưu tiên dùng các sơn Địa nguyên: Bính Sửu Nhâm, trong
đó Sửu là đắc dụng nhất do là Thành môn của Giáp, kế đó là Bính do tương sinh
cùng Tam bích mộc, sau cùng là Nhâm cũng tương sinh cùng Tam bích mộc.
Có thể dùng thêm các sơn Nhân nguyên vì nhà vẫn là hướng Ất, trong đó Ngọ
và Tý đắc dụng còn Khôn thì yếu hơn.
Các sơn Thiên nguyên miễn cưỡng dùng thì tác dụng cũng không được bao
nhiêu.
Ở mức cao hơn dùng Tam đại quái và Nguyên vận:
Ất vốn thuộc quái Chấn, hợp cùng Đinh thuộc quái Ly và Hợi thuộc quái Càn
thành nhất quái 3-6-9.
Tại vận 8 thuộc Hạ nguyên thì Nhân nguyên vượng, 7-8-9 vượng.
Tuy nhiên các sao hướng tại Ất Đinh Hợi lại là 4-1-7, thuộc về nhất quái Thiên
nguyên vượng tại thượng nguyên suy tại hạ nguyên, như vậy thì hợp số 4-1-7
này mặc dù là đồng nguyên nhưng suy không thể dùng.
Xem tại cung Giáp có số là 3, tương ứng hai cung của nhất quái 3-6-9 là Bính
có tinh là 9 và Tuất có tinh là 6, 3-6-9 lại là bộ số của Nhân nguyên, như vậy
Giáp mặc dù là cung Địa nguyên nhưng khã dùng, khai môn tại Giáp, hợp cùng
việc khai môn(hoặc bài thủy, lộ...) tại Bính và Tuất, trong đó lấy Bính làm chủ
thì được cục thế vượng tài. Lưu ý rằng 3 cung này phải trống thoáng mới có thể
thông khí và vượng tài toàn bàn.
Cũng là hợp số 3-6-9 như tại bộ ba sơn Tốn Tý Dậu thì lại không thể dùng bởi
vì tuy Tốn cũng là tinh 3, Tý cũng là tinh 9 nhưng Tốn lại xuất quái so với
hướng Ất, đây là điều quan trọng cần ghi nhớ. Nếu có thể mở được đại môn tại
Tốn và thông khí tại Tý Dậu thì cũng dùng được nhưng vượng khí không được
lâu dài "nhược bằng tá khố phú hoàn bần, tự khố lạc trường xuân", đồ mượn
dùng(Tốn ngoài quái Chấn) thì sớm muộn cũng phải trả lại, chỉ có đồ của chính
mình(Giáp trong quái Chấn) mới lâu dài.
Còn sao 8 đương vận sao không nói đến? như tại Sửu là 8, trung là 5, Mùi là
2(đường màu xanh trên hình), là bộ số 2-5-8 lại ở ngay Địa nguyên quái, đắc
nguyên vận, đắc quái sao lại không dùng? Đó là vì nó lọt ở trung cung nên
không thể dùng. Trung cung chưởng quản 8 phương, không thể lấy mà dùng,
nếu dùng thì hỏng trung cung, tức hỏng khí toàn bàn, phải hết sức lưy ý điều
này.
Thiên Ngọc Kinh:
"Thức đắc phụ mẫu tam ban quái, Tiện thị chân thần lộ"
Đó là bài Tam đại quái thông khí pháp bên trên thì suy cục có thể biến thành
vượng cục. Nói "chân thần lộ" chính là như vậy.
"Bắc đẩu thất tinh khứ đã kiếp, Ly cung yếu tương hợp"
Bắc Đẩu lấy 7 bước lùi tinh mà đếm(khứ là lùi), cửu tinh 9 8 7 6 5 4 3 2 1 đếm
lùi 7 bước chính là Tam đại quái.
1 lùi 7 thành 4, 4 lùi 7 thành 7, 7 lùi 7 thành 1. 2 lùi 7 thành 5, 5 lùi 7 thành 8, 8
lùi 7 thành 2 3 lùi 7 thành 6, 6 lùi 7 thành 9, 9 lùi 7 thành 3
"Đã kiếp" chính là cướp khí, 1-4-7, 2-5-8, 3-6-9 tùy nguyên tùy vận mà dùng
khã dĩ thông đoạt khí, đây mới chính là cướp khí thật sự, không phải cướp khí
như song tinh đáo hướng của các phái khác. Hình tam giác này ứng dụng rất
lớn, phương Tây dùng nó làm rất nhiều thứ. Tam Hợp chính thống là đây,
Huyền không chính thống là đây, Tứ đại cục chính thống là đây... tất cả đều quy
về Tam đại quái.
"Ly cung" chính là rời bản cung như hướng Ất bên trên mà lại dùng Giáp, "yếu
tương hợp" chính là cần hợp sinh vượng nguyên vận, trường hợp "ly cung" xa
quá như bên trên nếu dùng qua đến Tốn thì "yếu tương hợp" cần được đặc biệt
xem trọng.
Đến đây các bạn thực nghiệm nhiều lần có thể áp dụng Tam đại quái và Nguyên
vận phối hợp với Hướng bàn được rồi. Tam đại quái không phải chỉ có thể, tuy
nhiên vì mức độ khó của nó nên Nam Phong chỉ dẫn đến mức này mà thôi, đủ
để hóa sát vi quyền. Riêng việc sinh khắc ngũ hành, địa bàn các thứ thì các bạn
đã học Huyền không phi tinh hẳn biết áp dụng, Nam Phong không nói thêm vì
rườm rà và dài quá.
Sơn bàn hợp Bài long định Nhân đinh suy vượng:
Cần phải nói rõ về phép này âm trạch và dương trạch có cách dùng khác nhau.
Phần này Nam Phong nói về Dương trạch. Dùng tinh bàn tọa Tân hướng Ất bên
trên, vòng chữ xanh là sơn tinh, vòng ngoài cùng là bài long 12 tinh:
Tọa Tân sơn tinh 8, hướng Ất sơn tinh 3.
Đầu hướng bài long Phá quân trú đóng, Phá quân Kim trang tại hướng thượng
gặp sơn tinh 3 bích Mộc, 3 bích Mộc gặp Phá quân Kim khắc, đó là khắc nhập,
Kinh văn viết "bát thủy nhập linh đường", Tưởng Công chú thích đó là "linh
thần trang tại hướng thượng khắc nhập", sơn tinh 3 được khắc nhập nên toàn thu
Phá quân đầu hướng. Sơn tại hướng cát.
Tọa sơn bài long Phá quân trú đóng, Phá quân Kim trang tại tọa sơn gặp sơn
tinh 8 bach Thổ, 8 bạch Thổ gặp Phá quân Kim là sinh xuất, Thổ sinh Kim.
Kinh văn viết "nhược ngộ chính thần chính vị trang", Tưởng Công chú thích đó
là chính thần trang tại tọa sơn sinh nhập tọa sơn, tuy nhiên 8 bạch Thổ không
được sinh nhập mà lại sinh xuất nên không thu được Phá quân tại tọa sơn. Sơn
tại tọa vì thế không cát.
Như vậy sơn tại hướng cát nhưng tại tọa không cát (do là đương lệnh vượng
tinh nên dù sinh xuất cũng không hung, chỉ là không cát, có nghĩa là sơn tinh 8
tại Tân vô lực).
Như vậy hợp cách thì nhà tọa Tân hướng Ất 104 độ khai chính môn tại Giáp, tại
Ất phong bế và bài các vật nặng hoặc phía bên ngoài nhà phương Ất bài sơn để
vượng sơn tại đây, lại cần phải phong bế 4 vị trí Phá quân để chuyển Phá quân
từ hung thành cát(đã nói bên trên).
Bình thường tọa Tân hướng Ất vận này song tinh 8 đến tọa sơn, nhiều người
hay dụng bài sơn, bài thủy tại tọa sơn để vượng tài lộc và nhân đinh. Tuy nhiên
với cách cục như ví dụ này đã cho thấy rõ hai sao 8 tại tọa sơn cái thì vô lực, cái
lại không phải hay. trong khi đó đôi sao 3(hướng tinh 3 tại Giáp, sơn tinh 3 tại
Ất) ở nơi đầu hướng lại tỏ ra hiệu quả. Đây là sự khác biệt hoàn toàn với Huyền
không phi tinh hiện nay hay dùng, những người dùng Huyền không phi tinh
hiện nay khi bố trí cho cục Tân Ất vận 8 hẳn phải nhận thấy rất ít có hiệu quả
mà không lý giải được, tương tự cho Đinh Quý, Thìn Tuất, Sửu Mùi.
Sự kỳ diệu của Lập hướng kiêm thu
Đây là bí mật lập hướng kiêm hay không kiêm của Áo ngữ Huyền không Phi
tinh. Như tọa Tân hướng Ất 104 độ bên trên thì đầu hướng Bài long khắc nhập
sơn tinh 3 là cát nhưng tọa sơn lại sinh xuất sơn tinh 8 nên không cát. Nếu có
thể xoay một chút lập hướng 110 độ thì đầu hướng bài long Phá quân kiêm Vũ
khúc khắc nhập cho sơn tinh 3 kiêm sơn tinh 4(tại Ất và Thìn). Tại tọa sơn thì
bài long Phá quân kiêm Cự môn Thổ tỷ hòa cùng sơn tinh 8 và 2(tại Tân và
Tuất) nên trở thành cát. Tại sao lại tỷ hòa trong khi có Phá quân Kim? do 3 thổ
trùng trùng nên Phá quân thành vô lực.
Như vậy nếu xoay một chút thành 110 độ thì mọi thứ sẽ khác hẳn.
Phần này Nam Phong viết ngắn gọn vậy thôi, nhưng rất quan trọng trong việc
Quyền nghi lập hướng, các bạn suy ngẫm nhiều cục thế tất sẽ tự rõ.
Chủ khách luận đắc thất-Ngũ hành thống 9 tinh
Tại sơn thì sơn tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ trợ Tại hướng thì
hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận tinh bổ trợ Tại các sơn khác thì dụng
thủy thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận tinh bổ trợ. Dụng sơn thì sơn
tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ trợ.
Lấy ví dụ tọa Tân hướng Ất 104 độ bên trên:
Tại hướng, hướng thì hướng tinh 4 cùng sơn tinh 3 đều là Mộc nên tỷ hòa,
hướng tinh đắc vị, hướng tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận
tinh).
Tại sơn, sơn tinh 8 hướng tinh 8 cùng là Thổ nên tỷ hòa, sơn tinh đắc vị, sơn
tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận tinh).
Nhà khai chính môn tại Giáp, dụng thủy nên lấy hướng tinh làm chủ, hướng tinh
tại Giáp là 3 Mộc, sơn tinh là 5 Thổ. Mộc khắc Thổ là chủ khinh khách nên dù
có đắc vị nhưng chỉ trung bình mà thôi.
Phối dùng Tam đại quái 3 phương Giáp Bính Tuất, dùng thủy nên hướng tinh
làm chủ. Tại Giáp đã luận như trên; Tại Bính hướng tinh 9 Hỏa, sơn tinh 8 Thổ,
Hỏa sinh Thổ là sinh xuất nên khách khinh chủ, hướng tinh không đắc vị, luận
đến vận tinh bổ trợ là 3 Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Bính là đất vượng
Hỏa mà không vượng Thổ, 9 Hỏa lại được 3 Mộc bổ trợ nên dù sinh xuất vẫn
dùng được; Tại Tuất hướng tinh 6 Kim, sơn tinh 2 Thổ. Sơn tinh sinh hướng
tinh là cát.
Như vậy trong phối dùng bộ Tam đại quái này thì đắc vị và phát huy được tác
dụng. Nếu dùng bộ Tam đại quái tại Tý Tốn Dậu thì không thể đắc vị do tại Tý
và Dậu 6-9 khắc sát ác liệt mà trợ tinh 4(tại Tý) và 1(tại Dậu) đều không giúp ít
được gì.
"Chủ nhân hữu lễ khách tôn trọng, khách tại Tây hề chủ tại Đông". Dụng 9 tinh
đắc thất phải xét đến Ngũ hành. Nhớ nh
26 tháng 7, 2013 lúc 22:30 · Công khai
LINH THẦN CHÍNH THẦN

Áo Ngữ Huyền Không Phi Tinh


20/09/2016Kiến Cànghuyenkhonglyso.com

3720
0

Chủ khách luận đắc thất - Ngũ hành thống cửu tinh
Tại sơn thì sơn tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ trợ

Tại hướng thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận tinh bổ trợ

Tại các sơn khác thì dụng thủy thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách, vận
tinh bổ trợ. Dụng sơn thì sơn tinh là chủ, hướng tinh là khách, vận tinh bổ
trợ.
Lấy ví dụ tọa Tân hướng Ất 104 độ bên trên:

Tại hướng, hướng thì hướng tinh 4 cùng sơn tinh 3 đều là Mộc nên tỷ hòa,
hướng tinh đắc vị, hướng tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận
tinh).

Tại sơn, sơn tinh 8 hướng tinh 8 cùng là Thổ nên tỷ hòa, sơn tinh đắc vị, sơn
tinh đã đắc vị thì không cần luận đến trợ tinh(vận tinh).

Nhà khai chính môn tại Giáp, dụng thủy nên lấy hướng tinh làm chủ, hướng
tinh tại Giáp là 3 Mộc, sơn tinh là 5 Thổ. Mộc khắc Thổ là chủ khinh khách
nên dù có đắc vị nhưng chỉ trung bình mà thôi.

Phối dùng Tam đại quái 3 phương Giáp Bính Tuất, dùng thủy nên hướng tinh
làm chủ. Tại Giáp đã luận như trên; Tại Bính hướng tinh 9 Hỏa, sơn tinh 8
Thổ, Hỏa sinh Thổ là sinh xuất nên khách khinh chủ, hướng tinh không đắc
vị, luận đến vận tinh bổ trợ là 3 Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Bính là đất
vượng Hỏa mà không vượng Thổ, 9 Hỏa lại được 3 Mộc bổ trợ nên dù sinh
xuất vẫn dùng được; Tại Tuất hướng tinh 6 Kim, sơn tinh 2 Thổ. Sơn tinh
sinh hướng tinh là cát.

Như vậy trong phối dùng bộ Tam đại quái này thì đắc vị và phát huy được tác
dụng. Nếu dùng bộ Tam đại quái tại Tý Tốn Dậu thì không thể đắc vị do tại
Tý và Dậu 6-9 khắc sát ác liệt mà trợ tinh 4 (tại Tý) và 1 (tại Dậu) đều không
giúp ích được gì.

"Chủ nhân hữu lễ khách tôn trọng, khách tại Tây hề chủ tại Đông". Dụng 9
tinh đắc thất phải xét đến Ngũ hành.
Chính thần, Linh thần và Chiếu thần

Dương thuận Âm nghịch, Dương động mà Âm tĩnh vốn là cái lẽ tự


nhiên. Chính thần tĩnh tại, Linh thần luôn động.
9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ, 9 tinh vốn tự có dương có âm, không phải cố
định 1 3 7 9 là dương, 2 4 6 8 là âm. Âm Dương của 9 tinh khéo dùng mới là
diệu, mỗi một tinh nhập trung có thuận và nghịch 2 đường riêng biệt. Chỉ sự
biến đổi của thời gian là Nghịch, chỉ sự động tĩnh của không gian là Thuận.
Chính thần
Thái dương quá cung hành độ một năm khởi từ Tuất đi nghịch Dậu, Thân...
về lại Tuất là Thái dương quá cung đủ 1 năm. Quan niệm này cho thấy
Địa(địa cầu) tĩnh. 9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ tinh như Thái dương vậy,
hành độ nghịch phi, nơi Ngũ hoàng trú đóng chính là Chính thần vị.
Vận 1: 1 nhập trung nghịch phi, 2 đến Tốn, 3 đến Chấn, 4 đến Khôn, 5 đến
Khảm. Khảm là chính thần vận 1.

Vận 2: 2 nhập trung nghịch phi, 3 đến Tốn, 4 đến Chấn, 5 đến Khôn. Khôn là
chính thần vận 2.

Vận 3: 3 nhập trung nghịch phi, 4 đến Tốn, 5 đến Chấn. Chấn là chính thần
vận 3.

Tuần tự như vậy ta có Chính thần vị các vận:

Vận 1 - Khảm, 2 Khôn, 3 Chấn, 4 Tốn, 6 Càn, 7 Đoài, 8 Cấn, 9 Ly; 10 năm
đầu vận 5 tại Tốn, 10 năm sau vận 5 tại Càn.
Linh thần
Hành độ Xuân Hạ Thu Đông một năm khởi từ Dần đi thuận đến Mão, Thìn,
Tị... về lại Dần là hết một năm. Xuân Hạ Thu Đông thực là chuyển động của
Địa(địa cầu) quanh Thiên(mặt trời, Thái dương). Quan niệm này cho thấy Địa
động. 9 tinh lấy Ngũ hoàng làm chủ tinh, hành độ thuận phi, nơi Ngũ hoàng
trú đóng chính là Linh thần vị.

Vận 1: 1 nhập trung thuận phi, 2 đến Càn, 3 đến Đoài, 4 đến Cấn, 5 đến Ly.
Ly là Linh thần vị.

Vận 2: 2 nhập trung thuận phi, 3 đến Càn, 4 đến Đoài, 5 đến Cấn, Cấn là
Linh thần vị.

Tuần tự như vậy ta có Linh thần vị các vận:

Vận 1 - Ly, 2 Cấn, 3 Đoài, 4 Càn, 6 Tốn, 7 Chấn, 8 Khôn, 9 Khảm; 10 năm
đầu vận 5 tại Càn, 10 năm sau vận 5 tại Tốn.

Phương vị chữ xanh là Chính thần, Phương vị chữ đỏ là Linh thần


Chính thần, Linh thần tự nhiên có phép an bài, không phải cách luận đối cung
Chính thần là Linh thần một cách khiên cưỡng. Chính thần, Linh thần thực sự
là 2 khí thuận nghịch của 9 tinh, sao 5 vốn là chủ 9 tinh, nơi nó đến nếu
nghịch là Chính, nếu thuận là Linh.

Chiếu thần
Các sách viết về Chiếu thần đều nói lấy Hà đồ số với vận tinh làm Chiếu
thần, như vận 1 lấy 6 làm chiếu thần, hợp số 1-6 Hà đồ; như vận 8 lấy 3 làm
chiếu thần, hợp số 8-3 Hà đồ... cũng tạm chấp nhận, nhưng vì sao phương
Chiếu thần cần thủy, lộ, động khí thì lại bế tắc, không giải thích được.
Chính thần vốn là âm, tĩnh tại. Quản vận số thời gian lưu chuyển nên cần
dương tương phối. Phương Linh thần vốn không thể tương phối do 2 khí Cửu
tinh thuận nghịch không cùng đường nên không phối được.

9 tinh thì khởi thủy tại 1 và chung cuộc tại 9. Nguyên vận 3 nguyên 9 vận
(123456789) thực dùng là 2 nguyên 8 vận (12346789). Thượng nguyên
1234 thì lấy chung số (9) làm Chiếu thần. Hạ nguyên 6789 thì lấy khởi thủy
số (1) làm Chiếu thần. Đây là do 2 khí Tiên thiên Khảm Ly giao nhau mà
thành, thượng nguyên khởi Ly, hạ nguyên khởi Khảm.

- Vận 1 nhập trung nghịch phi: 2 Tốn, 3 Chấn, 4 Khôn, 5 Khảm, 6 Ly, 7 Cấn,
8 Đoài, 9 Càn. 5 Khảm là Chính thần, 9 Càn là Chiếu thần.

- Vận 2 nhập trung nghịch phi: 3 Tốn, 4 Chấn, 5 Khôn, 6 Khảm, 7 Ly, 8 Cấn,
9 Đoài, 1 Càn. 5 Khôn là Chính thần, 9 Đoài là Chiếu thần.

- Vận 3 nhập trung nghịch phi: 4 Tốn, 5 Chấn, 6 Khôn, 7 Khảm, 8 Ly, 9 Cấn,
1 Đoài, 2 Càn. 5 Chấn là Chính thần, 9 Cấn là Chiếu thần.

- Vận 4 nhập trung nghịch phi: 5 Tốn, 6 Chấn, 7 Khôn, 8 Khảm, 9 Ly, 1 Cấn,
2 Đoài, 3 Càn. 5 Tốn là Chính thần, 9 Ly là Chiếu thần.

- Vận 6 nhập trung nghịch phi: 7 Tốn, 8 Chấn, 9 Khôn, 1 Khảm, 2 Ly, 3 Cấn,
4 Đoài, 5 Càn. 5 Càn là Chính thần, 1 Khảm là Chiếu thần.

- Vận 7 nhập trung nghịch phi: 8 Tốn, 9 Chấn, 1 Khôn, 2 Khảm, 3 Ly, 4 Cấn,
5 Đoài, 6 Càn. 5 Đoài là Chính thần, 1 Khôn là Chiếu thần.

- Vận 8 nhập trung nghịch phi: 9 Tốn, 1 Chấn, 2 Khôn, 3 Khảm, 4 Ly, 5 Cấn,
6 Đoài, 7 Càn. 5 Cấn là Chính thần, 1 Chấn là Chiếu thần.

- Vận 9 nhập trung nghịch phi: 1 Tốn, 2 Chấn, 3 Khôn, 4 Khảm, 5 Ly, 6 Cấn,
7 Đoài, 8 Càn. 5 Ly là Chính thần, 1 Tốn là Chiếu thần.

"Khảm Ly nhị khí quán Càn Khôn". Chính thần là âm tĩnh tại, phối cùng Chiếu
thần là dương nên tất nhiên Chiếu thần là động, cần thủy, lộ, động khí. Đây
là cái lẽ tự nhiên của Âm Dương giao cấu, động tĩnh tương hợp. Phép làm
nhà nếu phù hợp Linh-Chính-Chiếu thần, tức nơi phương Chính thần thì sơn
vượng lại có sơn, nơi linh thần và chiếu thần thì thủy vượng lại có thủy lộ thì
tốc phát rất nhanh, nếu ngược lại phương Chính thần hướng tinh vượng mà
lại có thủy, lộ... nơi phương Linh thần, Chiếu thần sơn tinh vượng mà lại có
thực sơn thì đó là "Thượng sơn Hạ thủy", trong cái cát có cái hung, nếu sơn
tán thủy loạn thì đại hung.
Cần đặc biệt lưu ý.

Lời kết

Đây tuy chưa phải là toàn bộ Áo ngữ Huyền không Phi tinh nhưng là những
cái tinh túy nhất. Tôi đã lựa chọn và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa lên diễn
đàn. Ngõ hầu giúp các bạn ít nhiều trong việc tìm một nơi ở tốt hoặc cải tạo
những chổ chưa phù hợp hiện nay của ngôi nhà sao cho được tốt hơn.

Đến đây thì phần kiến thức Huyền không Phi tinh 6 phái dường như không
còn lại được bao nhiêu. Tuy nhiên đối với các bạn mới học về Huyền không
thì đó lại là bước khởi đầu rất tốt cho việc học về Phong thủy Huyền không.

Cảm ơn rất nhiều những lời ẩn giấu của cổ thư và ẩn nghĩa của Tưởng Công
đã giúp Nam Phong hoàn thành Huyền không Phi tinh.

Nhâm Dần nguyệt, Nhâm Thìn niên.


Nam Phong

NGHĨA CHÚ GIẢI


Toàn bộ phần trên kết hợp ( Lục pháp ) gồm huyền không ,thư hùng ,
kim long , ai tinh, thành môn ,thái tuế .
Đồng kết hợp huyền không liên thành phái
HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI LIÊN THÀNH PHÁI

PHẦN CƠ BẢN
Mục lục

Chương 1: Cơ sở thiên
Lão thiếu âm dương
Tiên hậu thiên âm dương điên đảo
Tiên thiên âm dương biến hoá đại giao cấu
Huyền không nhị thập tứ sơn phối âm dương
Tam nguyên cửu vận
Huyền không là hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ

Chương 2: Huyền không đại quái


Nhất: Phụ mẫu thông căn quái
Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái
Tam: Huyền không thuỷ lí thông căn cầu địa quái

Chương 3: Huyền không tứ đại cục

Chương 4: Nhâm Khôn Ất quyết với các loại ai tinh


Sơn thượng cửu tinh định cục
Nhị thập tứ sơn triều nghênh thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết
Tiên thiên mệnh quái bí thuật liên thành cao cấp kỹ trì
Không vị lưu thần

Chương 5: Đại quái ai tinh với thâu sơn xuất sát


Nhị thập tứ sơn đại quái ai tinh pháp
Đại quái ngũ hành
Túc độ ngũ hành
Sinh nhập khắc nhập quyết
Nhị thập tứ sơn ai tinh thâu sơn xuất sát

Chương 6: Kiêm sơn với kiêm thuỷ

Chương 7: Long sơn tọa hướng


Long toạ hướng thuỷ chi quan hệ
Phát tú phát khiếu
Hướng thượng kiến sơn kiến thuỷ quyết
Tự khố thuỷ tá khố thuỷ quyết
Đắc thì đắc vị quyết
Đồng tôn thuỷ sổ tiền thuỷ

Chương 8: Thành môn và thành môn ai tinh


Thành môn
Thành môn ai tinh

Chương 9: Kinh thiên nhất quyết tối vi cơ

LỜI DẪN:
Liên Thành là một trong những chi lớn của Phong thủy Huyền không, nổi
danh ở phía Bắc Trung Hoa. Từ Triệu Liên Thành lưu truyền ra dân gian các
bí quyết và quyển di thư:”HUYỀN KHÔNG ĐẠI QUÁI ANH TINH BÍ TRUYỀN”
mà từ đó người đời biết đến Liên Thành Phong thủy. Thông căn quyết là một
trong những bí quyết nổi tiếng của phái và là một quyết rất đáng giá. Rất
nhiều người học phép này trong nhiều năm vẫn không lý giải được tại sao lại
có cách thông căn này. Họ Triệu đưa bí quyết ra nhân gian có công rất lớn
nhưng không dám nói về cội nguồn là có lý do. Bí mật nằm sâu bên trong Âm
dương,Tứ tượng, chỉ có tường giải được Lão,Thái Thiếu Âm Dương đồ mới có
thể hiểu được mà thôi.

Liên Thành lấy:”quyết thông căn” bày Cửu tinh trên 8 quái 24 sơn theo vòng
tròn thuận nghịch làm cốt tủy, rất gần với vòng Trường sinh của Tam hợp;
Trường sinh thì 12 vị thể hiện một vòng từ mầm sống xuất hiện, lớn lên, suy
yếu và diệt vong, vòng Cửu tinh của Liên Thành cũng thế.Cái khác biệt là
LIÊN THÀNH CÓ ĐỦ THIÊN ĐỊA,THỜI VÀ NHÂN GIAO HÒA, có hiểu được mới
biết đón sinh vượng, tránh suy tử, đó cũng là thu sơn xuất sát của Liên
Thành.

Cửu tinh thì 5 quy trung, Liên Thành cũng 5 quy trung, xem xét tận tường
phép của Liên Thành thấy có sự thâm sâu trong đó, cũng như sự vận hành
của Thái Dương hệ không phải vô cớ mà Mặt trời ở tâm, nên cũng không phải
vô cớ mà 5 quy trung, đều có cái lý trong đó, phải như vậy mới “ngũ triệu
sinh thành, lưu hành thủy chung”.

HUYỀN SỐ TRONG MẬU KỶ,TỨ SINH TỨ THÀNH,LƯU HÀNH 8


PHƯƠNG,PHƯƠNG TRÊN,PHƯƠNG DƯỚI+THIÊN TÂM,HIỂU THỜI THÌ DỤNG
SƠN THỦY THẬT LÀ VI DIỆU.

GIA VŨ TRÍCH SOẠN.

Chương 1: Cơ sở thiên

Nhất: Lão thiếu âm dương

Càn Đoài là lão dương


Khôn Cấn thuộc lão âm
Khảm Tốn chính thiếu dương
Li Chấn là thiếu âm
Nhị: Tiên hậu thiên âm dương điên đảo

Càn nhập Khảm


Khôn nhập Li
Khảm nhập Chấn
Li nhập Đoài
Cấn nhập Tốn
Đoài nhập Càn
Tốn nhập Cấn
Chấn nhập Khôn
Đây là nói tiên thiên nhập hậu thiên phương vị: Càn Khôn tiên thiên tương
đối, Khôn tiên thiên là Khảm hậu thiên, Càn giao Khôn tiên thiên ở hậu thiên
chính là Càn nhập Khảm, Li Khảm tiên thiên tương đối, Khảm tiên thiên là
Đoài hậu thiên, Li giao Khảm tiên thiên ở hậu thiên chính là Li nhập Đoài…
các quái khác theo đó mà suy ra. Đây là một phần của Thiên Tâm chính vận
đồ mà Vô Cực Tử truyền thụ cho Tưởng Đại Hồng

Tam: Tiên thiên âm dương biến hoá đại giao cấu


Đây là 8 sơn thiên nguyên long chính giao, như Tý giao Ngọ, Ngọ giao Tý,
phiên đảo nhau mà giao, là một phần ứng dụng của Tiên hậu thiên điên đảo
bên trên, bản chất Đại quái luôn là điên điên đảo, điên đảo cũng chính là
1 trong 4 phép truyền tâm mà người học Đại quái phải hiểu cho bằng được
Thiên nguyên chính cấu
Thiên nguyên chính phối (Diên niên, hợp 10)
Tiên thiên chính phối: Càn phối Khôn, Chấn phối Tốn; Khảm phối ly và Cấn
phối đoài.
tý cấu ngọ
ngọ cấu tý -------------- tiên thiên Càn phối tiên thiên khôn
mão cấu dậu
dậu cấu mão -------------- tiên thiên Ly phối tiên thiên khảm.
càn cấu tốn
tốn cấu càn -------------- tiên thiên Cấn phối tiên thiên đoài
cấn cấu khôn
khôn cấu cấn -------------- tiên thiên Chấn phối tiên thiên Tốn.

Địa Nhân nhị nguyên bàng cấu


Khác với thiên nguyên, nhân địa nhị nguyên là tử tức nên không chính giao
như thiên nguyên mà bàng giao, cách 10 vị giao nhau. Tam nguyên Thiên-
Địa-Nhân giao cấu này thực sự là chính pháp của Huyền không đại quái, cội
nguồn của nó rất sâu xa, khó mà nói trong vài trang cho rõ được.

Địa-Nhân nguyên bàng phối (Thiên y, hợp 5, hợp 15)


Tiên thiên bàng phối: Càn phối Cấn, Đoài phối Khôn, Ly phối Tốn, Chấn phối
khảm.
nhâm cấu thìn
thìn cấu nhâm -------------- tiên thiên Khôn (nhâm 1) phối tiên thiên đoài
(Thìn 4): địa
quý cấu tị
tị cấu quý -------------- tiên thiên Khôn (Quý 1) phối tiên thiên đoài (Tị 4):
Nhân
bính cấu tuất
tuất cấu bính -------------- tiên thiên Càn (Bính 9) phối tiên thiên Cấn (Tuất
6): địa
đinh cấu hợi
hợi cấu đinh
giáp cấu mùi
mùi cấu giáp
ất cấu thân
thân cấu ất
canh cấu sửu
sửu cấu canh
tân cấu dần
dần cấu tân

Tứ: Huyền không nhị thập tứ sơn phối âm dương

Thiên nguyên càn khôn cấn tốn dương,


Tý ngọ mão dậu âm diệc tường,
Địa nguyên âm thìn tuất sửu mùi,
Giáp canh nhâm bính là dương phương,
Nhân nguyên, Dần thân tị hợi dương ngũ vị ,
ất tân đinh quý âm phương lương ,
nhược là dương long dụng âm thuỷ ,
âm long dương thuỷ vạn niên xương ,
duy hữu nhị thiên giao cấu pháp ,
bất luận can chi dữ âm dương .
Càn tốn cấn khôn nhâm bính giáp canh dần thân tị hợi 12 sơn này là dương
tý ngọ mão dậu quý đinh ất tân sửu mùi thìn tuất 12 sơn này là âm
Lục: Huyền không bát quái phối âm dương

Càn khảm cấn chấn là dương


Khôn li tốn đoài là âm
So sánh với Nam phái thì đây chính là Dương Công thư hùng đồ chân âm
chân dương, đây là chân âm dương của tiên thiên bát quái, không phải âm
dương của hậu thiên bát quái và càng không phải âm dương của các phương
vị trên 24 sơn

Thất: Tam nguyên cửu vận

Nhất vận khảm thuỷ quản 20 năm


Nhị vận khôn thổ quản 20 năm
Tam vận chấn mộc quản 20 năm
Tứ vận tốn mộc quản 30 năm
Lục vận càn kim quản 30 năm
Thất vận đoài kim quản 20 năm
Bát vận cấn thổ quản 20 năm
Cửu vận li hoả quản 20 năm

Bát: Nhị phiến

Nhất nhị tam tứ (1234) thuộc thượng nguyên nhất phiến.


Lục thất bát cửu (6789) thuộc hạ nguyên nhất phiến.
Nhất lục (1-6), tứ cửu (4-9) kim thuỷ tương sinh là nhất phiến ngũ hành
Nhị thất (2-7), tam bát (3-8) mộc hoả tương sinh là nhất phiến ngũ hành

Cửu: Huyền không là hợp ngũ hợp thập hợp thập ngũ

[1-6] với [4-9] nhất phiến: Phối hợp 10, hợp 5,15.
nhất tứ hợp ngũ (1-4=5) kim thuỷ tương sinh, lục cửu hợp thập ngũ (6-
9=15) kim thuỷ tương sinh;
nhất cửu hợp thập (1-9=10) kim thuỷ tương sinh, tứ lục hợp thập (4-6=10)
kim thuỷ tương sinh.

[2-7] với [3-8] nhất phiến: Phối hợp 10, hợp 5,15.
nhị tam hợp ngũ (2,3=5) mộc hoả tương sinh, thất bát hợp thập ngũ
(7,8=15) mộc hoả tương sinh.
nhị bát hợp thập (2,8=10) mộc hoả tương sinh, tam thất hợp thập (3,7=10)
mộc hoả tương sinh

Thể: hay bản chất nhất phiến theo trục Sửu mùi của Hà đồ!
Nhưng khi đem đi sử dụng thì chuyển thành trục Thìn tuất của Lạc thư!

4-9 và 1-6 là 1 cặp thư hùng


3-8 và 2-7 là 1 cặp thư hùng
4-9 không thể hợp với 2-7 vì cùng một phiến
3-8 không thể hợp với 1-6 vì cùng một phiến
Thuần dương bất sinh, thuần âm không trưởng

Liên Thành 24 sơn lập hướng thì sơn, hướng, phong, sa, thủy đều phù hợp
với các luật hợp ngũ, hợp thập, hợp thập ngũ bên trên, đây là yếu quyết sinh
thành của ngũ hành, được Liên Thành hiểu và vận dụng rất sâu sắc và cũng
liên hệ rất mật thiết với phép thu sơn xuất sát của Liên Thành mà cho đến
nay vẫn ít người hiểu được. Chỉ có thể là "tâm thọ khẩu truyền hoặc người
đắc thiên cơ" mới có thể hiểu được mà thôi.

Chương 2: Huyền không đại quái

Nhất: Phụ mẫu thông căn quái


1. Phụ mẫu: sơn thượng thông căn quái:
Thiên nguyên: Phụ mẫu thông căn quái hợp 5, hợp 15.
Địa nguyên – Nhân nguyên: Phụ mẫu thông căn quái hợp 10.

Quyết là:

Huyền không phong thuỷ dụng thông căn,


Nhất thông thông đáo nam thiên môn,
Lôi thanh khinh quá tây nam địa,
Thiếu nữ vu sơn độc hoài xuân.
Tứ chính tý ngọ tại đối cung,
Tứ duy dã giảng đối trung thần,
Thuận nghịch đãn khan âm dữ dương,
Án tự tiệm tiến tả hữu luân .
Giảng nghĩa

Đệ nhất câu : “Huyền không phong thuỷ dụng thông căn ”:


Phong xét dưới khía cạnh tiên thiên còn là Tốn, Thủy là khảm – Tốn (2),
khảm (7) dụng thông căn theo nguyên lý (2-7) hay là sinh thành của Hà đồ
[xem toàn bộ ải tinh phần sau sẽ rõ]. Nguyên lý tiên thiên sinh thành thông
căn được thể hiện dưới khía cạnh hậu thiên: Khảm quái 2 sơn Nhâm Quý –
Tốn quái 02 sơn Thìn Tị:
+ Địa nguyên nhâm thông thìn: Nhâm thuộc địa nguyên tiên thiên thuộc
Khôn (1), Thìn thuộc địa nguyên tiên thiên là Đoài (4) – Lão âm lão dương
giao cấu,

+ Nhân nguyên: Quý thông tị cũng tương tự.


Phong là hậu thiên tốn vậy, thuỷ là hậu thiên khảm vậy, tức nói khảm quái 2
sơn nhâm quý với tốn quái 2 sơn thìn tị tương thông nhau, thế nhân cứ nói
"phong thủy" mà không biết đây là khởi nguồn của Thông căn quái.

Đệ nhị câu:“Nhất thông thông đáo nam thiên môn ”:


Nhất thông thông đáo là nối tiếp của câu trên, ý nói là sự liên tục nhau, nam
là hậu thiên li vậy, thiên môn là hậu thiên càn vậy, tức li quái 2 sơn bính đinh
với càn quái 2 sơn tuất hợi tương thông nhau

Đệ tam câu : “Lôi thanh khinh quá tây nam địa ”:


Lôi là hậu thiên chấn, tây nam hậu thiên khôn, tức chấn quái 2 sơn giáp ất
với khôn quái 2 sơn mùi thân tương thông nhau.

Đệ tứ câu :“Thiếu nữ vu sơn độc hoài xuân ”:


thiếu nữ hậu thiên đoài quái, vu sơn là hậu thiên cấn quái, tức đoài quái 2
sơn canh tân với cấn quái 2 sơn sửu dần tương thông nhau.

“Tứ chính tý ngọ tại đối cung ,


Tứ duy dã giảng đối trung thần,
Thuận nghịch đãn khan âm dữ dương,
Án tự tiệm tiến tả hữu luân ”.
2 câu đầu giảng tứ chính tý ngọ mão dậu cùng tứ ngung càn khôn cấn tốn 8
sơn thì thông căn tại đối cung của chính sơn đó (đích trung thần là trung hào,
cũng là thiên nguyên long).
2 câu sau giảng âm dương thuận nghịch bài pháp, theo thứ tự mà xét, thuận
đối âm (thuận thời châm), nghịch đối dương (nghịch thời châm ) theo âm
dương đó mà tả hữu lần lượt bài tới.)

Tiên thiên âm dương biến hóa giao cấu đồ(Thông căn đồ),
hay còn gọi là Lưới Đế Thích(lưới trời Đế Thích bên Đạo gia)
Tam nguyên Thiên-Địa-Nhân giao cấu này thực sự là chính pháp của Huyền
không đại quái: Thiên –địa-nhân nguyên Tiên thiên âm dương biến hóa giao
cấu (nhập thủ long phối xuất thủy khẩu) diễn giải như sau:
1, Thiên nguyên: Diên Niên, Hợp 10.
Tý long nhập thủ, thủy khẩu phối ngọ → tý tiên thiên là khôn, lão âm
Ngọ long nhập thủ, thủy khẩu phối tý → ngọ tiên thiên là kiền, lão dương
Càn long nhập thủ, thủy khẩu phối tốn → Càn tiên thiên là cấn, lão âm
Tốn long nhập thủ, thủy khẩu phối Càn → tốn tiên thiên là đoài, lão dương
Mão long nhập thủ, thủy khẩu phối dậu → mão tiên thiên là ly, thiểu âm
Dậu long nhập thủ, thủy khẩu phối mão → dậu tiên thiên là khảm, thiểu
dương
Khôn long nhập thủ, thủy khẩu phối cấn → khôn tiên thiên là tốn, thiểu âm
Cấn long nhập thủ, thủy khẩu phối khôn → cấn tiên thiên là chấn, thiểu
dương
2, Nhân nguyên
Quý long nhập thủ, thủy khẩu xuất tị → quý tiên thiên là (thân: nhân nguyên
tại Khôn) quái chi tử lão âm
Tị long nhập thủ, thủy khẩu xuất quý → tị tiên thiên là (tân: nhân nguyên tại
đoài) quái chi tử lão dương
Tân long nhập thủ, thủy khẩu xuất dần → tân tiên thiên chi (quý: nhân
nguyên tại khảm) quái chi tử thiểu dương
Dần long nhập thủ, thủy khẩu xuất tân → quý tiên thiên chi (ất chấn) quái
chi tử thiểu âm
Ất long nhập thủ, thủy khẩu xuất thân → ất tiên thiên chi (đinh ly) quái chi
tử thiểu âm
Thân long nhập thủ, thủy khẩu xuất ất → thân tiên thiên chi (tị tốn) quái chi
tử thiểu dương
Đinh long nhập thủ, thủy khẩu xuất hợi → đinh tiên thiên chi (hợi kiền) quái
chi tử lão dương
Hợi long nhập thủ, thủy khẩu xuất đinh → hợi tiên thiên chi (dần cấn) quái
chi tử lão âm
3, Địa nguyên
Nhâm long nhập thủ, thủy khẩu xuất thần → nhâm tiên thiên chi (mùi khôn)
quái chi tử lão âm
Thần long nhập thủ, thủy khẩu xuất nhâm → thần tiên thiên chi (canh đoái)
quái chi tử lão dương
Canh long nhập thủ, thủy khẩu xuất sửu → canh tiên thiên chi (nhâm khảm)
quái chi tử thiểu dương
Sửu long nhập thủ, thủy khẩu xuất canh → sửu tiên thiên chi (giáp chấn)
quái chi tử thiểu âm
Giáp long nhập thủ, thủy khẩu xuất mùi → giáp tiên thiên chi (bính ly) quái
chi tử thiểu âm
Mùi long nhập thủ, thủy khẩu xuất giáp → Mùi tiên thiên chi (thìn tốn) quái
chi tử thiểu dương
Bính long nhập thủ, thủy khẩu xuất tuất → bính tiên thiên chi (tuất kiền)
quái chi tử lão dương
Tuất long nhập thủ, thủy khẩu xuất bính → tuất tiên thiên chi (sửu cấn) quái
chi tử lão âm
Ở phần trên: thiên, nhân, địa nguyên thể hiện tiên thiên âm dương biến hóa
giao cấu (long nhập thủ, thủy xuất khẩu) , tiên thiên âm dương biến hóa.

Như vậy nguyên lý thông căn đều hợp Thư Hùng (âm dương); Hợp tứ tượng
16 27 38 49; và hợp Thiên-địa-nhân nguyên.
Đây là Sơn thượng thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất
của Liên Thành, sẽ nói rõ chi tiết ở phần sau).

Huyền không thuỷ lí thông căn

Quyết là:

Nhâm thông mùi địa quý thông thân


Giáp tại tuất trung ất tại hợi
Bính khởi sửu cung đinh khởi dần
Canh vọng thìn hề tân vọng tị
Tứ chính tứ duy dã đối cung
Kì quái thả tuỳ sơn thượng khởi
Thuận nghịch ai khứ hợp quái nội
Hợp ngũ hợp thập hợp thập ngũ

Nhâm _ Mùi
Tý _ Ngọ
Quý _ Thân
Sửu _ Bính
Cấn _ Khôn
Dần _ Đinh
Giáp _ Tuất
Mão _ Dậu
Ất _ Hợi
Thìn _ Canh
Tốn _ Càn
Tị _ Tân
Bính _ Sửu
Ngọ _ Tý
Đinh _ Dần
Mùi _ Nhâm
Khôn _ Cấn
Thân _ Quý
Canh _ Thìn
Dậu _ Mão
Tân _ Tị
Tuất _ Giáp
Càn _ Tốn
Hợi _ Ất
Đây là Thủy lí thông căn quyết, một trong các quyết quan trọng nhất của
Liên Thành. Cũng là bí quyết dụng "thủy pháp"

Nhị: Huyền không sơn thượng thông căn cầu thiên quái;

Sơn thượng bài quái xuất thông căn,


Đối cung thiên quái tiện thị chân.

Nhâm sơn:
Nhâm sơn thượng thông căn tại thìn, thìn tại Tốn tứ cung, từ tốn tứ cung khởi
4, nhâm sơn dương nghịch hành , 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại chấn, 7 tại
Cấn, 8 tại Khảm, 9 tại Càn, 1 tại Đoài, 2 tại Khôn, 3 tại Ly.

8 đến nhâm là địa quái ,thiên quái tại đối cung, nên nhâm sơn thiên quái là 3
chấn.

Tý sơn:
Tý sơn thượng thông căn tại ngọ ,ngọ tại li cửu cung ,theo li cung khởi
cửu ,tý sơn âm thuận hành, 9 tại Ly, 1 tại Khôn, 2 tại Đoài, 3 tại Càn, 4 tại
Khảm, 5 nhập trung, 6 tại Cấn, 7 tại Chấn, 8 tại Tốn.
4 đến tý là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên tý sơn thiên quái là cửu li

Quý sơn:
Quý sơn thượng thông căn tại tị ,tị tại tốn tứ cung, theo tốn tứ cung khởi
tứ ,quý sơn âm thuận hành, 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại Ly, 7 tại Khôn, 8
tại Đoài, 9 tại Càn, 1 tại Khảm, 2 tại Cấn, 3 tại Chấn.

1 đến quý là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên quý sơn thiên quái là lục
càn
Sửu sơn:
Sửu sơn thượng thông căn tại canh ,canh tại đoài thất cung ,theo đoài thất
cung khởi thất ,sửu sơn âm thuận hành

nhất đáo sửu là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,nên sửu sơn thiên quái là
lục càn.

Cấn sơn:
Cấn sơn thượng thông căn tại khôn ,khôn nhị cung ,theo khôn nhị cung khởi
nhị dương sơn nghịch hành
thất đáo cấn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên cấn sơn thiên quái
là nhị khôn

Dần sơn:
Dần sơn thượng thông căn tại tân ,tân tại đoài thất cung ,theo đó đoài thất
cung khởi thất ,dần sơn dương nghịch hành .
tam đáo dần là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên dần sơn thiên quái
là bát cấn.

Giáp sơn:
giáp sơn thượng thông căn tại mùi ,mùi tại khôn nhị cung ,theo đó khôn nhị
cung khởi nhị ,giáp sơn dương nghịch hành

lục đáo giáp là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên giáp sơn thiên quái
là nhất khảm .

Mão sơn:
mão sơn thượng thông căn tại dậu ,dậu tại đoài thất cung ,theo đó đoài thất
cung khởi thất ,mão sơn âm thuận hành ,
nhị đáo mão là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên mão sơn thiên quái
là thất đoài.

Ất sơn:
ất sơn thượng thông căn tại thân ,dậu tại khôn nhị cung ,theo đó khôn nhị
cung khởi nhị ,ất sơn âm thuận hành ,

bát đáo ất là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên ất sơn thiên quái là
tam chấn .

Thìn sơn:
thìn sơn thượng thông căn tại nhâm ,nhâm tại khảm nhất cung ,theo đó
khảm nhất cung khởi nhất ,thìn sơn âm thuận hành ,
tứ đáo thìn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên thìn sơn thiên quái là
cửu li .

Tốn sơn:
tốn sơn thượng thông căn tại càn ,càn tại càn lục cung ,theo đó càn lục cung
khởi lục ,tốn sơn dương nghịch hành ,
Nhất đáo tốn là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên tốn sơn thiên quái
là lục càn

Tị sơn:
tị sơn thượng thông căn tại quý ,quý tại khảm nhất cung ,theo đó khảm nhất
cung khởi nhất ,tị sơn dương nghịch hành ,

thất đáo tị là địa quái ,thiên quái tại đối cung ,cho nên tị sơn thiên quái là nhị
khôn

Các sơn khác cũng quyền như trên

Huyền không sơn thượng thiên quái địa nguyên cửu cung đồ

thìn cửu _ bính tứ _ mùi nhị


giáp nhất _ trung _ canh thất
sửu lục _ nhâm tam _ tuất bát
Huyền không sơn thượng thiên quái thiên nguyên cửu cung đồ

tốn lục _ ngọ nhất _ khôn bát


mão thất _ trung _ dậu tam
cấn nhị _ tý cửu _ càn tứ
Huyền không sơn thượng thiên quái nhân nguyên cửu cung đồ

tị nhị _ đinh thất _ thân tứ


ất tam _ trung _ tân cửu
dần bát _ quý lục _ hợi nhất
Sơn thượng thiên quái 24 sơn đồ
Tam: Huyền không thuỷ lý thông căn cầu địa quái

Nguyên tắc là : Sơn một đường, thủy một đường


- Sơn thượng bài theo: Dương nghịch, âm thuận
- Thủy lý bài theo: Dương thuận âm nghịch

Thí dụ: Nhâm sơn


Nhâm sơn thượng thông căn tại thìn, thìn tại Tốn tứ cung, từ tốn tứ cung khởi 4,
nhâm sơn dương thuận hành , 4 tại Tốn, 5 nhập trung, 6 tại ly, 7 tại khôn, 8 tại
đoài, 9 tại Càn, 1 tại khảm, 2 tại cấn, 3 tại chấn.
1 đến nhâm là địa quái , nên nhâm sơn địa quái là nhất khảm.

Vậy thì tại sao lại cần đến khẩu quyết của thủy lý thông căn?
Thực tế ứng dụng thủy pháp thì đây là một quyết quan trọng. Qua nghiên cứu
thì thấy ứng dụng này cũng tương đồng với pháp "Tam đại quái" của Tưởng Đại
Hồng.
Cổ thư cũng có chép về quyết này, xin được đưa ra để làm minh chứng.

“thuỷ tòng địa hạ nhị bàng cầu ,


xuân lôi tự tòng thiên thượng lai ,
nhật chiếu sơn đầu dung dung ý ,
phong xuy trạch chiểu thị bàng thu.
tứ chính nam lai bắc vãng gian ,
tứ duy hoàn thị tòng trung thủ ,
âm dương thuận nghịch chiếu cục chuyển ,
nhất vị nhất cung tư tế luân ”.

“thuỷ tòng địa hạ nhị bàng cầu ”: thuỷ là hậu thiên khảm vậy ,địa là hậu thiên
khôn vậy ,nhị bàng tức hai hào hai bên ,tức là khảm quái thì nhâm quý với khôn
quái hai sơn mùi thân tương thông .
“xuân lôi tự tòng thiên thượng lai ”:
xuân lôi là hậu chấn vậy ,thiên thượng là hậu thiên càn vậy ,tức chấn hai
hào(sơn) giáp ất với càn quái hai hào tuất hợi tương thông .
“nhật chiếu sơn đầu dung dung ý ”:
nhật là hậu thiên li vậy ,sơn là hậu thiên cấn vậy ,tức li quái hai hào bính đinh
với cấn quái hai hào sửu dần tương thông .
“phong xuy trạch chiểu thị bàng thu ”:
phong là hậu thiên tốn vậy ,trạch, chiểu, thu đều là nói hậu thiên đoái vậy ,tức là
hậu thiên tốn hai hào thìn tị với hậu thiên đoài quái hai hào canh tân tương
thông .
“tứ chính nam lai bắc vãng gian ”:
Chính là tứ chính quái trung hào(sơn thiên nguyên) tương ứng nhau, nam bắc
chính là tý ngọ tương thông ,đương nhiên đông tây quái thì mão dậu cũng là
tương thông như vậy .
“tứ duy hoàn thị tòng trung thủ ”:
tứ duy quái chính là trung hào càn khôn cấn tốn cùng dạng với tứ chính đối đãi
tương thông.
“âm dương thuận nghịch chiếu cục chuyển ,nhất vị nhất cung tư tế luân ”.
Chính là nói âm sơn thuận chuyển, dương sơn nghịch chuyển bài pháp .

Thủy lý thông căn thị địa quái,


Địa quái nguyên tại bản cung tầm.

Nhâm thuỷ:

Nhâm thuỷ lí thông căn tại mùi , mùi tại khôn nhị cung, theo đó khôn thượng
không khởi nhị mà khởi tứ nghịch hành.

Nhất đáo nhâm ,cho nên nhâm thuỷ lí địa quái là nhất

Tý thuỷ:

Tý thuỷ lí thông căn tại ngọ ,ngọ tại li cửu theo đó li thượng khởi cửu nghịch
hành
Tứ đáo tý ,cho nên tý thuỷ lí địa quái là Tứ

Quý thuỷ lí thông căn tại thân ,thân tại khôn cung theo đó khôn cung không
khởi nhị mà thượng khởi tứ thuận hành

Bát đáo quý ,quý thuỷ lí địa quái là bát .

Các sơn khác cũng quyền như vậy

Tổng lại thủy lí địa quái 24 sơn đồ:

Huyền không thuỷ lí địa quái địa nguyên cửu cung đồ


thìn thất _ bính nhị _ mùi cửu
giáp bát _ trung _ canh tứ
sửu tam _ nhâm nhất _ tuất lục

Nhất đến Nhâm bay nghịch


Huyền không thuỷ lí địa quái thiên nguyên cửu cung đồ

tốn nhất _ ngọ lục _ khôn tam


mão nhị _ trung _ dậu bát
cấn thất _ tý tứ _ càn cửu
Nhất đến Tốn bay nghịch

Huyền không thuỷ lí địa quái nhân nguyên cửu cung đồ

tị tứ _ đinh cửu _ thân thất


ất lục _ trung _ tân nhị
dần nhất _ quý bát _ hợi tam
Nhất đến Dần bay nghịch

Thủy lý địa quái 24 sơn đồ

Chương 3: Huyền không tứ đại cục

Nhất: Huyền không tứ đại cục

Nhất lục thuỷ cục: bao gồm nhất lục thượng nguyên cục và nhất lục hạ nguyên
cục .
Tứ cửu kim cục: bao gồm tứ cửu thượng nguyên cục và tứ cửu hạ nguyên cục
Nhị thất hoả cục: bao gồm nhị thất thượng nguyên cục và nhị thất hạ nguyên
cục
Tam bát mộc cục: bao gồm tam bát thượng nguyên cục và tam bát hạ nguyên
cục
Nhị: Nhị thập tứ sơn chi tứ đại cục

Nhâm sơn bính hướng, thượng nguyên tam bát cục .


Bính sơn nhâm hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .
Tý sơn ngọ hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .
Ngọ sơn tý hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .
Quý sơn đinh hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .
Đinh sơn quý hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .
Sửu sơn mùi hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .
Mùi sơn sửu hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .
Cấn sơn khôn hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .
Khôn sơn cấn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .
Dần sơn thân hướng ,hạ nguyên tam bát cục .
Thân sơn dần hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .
Giáp sơn canh hướng ,thượng nguyên nhất lục cục 、
Canh sơn giáp hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .
Mão sơn dậu hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .
Dậu sơn mão hướng ,thượng nguyên tam bát cục .
Ất sơn tân hướng ,thượng nguyên tam bát cục .
Tân sơn ất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .
Thìn sơn tuất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .
Tuất sơn thìn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .
Tốn sơn càn hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .
Càn sơn tốn hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .
Tị sơn hợi hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .
Hợi sơn tị hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .

VH Chú:
- Nhâm sơn bính hướng, thượng nguyên tam bát cục . Phát ở thượng nguyên
nếu bố trí hợp cách, đặc biệt vận 3.
- Tý sơn ngọ hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục. Phát ở hạ nguyên nếu bố trí hợp
cách, đặc biệt vận 9.
Các sơn khác cũng quyền như vậy

Tam: Tứ đại cục vượng sát


Nhất lục (1-6) cục vượng nhất lục vận, tam bát (3-8) là sát vận .
Tứ cửu (4-9) cục vượng tứ cửu vận, nhị thất (2-7) là sát vận .
Nhị thất (2-7) cục vượng nhị thất vận, tứ cửu (4-9) là sát vận .
Tam bát (3-8) cục vượng tam bát vận, nhất lục (1-6) là sát vận .

Tứ: Nhất quái thuần thanh cách.

《 Thiên Ngọc kinh 》 viết: “Đông tây lưỡng quái chân kỳ dị, tu tri bản hướng,
bản thủy tứ thần kỳ, đại đại trứ phi y”. Tức sơn thủy đồng một quái hay còn gọi
là “nhất gia cốt nhục” là một trong các cách đặc biệt của Liên Thành phái.
Nhất quái thuần thanh cách cục cộng lại thành 8 cách:
1, tham lang cách.
2, cự môn cách.
3, lộc tồn cách.
4, văn khúc cách.
5, vũ khúc cách.
6, phá quân cách.
7, tả phụ cách.
8, hữu bật cách.

VH chú: "nhất quái thuần thanh" hay còn gọi là "bổn hướng thủy" là nguyên lý
của "nhất dương chỉ" một trong các chiêu thức tuyệt kỷ của Liên Thành".

Ngũ: Tam nguyên bất bại hướng thủy kiêm thu chi cách cục.

“Kiền sơn kiền hướng thủy triều kiền, kiền phong xuất trạng nguyên;
Mão sơn mão hướng mão nguyên thủy, sậu phú thạch sùng bỉ
Ngọ sơn ngọ hướng ngọ lai đường, đại tướng trấn biên cương;
Khôn sơn khôn hướng khôn thủy lưu, phú quý vĩnh vô hưu”

Tý Cấn Tốn Dậu, cũng như trên. Đây chính là sơn, hướng, thủy loan đầu kết
hợp lý khí đồng tại nhất quái chi nghiệm.
Lục: Kiêm sơn kiêm thủy của Huyền không.

Đồng nguyên tương hợp quái khả kiêm


Bất đồng vị hợp bất tương kiêm.

Thí dụ: Tọa Ngọ hướng Tí


Ngọ Thiên quái là nhất khảm tức ai sơn là (1-6) sơn kiêm Bính thì hợp vì Bính
thiên quái là tứ tốn hợp ngũ, Thủy kiêm Nhâm có địa quái là Nhất khảm đồng
một quái-tốt. Nếu sơn bố trí kiêm Đinh có thiên quái là thất đoài (2-7) tuy
không sát nhưng không hợp được (1-6), thủy kiêm Quí có địa quái bát Cấn (3-8)
khắc (1-6) chủ dâm loạn.

Chương đặc biệt: Dụng pháp của Liên Thành dựa


vào cơ sở Tứ đại cục
Bản tổng hợp ai sơn - ai thủy

Để tiện cho việc áp dụng HK Đại quái Liên thành đây là bản tổng hợp Thiên
quái (ai sơn) và địa quái (ai thủy) của mỗi cung

Số trước là ai sơn, số sau là ai thủy


Tứ đại cách cuộc này là đại bí mật của huyền không chân gia, chỉ truyền cho
con cháu và một ít người bản tánh trung lương thông tuệ mà thôi. Đây là một
phần quan trọng trong"di thư" của sư tổ Triệu Liên Thành

a). Nguyên lý cơ bản phải đồng nguyên long: Để phát huy tác dụng điều bắt
buộc khi bố trí sơn thủy phải đồng nguyên long. Cho dù có hợp các nguyên tắc
sau mà không đồng nguyên long thì chỉ bình chứ không phát.

b). Nhất quái thuần thanh cách.


Thiên ngọc kinh nói: “Đông tây lưỡng quái chân kỳ dị, tu tri bổn hướng bổn
thủy tứ thần kỳ, đợi đợi trước phi y”. Đây là nói về nhất quái thuần thanh, Nhất
quái thuần thanh còn gọi là nhất gia cốt nhục.
Cách cuộc của nhất quái thuần thanh có 8 loại là Tham lang cách (1); Cự môn
cách (2), Lộc tồn cách (3), Văn khúc cách (4), Vũ khúc (6) cách; Phá quân (7)
cách, Tả phụ (8) cách và hữu bật (9) cách.
Thí dụ: Nhà tọa Nhâm hướng bính, ai sơn của Nhâm là 3, bố trí thủy ở Sửu có
ai thủy cũng là 3. Thủy ở Sửu còn gọi là "bổn hướng thủy" của Nhâm sơn Bính
hướng. Đây chính là Lộc tồn cách, vị trí kích tài cho dương trạch.

c). Hợp thập ải tinh cách.

Hợp thập ải tinh cách gồm có:


Thiên địa định vị
Sơn trạch thông khí
Lôi phong tương bạc
Thủy hỏa bất tương xạ

Đối đãi hợp thập ải tinh cách có 4 tổ hợp:


1-9 hợp 10 ải tinh cách.
2-8 hợp 10 ải tinh cách.
3-7 hợp 10 ải tinh cách.
4-6 hợp 10 ải tinh cách.
Thí dụ: Nhà tọa Nhâm hướng Bính, có giao lộ ở Thìn. Nhâm có thiên quái là
3(ai sơn 3) Thìn có địa quái là 7(ai thủy 7) chính là 3-7 hợp thập ải tinh cách
Ngoài ra còn các tổ hợp, hợp 5 hợp 15, các bạn tự nghiên cứu.

d). Tam nguyên chiếu thần thủy:

- Thượng nguyên Canh Tí Tỵ có địa quái tứ Tốn là chiếu thần thủy.


Thí dụ: Nhà tọa Quí hướng Đinh có thủy khẩu ở Tỵ thì phát trong thượng
nguyên
- Trung nguyên vận 4 và nửa vận 5, tứ Tốn quản sự, lấy Nhâm Tốn Dần địa quái
nhứt Khảm là chiếu thần thủy.
Thí dụ: Nhà Thìn hướng Tuất có thủy khẩu ở Nhâm thì phát ở vận 4 và 1/2 vận
5
- Trung nguyên lục Càn quản sự, lấy Mùi Càn Đinh địa quái cửu ly là chiếu
thần thủy.
- Hạ nguyên lấy Tuất Ngọ Ất địa quái lục Càn là chiếu thần thủy.

e). Tam nguyên tài thần tinh thủy:

- Thượng nguyên lấy Sửu Khôn Hợi là tài tinh thủy, địa quái là Chấn vì Chấn là
thiên mệnh tài tinh; thiên quái là Cấn vì Cấn là thiên khố tài tinh.
- Thượng nguyên lại lấy Bính Mão Tân địa quái là Khôn, vì Khôn là Cự Môn tài
tinh thủy.
- Trung nguyên lấy Mùi thủy địa quái Bính, vì Bính là Thiên quỷ tài tinh thủy.
- Hạ nguyên lấy Giáp Dậu Quý thiên quái là Chấn, địa quái là Cấn, Chấn và
Cấn là tài tinh thủy. Lại lấy Thìn thủy địa quái canh, vì Canh là Thiên hán tài
tinh thủy.

f). Ngũ quỷ thủy lộ:

- Thượng nguyên lấy Nhâm Tốn Dần, địa quái là tham lang là ngũ quỷ thủy và
cũng chủ ngũ quỷ đới tài lai.
- Trung nguyên lấy Tuất Ngọ Ất, địa quái Càn là ngũ quỷ thủy lộ.
- Hạ nguyên có Tuất Ngọ Ất là chiếu thần, cũng chủ ngũ quỷ đới tài lai.

g). Tam dương thủy:


- Ải hướng 9, tam thủy: Mùi Càn Đinh, địa quái là Ly, Ly là tam dương thủy.
- Aỉ sơn 9, tam sơn: thìn,tý tân, thiên quái là Ly, là tam dương tọa sơn đều chủ
đại phú quý và trường cửu.

Giải mã cho Tam nguyên sơn thủy tương phối chánh cuộc

- Hạ nguyên tọa:Canh, Mão,Đinh tam sơn. Canh Mão Đinh thiên quái là Đoài.
Nếu thủy lai :Thìn, Cấn,Thân 3 thủy đều là hạ nguyên 2 7 thủy với tọa sơn đồng
thuộc 1 quái, tức là thủy lai đương diện là chân long, còn gọi là thạch phá thiên
kinh, vả lại thủy lai và khứ toàn tại Thìn Cấn Thân tức là Đoài sơn thủy lưu
Đoài Hỏa cuộc, còn gọi là tận dương nhứt cuộc; nếu thủy lai khứ có 3 thủy Giáp
Dậu Quý là đều thuộc hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy, bát Cấn lại với tọa sơn thất
Đoài giao cấu, chủ hạ nguyên đại phú; nếu thủy lai khứ có 3 thủy Tuất Ngọ Ất
là đều thuộc trung nguyên 1 6 thủy tức hạ nguyên chiếu thần, lục Càn lại với tọa
sơn nhị Khôn giao cấu nên trung nguyên phát, hạ nguyên cũng phát. Nhưng 2-7
không phối được với 1-6 nên dù phát nhưng về sai bại, chủ dâm loạn, ly tán…
Nếu thủy lai khứ có 3 thủy Mùi Càn Đinh thì tuy hạ nguyên 4 9 thủy nhưng 4 9
với tọa sơn 2 7 không phối, dù phát cũng bị tật bịnh, về sau thì tuyệt tự.

- Hạ nguyên 3 sơn Tuất Khôn Dần thì Tuất Khôn Dần thiên quái là Cấn, địa
quái là Chấn, nếu thủy lai khứ Giáp Dậu Quý tức hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy với
tọa sơn đồng thuộc 1 quái, là thủy lai đương diện, là chân long, cũng tức là
thạch phá thiên kinh quyết.
Vả lại thủy lai khứ đều tại Giáp Quý Dậu, tức là Cấn Sơn Cấn hướng thủy lưu
Cấn đại cuộc, cũng là tịnh âm nhất cuộc; cuộc này tọa sơn là tài tinh mà thủy lộ
cũng tài tinh, đại cuộc chủ phát tài bạch, trung cuộc cũng phú gia nhứt huyện,
tiểu cuộc cũng phú 1 vòng, đều chủ hạ nguyên phát phước.
Nếu thủy lai khứ có Thìn Cấn Thân 3 thủy đều hạ nguyên 2 7 thủy, thất Đoài
với tọa sơn bát Cấn giao cấu nên chủ hạ nguyên phát, Thìn thủy địa quái là
Canh, Canh là Thiên hán tài tinh nên phát phước rất nhiều.
Nếu thủy lai khứ có Mùi Càn Đinh 3 thủy đều thuộc hạ nguyên, 9 thủy trung
nguyên chiếu thần, Tốn 4 với tọa sơn Chấn 3 giao cấu chủ trung nguyên phát
phước; Mùi thủy địa quái là Bính, Bính là Thiên quỷ tài tinh thủy nên phát tài
lộc nhiều như không bền vì 3-8 không phối được 4-9.
Nếu thủy lai khứ có Tuất Ngọ Ất 3 thủy, thì tuy trung nguyên 1 6 thủy, hạ
nguyên chiếu thần nhưng 1 6 với 3 8 không phối, dù phát cũng dâm loạn, bệnh
gân xương...

- Hạ nguyên 3 sơn Thìn Tí Tân, 3 cung đều là tam dương sơn 9, tọa sơn thiên
quái là ly, địa quái là Tốn, nếu thủy lai khứ Mùi Càn Đinh 3 thủy đều thuộc 4-9
tam dương thủy với tọa sơn đồng thuộc 1 quái, tức thủy lai đương diện là chân
long, cũng tức là thạch phá thiên kinh quyết.
Vả thủy lai khứ đều tại Mùi Càn Đinh là Ngọ sơn Ngọ hướng thủy lưu Ngọ đại
cuộc, là tịnh âm nhứt cuộc, cuộc này tọa sơn với thủy lộ đều là tam dương nhật
tinh chủ đại quý. Nay vận hạ nguyên đã phát tiết 60 năm, chỉ còn lại 30 năm đại
phát.
Nếu thủy lai khứ có Giáp Dậu Quý 3 thủy là đều hạ nguyên 3 8 tài tinh thủy, tọa
sơn Chấn 3 với Tốn 4 giao cấu, chủ hạ nguyên đại phú nhưng lâu dài thì bại vì
3-8 không giao được 4-9.
Nếu thủy lai khứ có Tuất Ngọ Ất 3 thủy là đều trung nguyên 1 6 thủy chiếu
thần, Khảm 1 với tọa sơn ly 9 giao cấu, chủ trung nguyên phát phước, hạ
nguyên cũng phát.
Nếu thủy lai khứ có Thìn Cấn Thân 3 thủy là 2 7 thủy, nhưng 2 7 với tọa 4 9
không phối, dù phát cũng dâm loạn, về sau thì tuyệt tự.

Pháp dụng Tứ Đại cục cho dương trạch

Như chúng ta đã biết đối với dương trạch thì nơi giao thoa của thủy lộ chính là
điểm cần xét khi coi một ngôi nhà củng như những nhà cao cây cao chung
quanh, đó chính là :" Tiên khán kim long động bất động, thứ xét huyết mạch
nhận lai long"

Ba yếu tố chính khi xét 1 căn nhà theo HK ĐQ Liên Thành


1).
- Thủy lộ, Cổng, Cửa và những nơi có thủy động ngoài nhà: Từ ai Sơn của tọa
nhà mà tính đến ai thủy của các cung có thủy động trên cần hợp các yếu tố
như :đồng khí,hợp 5,10,15,hợp sinh thành. Nếu được đồng nguyên long thì "cát
càng thêm cát". Điều kỵ khi nhà thuộc nhân hay địa nguyên kiêm quá 3 độ thì
cần xét đến"không vị kỵ lưu thần"
- Nhà có cửa sau bố trí ngay tọa: Đối với thiên nguyên long thì vẫn ổn. Nhưng
với những nhà nhân và địa nguyên thì đây là một đại họa không gì cứu vãn
được

2). Thủy trong nhà


- Cầu thang: Bậc trên cùng chính là chỗ nhập khí cho người sống trên tầng đó.
Cho nên nó được tính như cửa nhập khí so với tâm của tầng
- Cửa phòng: Phòng ngủ là một tiểu thái cực mà mỗi người trong nhà có sự thọ
khí khác nhau. Cho nên cửa phòng phải ở một vị trí đặc biệt cần được quan tâm.
Nó được bố trí nếu được đồng nguyên với tọa và hợp sơn thủy thì quá tốt, bằng
không hợp nguyên long chí ít cũng không được khắc sát với tọa. Với những nhà
vợ chồng con cái khắc khẩu thì việc bố trí cửa phòng hợp cách cũng có thể hóa
giải được
- Vị trí hồ cá hoặc phong thủy luân: cũng cần đồng nguyên và hợp cách với tọa
nhà
- Những vị trí khác như chậu rửa hoặc vòi nước: nếu dùng nước thường xuyên
thì cần phải xét còn nếu thời gian sử dụng quá ít thì thôi

3) Bếp:

Cân bằng thủy hỏa là một yếu tố quan trọng. Cho nên vị trí bếp cần xét thật kỹ
vì bếp chủ về sức khỏe và nhân đinh trong nhà. Có những người bị bệnh nan y,
sau khi chuyển bếp mà có thể gặp thầy gặp thuốc để khỏi bệnh hoặc trở nên nhẹ
nhàng hơn.
Bếp xét ai sơn và cần đồng nguyên long. Đặt biệt là nhân nguyên và địa nguyên
Bếp so với tọa đồng khí hoặc hợp 5 10 15 hay hợp khí tiên thiên.

Huyền Không Đại Quái Liên Thành Phái, Một bí mật trong các bí mật đang dần
được bật mí. Lý thuyết thì sâu xa nhưng cách dụng thì thật đơn giản mà hiệu
quả. Trên các trang mạng phong thủy của Trung Quốc cũng bàn luận rất nhiều
nhưng việc tổng hợp được qui tắc của dụng pháp và đưa lên cho mọi người thì
chưa thấy.
Với vòng ai tinh sơn thủy trên là một sự kết hợp kỳ diệu của "sơn thượng thông
căn" và "thủy lý thông căn" nền tảng của lý thuyết Liên Thành phái cùng với
Thành môn, thành môn ai tinh, Khôn nhâm ất quyết, các loại ai tinh.... Tất cả lý
thuyết Liên Thành đã nằm gọn trong tay các bạn.

Hướng thượng kiến sơn kiến thuỷ quyết

Toạ sinh hướng thời nghi tú thuỷ ,


Hướng khứ sinh toạ yếu cơ phong .

Toạ sinh hướng là hướng thượng tốt nhất được trống thóang hoặc có thuỷ .
Hướng sinh toạ là hướng thượng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn
phía sau thủy.
Tý sơn ngọ hướng, tý sơn thượng là cửu, ngọ thuỷ lí là lục, tứ cửu kim sinh nhất
lục thuỷ ,chính là tọa thượng sinh xuất cho hướng. Do vậy nơi đầu hướng cần
trống thoánng hoặc là có thuỷ .
Quý sơn đinh hướng, quý sơn lục, đinh hướng cửu ,là tứ cửu kim sinh nhất lục
thủy, là hướng thượng tứ cửu sinh tọa sơn nhất lục thuỷ ,là sinh nhập ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.

Nhâm sơn bính hướng ,thượng nguyên tam bát cục ,sơn sinh hướng ,hướng
thượng cần có thuỷ .
Bính sơn nhâm hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,Do vậy nơi
đầu hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tí sơn ngọ hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,Do vậy nơi đầu
hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Ngọ sơn tý hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Quý sơn đinh hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Đinh sơn quý hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Sửu sơn mùi hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Mùi sơn sửu hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.

Cấn sơn khôn hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Khôn sơn cấn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Dần sơn thân hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Thân sơn dần hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Giáp sơn canh hướng ,thượng nguyên nhất lục cục. hướng sinh sơn ,nơi đầu
hướng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Canh sơn giáp hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Mão sơn dậu hướng ,hạ nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Dậu sơn mão hướng ,thượng nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu
hướng cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Ất sơn tân hướng ,thượng nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tân sơn ất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng cần
trống thóang hoặc là có thuỷ .
Thìn sơn tuất hướng ,hạ nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng cần
trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tuất sơn thìn hướng ,hạ nguyên tam bát cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tốn sơn càn hướng ,hạ nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng cần
có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Càn sơn tốn hướng ,thượng nguyên tứ cửu cục .sơn sinh hướng ,nơi đầu hướng
cần trống thóang hoặc là có thuỷ .
Tị sơn hợi hướng ,thượng nguyên nhị thất cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Hợi sơn tị hướng ,thượng nguyên nhất lục cục .hướng sinh sơn ,nơi đầu hướng
cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn phía sau thủy.
Chương 4: Nhâm Khôn Ất quyết với các loại Ai tinh

Nhất: Sơn thượng cửu tinh định cục

Giáp quý thân tham tinh


Khôn nhâm ất cự môn
Tý mùi mão lộc tồn
Tuất càn tị thị văn
Thìn tốn hợi vũ khúc
Cấn bính tân phá quân
Dần canh đinh tả phụ
Ngọ dậu sửu bật tinh
Phân chia ra làm sơn đáo hướng, hướng đáo sơn nhị bàn. Ai tinh khởi ở thông
căn quyết .dương thuận âm nghịch luân chuyển, ngũ nhập trung cung.
Theo đó sơn thượng đáo hướng, hướng thuỷ cần được đồng nguyên hợp long
tọa.
Theo đó hướng thượng đáo sơn, long sơn cần được đồng nguyên hợp hướng
thuỷ.

Nhâm sơn bính hướng

Nhâm ai là Cự môn, Nhâm thông Thìn, khởi Cự môn tại Thìn, Nhâm dương nên
thuận ai, Lộc tại Bính, Văn tại Mùi, Liêm nhập trung, Vũ tại Canh… Theo đó
sơn thượng đáo hướng đồ:
cự tốn _ lộc li _ văn khôn
tham chấn _ trung cung _ vũ đoài
bật cấn _ phụ khảm _ phá càn

Bính thượng đắc lộc tồn tinh.

Bính ai là Phá quân, Bính thông Tuất, khởi Phá quân tại Tuất, Bính dương nên
thuận ai, Phụ tại Nhâm, Bật tại Sửu… Theo đó hướng thượng đáo sơn đồ:
cự tốn _ lộc li _ văn khôn
tham chấn _ trung cung _ vũ đoài
bật cấn _ phụ khảm _ phá càn
Nhâm sơn thượng đắc tả phụ.

Tý sơn ngọ hướng:

Tý ai là Lộc tồn, Tý thông Ngọ, khởi Lộc tồn tại Ngọ, Tý âm nên nghịch ai,
Văn tại Tốn, Liêm nhập trung, Vũ tại Mão… Theo đó sơn thượng đáo hướng
đồ:
văn tốn _ lộc li _ cự khôn
vũ chấn _ trung cung _ tham đoài
phá cấn _ phụ khảm _ bật càn

Ngọ hướng thượng đắc lộc tồn tinh.

Ngọ ai là Hữu bật, Ngọ thông Tý, khởi Bật tại Tý, Ngọ âm nên nghịch ai, Tham
tại Càn, Cự tại Dậu… Theo đó hướng thượng đáo sơn đồ
vũ tốn _ văn li _ lộc khôn
phá chấn _ trung cung _ cự đoài
phụ cấn _ bật khảm _ tham càn

Tý sơn thượng đắc hữu bật tinh.

Quý sơn Đinh hướng

Sơn thượng đáo hướng đồ :

tham tốn _ bật li _ phụ khôn


cự chấn _ trung cung _ phá đoài
lộc cấn _ văn khảm _ vũ càn

Đinh hướng thượng đắc hữu bật

Hướng thượng đáo sơn đồ :

lộc tốn _ cự li _ tham khôn


văn chấn _ trung cung _ bật đoài
vũ cấn _ phá khảm _ phụ càn
Quý sơn thượng đắc phá quân

sửu sơn mùi hướng :

Sơn thượng đáo hướng đồ :

lộc tốn _ cự li _ tham khôn


văn chấn _ trung cung _ bật đoài
vũ cấn _ phá khảm _ phụ càn

Mùi hướng thượng đắc tham lang

Hướng thượng đáo sơn đồ :

cự tốn _ tham li _ bật khôn


lộc chấn _ trung cung _ phụ đoài
văn cấn _ vũ khảm _ phá càn
sửu sơn thượng đắc văn khúc

Các sơn khác cũng quyền như vậy


Nhị thập tứ sơn triều nghênh thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết :

1: Thiên nguyên thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết

Tý khởi bản cung nghịch hành ,


Tốn càn càn tốn thuận hành ,
Ngọ mão dậu tham tốn nghịch ,
Khôn cấn khởi ngọ hành thuận

2: Địa nguyên thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết

Nhâm canh bính khởi tuất thuận ,


Sửu mùi canh thượng nghịch luân ,
Thìn tuất tuất thìn giai nghịch hành ,
Giáp khởi bản cung thuận ứng

3: Nhân nguyên thuỷ lộ khởi tham lang thuận nghịch quyết

Ất tân đinh khởi tị nghịch ,


Hợi tị tị hợi thuận hành ,
Thân dương quý âm khởi bản cung ,
Dần khởi ất hề đại thuận

Quyết này dùng phối hợp tam nguyên linh chính. Thượng nguyên và 30 năm
đầu trung nguyên lấy Tham Cự Lộc Văn Vũ 5 phương này có thủy là ngũ cát
thủy, Hạ nguyên và 30 năm sau của trung nguyên thì lấy Vũ Phá Phụ Bật Tham
5 phương này có thủy là ngũ cát.

Đặc biệt 30 năm sau của trung nguyên và hạ nguyên thì dùng Tham lang là thôi
chiếu thần, phương vị của Tham lang nếu có thủy thì thôi tài lộc đại phát. Tại
thượng nguyên và 30 năm đầu của trung nguyên thì dùng Tả phụ là thôi chiếu
thần, phương vị của Tả phụ tinh nếu có thủy thì thôi tài lộc đại phát.

Như tý sơn ngọ hướng, dùng khẩu quyết trên khởi tham lang tại bản cung
nghịch hành, tức là Tý khởi Tham, cự tại càn, lộc tại dậu, văn tại khôn, liêm
trinh tinh nhập trung ngũ bất động, vũ đến ngọ, phá đến tốn, phụ đến mão, bật
đến cấn. Trong thời gian thượng nguyên và 30 năm đầu trung nguyên thì các
phương khảm càn đoài khôn li có thuỷ là ngũ cát thuỷ, riêng phương Mão nếu
kiến thủy thì đại phát tài lộc. Trong thời gian 30 năm sau trung nguyên và hạ
nguyên thì các phương li tốn chấn cấn khảm có thuỷ là ngũ cát thuỷ, riêng
phương Tý nếu kiến thủy thì đại phát tài lộc.

Tý sơn ngọ hướng triều nghênh thuỷ lộ khởi tham lang đồ:

tốn phá _ li vũ _ khôn văn


chấn phụ _ liêm trinh _ đoài lộc
cấn bật _ khảm tham _ càn cự

Nam Phong Chú thích thêm để giải khẩu quyết:

Phần Thôi chiếu thần:

Thôi chiếu thần thượng nguyên và 30 năm đầu trung nguyên dùng Phụ tinh, hạ
nguyên và 30 năm sau của trung nguyên dùng Tham tinh, chính là kinh văn viết:
“Tham Phụ bất đồng luận”(Tham tinh và Phụ tinh thì luận không giống nhau),
đúng vậy, vì Tham tinh là thượng nguyên tinh lại dùng làm cát thủy ở hạ
nguyên, Phụ tinh là hạ nguyên tinh lại dùng làm cát thủy ở thượng nguyên.
“Thủ đắc Phụ tinh thành ngũ cát, sơn trung hữu thủy thị chân long”(giữ lấy Phụ
tinh để thành ngũ cát, trong núi mà có nước thì đấy là chân long), đúng như vậy,
nếu thượng nguyên mà phương Phụ tinh có nước, lại là cục thế sơn long chứ
không phải bình dương long thì có thể chắc đó là dấu tích chân long.

Phần khẩu quyết:

Tý khởi tham lang ở tại bản cung nghịch hành: Tý Tham, Càn Cự, Dậu Lộc…
Tốn tham lang khởi ở càn thuận hành: Càn Tham, Tý Cự, Cấn Lộc, Mão Văn,
Liêm quy trung cung, Tốn Vũ…
Càn khởi tham lang ở tốn thuận hành: Tốn Tham, Ngọ Cự, Khôn Lộc, Dậu
Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ…
Ngọ Mão Dậu khởi tham lang ở tốn nghịch hành: Tốn Tham, Mão Cự, Cấn
Lộc, Tý Văn, Liêm quy trung, Càn Vũ, Dậu Phá, Khôn Phụ, Ngọ Bật
Khôn Cấn khởi tham lang ở ngọ thuận hành: Ngọ Tham, Khôn Cự, Dậu Lộc,
Càn Văn, Liêm quy trung, Tý Vũ, Cấn Phá…
Nhâm Canh Bính khởi tham lang ở tuất thuận hành: Tuất Tham, Nhâm Cự,
Sửu Lộc, Giáp Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ, Bính Phá, Mùi Phụ, Canh Bật.
Sửu Mùi khởi tham lang ở canh nghịch hành: Canh Tham, Mùi Cự, Bính Lộc,
Thìn Văn, Liêm quy trung, Giáp Vũ, Sửu phá…
Thìn khởi tham lang ở tuất nghịch hành: Tuất Tham, Canh Cự, Mùi Lộc, Bính
Văn, Liêm quy trung, Thìn Vũ…
Tuất khởi tham lang ở thìn nghịch hành: Thìn Tham, Giáp Cự, Sửu Lộc, Nhâm
Văn, Liêm quy trung, Tuất Vũ…
Giáp khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Giáp Tham…
Ất Tân Đinh khởi tham lang ở tị nghịch hành: Tị Tham, Ất Cự, Dần Lộc, Quý
Văn, Liêm quy trung, Hợi Vũ, Tân Phá, Thân Phụ, Đinh Bật.
Hợi khởi tham lang ở tị thuận hành: Tị Tham, Đinh Cự, Thân Lộc, Tân Văn,
Liêm quy trung, Hợi Vũ…
Tị khởi tham lang ở hợi thuận hành: Hợi Tham, Quý Cự, Dần Lộc, Ất Văn,
Liêm quy trung, Tị Vũ…
Thân khởi tham lang ở bản cung thuận hành: Thân Tham…
Quý khởi tham lang ở bản cung nghịch hành: Quý Tham…
Dần khởi tham lang ở ất thuận hành: Ất Tham, Tị Cự, Đinh Lộc, Thân Văn,
Liêm quy trung, Tân Vũ, Hợi Phá, Quý Phụ, Dần Bật
Xếp lại toàn bộ sẽ thấy các sơn ai tinh lần lượt được như sau:
Tý Quý Giáp Thân: Tham lang
Nhâm Mão Ất Mùi Khôn: Cự môn
Càn Hợi Thìn Tốn Tị Tuất: Vũ khúc
Dậu Tân Sửu Cấn Bính: Phá quân
Dần Ngọ Canh Đinh: Hữu bật
Vừa trùng khớp với Thế quái ca quyết của Thẩm là huyền không phi tinh, thực
ra đây chính là khẩu quyết của Đại quái, họ Thẩm hiểu nhầm và dùng nhầm, Phi
tinh thực vẫn lập bằng bàn hạ quái, kiêm ngoài 7 độ thì tạp loạn không dùng
được mà thôi, dùng thế quái lập bàn thì không nghiệm.

Tiên thiên mệnh quái bí thuật Liên Thành phái

1-6 kỵ 3-8 do không hợp thư hùng-Thuần dương bất sinh, dương thịnh thì âm
suy nên bất lợi đặc biệt cho nữ nhân;
4-9 kỵ 2-7 do không hợp thư-hùng-Thuần âm bất trưởng, âm thịnh thì dương
suy, nên có bất lợi đặc biệt cho nam nhân

Dùng Cung mệnh của người so với cục của nhà và các hình thế chung quanh
nhà để tìm cát hung

Thí dụ: Nhà Tọa Nhâm hướng Bính là cục 3-8 tức hợp với những người có cung
mệnh là 3 - 8 - 2 - 7 Khắc người có cung mệnh là 1 – 6

Tiên thiên mệnh quái-bí thuật liên thành


Xưa Phục Hi bài bát quái(Tiên thiên bát quái), Văn Vương định thuật Hậu
Thiên bát quái, đó là một thể một dụng. Mà con người sinh ra đã định ở năm
tháng ngày giờ, đây là cái duyên Tiên thiên đã định

Thế gian có phép dùng mệnh quái, phân ra một phiến Đông mệnh, một phiến
Tây mệnh. Phép của mệnh quái này là lấy năm sinh làm mệnh quái, dùng ở
Thuyết Bát Trạch, Đông mệnh phối hợp với Đông trạch, Tây mệnh phối hợp với
Tây trạch. Thuyết này không phải là Chân thuật, trong cùng một năm có vạn
người được sinh ra, vì sao có thể cùng vui buồn, cùng cát hung cho được? Tiên
thiên mệnh quái nhất pháp là cái bí truyền ngàn năm nay của bản môn(Liên
Thành) mới là cái tạo phúc cho con người.
Cái lý của Kham dư xuất phát từ âm dương của quái lý, Tiên thiên tứ đại
cục(Nam Phong: ý nói thiên địa, lôi phong, thủy hỏa, sơn trạch), Hà Lạc sinh
thành, Hậu Thiên hợp thập qua trung tâm(Nam Phong: ý nói 5 ở giữa chủ 9 tinh,
8 tinh an 8 cung hợp thập qua trung ương 5). Thiên Địa sơn xuyên là hình, lưu
hành là khí(Nam Phong: ý nói hình là cái tĩnh là âm; khí là cái động là dương).
Nhất quái Nhân mệnh với quái lý của Hà Lạc có sự liên quan mật thiết với
nhau. Thánh nhân xưa phân Đông Tây, chính là nói ý nghĩa của tứ đại cục, đó là
nói thiên địa, nói lôi phong, nói thủy hỏa, nói sơn trạch. Địa lý với tứ đại cục có
sự liên quan và tương quan, Tiên thiên quái của nhân mệnh với tứ đại cục càng
có sự liên quan nhau. Bởi vì Thiên Địa Sơn Trạch hợp Tiên thiên một phiến là
Tây quái, Thủy Hỏa Lôi Phong hợp Tiên thiên một phiến là Đông quái. Ở Lạc
Thư thì hợp Hậu thiên 1 6 4 9 Kim Thủy một phiến là Tây quái, 2 7 3 8 hợp
Hậu thiên Mộc Hỏa một phiến là Đông quái. Thiê Địa Sơn Trạch có hình và chủ
tĩnh một phiến là Tây quái, Thủy Hỏa Phong Lôi vô hình và chủ động một
phiến là Đông quái.
Thế tục luận đồ là Tiên thiên nhập Hậu thiên, nhưng thực chất đồ là cái ý Tiên
Hậu thiên giao nhau, tức Tiên thiên tứ đại cục Thiên Địa Thủy Hỏa Sơn Trạch
Lôi Phong, ở Hậu thiên là cái ý hợp thập. Nên Phong thủy chú trọng Tứ đại hợp
thập với Hà Lạc sinh thành. Cái ý của mệnh quái chính là đó.

Phật giáo có phù hiệu chữ Vạn với Tiên Hậu thiên Hà Lạc chính là đồng tính
đồng nguyên.

Kinh viết: Tiên thiên là thể, Hậu thiên là dụng, Tiên thiên là thể thực chính là ý
nói cái khí vô hình, là nguyên lý vận động của vũ trụ, cũng là nguyên lý vận
động của thế nhân. Hậu thiên là dụng chính là thế gian vạn sự vạn vật sinh sinh
diệt diệt, giao nhau mà thành phải có thực hình thực thể.
Tiên thiên là thể, là bản thể, Thiên Địa Sơn Trạch lão âm lão dương một phiến,
Thủy Hỏa Lôi Phong thiếu âm thiếu dương một phiến, lão âm lão dương là vật
tĩnh âm nên xưng là âm tĩnh một phiến Tây; thiếu âm thiếu dương là vật dương
động nên xưng là dương động một phiến dương.
Hậu thiên là dụng, là thực thể, Thủy Hỏa Càn Tốn thư hùng một phiến, Sơn
Trạch Địa Lôi thư hùng một phiến, chính là tứ đại cục hợp thập, hợp sinh thành
chi nghĩa. Nên mới có 1 6 nam quái với 4 9 nữ quái tương hợp một phiến, 2 7
nữ quái với 3 8 nam quái tương giao một phiến. Do đó 1 6 3 8 nam quái không
giao được. Do đó 2 7 4 9 nữ quái không giao được.
Nam Phong: từ đây đọc và ngẫm cẩn thận sẽ thấy rõ 1 6 và 4 9 là chính giao
nhưng 1 6 vẫn có thể giao cùng 2 7(bàng giao); 2 7 và 3 8 là chính giao nhưng 3
8 vẫn có thể giao cùng 4 9(bàng giao). Tất nhiên khi phối như vậy là lão phối
thiếu, sơn thủy cần xem hợp hình hợp cách mới dùng được(hãy quan sát trong
đời các cặp hôn nhân lệch tuổi nhiều giữa chồng và vợ, những cặp nào phải tan
rã, những cặp nào hạnh phúc là sẽ hiểu nguyên lý của tự nhiên, tựu trung lại
quái Lão cần Nhu hình sơn thủy(già cần nhường nhịn vợ(chồng) trẻ) là bền,
quái Lão mà lại đắc Cương hình sơn thủy(già mà không nhường vợ(chồng) trẻ)
tất bại ở trước mắt). Như 1 giao 7, sơn thủy phía 1 là núi hoặc nhà cao sừng
sững, độc lập, hoặc nước lớn chảy mạnh thì đây là thất cách, kiểu gì cũng bại.

Bài đọc thêm

Liên Thành Phái Huyền Không

Sự sinh tồn của nhân loại trong vũ trụ từ xưa đến nay đã có vô số lần khảo
nghĩa như kiến trúc nhà ở phải cầu được những hoàn cảnh lợi ích, che mưa
tránh gió, phương tiện môn lộ, có thủy, có quang, từ đó mà phát sinh thuyết
Phong thủy như Bốc lạc của Chu Công, Thiên U của Lưu Công đều chọn Sơn
Thủy tương phối; Đến đời Tấn có Táng Kinh của Quách Phác thì đều trọng âm
dương nhị trạch. Đạo Phong thủy rất chú trọng ý nghĩa về hình thế và lý khí,
cũng có sách chuyên trọng hình thế mà không chú trọng lý khí. Ngày xưa phong
thủy chân nghĩa bị Hoàng gia cất giữ trong cung điện do sợ người vận dụng
làm bất lợi cho ngôi vị, đến khi Hoàng Sào vào Trường An, Dương Quân Tùng
mới truyền bá cho dân gian chân nghĩa Phong thủy. Tuy nhiên, do người được
truyền thụ có kiến thức bất đồng từ đó mà ra phân phái hình thế, lý khí, tam
hợp, huyền không tam pháp.
Hình thế thì theo nhãn lực mà xét tới Sơn thủy,
Lý khí thì xét hình thế hợp Sơn thủy để thẩm nguyên vận mà biện cát hung;
Tam hợp là pháp xét hình thế hợp sơn thủy lấy can chi sinh vượng mộ;
Huyền không là cái thuật xét hình thế hợp Sơn thủy mà thẩm định nguyên vận
hợp tiên hậu thiên quái lý; Quái lý là cái huyền cơ thâm tạng (?) của thiên địa
nên chẳng phải ai cũng có thể thẩm thấu được, cho nên từ Dương Công về sau
trong dân gian thuyết về hình thế và luận tam hợp là rất nhiều, chiếm địa vị chủ
đạo trong giới phong thủy. Đến đời Minh Thanh, Tưởng Đại Hồng do không
chịu làm việc cho ngoại di nên công danh thất chí bèn lấy Kham Dư làm tiêu
khiển, sau được Vô Cực Tử truyền cho Huyền không thuật rồi soạn bộ “Địa lý
biện chính”, chú giải Thanh nang Kinh Áo ngữ, Thiên ngọc Kinh, Đô thiên bảo
chiếu kinh. Nhưng văn cú trong sách quá nhiều ẩn ngữ, bởi cho rằng thiên cơ
không dám tiết lộ cho nên hậu nhân chỉ đắc được Thư mà không đắc được
Quyết, từ đó huyền không học phát sinh nhiều môn phái vậy.
Có câu hỏi rằng: anh phong thủy, tôi phong thủy, mọi người nói phong thủy,
cuối cùng thì thế nào là phong, thế nào là thủy? Hay câu: Đại huyền không,
tiểu huyền không, ai cũng nói huyền không vậy ai là huyền, ai là không? Ở đây
không nói ai đúng ai sai mà chỉ câu trong các loại học thuyết đó, thuyết nào có
lý, có chứng cứ hợp được thực dụng và có ứng nghiệm thì là loại học thuyết nên
theo, bất kể là dùng bát trạch hay tam hợp, huyền không hoặc những phương
pháp nào khác, miễn là có lợi đối với nhân loại.
Đồng một thời với Tưởng Đại Hồng (đời Minh Thanh) có Triệu Liên Thành ở
Vũ Ninh thâm đắc huyền không chân quyết, dân gian thời đó thường nói Nam
Tưởng Bắc Triệu; Do Triệu Liên Thành đơn truyền ít có người biết nên hậu thế
chỉ biết Tưởng Đại Hồng là người đắc được huyền không pháp quyết mà không
biết Triệu Liên Thành.
Người được Triệu Liên Thành truyền thừa là Lưu Nguyệt Tuyền, Lưu Nguyệt
Tuyền lại truyền cho Thái Lương Tài; Thái lương Tài lại truyền cho Đông Duy
Sở người Hồ Bắc; Đông Duy Sở truyền cho Tiền Dư Anh người Vũ Ninh; Tiền
Dư Anh truyền cho Trịnh Ngọc Phân và Lưu Chỉ An; Lưu chỉ An là cháu đích
tôn 5 đời của Lưu Nguyệt Tuyền, thông triệt Liên Thành tinh yếu, kết bạn thân
thiết với Vương Yêu Đạt, Vương Yêu Đạt sinh năm 1886 mất năm 1976, Ông là
một danh y nổi tiếng của Trung quốc và cũng là minh sư địa lý; Ông soạn
quyển “ngưỡng quán phủ sát” và quyển “Địa lý biện chính yết ẩn”, là tinh túy
của Liên thành phái. Ông không sợ tiết lộ thiên cơ mà công khai những điều
Tưởng Công không dám làm nên gọi là Yết ẩn.
Ngày nay có nhiều sách viết về Liên Thành Huyền Không. Nhưng chủ yếu vẫn
dựa trên 2 quyển
- Huyền Không đại Quái Ai Tinh Mật Chỉ là di thư của Triệu Liên Thành trước
khi mất
- Huyền Không đại Quái Địa lý biện chính yết ẩn của Vương Yêu Đạt
Chúng ta may có cơ duyên được cao tăng hậu ái ban truyền chân quyết, nên cố
gắng trau dồi yếu nghĩa của Huyền Không Liên Thành mà đem sở học giúp đời
ngõ hầu tạo phước cho dân gian để khỏi phụ cái đại tâm của Tiên Thánh.

Không vị lưu thần

Không vị lưu thần quyết

Thủy thần suy vượng hữu quyền hành lập hướng na di yếu biện minh
Không vị lưu thần tối dịch phạm nhất ti thất sát tiện vô tình
Cự môn phiên hướng phi lâm cấn dần vị khước xưng không vị danh
Nhâm cự phiên lâm lai đáo Bính, Đinh cung không ngoại thị môn trướng
Nhược hoàn xoa cảng chi hà nhiễu trùng pha âm dương đa thụ kinh
Trùng phá dương cung nam bất dục âm cung trùng phá nữ vô thành
Đan cung trùng trứ nhân tài giảm song vị trùng lai tiện thiểu đinh
Canh lự vi quan đa bác lạc triêu đường nhất đáo họa căn sinh
Công động hách liệt minh chung đỉnh chích phạ trung đồ tẩu cẩu phanh
Mạc vị loạn lưu như chức cẩm nhất phùng thử kiếp phúc chung khinh

Xét 2 cung bên cạnh đầu hướng nếu có thủy, xem có phạm sát là không vị

1. Nhâm sơn Bính hướng

+ Tốn tối kỵ, cung tốn thủy vi khảm (thủy lý 1 – Xem đồ hình), Nhâm
sơn chấn (Sơn thượng 3) chi sát [không hợp thư hùng, cô dương bất
trưởng],
+ Tị là tứ tốn (thủy lý 4), bính hướng địa quái/thủy lý là nhị (2) khôn,
khôn (2) - tốn (4) là sát. Nhâm sơn bính hướng tị tốn thủy trùng phá giả,
chủ nam nữ cụ hung. Trùng tọa sơn quái giả khắc đinh. Trùng hướng thủy
quái giả khắc đinh bại tài. 〈 bính hướng khôn (2 thủy lý),
+ Ngọ vị thị không vị, ai càn (6), Chấn (3)- càn (6) Tam -bát ; nhất - lục
vi sát, vi khắc bại đinh tài. 〉
+ Đinh vị diệc diệc thị không vị, ai ly (9), khôn (2)- ly (9) nhị cửu vi sát,
vi khắc bại đinh tài. 〉
2. Tý sơn ngọ hướng

Tý sơn ngọ hướng lấy bính là không vị, tý sơn cửu (sơn thượng 9), ngọ
hướng lục 6, bính thủy lý nhị (2), giao phối tọa sơn (9) là sát [không hợp
thư hùng, thuần âm bất sinh hại nữ nhân], Tị thủy lý vi tứ (4), giao phối
với tọa sơn (9) hướng thượng (6) hợp,

Các cung khác cũng quyền như vậy

Chương 5: Đại quái ai tinh với thâu sơn xuất sát

Nhất: Nhị thập tứ sơn đại quái ai tinh pháp

Tại thông căn quyết cầu thiên quái, dương sơn thì dùng nghịch ai, âm sơn thì
dụng thuận ai. Dùng để xét sơn phong sa thuỷ để thủ tài.
NHÂM SƠN AI TINH(NHÂM THÔNG THÌN 4- )
Bên trái là địa quái bên phải là thiên quái, các sơn còn lại cũng theo đó mà suy
ra. Xem sơn thượng bài thiên quái bên trên, đó là địa quái, thiên quái là đối
cung tầm, tức lấy đối diện lại là thiên quái vậy.
Trước tiên, muốn hiểu về thu sơn xuất sát thì phải quay lại ải tinh - ở đây chỉ nó
đến ải tinh của Liên thành . Nói chung, hình như mọi thứ đều từ ải tinh mà ra.

Thử vi xuất sát thâu sơn quyết

Nhất quái thống tam thuận nghịch luân


Thuận nghịch ải bàn thiên địa quái.
Huyền không chi thượng mích chân tình
Tiên thiên chi thể hậu thiên chi dụng.

Hà Lạc sinh thành chính ngũ hành


Thiên quái nguyên sơn địa quái thủy
Can kim bí quyết mạc truyền nhân.

Quyết này chuyên nói huyền không 48 cuộc thiên địa đại quái ải tinh, phối
thành 24 sơn âm dương thủy khẩu, vốn thuộc bí quyết không truyền cho
người. Thuyết về 24 sơn đại quái phối thành thủy khẩu này thì tác dụng
thần chỉ tại nơi tam bàn quái.

(*) Chính ngũ hành: này ám chỉ là bộ ngũ hành của liên Thành; chứ không
phải chính ngũ hành của Huyền không, tam hợp.

Khái niệm cơ bản:

Ví dụ: càn sơn - Đại quái ngũ hành thuộc cửu tinh, đại quái là 4-9; cặp 4-9 thì:

+ Tốn 4 phối Chấn 3 thì thấy 3-8 phong loan thủy lộ khả dụng [do thiếu âm,
thiếu dương phối].

+ Ly 9 (kim) phối khảm 1 (Mộc) thì thấy phong loan thủy lộ khả dụng. [do thiếu
âm, thiếu dương phối].

Cho nên đại quái 4-9 lấy 4 (thủy)-9 (Kim), 3 (Thổ)-8 (thổ), 1 (Mộc)-6 (Hỏa) ->
[Đủ trọn Thổ sinh kim, sinh thủy, sinh mộc, sinh hỏa, sinh thổ], 4-9 & 1-6 &
3-8: Tam quái cộng làm nhất quái;
=> Lấy 2-7 phong loan thủy lộ là SÁT, 2-7 mà quản vận hoặc đáo cung cũng
xấu, bởi 2-7 không thể phối với 4-9 vậy.

Chỉ có như vậy thôi!


Liên Thành thu sơn xuất sát bí quyết
VÍ DỤ:- Tý sơn Ngọ hướng:

8-3------------9-4-----------1-6
7-2------------5-5-----------2-7
6-1------------4-9-----------3-8

Tý sơn Ngọ hướng Địa quái Tý là 4, thiên quái Tý là 9, 4-9 sát ở 2-7, do vậy
xuất sát pháp là xem phương 2-7 mà phóng thủy, hoặc phương này phải trống
thóang.
-----------------------------------------------
Quay lại sơn thượng có: sơn thượng dụng thiên quái; nhưng sơn cũng có thiên
quái của sơn, sơn có địa quái của sơn - nên bàn xuất sát thường có 2 số ải kèm
nhau: 1 thiên, 1 địa của sơn thượng:

Ví dụ trên; Tý sơn ngọ hướng; thiên quái là Ly (9), địa quái là tốn (4): (để thiên
quái trong ngoặc, địa ngoài ngoặc)

[8-(3)][9-(4)][1-(6)]
[7-(2)][--5--][2-(7)]
[6-(1)][4-(9)][3-(8)]

Bởi vì 4-9 kỵ 2-7 do 2 cặp thuần âm, Nên, cần thu dương khí, đồng thời lại biến
chúng thành dụng thần:

+ Cung Đoài- tại Canh 2-(7) mới là cung sát, nên phải đem sơn tiêm phóng/đặt
ở [尖放 đặt; để] ngoài canh cung [NP viết: phương Đoài gồm Canh Dậu Tân, 2
phương Dậu Tân có sơn mà phương Canh trống thoáng (hoặc 2 phương Dậu
Tân cao và thấp trống thoáng về phương Canh)], để biến khôn (tức địa quái 2)
[cao phong thì dụng thiên quái; trống thoáng nên, dụng địa quái] hành thổ trở về
vi (giúp đỡ, bảo vệ) sơn tý có Ly (thiên quái 9) kim chi ấn thực; Đoài (thiên
quái 7) kim phản/trở lại vi/giúp sơn tý có tốn (địa quái 4) thủy chi ấn thực.
Đây chính là cách dụng thiên quái, địa quái của liên thành, biến sát thành Dụng;
biến thuần âm dương, thành tương phối!

Lưu ý mọi người:


1. Dùng phép nào thì dùng, với mỗi phép chỉ có MỘT NGŨ
HÀNH mà thôi. Không dùng loạn xạ Ngũ hành.
2. Phải hiểu rõ bản chất của HÌNH, nếu thấy phương đó cần sơn
lại thấy có sơn thì cho là đắc sơn thì CHƯA HIỂU bản chất của
hình, phải biết cần sơn loại nào, cao thấp ra sao, gần xa như thế
nào, âm hình hay dương hình... như thế mới tạm hiểu HÌNH.

2 câu này đọc 100 quyển sách Tàu và Ta cũng không có đâu.

Nam Phong chú:


Đây là một phần của một trong 4 Tâm Ấn Phong thủy lý khí(khi học phong
thủy lý khí đến một mức nào đó sẽ bắt đầu tự ngộ các tâm ấn này): Điên đảo
tâm ấn. Sơn thượng thông căn bài quái bên trên chính là địa quái, lấy đối
cung sẽ là số thiên quái, thiên địa quái số hợp lại không ngoài 1 6, 2 7, 3 8, 4
9. Nếu ngoài các tổ hợp này là sai.

Nhị: Đại quái ngũ hành

Khảm mộc; tốn thuỷ; li đoài kim ,


Cấn chấn khôn thổ; càn là hoả .
Li là nhật hề khảm là nguyệt ,
Đại quái ngũ hành tiêu tai hoạ .

Cho đến nay vẫn chưa lý giải được tại sao LT lại tính như vậy

Tam: Nhị thập tứ sơn ngũ hành (hay còn gọi Túc độ ngũ hành)
Do Nhật Nguyệt biến đổi với thời gian, vị trí Thái dương (mặt trời) và Địa cầu
khi chuyển động trong không gian qua thời gian thực tế có sự biến động, ngũ
hành 24 sơn khi xưa so với nay do đó mà có thay đổi, tuy nhiên vẫn ghi chép ra
cả ở đây để người học có thể chiêm nghiệm và đối chứng.
(Nam Phong chú: như ngũ hành đại quái bên trên, căn nguyên 24 sơn ngũ hành
của Liên Thành rất khó hiểu)

Tứ: Sinh nhập khắc nhập quyết

Thuận giả hỉ kì sinh,


Nghịch giả hỉ kì khắc ..
Cần nhất là được sinh nhập khắc nhập, tỉ hoà cũng là cát. kị sinh xuất và khắc
xuất,
Sinh nhập chính là theo đó ngoại sinh nhập nội, là tiến thần,
Sinh xuất chính là theo đó nội sinh ngoại là sinh xuất, là thoái thần .
Như thuận bài thì sinh nhập là vượng, sinh xuất cũng là vượng, sinh nhập chủ
cao quan, sinh xuất chủ phú nhưng lại không quý.
Nghịch bài thì khắc nhập là tài, khắc xuất cũng là tài, chủ phú nhưng lại không
quý.
Lấy sơn bàn làm chủ với hướng thượng thuỷ thượng để luận sinh khắc .
(Nam Phong chú:
Dùng tinh tại tọa sơn làm chủ để luận, dùng tinh tại hướng và tinh tại thủy khẩu
làm khách để luận, khách sinh chủ hoặc khắc chủ là cát, chủ sinh khách hoặc
khắc khách là hung).

Ngũ, Huyền không tam hợp yếu nghĩa

Nhất, hợp vận, hợp nguyên, hợp sinh thành (1-6, 2-7, 3-8, 4-9); hợp 5, hợp 10,
hợp 15.
Nhị, [Tọa-Long, Tọa-Hướng, Hướng-thủy]: Tọa khứ hợp long đệ nhất nghĩa,
Tọa hướng tương hợp vị nhị yếu; Hướng dữ thủy hợp thị tam chân.
Huyền không chi Long Sơn Hướng Thủy: Tọa sinh hướng thì nghi (cần phải) tú
thủy, hướng khứ sinh Tọa yếu (yêu cầu) kỳ phong.

Chương 6: Kiêm sơn và kiêm thuỷ

Kiêm sơn kiêm thuỷ:


Long Sơn Hướng Thuỷ có cái có thể kiêm dùng cũng có cái không thể kiêm
dùng, hợp ngũ (5) hợp thập (10), hợp thập ngũ (15) thì có thể kiêm dùng với
nhau. Không hợp thì không thể kiêm dùng, không thể kiêm dùng mà cố cưỡng
cầu kiêm dùng thì không tránh được hung họa, xuất quái kiêm thì đều là hung.
Kiêm dùng chia ra rõ ràng: sơn có thể kiêm hoặc không thể kiêm; thủy có thể
kiêm hoặc không thể kiêm; hai cái riêng biệt không được lẫn lộn.
Sơn thượng kiêm có: long, sơn, tọa, phong, sa tương kiêm.
Hướng thượng kiêm có: hướng, thuỷ, môn, lộ, khí khẩu tương kiêm.

Sơn thượng tý (9) quý (6)=[hợp 15] có thể kiêm dùng nhưng thuỷ lí tý (4) quý
(8) [không hợp 5, 10, 15] không thể kiêm dùng, sơn thượng tý là cửu quý là lục
thành thập ngũ khả kiêm, thuỷ lí tý tứ quý bát không hợp nên không thể kiêm
dùng.
Nhâm sơn là tam (3) chấn, tý sơn là cửu (9) li, là thập nhị nên không thể kiêm
dùng, hợi sơn là nhất (1) khảm cùng với Nhâm sơn tam (3) chấn là tứ cũng
không thể kiêm dùng. Nhâm thuỷ là nhất (1) khảm, tý thuỷ là tứ lục (4), hợp
ngũ nên có thể kiêm dùng, hợi thuỷ là tam bích (3) với nhâm thủy là nhất (1)
khảm, là tứ không hợp nên không thể kiêm dùng.

Chương 7: Long-Sơn-Tọa-Hướng-Thuỷ

Nhất: Quan hệ giữa Long Toạ Hướng Thuỷ:

Lấy toạ huyệt là chủ là nội, hướng với sa thuỷ là khách là ngoại
Lấy long là chủ, lấy toạ sơn là khách.
Lấy toạ sơn là chủ, hướng thuỷ là khách.
Lấy lai thuỷ là chủ, khứ thuỷ là khách,
Long hợp toạ, toạ hợp hướng và lai thuỷ, hướng hợp khứ thuỷ.
Dương Long (+) cần phải lập âm Chi (-) tọa hướng, dương tọa (+) thì tất cần âm
hướng (-).
Như Càn long lập tý sơn ngọ hướng vậy,
+ Càn tứ (4), Tý cửu (9), tứ âm (4-) cửu dương (9+). Long với tọa nhất âm (-)
nhất dương (+),
+ Tý sơn cửu (9), ngọ thuỷ lục (6), cửu dương (9+) lục âm (6-) hướng thuỷ cũng
vậy là nhất âm (-) nhất dương (+).

(Nam Phong chú:


Phần này tuy ngắn nhưng rất quan trọng chớ nên khinh xuất xem nhẹ, sách
Thiên Ngọc viết: “Càn sơn Càn hướng thủy lưu Càn, Càn thượng cao phong
xuất trạng nguyên…. Khôn sơn Khôn hướng Khôn thủy lưu, phú quý vĩnh vô
hưu”. Cẩn thận mà xem xét thì đều nằm trong cái quan hệ long tọa hướng thủy
này hết. Dương tất cần Âm phối, Âm tất cần Dương phối, mới có giao cấu sinh
thành, đó mới là chân chính pháp. Tịnh âm tịnh dương (âm long lập âm hướng
thu âm thủy, dương long lập dương hướng thu dương thủy) thực sự là ngụy
pháp Tam hợp.
Quan hệ chủ khách là quan trọng trong luận sinh khắc tiết sát, Bảo Chiếu viết:
“Chủ nhân hữu lễ khách tôn trọng, khách tại Tây hề chủ tại Đông”, như tọa
Mão hướng Dậu, tọa Đông hướng Tây, chủ Đông khách Tây, chính là khách tại
Tây hề chủ tại Đông).

Nhị : Khai khiếu phát tú

Sơn long mà không phát tú, thì có quý mà không vinh hiển, không khai khiếu,
thì nhân đinh sẽ không phồn vượng.
Dùng tiên hậu thiên hỗ Tham. Long ở hậu thiên phương có phong là khiếu, Tiên
thiên phương có thuỷ là tú .
Nhâm Tý Quý long, tất cần mùi khôn thân phương kiến phong, canh dậu tân
phương hội thuỷ. Do Nhâm Tý Quý là tiên thiên khôn vị, canh dậu tân là tiên
thiên khảm vị.
Bính ngọ đinh long, lấy tuất càn hợi là khiếu, tất cần tuất càn hợi phương có
phong, lấy giáp mão ất là tú, giáp mão ất phương có thuỷ. Do bính ngọ đinh là
tiên thiên càn vị, giáp mão ất phương là tiên thiên li vị. Dụng hậu thiên ứng tiên
thiên, cho nên tuất càn hợi phương cần phong ,giáp mão ất phương cần thuỷ
Khai khiếu phát tú biểu :

Tam: Hướng thượng kiến sơn kiến thuỷ quyết

toạ sinh hướng thời nghi tú thuỷ ,


hướng khứ sinh toạ yếu cơ phong .
Toạ sinh hướng là hướng thượng tốt nhất được trống thóang hoặc có thuỷ .
Hướng sinh toạ là hướng thượng cần có thủy phía trước và sau đó lại có sơn
phía sau thủy.

Đã đăng trong chương Đặc Biệt

Tứ: Tự khố thuỷ tá khố thuỷ quyết

Đương nguyên thuỷ chính là tự khố, hợp với nguyên vận thì là tá khố .
Đương vận chi thuỷ thì lực đại .hợp vận chi thuỷ thì lực tiểu
Lấy thuỷ lí bài quái để mà luận .
Như nhất vận đắc nhất khảm thuỷ là tự khố thuỷ, nhất vận đắc tứ tốn, lục càn,
cửu li chi thuỷ là tá khố thuỷ.
(Nam Phong chú: nói hợp nguyên vận ở đây chính là 1 6, 4 9 vận cùng hợp với
nhau(Kim Thủy tương sinh); 2 7, 3 8 vận cùng hợp với nhau(Mộc Hỏa tương
sinh), chứ không phải là thượng, trung, hạ nguyên hợp nhau.)

(Nam Phong chú: nói hợp nguyên vận ở đây chính là 1 6, 4 9 vận cùng hợp với
nhau(Kim Thủy tương sinh); 2 7, 3 8 vận cùng hợp với nhau(Mộc Hỏa tương
sinh), chứ không phải là thượng, trung, hạ nguyên hợp nhau.)

Ngũ: Đắc thời đắc vị quyết

đương vận chi thuỷ thì xưng là đắc thời, hợp vận chi thuỷ thì xưng là đắc vị. đắc
thì đắc vị dần táng mão phát, phú quý cửu trường .
Cũng như trên lấy thuỷ lí bài quái để luận.

Lục: Đồng tôn thuỷ sổ tiền thuỷ

Đồng toạ lai thuỷ xưng đồng tôn ,


Hợp hướng khứ thuỷ hào sổ tiền .

Chương 8: Thành môn và thành môn ai tinh

Nhất: Thành môn

Chia ra làm thành môn sơn và thành môn thủy.


Nơi khuyết khẩu là thành môn, lấy sơn là thành khuyết khẩu xứ là môn (hình
tựa như tòa thành trì có một cửa mở ra).
Nơi thủy bao ba bên bốn bề, có nơi xuất thủy là thành môn, lấy thuỷ là thành
và nơi thủy xuất là môn.
Thành môn chủ yếu cần đồng nguyên hợp quái hoặc hợp ngũ hợp thập hợp
thập ngũ.
Thí dụ:
Tý sơn bài quái tại cửu, ngọ hướng tại lục[thuỷ lí bài quái ], có càn tốn là thành
môn ,thành môn chủ yếu phải hợp lai khứ, do thuỷ lí càn bài cửu ,nếu như là
thuỷ lai thì với tý sơn đồng vận; nếu là thuỷ khứ ngọ ,ngọ hướng là lục ,với càn
cửu hợp thập ngũ. Tốn thuỷ bài tại nhất ,lai thuỷ với tý sơn nhất cửu hợp
thập ,ngọ hướng khứ thuỷ ,ngọ hướng lục là nhất lục cộng tôn .
Trong trường hợp lai khứ thuỷ không nhất định ,thành môn thì lại không thể di
chuyển, cho nên nếu khả lai thì lại bất khả khứ vậy, nếu là khả khứ thì lại là bất
khả lai vậy, nói chung lại thì lai thủy cần phải hợp tọa, khứ thuỷ cần phải hợp
hợp hướng, đây là nguyên tắc chung để định thủy lai khứ.

You might also like