Professional Documents
Culture Documents
Cholesterol là một sản phẩm của quá trình chuyển hóa chất béo trong gan và được đẩy
ra ngoài cùng với dịch mật. Cholesterol không tan trong nước, vì thế, chúng gắn với
muối mật và chất lecithin để tồn tại dưới dạng vi hạt hoặc bong bóng nhỏ ở trong dịch
mật. Túi mật nhận dịch mật từ gan, sau đó cô đặc, lưu trữ và sử dụng chúng khi cần
thiết.
Nếu nồng độ cholesterol trong dịch mật quá cao, muối mật không có khả năng hòa tan
hết và lượng cholesterol thừa sẽ kết tủa lại, tạo thành sỏi mật. Ngoài ra, các chất nhầy
được tiết ra trong quá trình cô đặc mật cũng có thể kết hợp với các tinh thể cholesterol
và tạo thành bùn mật – tiền thân của sỏi mật.
- Thành phần: Ngoài cholesterol, loại sỏi mật này còn chứa các loại muối calcium,
chẳng hạn như calcium phosphate, calcium bilirubinate và calcium cacbonat. Ngoài
ra, trong sỏi mật cholesterol còn có mucin glycoprotein, đây là hợp chất chính để gắn
kết các thành phần của sỏi lại với nhau.
- Màu sắc: Sỏi mật cholesterol có màu vàng nếu thành phần hoàn toàn là cholesterol,
tuy nhiên điều này rất hiếm gặp. Do có sự hiện diện của muối calcium và
hydrolization bilirubin liên hợp, sỏi mật cholesterol thường có màu vàng đậm hoặc
vàng nâu.
- Số lượng: Sỏi cholesterol không xuất hiện đơn độc mà thường theo kiểu “bầy đàn”.
Mỗi viên sỏi cholesterol có thể có đường kính tới vài cm và đôi khi chỉ cần vài viên
cũng có thểlấp đầy túi mật. Rất hiếm khi túi mật hoặc ống mật chủ có một viên sỏi
cholesterol duy nhất, bất kể lớn hay nhỏ.
- Chẩn đoán: Hầu hết sỏi cholesterol có đặc tính chắn bức xạ và có thể phát hiện qua
chụp X-quang. Trong một vài trường hợp, viên sỏi mật lớn 100% cholesterol không
được phát hiện qua X-quang mà phải chẩn đoán bằng thấu xạ (radiolucent).
Sắc tố mật bilirubin là sản phẩm phân hủy của hồng cầu sau khi chết và tạo ra màu
vàng cho dịch mật.
Nguyên nhân phổ biến gây nên sỏi sắc tố mật là do sự có mặt của ký sinh trùng(giun,
sán) ở trong đường mật. Khi giun xâm nhập vào ống mật, sẽ để lại xác hoặc trứng
giun, làm "nhân" cho sắc tố mật và canxin bám vào tạo sỏi. Có đến hơn 70% người
bệnh sỏi sắc tố mật có trứng giun hoặc xác giun trong sỏi.
Ngoài ra, sỏi sắc tố mật còn được hình thành do lượng bilirubin, đặc biệt là bilirubin
không liên hợp trong túi mật cao quá mức bình thường. Lượng bilirubin không liên
hợp tăng lên khi bị thiếu máu tán huyết (một lượng lớn tế bào hồng cầu trong máu bị
phá vỡ) hoặc khi đường mật bị nhiễm vi khuẩn có khả năng thủy phân bilirubin liên
hợp.
- Sỏi sắc tố được chia làm hai loại theo màu sắc là sỏi sắc tố nâu và sỏi sắc tố đen. Sở
dĩ có sự khác biệt về màu sắc là do sự chênh lệch về hàm lượng các thành phần trong
sỏi mật. Các thành phần này bao gồm muối calci, bilirubin và cholesterol. Hàm lượng
thành phần còn ảnh hưởng đến độ đặc của viên sỏi. Cũng giống như sỏi cholesterol,
sỏi sắc tố cũng có mucin glycoprotein để gắn kết các thành phần.
- Sỏi sắc tố nâu có lượng cholesterol cao hơn so với loại màu đen. Ngược lại, sỏi sắc
tố đen lại có lượng bilirubin cao hơn.
- Sỏi sắc tố nâu thường bóng và mịn hơn, sỏi sắc tố đen thường cứng hơn nhưng lại dễ
vỡ hơn.
- Sỏi sắc tố thường nhỏ hơn so với sỏi cholesterol, hiếm khi có đường kính lớn hơn
1,5cm.
- Sỏi sắc tố nâu có thể xuất hiện độc lập (chỉ có một viên trong túi mật) nhưng sỏi sắc
tố đen thì khác, ít khi xuất hiện đơn lẻ.
Vị trí:
- Sỏi sắc tố đen thường ở trong túi mật của người bị thiếu máu tán huyết.
- Sỏi sắc tố nâu thường ở trong ống dẫn mật và xảy ra do nhiễm trùng.
Chẩn đoán
- Hầu hết sỏi sắc tố đen có khả năng chắn bức xạ và phát hiện được bằng cách chụp
X-quang.
- Sỏi sắc tố màu nâu không phát hiện được bằng X-quang mà phải dùng phương pháp
thấu xạ.
Hình 3- Mở ống mật chủ lấy sỏi và đặt ống dẫn lưu T
Nếu có chít hẹp cơ vòng Oddi, các phương pháp sau đây có thể được chọn lựa:
o Nong cơ vòng Oddi
o Mở thành trước tá tràng, tạo hình cơ vòng Oddi
o Nối ống mật chủ-tá tràng bên-bên: thực hiện nhanh hơn và an toàn hơn so với
tạo hình Oddi qua ngả thành trước tá tràng, nhưng BN có nguy cơ viêm đường
mật ngược dòng và viêm tuỵ.
Kiểm tra việc lấy hết sỏi bằng soi đường mật ống soi mềm hay cứng. Đặt thông T dẫn lưu
đường mật. Khâu đóng lại đường mật bằng chỉ tan.
Kết quả: lấy hết sỏi 95%. Biến chứng (8-16%) bao gồm: chảy máu đường mật, dò
mật/viêm phúc mạc mật, viêm tụy. Hẹp đường mật là di chứng đáng ngại nhất. Nguyên
nhân của hẹp đường mật là do các thao tác lấy sỏi làm tổn thương niêm mạc đường mật
hay khâu đóng một đường mật có kích thước nhỏ.
3.4-Các phương pháp điều trị sỏi ống mật chủ khác:
Tán sỏi ngoài cơ thể (extracorporeal shock ware lithotripsy): ngày nay ít được thực hiện,
do có tỉ lệ thất bại cao (95%) và tỉ lệ biến chứng cao (20%).
Các phẫu thuật dẫn lưu đường mật:
o Mục đích:
Điều trị ứ đọng dịch mật, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc hình
thành sỏi đường mật
Lấy sỏi đường mật (đối với phẫu thuật tạo hình Oddi)
o Chỉ định:
Ống mật chủ có nhiều sỏi (≥ 6 mm)
Sỏi ống mật chủ tái phát trên BN trước đó đã được mở ống mật chủ
Sỏi ống mật chủ nguyên phát
Hẹp hay rối loạn vận động cơ vòng Oddi
o Tạo hình Oddi (hình 4): ngoài các chỉ định chung của phẫu thuật dẫn lưu
đường mật, lấy sỏi qua ngả Oddi qua ngả trước được chỉ định trong trường hợp
ống mật chủ có kích thước nhỏ (≤ 6 mm). Kỹ thuật: di động tá tràng (thủ thuật
Kocher). Nếu đã mở ống túi mật hay ống mật chủ, luồn một thông nhỏ xuống tá
tràng, ngang qua cơ vòng Oddi để làm đường dẫn và nâng cơ vòng Oddi lên. Mở
một đường ngang nhỏ trên thành trước tá tràng, ngay trên vị trí của Oddi. Xẻ một
đường dài khoảng 1 cm (tính từ lỗ mở của bóng vater), vị trí 11 giờ, xuyên qua
thành tá tràng và thành đường mật. Khâu hai mép đường xẻ bằng chỉ tan. Rút
Fogarty. Nếu lấy sỏi ống mật chủ qua ngả này, cách thức tiến hành giống như
qua ngả nội soi (ERCP). Kết thúc thủ thuật bằng việc đóng lại chỗ mở tá tràng
theo chiều ngang.
Hình 4- Phẫu thuật tạo hình Oddi qua ngả tá tràng
o Phẫu thuật nối ống mật chủ-tá tràng: có thể nối theo kiểu bên-bên hay tận-bên.
Điều kiện để có thể nối ống mật chủ với tá tràng (hay với hỗng tràng) là ống mật
chủ phải dãn đáng kể (đường kính ≥ 2 cm). Phương pháp nối bên-bên có thể làm
cho các mảnh vụn thức ăn trào ngược lên từ tá tràng lắng đọng ở túi cùng ống
mật chủ, lâu ngày tạo thành sỏi và có thể gây viêm đường mật hay viêm tuỵ (hội
chứng “hố đựng chất thải”, sump syndrome). Để tránh hội chứng này, miệng nối
nên đủ rộng (≥ 1,5 cm).
o Phẫu thuật nối ống mật chủ-hỗng tràng (hình 5): trong phẫu thuật này, một
quai hỗng tràng được đưa lên (sau đại tràng ngang) nối với ống mật chủ theo
phương pháp Roux-en-Y.
A B