Professional Documents
Culture Documents
Tiểu luận Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
Giáo dục thể chất (Đại học Vinh)
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trên phạm vi cả nước, đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đảng ta kiên định giữ vững quan điểm cũng như
con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ
nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở thành một nước giàu
mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công bằng
văn minh. Cả nước bước vào thời kỳ cải tạo quan hệ sản xuất,
xây dựng mô hình kinh tế tập trung, kế hoạch hóa theo mô hình
của Liên Xô và các nước Đông Âu.
Tuy nhiên sau một thời gian, mô hình kinh tế này tỏ ra lạc
hậu không phù hợp với tình hình, hoàn cảnh trong và ngoài nước
và tình hình thực tế, gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã
hội trầm trọng. Trước thực trạng này, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị,
xã hội, trong đó trọng tâm là xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI (12/1986) đánh dấu bước ngoặt quan trọng nhất
về tư duy nhận thức là việc từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu bao cấp chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong 25 năm qua, tư tưởng,
quan điểm về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã không không ngừng được tổng kết, rút kinh
nghiệm, bổ sung phát triển và ngày càng hoàn thiện qua các kỳ
Đại hội của Đảng.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào thực tiễn, thể chế KTTT định
hướng XHCN cũng còn bộc lộ không ít vấn đề bất cập. Những
hạn chế nảy sinh trong thực tế đời sống trở thành “rào cản” của
sự phát triển và được Đại hội XI của Đảng nhìn nhận: “Kinh tế
phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất,
hiệu quả, sự cạnh tranh của nền kinh tế thấp; các cân đối kinh tế
vĩ mô chưa vững chắc”.
Do vậy, nghiên cứu tìm hiểu về nền kinh tế định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
sâu sắc. Trải qua một quá trình học tập, nghiên cứu em quyết
định lựa chọn và giải quyết đề tài “Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nên trong khuôn
khổ bài viết này tác giả không có điều kiện đi qua sâu nghiên
cứu, mà chỉ dựa trên cơ sở kiến thức đã được trang bị và thực
trạng nền kinh tế thông qua các số liệu thống kê để đánh giá
nền kinh tế nước nhà.
2. Giới hạn nghiên cứu.
Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về định
hướng xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt nam.
Thời gian nghiên cứu của đề tài chủ yếu từ Đại hội VI (1986)
của Đảng cho đến nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
– Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử) và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa; những quan điểm, chủ trương của Đảng
về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã họi chủ nghĩa
trong thời kỳ đổi mới.
– Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung và phạm vi nghiên cứu như trên, đề tài sử dụng
phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chính. Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh số liệu để làm rõ nội dung nghiên
cứu.
4. Kết cấu gồm 3 chương
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận luận được kết cấu
thành 3 chương:
– Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
– Chương 2: Thực trạng của nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
– Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, bước đi và giải pháp phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1.1. Khái niệm nền kinh tế hàng hoá
Ở Việt Nam hiện nay phổ biến quan điểm về nền kinh tế
hàng hoá về nền kinh tế hàng hoá được đưa ra trong văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo văn kiện này thì nền
kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó
hình thái phổ biến là sản xuất ra hàng hoá để bán, để trao đổi
trên thị trường.
Nền kinh tế hàng hoá rõ ràng đối lập với nền kinh tế tự nhiên
ở mục đích sản xuất của nền kinh tế. Nếu trong nền kinh tế tự
nhiên sản phẩm được sản xuất để phục vụ cho nhu cầu của
chính người sản xuất thì trong nền kinh tế hàng hoá người sản
xuất sản xuất hàng hoá để đem trao đổi trên thị trường. Cũng từ
đó mà phương thức trao đổi trong nền kinh tế tự nhiên là trao đổi
hàng đổi hàng còn trong nền kinh tế hàng hoá là trao đổi T-H-T.
Nền kinh tế hàng hoá cũng đối lập với nền kinh tế chỉ huy bởi
nền kinh tế hàng hoá được điều tiết bởi cơ chế thị trường trong
khi nền kinh tế chỉ huy được điều tiết bởi cơ chế kế hoạch hoá
tập trung. Thực tế nền kinh tế nước ta trong giai đoạn 1975-1986
và giai đoạn sau 1986 kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
đến nay đã cho thấy sự yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá
so với nền kinh tế hàng hoá. Do đó thật dễ hiểu khi Đảng và
Nhà nước Việt Nam lại quyết tâm xây dựng nền kinh tế nước ta
thành nền kinh tế hàng hoá.
1.2. Vấn đề thị trường theo quan điểm hiện đại.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường có vai trò quan
trọng trong sự phát triển cuả nền kinh tế hàng hoá bởi một lý do
quan trọng nhất là thị trường chính là là trung tâm của cả quá
trình sản xuất hàng hoá. Nó đóng vai trò làm môi trường và điều
kiện cho tất cả các hoạt động trao đổi hàng hoá và qua đó giải
quyết vấn đề cơ bản nhất của nền kinh tế là sản xuất mặt hàng
gì, số lượng bao nhiêu. Ban đầu người ta tin rằng thị trường là
một phần tất yếu của nền kinh tế hàng hoá, ra đời và phát triển
cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Theo nghĩa đó thị trường gắn liền với địa điểm nhất định
trên đó diễn ra những quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, thị trường
cũng được mở rộng và quan niệm thị trường cũng được hiểu đầy
đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm
môi giới. Trên thị trường người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau để xác định giá và số lượng hàng hoá lưu thông trên
thị trường.
Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau về quan
điểm thị trường như sau: Thị trường là một quá trình mà trong đó
người bán và người mua tác động qua lại lẫn nhau để xác định
giá cả và sản lượng. Cũng theo quan điểm kinh tế học hiện đại
thị trường được chia thành thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch
vụ và thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường trong nước và thị
trường quốc tế.
dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lượng
cung về hàng hoá, dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuận với giá.
Quan hệ cung cầu là quan hệ giữa những người bán và
những người mua, giữa những người sản xuất và những người
tiêu dùng; là những quan hệ có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế hàng hoá. Không phải chỉ có giá cả ảnh hưởng tới cung cầu
mà quan hệ cung cầu ảnh hưởng tới việc xác định giá cả trên thị
trường.
– Hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, một là nó có thể thoả
mãn được nhu cầu nào đó của con người, hai là nó được sản xuất
ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà là để đem ra
trao đổi. Hàng hoá có hai thuộc tính là thuộc tính giá trị và giá trị
sử dụng.
Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết
tinh trong hàng hoá. Sản phẩm nào mà không chứa đựng lao
động của con người thì không có giá trị, khi giá trị thay đổi thì
giá trị trao đổi cũng thay đổi. Giá trị trao đổi chính là hình thức
biểu hiện của giá trị. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền
với nền sản xuất hàng hoá, khi nào còn sản xuất và trao đổi
hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị.
Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn
một nhu cầu nào đó của con người.Công dụng của sản phẩm do
thuộc tính tự nhiên của sản phẩm đó qui định. Giá trị sử dụng
thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng nó là nội dung của của cải,
không kể hình thức xã hội của cải đó như thế nào. Với ý nghĩa
như vậy thì giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản
phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng nhưng
không phải bất cứ sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là
hàng hoá. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá
trị trao đổi.
– Tiền tệ
Trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, người ta đổi trực
tiếp một vật này lấy một vật khác, với sự phát triển của phân
công lao động xã hội và trao đổi hàng hoá trong thời kỳ suy tàn
của chế độ công xã nguyên thuỷ, những nhược điểm của hình
thái giá trị toàn bộ hay mở rộng ngày càng rõ rệt. Trong quá trình
trao đổi hàng hoá xuất hiện một nhu cầu là những người chủ
hàng hoá phải tìm được một loại hàng hoá nào mà được nhiều
người ưa thích để đổi hàng hoá của mình để lấy hàng hoá đó.
Sau đó dùng hàng hoá ấy đổi lấy thứ hàng hoá mà mình cần.
Như vậy, việc trao đổi không còn là trực tiếp mà phải qua một
bước trung gian. Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển cuộc
phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai thúc đẩy mạnh sự phát
triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều đó đòi hỏi phải có
vật ngang giá chung thống nhất giữa các vùng, như vậy tiền tệ
đã xuất hiện. Tiền tệ xuất hiện là kết quả lâu dài và tất nhiên
của trao đổi hàng hoá. Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp với
mọi hàng hoá, nó trở thành phương tiện biểu hiện giá trị của
hàng hoá. Tiền tệ là thứ hàng hoá đặc biệt được tạo ra là vật
ngang giá chung cho các hàng hoá khác. Nó thể hiện giá trị lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hoá.
Nhu cầu trao đổi đã phát triển đến mức cần có những loại
tiền mới không chỉ là tiền giấy, sec mà còn là thẻ tín dụng, tiền
điện tử….nó được chuyển nhượng thông qua các máy tính,
đường điện thoại và thậm chí có thể tồn tại trên giấy tờ.
Như vậy ngày nay tiền được coi là mọi thứ được xã hội chấp
nhận làm phương tiện thanh toán và trao đổi. Bản thân chúng có
thể có hoặc không có giá trị riêng.
– Giá cả
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Giá cả
phản ánh tình hình cung cầu, có thể nhận biết sự khan hiếm
tương đối của hàng hoá qua sự biến đổi giá cả. Tin tức về giá cả
có thể hướng dẫn đơn vị kinh tế có liên quan định ra những
quyết sách đúng đăn. Trong lĩnh vực phân phối, lưu thông và tiêu
dùng sự biến đổi giá cả cũng cung cấp những thông tin cần thiết
để chính phủ, xí nghiệp và cá nhân định ra những quyết định.
Giá cả lên xuống như một bàn tay vô hình điều tiết lợi ích
của mọi người, chỉ huy hành động của người sản xuất, điều tiết
hành vi của người tiêu dùng. Giá cả còn có chức năng thúc đẩy
tiến bộ kỹ thuật, giảm lượng lao động xã hội trung bình cần thiết
và chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, thu
nhập cá nhân. Giá cả chỉ có thể phát huy các chức năng trên dựa
vào tiền tệ. Giá cả có đầy đủ tính đàn hồi, thị trường phải có tính
cạnh tranh đầy đủ nếu không sẽ làm thiệt hại chức năng của giá
cả.
Trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành giá cả phải lấy
giá trị làm cơ sở và dựa vào yêu cầu của qui luật giá trị. Qui luật
giá trị thông qua cung- cầu có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh
tế thị trường. Cho nên vận dụng qui luật giá trị, tình hình cung
cầu trên thị trường để hình thành giá cả là phương tiện và con
đường quan trọng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Mặc dù cơ chế thị trường ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là cơ chế có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, song có chế hình thành giá cả phải từ
thị trường là chủ yếu, người sản xuất kinh doanh có quyền định
giá. Cơ chế hình thành giá này đòi hỏi Nhà nước trong khi chỉ đạo
và quản lý giá cả phải làm cho tuyệt đại đa số hàng hoá phù hợp
với giá thị trường do các tổ chức kinh tế căn cứ vào quan hệ
cung cầu của thị trường qui định, thông qua giá cả Nhà nước
điều tiết, hướng dẫn việc đầu tư một cách hợp lý.
– Cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị
trường. Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận
những qui luật của nền kinh tế thị trường trong đó có qui luật
cạnh tranh.
Cạnh trạnh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa, cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
những người sản xuất kinh doanh với nhau để giành giật lấy
những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, nhằm
tối đa hóa lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh
tế.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được
chuyển từ nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi có sản xuất có hiệu
quả cao hơn. Tạo ra lợi ích xã hội cao hơn, mọi người sẽ sử dụng
những sản phẩm tốt hơn, cạnh tranh đem lại sự đa dạng của sản
phẩm dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng,
cho người tiêu dùng.
Như vậy, cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu và là
đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc
đẩy kinh tế phát triển. Cạnh tranh có thể được xem như là quá
trình tích lũy về lượng để từ đó thực hiện các bước nhảy thay đổi
về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang của xã
hội, nó làm cho xã hội phát triển đi lên tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn
tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu
khách quan.
1.4 Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế vận động một
cách bình thường, thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng kinh tế,
tạo ra thành tựu kinh tế to lớn mà các nền kinh tế trước đây
không thể nào đạt đến được. Đó chính là ưu điểm to lớn nhất của
cơ chế thị trường mặc dù bản thân nó cũng vẫn tồn tại những
nhược điểm vốn là bản chất của nó.
Theo quan điểm của Samuelson nền kinh tế thị trường chịu
sự điều khiển của “hai ông vua”: người tiêu dùng và kỹ thuật.
Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ chính là người bỏ tiền
ra mua hàng hoá do các doanh nghiệp sản xuất ra. Hay nói một
cách đơn giản hơn, họ chính là người quyết định sự tồn tại của
doanh nghiệp thông qua các quyết định mua và sử dụng hàng
hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Tuy nhiên ngoài người tiêu dùng
ra thị trường còn tồn tại một ông vua nữa, đó là kỹ thuật. Bởi vì
việc sản xuất không thể vượt quá khả năng kỹ thuật nên thực ra
cầu hàng hoá phải chịu theo cung ứng của người sản xuất. Người
sản xuất sẵn sàng chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác nếu
như có lợi nhuận hơn. ỏ đây thị trường đóng vai trò trung gian
giữa sở thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật.
Qua phân tích trên ta có thể hình dung phần nào những ưu
điểm của cơ chế thị trường. Trước hết cơ chế thị trường kích thích
và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động và
phát triển. Do đó mà mọi tiềm năng của nền kinh tế được sử
dụng tối đa tham gia vào hoạt động phát triển kinh tế. Đồng thời
tính cạnh tranh quyết liệt luôn tồn tại trong nền kinh tế bắt buộc
người sản xuất giảm chi phí lao động đến mức tối thiểu bằng
cách tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Chính yếu tố
này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng
suất lao động, nâng cao chất lượng vào số lượng hàng hoá, qua
đó người tiêu dùng chính là những người được lợi nhiều nhất.
Ưu điểm thứ hai là tính mềm dẻo dễ điều chỉnh của cơ chế
kinh tế thị trường. Chính sự thay đổi về giá cả trên thị trường cho
phép các doanh nghiệp nhanh chóng nhận biết yêu thay đổi cho
phù hợp với tình hình mới. Trong thực tế các doanh nghiệp Nhà
nước thường chậm chạp trong việc thay đổi này do việc ra quyết
định không thể nhanh chóng như ở các doanh nghiệp không phải
Nhà nước. Vấn đề cơ bản là ở chỗ sự chuyển đổi nhanh chóng
này giúp cho nền kinh tế nhanh chóng đi vào ổn định hơn khi có
sự thay đổi. Tuy nhiên đôi khi chính nền kinh tế cũng không thể
nhanh chóng đi vào ổn định mà khi đó cần có sự can thiệp của
Nhà nước thong qua các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý.
Nói chung, mục đích của các doanh nghiệp khi tham gia vào
thị trường là lợi nhuận. Thế nhưng lợi nhuận lại chỉ có được thông
qua sự tiêu dùng của cách hàng. Bởi vậy để có được lợi nhuận tối
đa, các doanh nghiệp bắt buộc phải quan tâm đến nhu cầu của
khách hàng, cụ thể là nhu cầu về chất lượng và giá cả. Khách
hàng luôn đòi hỏi chất lượng hàng hoá phải được nâng cao trong
khi giá bán hạ xuống. Để đáp ứng đòi hỏi của “ông vua” này
doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức sản xuất sao cho chi
ohí sản xuất giảm xuống đến mức có thể trong khi vẫn đảm bảo
chất lượng. Như vậy cơ chế thị trường đã giải quyết ba vấn đề cơ
bản của nền kinh tế trong khi với cơ chế kế hoach hoá việc Nhà
nước tự ra quyết định sản xuất thường gây ra sự khác biệt giữa
cầu và cung dẫn đến sự rối loạn của thị trường hàng hoá.
Tuy nhiên lịch sử loài người cũng ghi nhận những khuyết
điểm của cơ chế thị trường đặc biệt là trong các vấn đề xã hội.
Trước hết do áp lực cạnh tranh mà trong quá trình sản xuất đã
phát sinh vấn đề phân hoá giàu nghèo. Những người tồn tại và
phát triển được cùng với cơ chế thị trường sẽ có được những
nguồn thu nhập lớn trở nên giàu có trong khi một bộ phận không
nhỏ khác phải chấp nhận phá sản, trở nên nghèo khó. Khi xã hội
càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo càng diễn ra mạnh
mẽ giữa những cư dân cùng quốc gia, giữa mức sống dân chúng
của các nước. Ngày nay, sự khác biệt đó đã lên đến hàng trăm
lần. Tại những quốc gia có mức sống cao, GDP đầu người hàng
năm vào khoảng trên 30000 USD trong khi quốc gia nghèo khó
nhất như Mozambic thu nhập đầu người tính theo GDP chỉ đạt
80USD. Sự chênh lệch này sẽ càng thể hiện rõ hơn khi so sánh
với tỷ lệ hồi đầu thế kỷ trước chỉ khoảng vài chục lần.
Ngoài ra do mục tiêu lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường,
người ta sẵn sàng lạm dụng tài nguyên xã hội, làm ô nhiễm môi
trường nhằm mục tiêu giảm chi phí sản xuất qua đó nâng cao lợi
nhuận. Hậu quả là môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, tài
nguyên cạn kiệt, hệ sinh thái mất cân bằng. Chỉ đến gần đây
người ta mới nhận thức được vấn đề này. Nhưng khi mà các nước
nỗ lực giảm lượng khí thải xuống thì việc Mỹ rút khỏi công ước
Kyoto thì người ta sẽ còn vô số việc phải làm để đảm bảo sự phát
triển bền vững cho các thế hệ sau. Cũng do mục đích lợi nhuận
mà các nhà kinh doanh sẽ không tham gia vào một số lĩnh vực
kinh tế có tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc các ngành kinh tế công
cộng. Do đó nền kinh tế có thế phát triển mất cân đối và cần có
sự tham gia vào của Nhà nước để khắc phục nhược điểm này.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ đỉnh cao của các
công ty độc quyền với làn sóng sát nhập và thôn tính. Phải mất
hàng chục năm sau người ta mới nhận ra tác hại của các công ty
độc quyền này đối với nền kinh tế. Tại Mỹ Luật chống độc quyền
chỉ ra đời vào năm 1960, các nước khác còn muộn hơn. Bởi vì cơ
chế thị trường chỉ hoạt động có hiệu quả trong môi trường cạnh
tranh hoàn hảo để có thể thúc đẩy sự phát triển của lực lượng
sản xuất nhờ đó mà sử dụng hiệu quả đến tối đa các nguồn lực
của nền kinh tế. Khi có sự tồn tại của các công ty độc quyền cơ
chế này không còn hiệu quả nữa. Nhưng sự xuất hiện của các
công ty độc quyền gần như là hệ quả tất yếu của quá trình cạnh
tranh. Bởi vậy sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết để duy trì
tính lành mạnh của thị trường.
2.1. Định nghĩa nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Samuelson trích trong Kinh tế học thì
“Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một
cách không tự giác nhân dân và doanh nghiệp thông qua hệ
thông giá cả và thị trường. Nó là một phương tiện giao thông để
tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau,
không có bộ não trung tâm nó vẫn giải được bài toán mà máy
tính lớn nhất ngày nay cũng không thể giải nổi. Không ai thiết kế
ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang thay đổi cũng như xã hội loài
người.”
Theo quan điểm của Đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó
những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem
là nền kinh tế thị trường. Nói cách khác nền kinh tế thị trường
chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị
trường. Nền kinh tế này khác với nền kinh tế tập trung ở chủ thể
xác định các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. nền kinh tế tập
trung chủ thể này là Nhà nước thông qua các mệnh lệnh hành
chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh và động lực cho
nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ VI, chúng
ta đã xác định xây dựng nền kinh tế thành nền kinh tế thị
trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là có sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế nhưng không phải can thiệp
vào nền kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp
thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh
tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào sản
xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này được xem là cần thiết
nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sửa chữa những
khuyết tật của thị trường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn
định kinh tế vĩ mô (Kinh tế học- Samuelson). Đây là lý thuyết nền
kinh tế hỗn hợp đã được Samuelson đưa ra. Theo ông phát triển
kinh tế phải dựa trên hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà
nước:” điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị
trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”. Tuy nhiên
trong hoàn cảnh nước ta thì sự can thiệp của Nhà nước còn đóng
vai trò giữ cho nền kinh tế đi theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa.
2.2. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
có một số điểm như sau:
Thứ nhất , quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền
kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh
tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới.
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
quá trình chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung
tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường
và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã khẳng định nền kinh
tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập
với thị trường thế giới, Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho quan
hệ quốc tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển một cách nhanh chóng.
Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng.
Chúng ta đã chuyển quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa
phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ
chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can hệ
vào chuyện nội bộ của nhau.
2.3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta:
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên trong xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại nhiều hình
thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn
bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất,
cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên
phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây
dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phải có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền kinh tế bằng pháp luật,
chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị
trường, các hình thức kinh tế và phương thức quản lý kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động và toàn thể
quần chúng nhân dân.
Về phân phối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ
thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,
đông thời hạn chế những bất công trong xã hội.Thực hiện tăng
trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
nước ta còn thể hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
phát triển văn hoá, giáo dục xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần
của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguời,
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước thể hiện
trình độ tư duy và vận dụng của Đảng ta về qui luật sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2.4. Sự tồn tại nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là
một thực tế khách quan.
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn
tại của nền kinh tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhiều ngành nghề mới đã
ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ
thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học… Bên
cạnh đó các ngành nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh
mẽ. Các sản phẩm của ngành đang từng bước khẳng định
thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính là
những thế mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
thế giới. Sự phát triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh
chóng của lực lượng sản xuất. Lao động Việt Nam đã được cải
thiện đáng kể về chất cũng như về lượng. Đồng thời tình trạng
lao động cũng được phân bố lại cho phù hợp hơn giữa các ngành,
các vùng. Lao động Việt Nam cũng đã vươn ra thị trường thế giới
sang cơ chế mới sẽ tạo điều kiện cho sự các thành phần kinh tế
xã hội phát triển theo đúng những quy luật kinh tế khác quan.
Chương 2: Thực trạng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
1.Đánh giá chung về thực trạng KT thị trường ở Việt
Nam:
1.1. Thành tựu:
Sau khi Việt Nam kí kết hiệp định thương mại song phương
Việt – Mĩ thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nước ta bắt đầu tăng
lên nhưng chỉ ở mức khiêm tốn. Dưới đây là bảng số liệu:
Duy trì được tính ổn định: viễn cảnh KT của Việt Nam đang
có những cải thiện đáng kể. Sự cải thiện này nhờ một loạt chính
sách và cơ chế đưa nền KT vào một quỹ đạo tăng trưởng trung
hạn có tầm cao hơn, kể cả trong điều kiện môi trường bên ngoài
còn chưa thuận lợi. Khu vực KT ngoài quốc doanh trong nước tiếp
tục dẫn đầu về tăng trưởng. Điều này phản ánh sự chuyển dịch
dần dần của Việt Nam sang KT thị trường.
Trong những năm gần đây do các chính sách phát triển KT
của nhà nước XHCN Việt Nam nên đã thu hút được rất nhiều các
nhà đầu tư trong khu vực và thế giới.
1.2 Mặt tồn tại trong nền KT thị trường định hướng
xhcn ở việt nam và những nguyên nhân của những mặt
tồn tại đó:
1.2.1. KT thị trường còn sơ khai chưa đạt trình độ của nền KT
thị trường hiện đại. Do những nguyên nhân sau:
Cơ sở vật chất còn ở trình độ thấp, trình độ trang thiết bị kỹ
thuật công nghệ ở trong các doanh nghiệp còn lạc hậu và cũ kĩ.
Dẫn đến hiệu quả là năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp,
chi phí cao, giá cao. Kết quả là năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp nước ta trên thị trường quốc gia và quốc tế rất
kém. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu
của thế giới, lao động thủ công chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số lao
động xã hội.
Kết cấu hạ tầng (hệ thống giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc…) còn lạc hậu, kém phát triển, làm hạn chế
giao lưu KT giữa các vùng trong nước, giữa trong và ngoài nước.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân
công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu KT chậm.
Nền KT nước ta chưa thoát khỏi nền KT nông nghiệp sản xuất
nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động,
nhưng chỉ sản xuất trên 20%GDP, các ngành KT công nghiệp cao
chiếm tỉ trọng thấp.
1.2.2. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá
trình hình thành nhưng chưa đồng bộ:
Thị trường hàng hoá tiêu dùng &dịch vụ: đã được hình thành
nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng
giả,hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị
trường ).
thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, nét nổi bật
của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn
cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại
vượt quá xa cầu, thị trường hoạt động chỉ mang tính tự phát, tỉ lệ
người tham gia vào thi trường còn thấp, năng lực cạnh tranh còn
thấp do tay nghề thấp.
Thị trường tài chính &tiền tệ: đang trong quá trình hình
thành, nên hoạt động mang tính quá độ từ KT kế hoạch hoá tập
trung sang KT thị trường, giao dịch tiền mặt chiếm phần lớn. Các
yếu tố được hình thành chưa đồng bộ, hệ thống pháp luật để
hướng dẫn quản lí chưa hoàn thiện & đang thiếu đồng bộ.
Thị trường bất động sản: mới được hình thành nên tính nhậy
cảm còn rất cao, liên quan động chạm tới mọi dân cư, thành
phần KT, 70% là giao dịch ngầm, giá cả đang biến động thất
thường.
Thị trường KHCN: xuất hiện một số hình thức và thương mại
hoá, ở Việt Nam chưa được hình thành. Vì chưa thiết lập quan hệ
cung-cầu đối với sản phẩm KHCN, vì vậy việt nam không gia
nhập thị trường này vào thị trường khoa học thế giới.
1.2.3 Nhiều thành phần KT tham gia vào thị trường: trên thị
trường tồn tại nhiều loại hình sản xuất hàng hoá giản đơn với
quy mô lớn(doanh nghiệp,công ty) sản xuất XHCN( KT nhà nước,
hợp tác xã ); sản xuất TBCN (doanh nghiệp tư nhân CTY tư
nhân )., trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
Vì vậy có nhiều loại hình quy luật chi phối: QLKT TBCN,QLKT
XHCN, QL sản xuất hàng hoá nhỏ. Song vẫn tuân thủ những yêu
cầu của các QLKT thị trường, tạo tính phức tạp trong quan hệ KT
quản lí điều hành KT vĩ mô của nhà nước.
1.2.4. Khả năng mở cửa hội nhập gắn thị trường khu vực với
thị trường thế giới còn hạn chế:
Khả năng phát huy lợi thế so sánh cuả việt nam trong khu
vực và thế giới còn hạn chế. Hiện tại Việt Nam có 3 lợi thế: tài
nguyên, nhân công & vị trí điạ lí nhưng phát huy chưa có hiệu
quả.
Xuất nhập khẩu: nước ta đang trong tình trạnh nhập siêu vì
xuất khẩu của ta chỉ là sản phẩm thô nên giá trị xuất khẩu thấp.
( nhập siêu: 12,3% năm 2010). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
của Việt Nam: 71,60 % năm 2010.
1.2.5.Quản lý nhà nước về KT-XH còn yếu kém:
Chưa khắc phục tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm
vụ giữa các bộ ngành, cơ quan chính quyền cửa các tỉnh, thành
phố, địa phương.
đột phá mang lại hiệu quả cao nhất, có tác động thúc đẩy 2 đột
phá còn lại.
3.2. Mục tiêu- bước đi
Mục tiêu cơ bản của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế
phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường,
thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu phát triển đề ra không chỉ cải thiện nền kinh tế
nước ta mà còn đặt ra yêu cầu đảm bảo định hướng kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Theo định hướng kinh tế nước ta thì kinh tế Nhà
nước là một trong những nhân tố bảo đảm tính hướng kinh tế thị
trường. Thành phần kinh tế Nhà nước hoạt động sản xuất kinh
doanh theo nguyên tắc tự hạch toán, phân phối theo lao động và
hợp tác kinh doanh. Chủ trương của Nhà nước ta là kinh tế Nhà
nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như
ngân hàng, tài chính, điện lực, an ninh quốc phòng và khu vực
kinh tế công cộng và nắm giữ vai trò chủ đạo, định hướng cho
nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước cần đủ sức mạnh để có thể ổn
định nền kinh tế nhất là trong những cuộc khủng hoảng, suy
thoái kinh tế. Ngoài ra còn một nhân tố đóng vai trò quan trọng
khác là sự tham gia của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường. Tuy
nhiên Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô, đảm bảo tính ổn định
và trong sạch của thị trường. Đồng thời sự can thiệp của Nhà
nước thông qua các chính sách kinh tế sẽ tạo điều kiện tốt hơn
cho các thành phần kinh tế hoạt động. Nhà nước cũng đóng vai
trò xác định hướng sản xuất trọng điểm, khu vực cần tập trung
vào phát triển kinh tế giúp nền kinh tế phát triển đồng đều cân
đối.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển
trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm
vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế
kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên
có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế
nào.
Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển
kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp
nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng,
hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật.
Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các
doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh
nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu
trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực
hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó
hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các
thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao
động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công
2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và
nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung,
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới
được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng
cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng
bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc
hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường
quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường
lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị
trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và
nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ
động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc
quyền kinh doanh.
Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát
huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ
bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết
vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi
tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường
pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và
hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước
để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các
nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều
tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo
quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận
thương mại.
Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối
với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới
công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng
quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính,
kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với
những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết
quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ
và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định
nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị
trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây
cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong
những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội,
mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy,
chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập
tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh
đạo của Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường
khác.
Những năm trước mắt cần đạt các mục tiêu:
Một là, từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, bảo
đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển thuận lợi. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi
đôi với phát triển nhanh mạnh mẽ vác thành phần kinh tế và các
loại hình doanh nghiệp. Hình thành một số tập đoàn kinh tế, các
tổng công ty đa sở hữu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, có
năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là, phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản
thống nhất trong cả nước, từng bước liên thông với thị trường
khu vực và thế giới.
Bốn là, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, xã hội đảm bảo tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường.
Năm là, năng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị –
xã hội và nhân dân trong quản lý, phát triển kinh tế – xã hội.
3.3. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
a. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần.
Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những
điều kiện cơ sở để thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó
mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần
kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước, kinh tế hợp
tác xã, việc khuyến khích thừa nhận các thành phần kinh tế cá
thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.
Như vậy, tất cả các thành phần kinh tế trên đều bình đẳng
trước pháp luật, tuy vị trí quy mô, tỷ trọng trình độ khác nhau
nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế
vùng, lãnh thổ tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để
đẩy mạnh kinh tế hàng hoá cần:
Mở rộng phân công lao động, phân bố lại lao động và dân cư
trong phạm vi cả nước nhằm: khai thác mọi nguồn lực, phát triển
nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất – kỹ thuật
hiện có, tạo việc làm cho người lao động.
Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm :
Gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động
quốc tế.
Gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành
các loại thị trường cơ bản: thị trường hàng hóa và dịch vụ, hình
thành thị trường lao động có tổ chức, có quản lý chặt chẽ, về đất
đai và thị trường nhà đất, thị trường vốn và từng bước hình thành
thị trường chứng khoán.
c. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ, đẩy mạnh CNH, HĐH.
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng
vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới khoa học và
công nghệ, để hạ chi phí nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn
vậy:
Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Bởi
vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa chúng ta phải đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Vì thế cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ
thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại.
Trước mắt nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng nâng cấp
một số yếu tố thất yếu như đường sá, cầu cống, bến cảng, điện
nước, thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ quản lý… bảo hiểm
d. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ giá cả.
h. Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại phải:
Đa dạng hóa hình thức, đa phương hóa đối tác.
Quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, không phân biệt chế độ chính trị
xã hội.
Cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút rộng rãi vốn
đầu tư nước ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm
quản lý.
KẾT LUẬN
Tóm lại để đưa đất nước có thể đuổi kịp các nước phát triển
trên thế giới trong một tương lai không xa đồng thời cũng không
để chệch hướng theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã chọn thì nhất thiết chúng ta phải xây dựng được
một nền kinh tế thị trường vững mạnh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và mang bản sắc của người Việt Nam. Những vấn đề
đựơc đề cập trên đây mới chỉ là một vài biện pháp mà chúng ta
cần làm trong thời gian trước mắt để tiếp tục ổn định và khắc
phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường và sau này trong
quá trình phát triển lâu dài của đất nước.
Nhất là trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu
hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới thì khi đó sẽ mở ra rất
nhiều cơ hội cũng như những thách thức đòi hỏi chúng ta phải
thật sáng suốt nếu không muốn bị lâm vào tình thế bị động trước
những diễn biến của nền kinh tế thị trường. Nó có thể gây ra
những hậu quả nghiêm trọng như: sự phân hoá giàu nghèo ngày
càng lớn, tệ nạn xã hội ngày càng tăng và phức tạp, các truyền
thống bị thương mại hoá, nạn lạm phát gia tăng…
Chính vì vậy, chúng ta cần phải trau dồi kiến thức cho thật
tốt, bên cạnh đó là nhân phẩm của một người sinh viên, là tầng
lớp trí thức trong xã hội sẽ đi đầu trong mọi việc mà Đảng và nhà
nước tiến hành để góp phần vào việc hoàn thiện nền kinh tế thị
trường tiến tới việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.