You are on page 1of 7

TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951 ĐỐI VỚI

TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN SAU ĐÓ
HOÀNG THỊ MINH HOA
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế

Tóm tắt: Bài viết nêu rõ sau chiến tranh thế giới (CTTG) thứ II, Nhật Bản là
một nước bại trận và bị Đồng minh chiếm đóng, buộc phải cải cách toàn diện
về mọi mặt nhằm thúc đẩy dân chủ, hòa bình và diệt trừ tận gốc chủ nghĩa
quân phiệt. Với sự nỗ lực, chủ động của Chính phủ và nhân dân Nhật Bản,
cuộc cải cách đã thành công, cứu nguy cho dân tộc Nhật Bản. Dưới tác động
của cuộc cải cách chính trị, kinh tế, xã hội giai đoạn 1945-1951, Nhật Bản đã
có những chuyển biến tích cực về mọi mặt như: Cam kết từ bỏ chiến tranh,
dân chủ hóa xã hội, cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa... Đây
được xem là những nhân tố mới hết sức quan trọng tạo nên sự phát triển
“thần kỳ” cho kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Nhiều quốc gia đã và đang
học tập kinh nghiệm mô hình phát triển kinh tế Nhật Bản để ứng dụng linh
hoạt vào đất nước mình trên con đường hội nhập và phát triển.

Từ năm 1945-1951, Nhật Bản đã tiến hành cải cách toàn diện về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, là cơ sở cho sự cất cánh kỳ diệu lần thứ II của Nhật Bản. Đây là một trong
những giai đoạn quan trọng tạo những biến đổi cơ bản về mọi mặt của đời sống kinh tế,
xã hội, có những tác động to lớn thúc đẩy phát triển lịch sử Nhật Bản giai đoạn sau đó.
Bài viết nêu rõ, sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận và bị Đồng
minh chiếm đóng, buộc phải thực hiện những cải cách toàn diện về mọi mặt nhằm thúc
đẩy dân chủ, hòa bình, diệt trừ tận gốc chủ nghĩa quân phiệt. Với sự nỗ lực, chủ động
của chính phủ và nhân dân Nhật Bản, cuộc cải cách đã thành công, cứu nguy cho dân
tộc Nhật Bản. Dưới tác động của cuộc cải cách kinh tế, xã hội giai đoạn 1945-1951,
Nhật Bản đã có những biến chuyển thực sự về mọi mặt như: cơ sở kinh tế, xã hội, nhân
tố con người, quan hệ kinh tế... Đây được xem là những nhân tố mới hết sức quan trọng
tạo sự tăng trưởng thần kỳ cho kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, được coi là giá trị mới
trong phát triển kinh tế Nhật Bản mà nhiều quốc gia khác đang nghiên cứu và học tập.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, ngày 15/9/1945, Nhật Bản chấp nhận
“Tuyên cáo Posdam” đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Đất nước bị quân đội Đồng
minh mà thực tế là quân Mỹ chiếm đóng. Người chỉ huy tối cao của Bộ tư lệnh Đồng
minh 1 chiếm đóng Nhật Bản là tướng Douglas Mac Arthur 2. Chính phủ Nhật Bản vẫn
được công nhận và tiếp tục cai trị đất nước. Quân đội chiếm đóng tuy chỉ điều khiển bộ
máy một cách gián tiếp nhưng lại thảo ra các chính sách cải cách cơ bản ảnh hưởng lớn
đến chiều hướng phát triển kinh tế đất nước.
1
General Headquarter of the Supreme Commander For the Allied Power - Nhật gọi tắt là GHQ, Mỹ gọi là SCAP.
2
Ông là chính trị gia nổi tiếng của Đảng Cộng hòa (đảng đối lập) nhưng lại được chính quyền Đảng Dân chủ bổ
nhiệm chức vụ này. Ông có quan điểm nhìn xa trông rộng và coi nhiệm vụ cải cách của Mỹ ở Nhật Bản sau CTTG
thứ II là một sứ mệnh lịch sử. Chính sách và cách xử lý của ông là khoan hồng, tích cực tạo niềm tin cho nhân dân
Nhật Bản trong khi họ hoàn toàn thất vọng. Cả hai xu hướng chính trị của Đảng DC và Đảng CH Mỹ là ủng hộ ông.

Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 03(11)/2009: tr. 93-101
94 HOÀNG THỊ MINH HOA

Chính sách lúc đầu của quân chiếm đóng đối với Nhật Bản do tướng Douglas Mac
Arthur - chỉ huy tối cao Bộ Tư lệnh Đồng minh (SCAP) công bố ngay từ ngày
10/9/1945 là: “phi quân sự hóa nền kinh tế”, “khuyến khích các lực lượng dân chủ”, thủ
tiêu sự tập trung trong sản xuất và sở hữu tài sản, trong đó có cả việc thanh trừng những
tên đầu sỏ tài phiệt nhằm “thủ tiêu sức mạnh quân sự của Nhật Bản cả về mặt tâm lý lẫn
thể chế”. Còn trách nhiệm khôi phục kinh tế được quy cho chính phủ Nhật Bản. Tháng
11/1945, Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh cũng đã nhận được chỉ thị: “Ngài
cần làm cho người Nhật hiểu rằng, ngài không có nghĩa vụ duy trì bất kỳ một mức sống
đặc biệt nào ở Nhật Bản” [12]. Không những thế, họ còn bắt Nhật Bản thực hiện nghĩa
vụ cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ cho quân chiếm đóng, đòi Nhật Bản bồi
thường chiến tranh rất lớn. Con số đầu tiên của phái đoàn đòi bồi thường chiến tranh do
Pauley đưa ra là 1466 tỷ yên (giá năm 1939) [7]. Nhằm đạt mục đích “thủ tiêu sức mạnh
quân sự của Nhật Bản cả về mặt tâm lý lẫn thể chế”, lực lượng chiếm đóng thực hiện
đồng thời 3 cuộc cải cách lớn: thủ tiêu tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các
Zaibatsu; cải cách ruộng đất và dân chủ hóa lao động. Cuộc cải cách được thực hiện một
cách khá cương quyết về mọi mặt và đã đạt kết quả hết sức khả quan. Từ cuối 1947-
1948 dưới tác động của cuộc chiến tranh lạnh, Nhật Bản lại nằm trong ý đồ chiến lược
của Mỹ nên Nhật Bản nhanh chóng được vực trở lại với một số chính sách ưu tiên đặc
biệt của Mỹ. Cùng với những tác động có hiệu quả của các cuộc cải cách trong các lĩnh
vực khác nhau, ý đồ của Mỹ cùng với những bối cảnh quốc tế thuận lợi sau chiến tranh,
mặc dù vẫn còn những hạn chế nhưng những cuộc cải cách này thực tế có ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội to lớn [3]. Nhờ các cuộc cải cách này mà nền chính trị dân chủ, hòa
bình ở Nhật Bản được thiết lập, nền kinh tế thị trường đầy đủ được hình thành, dân chủ
hóa kinh tế được đảm bảo, cạnh tranh thực sự trở thành động lực phát triển, chúng
không chỉ góp phần khôi phục kinh tế mà còn tạo điều kiện quan trọng cho thời kỳ tăng
trưởng tiếp theo, tạo nên sự thần kỳ lần thứ II của Nhật Bản [10].
Về cải cách kinh tế
Trước hết là cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và có hiệu quả nhất
trong các cuộc cải cách kinh tế với mục tiêu: “...xóa bỏ những trở ngại kinh tế nhằm
khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đọa
đày người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỷ áp bức phong kiến”. Đạo luật cải cách
ruộng đất ban bố ngày 11/10/1946 với nội dung là nghiêm khắc với đối tượng mua đất,
lập các Ủy ban ruộng đất, đề ra các phương thức mua đất, cách thanh toán và quy định
về địa chủ vắng mặt. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ 1946-1950
dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các lực lượng chiếm đóng. Tính đến năm 1948, số lượng
ruộng đất chính phủ mua lên đến 163.000 ha được thực hiện liên tiếp trong 10 lần. Diện
tích phát canh tính đến tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt 3 đã bị xóa bỏ;
80%-90% đất đai của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền; 70%-80% số ruộng đất cho
thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân. Nhiều nhà

3
Địa chủ vắng mặt là những người sở hữu ruộng đất mà không định cư trong làng hoặc các làng xã nơi có
ruộng đất của họ.
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951... 95

chính trị, chính khách và các nhà nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá
cao những thành tựu của cải cách ruộng đất. Toshino Kawagoe cho rằng cải cách ruộng
đất ở Nhật Bản sau chiến tranh được coi là “một ví dụ về thành tựu cải cách ruộng đất
trong nông nghiệp” sau chiến tranh. Tác động của cuộc cải cách ruộng đất rất to lớn đối
với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn Nhật Bản đã thực sự
chuyển vào tay người canh tác. Chế độ địa chủ ở nông thôn Nhật Bản đã bị xóa bỏ, xóa
bỏ luôn tàn dư phong kiến của nền nông nghiệp Nhật Bản và từ đó làm tan rã chế độ
đẳng cấp nông thôn vốn kìm hãm sự phát triển xã hội Nhật Bản [1], làm thay đổi hẳn
trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng
hơn. Sau khi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng, hầu hết nông dân được
nhận ruộng. Họ tiến hành cải tạo ruộng đất, gieo trồng, tích cực áp dụng kỹ thuật canh
tác mới, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Rõ ràng cải cách ruộng đất đã thực
sự lôi kéo những chủ đất trực tiếp tham gia vào sản xuất. Những tiến bộ do áp dụng
khoa học kỹ thuật trong việc trồng lúa làm cho thu nhập của người nông dân tăng lên,
góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước. Tính chất kinh tế hàng hóa ở nông
thôn Nhật Bản do đó ngày càng được nâng cao, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ trong sản
xuất nông nghiệp [11]. Ngoài cải cách ruộng đất còn có hàng loạt các chương trình cải
cách nông thôn Nhật Bản: cải cách văn hóa, xã hội, nâng cao điều kiện sống, sinh hoạt
của các cộng đồng thôn xã. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu dân cư nông thôn, tạo ra
hàng triệu những người nông dân mới, thực sự là những người chủ, là thành viên bình
đẳng trong cộng đồng. Như vậy, cùng với hàng loạt chương trình cải cách nông thôn,
cải cách ruộng đất không chỉ trực tiếp mà còn gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều
hướng phát triển của làng xã Nhật Bản [3], làm xuất hiện nhiều nhân tố mới, giá trị mới
trong kinh tế, xã hội và sinh hoạt cộng đồng làng xã - cơ sở quan trọng cho sự tăng
trưởng của Nhật Bản giai đoạn sau này.
Giải thể Zaibatsu cũng có tác động lớn đến kinh tế, xã hội Nhật Bản. Việc giải thể này
nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc, mang tính chất phong kiến
trước đây, là mầm mống gây ra các cuộc chiến tranh. Điều này làm biến đổi tình hình
kinh tế, xã hội Nhật Bản tạo điều kiện phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, quân phiệt,
thổi vào tư tưởng hòa bình, dân chủ, tạo ra lực lượng quản lý kinh tế trẻ tuổi, tài ba, tạo
giá trị mới về môi trường kinh tế và con người Nhật Bản. Đây là những yếu tố có tính
chất quyết định đến phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Trước đây sự tập trung
công nghiệp vào tay một số Zaibatsu “gây ra quan hệ nửa phong kiến giữa chủ và thợ,
kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn...”. Nhằm thực hiện giải thể
Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra Ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Do
đó có 57 gia đình Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và
bán cổ phần cho nhiều công ty, hiệp hội. Những tập đoàn tài phiệt lớn trước đây đã
được độc lập và bị loại trừ sự chi phối cũng như sức mạnh của các cá nhân và các gia
tộc Zaibatsu. Việc giải phóng phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công
nghiệp chủ chốt của Nhật Bản như thép, đóng tàu... đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ
ngành công nghiệp của Nhật Bản, tạo giá trị mới cho Nhật Bản trong việc tạo cơ chế
môi trường phát triển kinh tế; là cơ hội mới chưa từng có của các công ty, doanh nghiệp
96 HOÀNG THỊ MINH HOA

mới và độc lập của Nhật Bản trong hoạt động kinh tế. Nhiều nhà kinh tế đánh giá việc
giải thể Zaibatsu đã góp phần vào việc xóa bỏ tình trạng tập trung kinh tế, thiết lập
khuôn khổ cạnh tranh [6] và giúp nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh. Việc thanh lọc
kinh tế đã loại bỏ trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty có tư tưởng quân phiệt hiếu
chiến [9], tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo, phát huy tốt chức
năng “thuyền trưởng mới” của các ngành công nghiệp. Do đó, nền kinh tế Nhật Bản có
điều kiện lấy lại sức sống của mình.
Việc xuất hiện nhân tố mới - nhân tố con người sau chiến tranh như đã trình bày ở trên
đã góp phần chủ yếu tạo nên “sự thần kỳ kinh tế Nhật Bản”. Đó là những nhà kinh
doanh tích cực, năng động được hình thành thông qua các cuộc cải cách: thanh trừng
chính trị, giải thể Zaibatsu, thanh lọc kinh tế. Hiệu quả do các cuộc cải cách mang lại đã
tạo ra lực lượng các nhà kinh doanh có tư tưởng mới, sáng tạo và tích cực trong kinh
doanh, là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sau khi lấy lại tinh thần, do
tình trạng sau chiến tranh mang lại, dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế, các tổ
chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thiết lập khắp nơi với quyết tâm phát triển kinh tế,
tổ chức lại các hoạt động kinh tế, làm cho cỗ máy kinh tế vận hành. Tháng 4 năm 1946,
Hội Đồng hữu kinh tế - Keizai Doyukai - tổ chức của các nhà kinh doanh đã được thành
lập với quyết tâm của các nhà kinh doanh 50 tuổi: Kanichi, Otsuka... phê phán những
nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ những nguyên tắc dân chủ hóa sau chiến
tranh và phong trào công nhân quá khích, tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình,
phân chia ranh giới giữa tư bản và kinh doanh... trong đó dựa vào sự thỏa hiệp giữa chủ
và thợ. Sau đó liên tục có nhiều tổ chức của những nhà kinh tế trẻ. Ví dụ, tháng 4/1946,
Keidansen (Liên đoàn các tổ chức kinh doanh Nhật Bản) nhằm đối phó lại với phong
trào công đoàn đang lên, kêu gọi xác lập và giữ vững quyền kinh doanh của mình.
Những nhà kinh doanh tích cực của Nhật Bản được hình thành sau chiến tranh thế giới
thứ II, có thể chia làm 3 loại:
+ Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt thay thế các nhà lãnh đạo xí nghiệp hàng
đầu đã bị loại bỏ chức vụ thông qua các cuộc giải thể Zaibatsu và thanh lọc kinh
tế. Ví dụ như Chikara Karuta (Hãng chế tạo Hitachi), Ishisaka (Xí nghiệp đồ điện
Toshiba), Nishiyama (Hãng sắt thép Kawasaki).
+ Những nhà doanh nghiệp trẻ, các tổng giám đốc, giám đốc các lãnh đạo cao cấp
trong các công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ trước chiến tranh, đã chớp thời cơ, tận
dụng cơ chế cạnh tranh mạnh mẽ sau chiến tranh do việc giải thể Zaibatsu mang
lại. Các công ty mới này đã vượt lên kinh doanh, tạo ưu thế trở thành những công
ty lớn với những nhà lãnh đạo tài ba như: Kosuke Matsu (công ty điện
Matsushita), Sazo Idemitsu (công ty Idemitsu Hun San) [6].
+ Các nhà doanh nghiệp mới nổi lên sau chiến tranh, do làm ăn kinh tế có hiệu quả,
trở thành một lực lượng mới trong sản xuất kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ: Oh Ibuka
(Sony), Tsuyoshi Mitarai (Canon).
Dưới tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực (thanh lọc chính trị, kinh tế, ban
hành hiến pháp mới) đã tạo điều kiện cho hàng loạt các nhà doanh nghiệp do các tập
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951... 97

đoàn tài phiệt bị giải thể về mặt tổ chức, tư tưởng hiếu chiến của nó bị triệt tiêu, tạo nên
bầu không khí tự do sau chiến tranh, là mảnh đất tốt cho sự ra đời các nhà doanh nghiệp
mới. Họ có tinh thần tiên phong đổi mới kỹ thuật chủ yếu từ Mỹ và phương Tây, đồng
thời cải biến nó thành kỹ thuật của Nhật Bản để tạo ra những sản phẩm mới tốt hơn, đẹp
hơn, giá rẻ hơn. Những nhân tố lãnh đạo mới này tích cực cải cách, đầu tư thiết bị - đó
là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để kinh tế Nhật Bản có thể thích ứng được với môi
trường kinh tế thay đổi sau chiến tranh. Đó là các phương pháp kinh doanh mới, cải
cách và đổi mới kỹ thuật, sáng tạo và thích ứng trong kinh doanh mà rất ít khi nhìn thấy
trong các nhà lãnh đạo sản xuất trước đây ở Nhật Bản. Ví dụ, năm 1951, công ty Toyo
Rayon, nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với công ty
Ruybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66 và trả một khoản tiền
lớn về sử dụng bí quyết kỹ thuật này. Quyết định táo bạo đó trở thành nguồn gốc cho sự
phát triển tơ sợi tổng hợp ở Nhật Bản thời kỳ sau đó. Năm 1953, hãng Sony đã quyết
định mua kỹ thuật bán dẫn (transistor) của hãng Western electronic và đã thành công
trong việc sản xuất đài bán dẫn (transistor radio). Cùng với lực lượng các nhà kinh
doanh tích cực, họ có nhiệm vụ hướng dẫn hành chính, hoạch định kế hoạch, hình thành
mục tiêu đạt tới trong tương lai. Với bản tính năng động, sáng tạo, tài ba và liêm khiết,
bộ máy quan chức Nhật Bản cũng đã chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của các
cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh làm biến đổi về tư tưởng, tư duy kinh doanh. Đặc
biệt các cuộc cải cách kinh tế đã tạo ra thể chế, cơ chế kinh tế mới để chuyển từ cơ cấu
độc quyền trước chiến tranh sang cơ cấu dân chủ cạnh tranh, từ nền kinh tế thị trường bị
nhiều hạn chế sang cơ chế thị trường đầy đủ.
Những cải cách kinh tế sau chiến tranh do SCAP khởi xướng rất quan trọng đối với việc
tạo ra thế cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Thực chất của 3 cuộc cải
cách lớn: cải cách ruộng đất, giải thể doanh nghiệp lớn độc quyền, cắt đứt quan hệ nhân
sự cũ mang tính huyết thống bằng sự thanh lọc kinh tế và việc đưa ra phong trào lao
động dân chủ là quá trình thủ tiêu các yếu tố hạn chế thị trường, hình thành những lĩnh
vực cạnh tranh, những chủ thể cạnh tranh và những quan hệ hợp tác trong nội bộ từng
doanh nghiệp đã tạo nên động lực lành mạnh cho phát triển kinh tế [4].
Về cải cách chính trị
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ II, một trong những tác động lớn làm biến đổi xã hội
Nhật Bản, tạo nên một nước Nhật ổn định chính trị và xã hội, chính là việc cải cách
chính trị làm cơ sở cho Nhật Bản bước vào giai đoạn thần kỳ kinh tế cuối những năm 70
của thế kỷ XX. Đó là những hiệu quả biến đổi trực tiếp do các cuộc cải cách mang lại,
trong đó đặc biệt là cải cách chính trị. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp bách sau
chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ, cho phép thành lập các
công đoàn hiệp hội và thực hiện một loạt biện pháp giảm lạm phát, cứu đói, khuyến
khích sản xuất để tạo thêm sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản. Các cuộc cải cách
chính trị: thanh trừng tội phạm phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động của các đảng
phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy
chính trị, chuyển toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu
98 HOÀNG THỊ MINH HOA

cầu phát triển kinh tế và thổi một làn gió tự do, dân chủ trong nền kinh tế, tạo điều kiện,
cơ sở thuận lợi cho Nhật Bản bước vào kỷ nguyên tăng trưởng kinh tế.
Cải cách chính trị Nhật Bản quan trọng nhất sau chiến tranh là cải cách Hiến pháp. Hiến
pháp mới đã được ban bố vào ngày 7/10/1946 dưới hình thức chế độ Thiên Hoàng là
tưọng trưng, chủ quyền thuộc về nhân dân, hòa bình và tôn trọng quyền cơ bản của con
người. Hiến pháp trên thực tế đã tuyên bố xóa bỏ những hình thức phong kiến ràng buộc
quyền cơ bản của con người. Hiến pháp 1946 thực tế công khai xóa bỏ những ràng buộc
phong kiến và là điểm khởi đầu cho những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng của xã
hội Nhật Bản ngay sau chiến tranh thế giới thứ II, đã tạo cơ sở xã hội mới cho mọi
người dân trong cuộc sống và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển đất nước [5]. Hiến
pháp Nhật Bản 1946 được coi là Hiến pháp hòa bình đã thực sự có hiệu quả trong thực
tế cùng với áp lực của sức mạnh Đồng minh, cùng nhiều lý do khách quan và chủ quan
khác nhau, môi trường hòa bình do Hiến pháp mang lại đã tạo điều kiện thuận lợi cho
Nhật Bản ổn định, an tâm phát triển kinh tế. Các cuộc cải cách chính trị như thanh trừng
những người có tư tưởng quân phiệt, hiếu chiến ra khỏi các công ty, xí nghiệp hay trong
các cơ quan chính phủ đã tạo điều kiện thổi vào đây những tư tưỏng mới, hòa bình, dân
chủ, tự do. Cùng với những biến đổi trong nền chính trị, xã hội Nhật Bản do cải cách
chính trị tạo ra, những thành quả của nó đã tạo ra mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa chủ-
thợ trong quá trình lao động.
Về cải cách giáo dục: Cải cách giáo dục sau chiến tranh thế giới thứ II đã thanh trừng
những người có tư tưởng phát xít ra khỏi ngành giáo dục, cải cách thể chế giáo dục tiến
bộ, đưa tư tưởng giáo dục mới, thể chế giáo dục mới vào các trường học... đã tạo nên một
thế hệ con người mới sau chiến tranh có trình độ học vấn cao, có tư tưởng hòa bình và
phát triển kinh tế. Các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh đã góp phần chuyển biến
nước Nhật từ “quân phiệt”, “hiếu chiến”, sang “hòa bình”, “dân chủ”, góp phần vào việc
xây dựng và củng cố một nền chính trị và xã hội ổn định suốt một thời gian dài sau đó.
Một xã hội mà trong đó 87% người Nhật tự cho mình thuộc tầng lớp trung lưu (Theo điều
tra của Văn phòng Thủ tướng về đời sống quốc gia tháng 10/1989). Tuy là một nước hiện
đại bậc nhất của thế giới nhưng vẫn giữ được cốt cách truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Nhật Bản. Các tệ nạn xã hội ở Nhật Bản ít hơn so với ở Mỹ. Trên chính trường (trong
vòng khoảng 50 năm sau chiến tranh) trừ thời gian nội các Katayama của Đảng Xã hội chỉ
tồn tại được 7 tháng còn hầu hết thời gian sau chiến tranh liên tiếp do Đảng Dân chủ Tự
do Nhật Bản nắm và đảng này đã có chính sách đúng đắn, nhất là đối với nông dân sau cải
cách ruộng đất. Tình hình trên đã mang lại sự ổn định xã hội, duy trì được tính thống nhất
của chính sách mới sau chiến tranh. Chính sách của Đảng Dân chủ Tự do đã có không ít
những chủ trương tiến bộ tạo nên những ổn định chính trị, xã hội mang lại sự thay đổi cho
Nhật Bản trong phát triển đất nước mọi mặt sau chiến tranh [3].
Về cải cách lao động, xã hội
Theo nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam thì quan hệ chủ - thợ ở Nhật Bản
khác ở các nước công nghiệp tiêu biểu Tây Âu. Điều khác biệt này được tạo ra bởi những
chuyển biến chính trị, xã hội, kinh tế và quan hệ lao động sau chiến tranh, đã tạo cơ sở
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951... 99

cho sự phát triển kinh tế của Nhật Bản giai đoạn sau đó. Ngoài những lý do về yếu tổ
truyền thống, cơ sở xã hội, tư tưởng đạo đức phong kiến đạo Khổng còn rơi rớt lại thì rõ
ràng tính chất tập thể, đặc thù hợp tác chủ - thợ chủ yếu được xuất hiện dưới tác động của
các cuộc cải cách sau chiến tranh, tạo nên tiền đề thúc đẩy sự phát triển kinh tế giai đoạn
sau đó. Trong thời gian trước chiến tranh thế giới thứ II, quan hệ công nhân và giới chủ ở
Nhật Bản phổ biến không phải là quan hệ hợp đồng mà là quan hệ phụ thuộc gần như
quan hệ của nông dân và chủ phong kiến, hình thành chế độ “làm thuê”, “bán mình”.
Công nhân không có quyền hành, thiếu ý tổ chức và chỉ chịu theo mệnh lệnh của chủ. Họ
thường làm việc, ăn, ở ngay trong xí nghiệp và không được ra ngoài. Chế độ này làm cho
công nhân mất quyền tự do về sinh hoạt, cũng như các hoạt động khác [8].
Ngược lại, sau chiến tranh thế giới thứ II nhờ tác động của phong trào lao động và đặc
biệt là do các cuộc cải cách lao động: cải cách về hợp tác chủ - thợ, ban bố các đạo luật
công đoàn, mối quan hệ chủ - thợ đã thay đổi tạo nên hình thức lao động mới là công
đoàn xí nghiệp. Trong xí nghiệp, họ khuyến khích công nhân "cổ trắng" và công nhân
"cổ xanh" cùng hoạt động, đồng thời cấp nhà ở và những điều kiện thuận lợi khác cho
các hoạt động của công đoàn [2]. Giới chủ đã thỏa thuận ký kết với công đoàn về chế độ
trả lương theo thâm niên, việc làm ổn định trong xí nghiệp. Xí nghiệp như một gia đình
lớn trong đó chủ có “trách nhiệm và quan tâm” đến công nhân và ngược lại công nhân
cũng phải “tận tâm”, “trung thành” với chủ. Vì vậy, trong các phong trào công đoàn,
hầu hết công nhân đều có chung một ý nghĩ “những cuộc đấu tranh sẽ không gây nguy
hại cho tương lai của công ty mình...”. Việc thực hiện trả lương theo thâm niên và đảm
bảo ổn định việc làm buộc giới chủ phải thường xuyên chuyển hoặc đào tạo lại công
nhân của xí nghiệp nếu họ muốn áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại nhằm tăng năng
suất lao động. Như vậy, việc cải cách công đoàn từ công đoàn ngành trước chiến tranh
thành công đoàn xí nghiệp (công đoàn được tổ chức theo công ty chứ không phải ở cấp
toàn ngành) trong các công ty và việc thay đổi quan hệ giữa những người chủ với các
nhân viên nhằm đảm bảo việc làm ổn định đã giúp cho các công ty Nhật Bản tích cực
phát huy sáng kiến và áp dụng nhanh chóng những thành tựu khoa học kỹ thuật để tăng
năng suất lao động và gắn bó với công nhân. Bên cạnh đó, sự đối xử công bằng với cả
công nhân lẫn nhân viên trong công đoàn, xí nghiệp cũng đã tạo điều kiện hợp tác trong
quá trình sản xuất. Công đoàn công ty và cải cách quan hệ lao động giữa giới chủ và
công nhân đã tạo ra những biến đổi trong cơ cấu quan hệ lao động, góp phần tạo ra năng
suất lao động cao và khát vọng cạnh tranh, chuẩn bị tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế
nhanh vào cuối tập kỷ 50 và 60 của thế kỷ XX. Việc làm ổn định, lương theo thâm niên
và công đoàn công ty cùng quan hệ hợp tác chủ-thợ ở Nhật Bản có sự kết hợp với chủ
nghĩa truyền thống lao động có tính chất gia đình. Nhưng đó không phải là những điều
kiện có sẵn sau chiến tranh mà chúng là sản phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của phong
trào công nhân sau chiến tranh, đặc biệt nhất là trong giai đoạn cải cách sau chiến tranh.
Đây có thể coi là những giá trị mới của Nhật Bản sau chiến tranh tạo điều kiện cho Nhật
Bản bước sang một giai đoạn mới - thần kỳ lần thứ II của lịch sử.

You might also like