You are on page 1of 17

Đề Cương Tư tưởng Hồ Chí Minh SSH1151 Full HD

Câu 1: Phân tích tinh hoa văn hóa phương Đông tác động lên việc hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh, liên hệ với việc tiếp thu giá trị văn hóa phương Đông
của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Tinh hoa văn hóa phương Đông
Tinh hoa văn hoá, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở
phương Đông, và ở Việt Nam trước đây.
Về Nho giáo: HCM đã loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong Nho giáo: coi
khinh lao động chân tay, coi khinh phụ nữ, … Người đã tiếp thu những yếu tố tích
cực, tiến bộ, đưa vào đó những nội dung và ý nghĩa mới phù hợp để phục vụ cho
nhiệm vụ cách mạng như:
 Quan điểm về xây dựng một xã hội lý tưởng (xã hội thái bình,
thịnh trị, bốn biển đều là anh em). Đây chính là một tư tưởng về xây dựng xã
hội chủ nghĩa không tưởng được ra đời từ rất sớm.
 Quan niệm trong triết lý nhân sinh, triết lý hành động, nhập thế
hành đạo giúp đời, đạo tu thân (chủ trương từ thiên tử đến thứ dân đều lấy tu
thân làm gốc). Đó là những quan niệm về đạo đức như nhân, nghĩa, lễ, chí,
tín (thương yêu con người, ngay thẳng, thấy việc đáng làm thì làm, thấy điều
đáng nói thì nói, không mưu tính cá nhân, tuân thủ những quy tắc ứng xử
trong gia đình và ngoài xã hội, hiểu được lẽ phải và giữ chữ tín).
 Hồ Chí Minh đã đưa vào những quan điểm chuẩn mực đạo đức
của Nho giáo những giá trị đạo đức mới như trung, hiếu, cần, kiệm, liêm,
chính, … và những tư tưởng như đề cao văn hóa lễ giáo, đề cao truyền thống
hiếu học, coi trọng người hiền tài. Đặc biệt, là quan niệm thân dân. Trong
Nho giáo, đối với người trị nước phải lấy dân làm gốc, Mạnh Tử nói: “Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Từ đó, Người đưa thành việc xây
dựng Nhà nước dân chủ, đề cao vai trò của quần chúng nhân dân trong xây
dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân.
Đối với Phật giáo: Trước hết, Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm, có ảnh
hưởng rất mạnh trong nhân dân, để lại nhiều dấu ấn trong văn hóa Việt Nam từ tư
tưởng, tình cảm, tín ngưỡng đến phong tục tập quán. Phật giáo cũng có những
điểm hạn chế như tư tưởng an phận. Hồ Chí Minh loại bỏ những yếu tố hạn chế đó
và tiếp thu những tư tưởng tiến bộ. Trong TTHCM thấm đậm những tư tưởng tích
cực của Phật giáo, là tình thương yêu con người, từ bi hỷ xả, tư tưởng vị tha, cứu
khổ cứu nạn, tư tưởng dân chủ chất phác, chống sự phân biệt đẳng cấp, đề cao lao
động, chống lười biếng, nếp sống có đạo đức, chăm làm điều thiện. Phật giáo du
nhập vào Việt Nam gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất chống
ngoại xâm của dân tộc đã hình thành Thiền phái trúc lâm, với chủ trương không xa
đời lãnh đạo, mà sống gắn bó với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân
tộc.
Đối với Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão
Tử, khuyên con người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên nhiên,
hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta trồng
cây, tổ chức "Tết trồng cây" để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống
của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng buộc
của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng tham
muốn về vật chất; thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; hành động theo
đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội.
Chủ nghĩa Tam dân: Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn với nội dung
“Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”, Hồ Chí Minh tiếp thu và
rút gọn thành sáu chữ vàng “Độc lập, tự do, hạnh phúc”, phát triển lên một trình độ
mới mang tính giai cấp, nhân dân và dân tộc. Trong đó, người nhấn mạnh: “Phải
làm cho mọi người đều được hưởng giá trị của tự do, độc lập”. Người cũng tìm
thấy ở trong đó những điều thích hợp với điều kiện Việt Nam (chống đế quốc,
chống quân phiệt Nhật, thực hiện đoàn kết quốc tế. Tuy nhiên, chủ nghĩa Tam dân
vẫn nằm trong hệ tư tưởng tư sản nên vẫn còn nhiều hạn chế.
=> Kết luận: Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Đông cực kỳ rõ
nét. Người đã tiếp thu những giá trị tích cực góp phần làm phong thêm kho tàng
văn hóa nhân loại đồng thời vận dụng vào cuộc sống và sự nghiệp Cách Mạng.
Liên hệ với việc tiếp thu giá trị văn hóa phương Đông của sinh viên trong
giai đoạn hiện nay:
 Giá trị văn hóa phương Đông là những điều tốt đẹp, tiến bộ, văn minh
mà người dân phương Đông có được từ xưa đến nay.
 Việc tiếp nhận văn hóa phương Đông có ý nghĩa vô cùng to lớn đối
với sinh viên, làm gia tăng kiến thức, vốn văn hóa và đời sống tinh thần
phong phú.
 Sinh viên cần biết vận dụng các giá trị văn hóa phương Đông trong
đời sống, cũng như phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế của văn hóa
phương Đông trong việc tạo lập nên nền văn hóa mới và việc hình thành
những nét văn hóa sống của bản thân. Trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước, để những giá trị văn hóa phương Đông trở thành một phần động
lực của sự phát triển, thì bản thân mỗi sinh viên cần phải xác định rõ được
những giá trị tích cực nào cần được học hỏi, tiếp thu, nhưng đồng thời cũng
phải biết loại bỏ những giá trị mang tính tiêu cực, có thể gây cản trở cho sự
phát triển của đất nước và của chính bản thân mình. Bản thân mỗi sinh viên
trong cuộc sống hàng ngày và trong quá trình học tập cần thường xuyên thực
hành những giá trị tiến bộ tích cực của văn hóa phương Đông như chăm chỉ
cần cù chịu khó học tập, biết tiết kiệm.
Câu 2: Tư tưởng văn hóa phương Tây đã chi phối sự lựa chọn con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là đúng hay sai? Tại sao? Liên hệ
với việc tiếp thu giá trị văn hóa phương Tây của sinh viên hiện nay.
Tinh hoa văn hóa phương Tây:
Khẳng định: Đúng
Ngay từ khi còn học ở trường tiểu học Vinh-Nghệ An, Đông Ba-Huế, rồi
trường Quốc học Huế, Hồ Chí Minh đã được làm quen với văn hóa
Pháp, quê hương của tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Chính điều này
đã gợi mở cho Hồ Chí Minh cái phương hướng tìm đường cứu nước
mới, là đi sang các nước phương Tây.
Trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh sống chủ
yếu ở nước châu Âu, nên người có nhiều thời gian để nghiên cứu văn
hóa, đời sống kinh tế, xã hội và hòa mình vào cuộc sống lao động nên
người chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa phương Tây như:
 Tư tưởng dân chủ của các nhà dân chủ thời kỳ Phục
Hưng thể hiện trong các tác phẩm: “Khế ước xã hội” của
Rousseau, “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu. Những nội
dung trong các tác phẩm này đã định hướng cho người để xây
dựng xã hội công dân, đó là thể chế dân chủ, thiết chế dân chủ, chế
độ dân chủ, và xây dựng nhà nước pháp quyền, đảm bảo cho người
dân có tự do, bình đẳng, bước đầu hình thành phong cách dân chủ
của mình trong cuộc sống thực tiễn.
 Tư tưởng về quyền con người được ghi trong “Tuyên
ngôn độc lập” của nước Mỹ, trong đó đề cập tới quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Tư tưởng tự
do, bình đẳng, bác ái được ghi trong “Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền” của nước Pháp đề cập đến tư tưởng nhân văn, giải
phóng con người khỏi thần quyền và sự thống trị của những quan
hệ phong kiến để khái quát thành quyền thiêng liêng bất khả xâm
phạm của các dân tộc và chủ trương xây dựng nhà nước “của dân,
do dân, vì dân”, tư tưởng dân chủ.
 Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những hạn chế và
nghịch lý của những lời lẽ hoa mỹ đó, và sự bất bình đẳng, nghèo
đói của những người lao động, nạn phân biệt chủng tộc đối với
những người da màu.
 Lòng nhân ái cao cả của Thiên chúa Giáo: Với tư duy
nhạy bén và tinh thần đấu tranh cho công lý, tự do của con người,
Hồ Chí Minh đã nhận thấy những quan điểm tốt đẹp của Đạo
Thiên chúa thay vì coi đó là công cụ xâm lược của thực dân Pháp.
Kế thừa lòng nhân ái, đức hi sinh của Thiên chúa Giáo, Hồ Chí
Minh là hiện thân của lòng nhân ái, đức hi sinh khi đã cống hiến cả
cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột.
 Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
và thời đại mới cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận
quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, khiến Người vượt hẳn lên phía trước so với những người
yêu nước cùng thời.
=> Kết luận: Tóm lại, trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
của Hồ Chí Minh, những giá trị tinh hoa văn hóa phương Tây đã chi
phối sự lựa chọn con đường cứu nước của Người. Người đã biết làm
giàu trí tuệ của mình và bắt kịp với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con
đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Liên hệ với việc tiếp thu giá trị văn hóa phương Tây của sinh viên
trong giai đoạn hiện nay:
 Giá trị văn hóa phương Tây là những điều tốt đẹp, tiến bộ,
văn minh mà người dân phương Tây có được từ xưa đến nay.
 Việc tiếp nhận văn hóa phương Tây có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với sinh viên, làm gia tăng kiến thức, vốn văn hóa và đời
sống tinh thần phong phú.
 Trong quá trình tiếp thu những giá trị văn hóa phương Tây,
sinh viên được tiếp thu qua internet, là 1 phương tiện giúp sinh
viên được khám phá, sáng tạo, tiếp cận những nền văn minh trên
thế giới và đáp ứng nhu cầu giải trí của bản thân. Tuy nhiên cũng
có điểm hạn chế đó là vốn ngoại ngữ, hoặc những văn hóa mang
tính chất … Ngoài học giá trị văn hóa tích cực của văn hóa phương
tây: trao đổi sinh viên (học hỏi cũng như mang giá trị dân tộc đi
quảng bá)… còn chịu ảnh hưởng giá trị văn hóa tiêu cực: thói
quen, lối sống… chưa phù hợp hoặc đi ngược lại thuần phong mỹ
tục của dân tộc: cách ăn mực, ngôn ngữ, hành vi giao tiếp,...
Câu 3: Phân tích vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Liên hệ với trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Vai trò của CNML đối với việc hình thành TTHCM được thể hiện qua việc:
 Trước hết, theo HCM, CNML là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, là chủ nghĩa
chân chính nhất, cách mạng nhất, khoa học nhất, là cẩm nang thần kỳ, là kim chỉ
nam, là mặt trời soi sáng con đường đấu tranh đến thắng lợi. CNML đã giúp cho
HCM nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không sao chép giáo
điều rập khuôn mà tiếp thu có chọn lọc, phù hợp với thực tiễn cách mạng VN. Từ
đó, Người đã vận dụng sáng tạo, phát triển để giải quyết những vấn đề cụ thể của
cách mạng VN, cũng như chấm dứt được sự khủng hoảng về đường lối cứu nước
của dân tộc. theo HCM, tiếp thu CNML là nắm lấy cái cốt, cái tinh thần, cái bản
chất chứ không lệ thuộc từng câu từng chữ, không sao chép, giáo điều, rập khuôn,
máy móc.
 CNML là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất TTHCM. Điều
này thể hiện CNML đã giúp cho HCM tổng kết kiến thức, kinh nghiệm cách mạng
thế giới để có phương pháp đúng đắn trong sự tiếp cận các giá trị văn hóa nhân
loại, lựa chọn tích hợp những nhân tố tiến bộ, cải biến nó cho phù hợp với truyền
thống văn hóa dân tộc và nhu cầu phát triển của đất nước, không vay mượn
nguyên xi một mô hình nào, tạo ra hệ thống quan điểm về con đường cách mạng
VN mang tính sáng tạo, dân tộc, khoa học, hiện đại. Trên cơ sở những quan điểm
của CNML, HCM cũng đã tìm ra quy luật phát triển tất yếu của nhân loại: sớm
hay muộn các dân tộc sẽ đi đến CNXH và Người cũng đã tìm ra được con đường
phải đi, đích phải đến cho cách mạng VN: đó là con đường cách mạng vô sản và
đích là CNXH – CNCS thông qua thế giới quan khoa học của CNML và phương
pháp hành động biện chứng.
=> Kết luận: Có thể khẳng định TTHCM là sản phẩm của sự kết hợp những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là CNML.
Trong đó, CNML là nguồn gốc lý luận quyết định sự hình thành và bản chất cách mạng
khoa học của TTHCM.
Liên hệ sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
 Xác định nền tảng tư tưởng của Đảng.
 Không ngừng học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, thấm nhuần tư tưởng, phương
pháp, thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Trau dồi đạo đức lối sống, tác phong và trách nhiệm theo chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Trên mặt trận không gian mạng, mỗi sinh viên phải tận dụng triệt để sức
trẻ, khả năng sáng tạo để tạo lên nhiều sản phẩm, thông tin tin cậy, lành mạnh, bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kịp thời cảnh báo cho cộng đồng về những thông
tin xấu, giả mạo, xâm hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng.
Câu 4: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Trách
nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
a, Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của
các dân tộc.
Đối với mỗi người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của tổ
quốc, tự do của bản thân và dân tộc. Đó cũng là khát vọng lớn nhất, là
giá trị tinh thần thiêng liêng bất hủ của dân tộc mà HCM là hiện thân của
tinh thần đó. Có thể nói đây cũng chính là khát vọng và mong muốn lớn
nhất như lời bộc bạch của Người: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng
bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập”. Cũng xuất phát từ điều đó
mà Người đã ra đi tìm đường cứu nước và Người đã tiếp thu những giá
trị về quyền con người trong tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và tuyên
ngôn nhân quyền, dân quyền của cách mạng Pháp để nâng lên thành
quyền cơ bản của các dân tộc: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do. Quyền độc lập tự do đó đã được HCM thể hiện trong suốt quá
trình hình thành tư tưởng của mình và thực tiễn chỉ đạo cách mạng VN:
năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng
minh thắng trận thừa nhận, HCM đã thay mặt hội những người VN yêu
nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Véc-xây bản yêu sách tám điểm đòi
những quyền tự do cơ bản cho nhân dân. Mặc dù bản yêu sách không
được chấp nhận nhưng qua sự kiện trên cho thấy lần đầu tiên TTHCM
về quyền những dân tộc thuộc địa đã được hình thành. Trong không khí
sôi sục lịch sử của CMT8, HCM đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập
của nhân dân ta trong câu nói bất hủ: “Dù có phải đốt cháy cả dãy
trường sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập”. Cho đến ngày
kêu gọi toàn quốc, toàn dân đứng lên để bảo vệ nền độc lập dân tộc,
HCM lại một lần nữa khẳng định quyết tâm đó: “Không, chúng ta thà hi
sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, HCM đã đưa
ra chân lý bất hủ có giá trị với mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc
lập tự do”. Điều này đã trở thành nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng
trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của VN. Đồng thời, đó cũng
là nguồn động viên đối với những dân tộc bị áp bức trên thế giới.
b, Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của
nhân dân.
Độc lập dân tộc phải mang tới tự do, hạnh phúc của nhân dân và
đây là vấn đề cốt lõi của TTHCM về độc lập dân tộc như Người đã từng
khẳng định: “Nước độc lập mà dân còn đói, rét thì độc lập đó không có ý
nghĩa gì”. Vì vậy, HCM quan niệm một nền độc lập thật sự phải mang
đến cho nhân dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài ra, độc lập dân tộc
cũng phải gắn với cơm no áo ấm, hạnh phúc của nhân dân. Điều này
được thể hiện khi HCM lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập
nhưng Người vẫn tiếp tục thực hiện mục tiêu mang lại cơm no áo ấm
cho nhân dân bằng việc Người đã đề ra một trong những nhiệm vụ cấp
bách của chính phủ là làm cho dân có ăn, có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân có học hành. Trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, HCM luôn phấn đấu vì mục tiêu như lời Người từng bộc
bạch: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
c, Độc lập dân tộc phải là nền độc lập triệt để, gắn liền với
hòa bình.
Trong nhiều tác phẩm của mình HCM đã vạch trần các chiêu bài
của các nước đế quốc là khai hóa văn minh, thành lập chính phủ bù nhìn,
… nhưng thực chất là nhằm che đậy bản chất ăn cướp, bóc lột của chúng
và Người đã làm cho nhân dân tiến bộ Pháp hiểu về sự thật khai hóa văn
minh của người Pháp ở Đông Dương. Theo HCM, độc lập dân tộc phải
là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… Độc lập dân tộc phải gắn với quyền tự
quyết dân tộc, không bị lệ thuộc vào nước ngoài, nhất là về đường lối
phát triển đất nước. Ngoài ra, HCM còn khẳng định độc lập dân tộc phải
gắn liền với hòa bình, điều đó có nghĩa chỉ có độc lập dân tộc thực sự
mới có một nền hòa bình trân chính. Đấu tranh cho độc lập của dân tộc
mình đồng thời cũng tôn trọng độc lập của các dân tộc khác và góp phần
vào việc giữ gìn hòa bình thế giới
d, Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ.
Các thế lực đến xâm lược nước ta đều có điểm chung là dùng
chính sách chia để trị với âm mưu chia cắt đất nước nhằm suy yếu lực
lượng của nhân dân ta. HCM đã sớm nhận thức được âm mưu đó, vì vậy
Người thường xuyên kêu gọi nhân dân hãy xóa bỏ mọi thành kiến xung
đột để thật thà đoàn kết lại đánh đuổi đế quốc xâm lược. Ngay buổi đầu
xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ, phải đối phó với nhiều khó
khăn trong đó có cả những tư tưởng chia rẽ nghi ngờ HCM theo Pháp,
nhưng Người đã khẳng định: “Tôi không phải là kẻ bán nước.” Khi thực
dân Pháp lăm le thực hiện những chiêu bài Nam Kỳ tự trị hòng muốn
chia cắt nước ta một lần nữa, HCM đã khẳng định trong bức thư gửi
đồng bào Nam bộ: “Đồng bào Nam bộ là dân nước VN. Sông có thể cạn,
núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Sau năm 1954,
đất nước VN tạm thời bị chia cắt thành hai miền, HCM tiếp tục kiên trì
đấu tranh để thống nhất tổ quốc và Người đã thể hiện niềm tin tuyệt đối
đó trong di chúc: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam
Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với thống nhất tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của HCM.
Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc:
 Bảo vệ độc lập dân tộc là trách nhiệm của mọi công dân,
trong đó có tầng lớp sinh viên.
 Nâng cao nhận thức về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH.
 Sinh viên phải có kiến thức đúng đắn, đầy đủ về bảo vệ tổ
quốc. Phải có hành động cụ thể, thiết thực trong bảo vệ tổ quốc: ra
sức học tập rèn luyện thể lực, tu dưỡng đạo đức, tác phong, lối
sống, đáp ứng nhu cầu của công cuộc bảo vệ tổ quốc; lên án, phản
đối qua các phương tiện truyền thông các hoạt động bất hợp pháp,
xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền của tổ quốc, tham gia hoạt động
tuyên truyền nhân dân đề cao cảnh giác trước âm mưu của các thế
lực thù địch.
 Tích cực tham gia tuyên truyền, hướng dẫn, cùng mọi người
thực hiện nhiệm vụ, nội dung bảo vệ tổ quốc. Tự giác tích cực
luyện tập các kỹ năng quân sự, chủ động tham gia các hoạt động
về quốc phòng an ninh do nhà trường, địa phương tổ chức.
Câu 5: Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin làm nền tảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh? Liên hệ vai trò
của sinh viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động:
Về tầm quan trọng của lý luận Người nhắc lại lời của Lênin trong tác
phẩm làm gì: “ Không có lý luận CM thì không có phong trào CM” và “
chỉ có 1 Đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn
được vai trò chiến sĩ tiền phong” và khẳng định, Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa làm cốt ví như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ chủ nghĩa
nhiều, học thuyết nhiều, nhưng học thuyết chân chính nhất, cách mệnh
nhất chính là học thuyết Mác Lênin. Toàn Đảng ai cũng phải hiểu và
theo chủ nghĩa ấy. Người coi CN Mác-Lênin “ không chỉ là mặt trời soi
sáng của chúng ta trên con đường các mạng mà còn là cẩm nang thần
kỳ” đưa sự nghiệp CM thắng lợi, cho nên Người yêu cầu toàn Đảng, cán
bộ đảng viên phải hiểu và vận dụng sáng tạo CN Mác.
- Đối với Cơ quan và tổ chức của Đảng, Nhà nước, HCM yêu cầu:
+ CN Mác Lênin là kim chỉ nam cho hành động chứ không phải là kinh
thánh. Phải nắm vững phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phải
căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng đắn quan điểm, đường lối chính
sách, pháp luật; phải vận dụng sáng tạo, không máy móc, giáo điều, rập
khuôn.
+ Phải tìm các giải pháp, biện pháp thực hiện, phải có quyết tâm. “
đường lối 1, biện pháp 10, quyết tâm phải 20”.
+ phải tổng kết kinh nghiệm của Đảng mình, các Đảng anh em, tổng kết
thực tiễn để rút ra những bài học thành công, chưa thành công.
+ Tổ chức việc học tập, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên phù
hợp, đồng thời phải tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện đường
lối, chính sách.
- Đối với cán bộ, đảng viên, HCM yêu cầu:
+ Học và hiểu lý luận, phải vận dụng vào thực tiễn, “ học mà không hiểu
hành là cái hòm đựng sách’, “ để ra vẻ ta đây”. Phải chống các biểu hiện
kém lý luận, coi thường lý luận, lý luận suông, lý luận giáo điều.
+ Phải tin tưởng, nhất trí với quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước
và quyết tâm thực hiện; pahir bảo vệ quan điểm đường lối chính sách,
giữ vững kỷ luật Đảng và kỉ luật đoàn thể.
+ Phải lấy hiệu quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo sự hiểu
biết và vận dụng sáng tạo CN Mác Lênin, công việc bê trễ thì không thể
nói là hiểu CN Mác –Lênin được.
+ Phải coi trọng thường xuyên học tập lý luận là nhiệm vụ tiêu chuẩn
của đảng viên.
+ Phải sống với nhau có tình nghĩa.
Vai trò của sinh viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng:
 Bảo vệ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của
mọi công dân, trong đó có tầng lớp sinh viên.
 Nâng cao nhận thức về mục tiêu lấy CNMLN làm nền tảng tư
tưởng trong TTHCM .
 Sinh viên phải có kiến thức đúng đắn, đầy đủ về bảo vệ tư
tưởng của Đảng. Phải có hành động cụ thể, thiết thực trong bảo vệ
tổ quốc: ra sức học tập rèn luyện thể lực, tu dưỡng đạo đức, tác
phong, lối sống, đáp ứng nhu cầu của công cuộc bảo vệ tổ quốc;
lên án, phản đối qua các phương tiện truyền thông các hoạt động
bất hợp pháp, xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền của tổ quốc, tham gia
hoạt động tuyên truyền nhân dân đề cao cảnh giác trước âm mưu
của các thế lực thù địch.
 Tích cực tham gia tuyên truyền, hướng dẫn, cùng mọi người
thực hiện nhiệm vụ, nội dung bảo vệ tư tưởng của Đảng. Tự giác
tích cực luyện tập các kỹ năng quân sự, chủ động tham gia các hoạt
động về quốc phòng an ninh do nhà trường, địa phương tổ chức.
Câu 6: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết
toàn dân tộc. Liên hệ vai trò của sinh viên trong việc xây dựng đại
đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc:
(trang 85-86 - Giáo trình)
 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược,
quyết định thành công của Cách Mạng:
Trong tư tưởng HCM, đoàn kết – đại đoàn kết không phai là một
sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài nhất quán của
cách mạng Việt Nam, bởi vì muốn cách mạng thành công mà chỉ có lòng
yêu nước, có đảng cách mệnh, có đường lối lãnh đạo đúng đắn, có lực
lượng cách mạng đông đảo thôi thì chưa đủ mà còn phải có sự đoàn kết
nhất trí của cả dân tộc, có như vậy mới tạo ra sức mạnh to lớn cho cách
mạng và trở thành lực lượng vô định quyết định thành công của cách
mạng. Vì vậy đạo đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, quốc tử của
cách mạng. Tuy nhiên ở trong mỗi giai đoạn cách mạng, trước những
nhu cầu nhiệm vụ cách mạng khác nhau, phải có những phương pháp
chính sách đoàn kết cho phù hợp từng đối tượng khác nhau, từng nhiệm
vụ khác nhau nhưng không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn
kết dân tộc vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, HCM đã
khái quát thành nhiều luận điểm mang tính chân lý: thứ nhất, đoàn kết là
sức mạnh của chúng ta, thứ 2, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng
lợi, thứ 3, đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công và Người
đã đi đến kết luận mang tính triết lý cho sự phát triển của dân tộc: Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công.
 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu
của Cách Mạng Việt Nam:
Trong quan điểm của HCM, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là khẩu
hiệu mà còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là thành viên, là
lực lượng lãnh đạo của cách mạng, do vậy đại đoàn kết toàn dân tộc phải
được xác định là một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này
phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực từ đường lối, chủ trương,
chính sách tới hoạt động thực tiễn của đảng. Trong lời ra mắt của Đảng
lao động VN, HCM đã khẳng định mục đích của Đảng lao động VN có
thể gồm trong 8 chữ: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc. Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng dân, do quần chúng, vì quần chúng. Từ quá
trình phát triển, đại đoàn kết là yêu cầu tất yếu khách quan, là đòi hỏi
khách quan của quần chúng trong sự đấu tranh tự giải phóng mình, bởi
vì khi lịch sử đòi hỏi giải quyết 1 vấn đề chung hay 1 nhiệm vụ chung
của một bộ phận người, của một giai cấp hay một dân tộc thì sự tất yếu
nảy sinh những nhu cầu đoàn kết để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc
đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc. Với vai trò lãnh đạo cách mạng,
Đảng phải có nhiệm vụ thức tỉnh tập hợp quần chúng nhân dân, chuyển
những nhu cầu đòi hỏi khác quan đó từ tự phát thành tự giác và hiện
thực thành những tổ chức để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc đấu
tranh chung của dân tộc. Chính vì vậy, ở mọi giai đoạn khác nhau, Đảng
luôn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu.
Trách nhiệm của sinh viên:
 Phải có kiến thức về vị trí và vai trò của đại đoàn kết dựa trên
tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Phải có hành động cụ thể, thiết thực để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân.
 Đoàn kết phải dựa trên tinh thần tích cực, loại bỏ những cái
xấu.
 Luôn yêu thương, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó
khăn.
 Tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân để thực hiện
chủ trương chính sách đại đoàn kết dân tộc mà Đảng và Nhà nước
ta đã thực hiện.
 Xây dựng ý thức trách nhiệm của bản thân với gia đình và
cộng đồng xã hội.
Câu 7: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về các nguyên tắc xây
dựng đạo đức cách mạng. Liên hệ tới rèn luyện đạo đức của sinh
viên hiện nay.
Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng:
 Một, nói đi đôi với làm, nêu gương đạo đức. Đạo đức cách
mạng là đạo đức được nhận thức và giải quyết trên lập trường của
giai cấp công nhân, phục vụ lợi ích cách mạng, do vậy, theo HCM,
nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của TTHCM - đạo đức
cách mạng. Nói đi đôi với làm đối lập với thói đạo đức giả của giai
cấp bóc lột, chính vì vậy HCm yêu cầu cần phải chống lại thói nói
mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng, làm
một nẻo; nhất là phải thường xuyên nêu gương đạo đức, bởi đây là
một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Do vậy, nói
đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Đây là
nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới,
do vậy cần phải chú ý, phát hiện, xây dựng những điển hình người
tốt việc tốt rất gần gũi trong đời thường và trong lĩnh vực sản xuất
vật chất. Do vậy một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng
nên 1 nền rộng lớn vững chắc khi những chuẩn mực đạo đức trở
thành hành vi đạo đức hàng ngày của toàn xã hội.
 Hai, xây đi đôi với chống. Để xây dựng một nền đạo
đức mới, cần phải kết hợp xây và chống. Muốn xây thì phải chống
mà muốn chống nhằm mục đích để xây. Xây là biểu dương giáo
dục, xây dựng những phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng
trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những chuẩn mực
đạo đức mới. Việc giáo dục đạo đức đó phải được tiến hành phù
hợp với từng giai đoạn cách mạng, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp,
lứa tuổi và trong trong từng môi trường khác nhau. Vì như HCM
đã nói, mỗi người đều có hiện ác trong lòng, ta phải biết làm phần
tốt trong lòng nảy nở như hòa mùa xuân và phần xấu mất dần đi.
Như vậy, xây dựng đạo đức mới phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh ở mỗi người và sự tự giác đối với mỗi người và mỗi tổ chức
mà trước hết là Đảng. Chống là phê phán, lên án và loại bỏ cái sai,
cái xấu, cái vô đạo đức trong xã hội, trong đời sống hàng ngày, bởi
vì việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là một cuộc chiến
đấu khổng lồ giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách
mạng. Để giành được thắng lợi trong cuộc chiến trên, điều quan
trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình
thành phong trào quần chúng rộng rãi, tạo dư luận lành mạnh để
phê phán, đề phòng, ngăn chặn và đấu tranh cho sự lành mạnh,
trong sạch về đạo đức.
 Ba, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Một nền đạo đức
mới chỉ được xây dựng trên cơ sở từ sự tự giác tu dưỡng đạo đức
của bản thân mỗi người, chính vì vậy việc tu dưỡng đạo đức cách
mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt
động thực tiễn để từ đó thấy rõ cái hay, cái tốt cái thiện của mình
mà phát huy, mà thấy rõ cái xấu, cái dở, cái ác của mình mà khắc
phục. Mỗi người phải kiên trì rèn luyện tu dưỡng đạo đức suốt đời
như công việc việc rửa mặt hàng ngày. HCM đã từng khẳng định
đạo đức cách mạng không phải trên trời xa xuống mà do đấu tranh
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. HCM chính
là tấm gương suốt đời tự rèn luyện đạo đức, những đức tính quý
báu của Người không phải là bẩm sinh có được mà do rèn luyện
bền bỉ hàng ngày kết tụ thành những viên ngọc trong sáng về đạo
đức.
Liên hệ việc rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay:
 Là việc làm thường xuyên, hàng ngày. Phải thường
xuyên tu dưỡng bền bỉ kể cả khi còn là sinh viên cho đến khi ra
ngoài xã hội.
 Sinh viên phải thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh: có tri thức, hiểu biết về đạo đức theo tư tưởng trung với
nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư.
 Thực hành, vận dụng thường xuyên và lan tỏa tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh trong đời sống.
Câu 8: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người. Liên hệ tới
việc rèn luyện xây dựng con người của sinh viên hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người:
a, Ý nghĩa của việc xây dựng con người.
Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa
cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm,
bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với
nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh nêu hai quan
điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con người.
“Vì lợi ích trăm năm thì phải “trồng người”. “Trồng người” là công việc lâu
dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn
hóa giáo dục. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai
đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
“Trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi
người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự
nghiệp xây dựng đất nước. Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng , Nhà
nước, các đoàn thể chính trị-xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng
người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải chờ
cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa;
cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa được đặt ra
ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu trước hết
cần có những con người với những nét tiêu biểu của xã hội xã hội chủ nghĩa như lý
tưởng, đạo đức, lối sống, tác phong xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người đi
trước, làm gương lôi cuốn người khác theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông
là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong trào, cần phải nâng cao hơn nữa
trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến”.
b, Nội dung xây dựng con người.
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong
và đạo đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện
với những khía cạnh chủ yếu sau:
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì
mọi người, mọi người vì mình”.
- Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
- Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
- Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu
gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị,
văn hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
c, Phương pháp xây dựng con người.
Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ
chế, tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là
người đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nói đến “tu thân,
chính tâm” thì mới có thể “trị quốc, bình thiên hạ” (làm những việc có lợi cho
nước, cho dân). Văn hóa phương Đông cho thấy “một tấm gương sống có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” và “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Hồ Chí
Minh thường nhắc lại những điều ấy trong khi bàn biện pháp xây dựng con người.
Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau” là
rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh nhắc nhở rằng
“hiền, giữ của con người không phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Theo Người, các cháu mẫu giáo, tiểu học như tờ giấy trắng. Chúng ta vẽ xanh thì
xanh, vẽ đỏ thì đỏ. Nói như vậy để thấy giáo dục rất quan trọng trong việc xây
dựng con người. Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần
chúng. Thông qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt
việc tốt”. Đặc biệt phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của
dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Liên hệ về việc rèn luyện xây dựng con người của sinh viên hiện nay:
 Con người hoàn thiện bao gồm: đức, trí, thể, mỹ.
 Phải tu dưỡng đạo đức, bồi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần tự
hào dân tộc.
 Học tập thật tốt, chăm chỉ, siêng năng học hành để có kiến thức
xây dựng và bảo vệ đất nước.
 Rèn luyện, nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn
giáo dục thể chất với giáo dục tri thức.
 Xây dựng và phát huy lối sống tốt đẹp, đấu tranh phê phán, đẩy
lùi cái lạc hậu, lỗi thời.
BỔ SUNG CÂU: Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Nội dung phương thức:
- Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng (dân vận). Hồ Chí Minh coi đoàn
kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Để thực
hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng. Vận động quần
chúng để thu hút quần chúng chính là để đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát
triển kinh tế- xã hội và văn hoá. Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ,
khả năng to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc,
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đảng
viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận
động quần chúng nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi,
trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với Tổ quốc và với dân
tộc, từ đó họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng. Người dân: “cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng:
những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm”.
- Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng. Để
tập hợp quần chúng nhân dân có hiệu quả, cần phải xây dựng những tổ chức đoàn
thể phù hợp với từng giai cấp, lứa tuổi, tôn giáo, giới tính,. . . cũng như Công đoàn,
Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,. . . Có như vậy mới phát huy được hết sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân.
- Ba là, các tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất. Người nói:
“Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách
mạng Việt Nam. . . Phải đoàn kết các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong
mặt trận Tổ quốc Việt Nam.”
b. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc :
 Phải có kiến thức về vị trí và vai trò của đại đoàn kết dựa trên tư
tưởng Hồ Chí Minh.
 Phải có hành động cụ thể, thiết thực để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân.
 Đoàn kết phải dựa trên tinh thần tích cực, loại bỏ những cái xấu.
 Luôn yêu thương, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn.
 Tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân để thực hiện chủ
trương chính sách đại đoàn kết dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta đã
thực hiện.
 Xây dựng ý thức trách nhiệm của bản thân với gia đình và cộng
đồng xã hội.

You might also like