Professional Documents
Culture Documents
CHUYÊN ĐỀ 4KINHTEHOC
CHUYÊN ĐỀ 4KINHTEHOC
Mô hình cổ điển phát triển trong hai chương trước đã giải thích hành vi của nền
kinh tế thực trong dài hạn. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh tế
vĩ mô cũng quan tâm đến những biến động của nền kinh tế từ quý này qua quý khác và từ
năm này qua năm khác. Hoạt động kinh tế thường xuyên biến động. Do có sự tăng trưởng
trong lực lượng lao động, tư bản và tiến bộ công nghệ, nền kinh tế sản xuất ra ngày càng
nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Sự tăng trưởng này cho phép người dân được hưởng mức
sống ngày càng cao. Tuy nhiên trong một số giai đoạn nền kinh tế có thể trải qua tăng
trưởng âm. Hàng hóa và dịch vụ mà các hãng sản xuất ra không được tiêu thụ hết buộc
nhiều nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa, nhiều công nhân bị mất
việc, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Giai đoạn mà thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng
được gọi là suy thoái. Một cuộc suy thoái trầm trọng được gọi là khủng hoảng. Trong một
số giai đoạn khác, nền kinh tế có thể bùng nổ quá mức. Sản xuất vượt quá mức bình
thường có thể duy trì và áp lực lạm phát liên tục dâng lên. Các doanh nghiệp có thể yêu
cầu tăng ca, làm thêm giờ, trì hoãn việc bảo dưỡng thiết bị để tăng sản lượng tạm thời
trong ngắn hạn. Các biến động kinh tế xung quanh xu hướng dài hạn thường được gọi là
chu kỳ kinh doanh.
Trong suốt 15 năm qua tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm trong GDP thực tế của
Việt Nam là 7,3%. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng đã không ổn định qua các năm. Sau khi
đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995, tăng trưởng kinh tế đã chậm lại và giảm xuống mức đáy
vào năm 1999, chủ yếu do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Bắt
đầu từ năm 2000, sau những nổ lực kích cầu của chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã
ngày càng khởi sắc với đà tăng trưởng ngày càng cao.
Mô hình cổ điển chỉ có thể giải thích được sự thay đổi của GDP do sự thay đổi
trong các nhân tố sản xuất hay công nghệ. Trong khi sự gia tăng lao động, tư bản và tiến
bộ công nghệ có thể là lý do rất thuyết phục để giải thích sự tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn, thì chúng ít ý nghĩa khi giải thích những biến động kinh tế trong ngắn hạn. Điều gì
gây ra những biến động kinh tế trong ngắn hạn ? Liệu chính phủ có thể sử dụng các chính
sách kinh tế vĩ mô để ngăn chặn các giai đoạn thu nhập sụt giảm và thất nghiệp tăng cao
hay kiềm chế lạm phát khi nền kinh tế phát triển quá nóng ? Đây là những câu hỏi mà
chúng ta sẽ xem xét trong chương này và các chương tiếp theo.
Mô hình tổng cầu và tổng cung là cách tiếp cận được các nhà kinh tế sử dụng rộng
rãi để giải thích những biến động kinh tế trong ngắn hạn. Hiểu và biết cách vận dụng mô
hình này để phân tích ảnh hưởng của các cú sốc và chính sách của chính phủ là mục tiêu
chính của chương này. Sau khi có một cái nhìn tổng quan về mô hình, chúng ta sẽ đi sâu
nghiên cứu mặt cầu của nền kinh tế trong các chương tiếp theo.
I. Mô hình tổng cầu và tổng cung:
Tổng cầu và tổng cung là hai thuật ngữ được các nhà kinh tế vĩ mô sử dụng thường
xuyên nhất. Chúng là những lực lượng làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động. Chúng
quyết định sản lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra và mức giá chung của nền
kinh tế. Nếu muốn biết một biến cố hoặc chính sách ảnh hưởng tới nền kinh tế như thế
nào, thì trước hết bạn phải nghĩ xem nó ảnh hưởng tới tổng cầu và tổng cung như thế nào.
Mô hình tổng cầu và tổng cung chỉ ra cách thức tổng cầu và tổng cung quyết định mức
giá cả và sản lượng trong một nền kinh tế. Hai biến số được mô hình tập trung giải thích
là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực tế và mức giá chung được
đo bằng chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Các nhà kinh tế thường sử
dụng đồ thị để biểu diễn mô hình tổng cầu và tổng cung trong đó mức giá được biểu diễn
trên trục tung và GDP thực tế được biểu diễn trên trục hoành. Bây giờ, chúng ta sẽ lần
lượt giới thiệu hai bộ phận cấu thành của mô hình, đó là đường tổng cầu và đường tổng
cung.
1. Tổng cầu của nền kinh tế (Aggregate Demand – AD)
Chúng ta bắt đầu nghiên cứu hành vi của nền kinh tế trong ngắn hạn bằng cách xem xét
tổng cầu. Tổng cầu là tổng sản lượng trong nước mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có
khả năng mua tại mỗi mức giá. Trong một nền kinh tế mở, tổng cầu bao gồm bốn thành
tố: tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX = X – IM). Sử
dụng AD để biểu thị tổng cầu, chúng ta có thể tổng hợp các thành tố của tổng cầu trong
phương trình sau:
AD = C + I + G + NX
Đường tổng cầu
Có rất nhiều biến số quyết định mức sản lượng mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có
khả năng mua mà chúng ta sẽ giới thiệu chi tiết ở các chương sau. Bây giờ bạn hãy tưởng
tượng ra một tình huống trong đó chúng ta sẽ giữ cho tất cả các biến số này không đổi trừ
một biến số là mức giá. Chúng ta hãy xét xem sự thay đổi trong mức giá sẽ tác động tới
lượng tổng cầu về GDP như thế nào.
Đường tổng cầu trong hình 5-1 cho thấy điều gì xảy ra đối với lượng GDP mà các tác
nhân kinh tế muốn mua khi chỉ có mức giá thay đổi. Đường tổng cầu được vẽ với giả
định rằng tất cả các biến số khác có ảnh hưởng đến tổng cầu ngoài mức giá như thu nhập,
kỳ vọng và chính sách của chính phủ không thay đổi. Đường tổng cầu dốc xuống chỉ ra
rằng nếu những cái khác không thay đổi, thì giảm mức giá chung, chẳng hạn từ P0 xuống
P1, sẽ có xu hướng làm cho lượng tổng cầu về GDP của quốc gia đó tăng lên, từ Y0 đến
Y1.
P
A
P0
B
P1
Y0 Y1 Y
Đường tổng cầu dốc xuống phản ánh thực tế là mức giá có ảnh hưởng ngược chiều đến
lượng tổng cầu. Trong bốn thành tố của tổng cầu chi tiêu chính phủ được giả định là biến
ngoại sinh do chính sách của chính phủ quyết định tùy thuộc vào mục tiêu của điều tiết vĩ
mô mà không phụ thuộc vào mức giá.Do đó để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống
chúng ta cần làm rõ sự thay đổi trong mức giá có ảnh huởng như thế nào đến ba thành tố
còn lại của tổng cầu, bao gồm tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng chúng ta sẽ lần lượt
xem xét từng ảnh hưởng đó.
Mức giá và tiêu dùng : Hiệu ứng của cải
Khi mức giá giảm thì lượng tiền trong ví hay trong tài khoản ngân hàng của bạn trở
nên có giá trị hơn vì chúng có thể mua được nhiều hàng hoa và dịch vụ hơn. Như vậy một
sự cắt giảm trong mức giá chung làm cho các hộ gia đình nhận thấy mình trở nên giàu có
hơn và họ sẵn sàng mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Sự tăng lên trong mức tiêu dùng
có nghĩa là lượng cầu về GDP tăng lên
Mức giá và đầu tư : hiệu ứng lãi suất
Tại mức giá thấp hơn, công chúng sẽ cần giữ ít tiền hơn để mua lượng hàng hóa và
dịch vụ theo kế hoạch. Điều này hàm ý một phần trong số tiền họ đang nắm giữ để phục
vụ cho động cơ giao dịch trở nên dư thừa. Nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ tìm cách
cắt giảm lượng tiền nắm giữ bằng cách chuyển một số tiền mặt hoặc tài sản có thể viết
séc thành các tài khoản sinh lãi như trái phiếu hay tiền gởi ngân hàng có kỳ hạn, kết quả
là lãi suất sẽ giảm. Giảm lãi suất đến lượt nó có tác dụng khuyến khích các hãng đầu tư
nhiều hơn vào nhà xưởng và thiết bị mới, và các hộ gia đình mua nhiều nhà ở mới hơn.
Như vậy một mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu vào các hàng hóa
đầu tư và do đó làm tăng lượng tổng cầu.
Mức giá và xuất khẩu ròng : Hiệu ứng tỷ giá hối đoái.
Trong bối cảnh mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, sự giảm giá của hàng trong nước làm
cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam trở nên rẻ hơn một cách tương đối so với hàng
hóa và dịch vụ sản xuất ở nước ngoài tại một mức tỷ giá hối đoái cho trước. Khi đó một
số người tiêu dùng trong nước và nước ngoài có xu hướng chuyển từ mua hàng của nước
khác sang sản xuất tại Việt Nam. Kết quả là xuất khẩu được khuyến khích và nhập khẩu
bị hạn chế làm tăng xuất khẩu ròng và làm tăng tổng cầu. Như vậy cả ba hiệu ứng trên
đều cho thấy có một mối quan hệ ngược chiều giữa mức giá và khối lượng hàng hóa và
dịch vụ sản xuất trong nước được mua: giảm mức giá chung làm tăng lượng tổng cầu về
GDP ngược lại tăng mức giá chung làm giảm lượng tổng cầu về GDP. Trên trục tọa độ
trong đó mức giá được biểu diễn trên trục tung và GDP thực tế được biểu diễn trên trục
hoành mối quan hệ này được biểu diễn bằng đường tổng cầu dốc xuống.
Sự di chuyển và dịch chuyển
Di chuyển là một thuật ngữ đề cập đến hiện tượng trượt dọc trên một đường nhất định.
Trên hệ trục Y-P sự duy chuyển dọc một đường tổng cầu phản ánh sự thay đổi của lượng
tổng cầu do sự thay đổi của mức giá trong khi các biến số ảnh hưởng đến tổng cầu được
giữ nguyên như ban đầu. Ví dụ như trong hình 6-1 sự dịch chuyển từ điểm A đến điểm B
phản ánh lượng tổng cầu tăng từ Yo đến Y1 do mức giá giảm từ Po xuống P1.
Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong tiêu dùng. Nếu người Việt Nam trở
nên an tâm hơn về tình hình việc làm và thu nhập trong tương lai, hoặc nếu giá cổ phiếu
tăng làm cho các hộ gia đình trở nên giàu có hơn hay chính phủ giảm thuế thu nhập, thì
các hộ gia đình sẽ chi tiêu nhiều hơn cho tiêu dùng tại mỗi mức giá cho trước và kết quả
là đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên phải từ ADo đến AD1 như được biểu diễn
trong hình 5-2.
Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong đầu tư. Nếu các doanh nghiệp trở nên
lạc quan vào triển vọng mở rộng thị trường trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và
quyết định xây nhà máy mới và mua thêm máy móc, thiết bị mới, hoặc nếu chính phủ
giảm thuế cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư, ngân hàng trung ương tăng
cung ứng tiền tệ làm giảm lãi suất thì đầu tư sẽ tăng và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển
sang bên phải.
Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong chi tiêu chính phủ. Nếu chính phủ chủ
động tăng chi tiêu nhằm đối phó với đà tăng trưởng chậm, thì đường tổng cầu sẽ dịch
chuyển sang bên phải.
Sự dịch chuyển bắt nguồn từ những thay đổi trong xuất khẩu ròng. Nếu thế giới bên
ngoài lâm vào suy thoái và nhập khẩu ít hàng của Việt Nam hơn, hoặc đồng Việt Nam
tăng giá so với tiền của các đối tác thương mại thì xuất khẩu ròng của Việt Nam sẽ giảm
kết quả là đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang bên trái.
2. Tổng cung của nền kinh tế (Aggregate Supply- AS)
Bây giờ chúng ta chuyển sang xem xét hành vi của tổng cung: Tổng cung của một nền
kinh tế là mức sản lượng mà các doanh nghiệp trong nước sẵn sàng và có khả năng sản
xuất và cung tại mỗi mức giá. Lượng tổng cung phụ thuộc vào các doanh nghiệp trong
việc sử dụng lao động và các đầu vào để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ bán cho các hộ
gia đình, chính phủ, và các doanh nghiệp khác cũng như để xuất khẩu ra thế giới bên
ngoài.
Hình 5-5 Ảnh hưởng của sự cắt giảm tổng cầu đến sản lượng và mức giá
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì đối mặt với một cuộc suy thoái như vậy?
Một khả năng là thực hiện các biện pháp kích thích tổng cầu, là cho đường tổng cầu dịch
chuyển sang bên phải, Nếu các nhà hoạch định chính sách hành động kịp thời và chính
xác,họ có thể triệt tiêu hoàn toàn tác động của cú sốc đến tổng cầu đẩy đường tổng cầu
trở về ADo và đưa nền kinh tế trở lại điểm A. Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ
thảo luận kỹ hơn về cách mà chính phủ có thể sử dụng để điều tiết tổng cầu với sự nhấn
mạnh vào chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Ngay cả khi các nhà hoạch định chính sách không can thiệp gì thì nền kinh tế thị
trường cũng sẽ có cơ chế tự phục hồi sau một khoảng thời gian. Do tổng cầu giảm, mức
giá giảm xuống. Trong ngắn hạn, tiền lương không thể giảm được do bị ràng buộc bởi
hợp đồng lao động dài hạn đã ký. Trong thời gian dài hơn, công nhân và doanh nghiệp có
thể thương lượng với nhau và tiền lương sẽ điều chỉnh theo hướng giảm dần do sức ép
của đội quân thất nghiệp tăng cao và phù hợp với sự biến động của mức giá, làm cho
đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển dần sang bên phải. Một khi sản lượng còn thấp
hơn mức tự nhiên và do đó thị trường lao động vẫn còn dư cung thì vẫn còn áp dụng giảm
tiền lương. Chỉ trong dài hạn quá trình điều chỉnh mới hoàn thành: đường tổng cung dịch
chuyển đủ mạnh với AS1 như được vẽ trong hình 6-5 và nền kinh tế chuyển đến điểm C,
tại đó đường tổng cầu mới (AD1) cắt đường tổng cung dài hạn.
Tại điểm cân bằng dài hạn C, sản lượng trở lại mức tự nhiên Y *. Mặc dù làng sóng bi
quan làm giảm tổng cầu, nhưng sự giảm sút của mức giá (đến P 2) đủ để bù đắp sự thay
đổi ban đầu của tổng cầu. Như vậy trong dài hạn, sự dịch chuyển của đường tổng cầu
được phản ánh hoàn toàn trong mức giá mà không có một ảnh hưởng nào tới sản lượng.
Nói cách khác, ảnh hưởng dài hạn của sự dịch chuyển đường tổng cầu là làm thay đổi
các biến danh nghĩa (mức giá thấp hơn) chứ không phải làm thay đổi các biến thực tế
(sản lượng và việc làm như cũ). Điều này thường được biết đến với tên gọi là sự phân đổi
cổ điển. Theo lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển, có sự tách rời giữa các biến số thực tế (tính
bằng lượng hay giá tương đối như GDP thực tế hay tiền lương thực tế )và các biến danh
nghĩa (tính bằng tiền như mức giá): trong dài hạn những thay đổi trong tổng cầu chỉ ảnh
hưởng đến các biến danh nghĩa mà không tác động tới các biến thực tế, còn sản lượng
được quyết định bởi công nghệ và cung về các nhân tố sản xuất, chứ không phụ thuộc
vào tổng cầu
2. Các cú sốc cung
Các cú sốc cung xảy ra do sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào hay sự thay đổi các
nguồn lực trong nền kinh tế. Các cú sốc làm giảm tổng cung được gọi là cú sốc cung bất
lợi. Ngược lại, các cú sốc làm tăng tổng cung được gọi là cú sốc cung có lợi.
Các ví dụ về cú sốc cung bất lợi như: thời tiết xấu làm giảm số lượng các sản phẩm
nông nghiệp: công đoàn gây áp lực làm tăng tiền lương; Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
mỏ (OPEC) hạn chế sản lượng khai thác làm tăng giá dầu trên thị trường thế giới.
Các cú sốc cung bất lợi làm tăng chi phí sản xuất ở mỗi mức giá cho trước, các hãng
muốn bán ra ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Như trong hình 5-6 cho thấy, đường tổng cung
ngắn hạn dịch chuyển lên trên và sang bên trái từ AS0 đến AS1. Trong ngắn hạn, nền kinh
tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế
giảm từ Y* đến Y1, trong khi mức giá tăng từ P o lên P1. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy
giảm (sản lượng giảm), vừa trải qua lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi
là lạm phát đi kèm suy thoái (stagflation)
Hình 5-6 Cú sốc cung bất lợi và phản ứng chính sách
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi đối mặt với hiện tượng lạm phát đi kèm
suy thoái này? Quả là không có những lựa chọn dễ dàng. Một trong những khả năng là
các nhà hoạch định chính sách có thể muốn triệt tiêu tác động bất lợi của sự dịch chuyển
đường tổng cung ngắn hạn đến sản lượng bằng cách tăng tổng cầu. Khi đó, chính phủ cần
kích cầu để dịch chuyển đường tổng cầu tới AD 1 vừa đủ để duy trì mức sản lượng ban
đầu. Nền kinh tế chuyển đến điểm C. Sản lượng trở về mức tự nhiên và mức giá tiếp tục
tăng lên P2. Như vậy các nhà hoạch định chính sách đã thích ứng với sự dịch chuyển của
tổng cung bởi họ cho phép sự tăng lên trong chi phí ảnh hưởng đến giá cả một cách lâu
dài.
Ngược lại, nếu muốn triệt tiêu tác động bất lợi của cú sốc cung này đến mức giá, các
nhà hoạch định chính sách cần chủ động cắt giảm tổng cầu. Trên đồ thị ở hình 5-6, đường
tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD2 vừa đủ để duy trì mức giá ban đầu. Nền kinh tế
chuyển đến điểm D. Mức giá trở về P2, còn sản lượng tiếp tục giảm xuống Y2 và nền kinh
tế lún sâu hơn vào suy thoái.
Tóm lại, chúng ta đã có một mô hình cơ bản về nền kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn.
Sự điều chỉnh của mức giá có xu hướng đưa nền kinh tế trở lại mức sản lượng tự nhiên
trong dài hạn. Mức sản lượng tự nhiên tăng lên theo thời gian, do đó những biến động
kinh tế có thể coi là những dao động ngắn hạn xung quanh đường xu hướng trong dài
hạn. Nền kinh tế có thể bị tác động bởi nhiều cú sốc. Các cú sốc như vậy có thể tạo ra
những biến động không hiệu quả trong nền kinh tế. Do đó, chính phủ có thể sử dụng các
chính sách ổn định để chống lại chu kỳ kinh doanh.