Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự phát triển “ thần kì” của Nhật Bản chính là sự áp dụng tiến bộ về khoa học kĩ thuật và công nghệ. Điều đặc biệt đáng chú ý là Nhật Bản không sao chép một cách máy móc các công nghệ nhập khẩu mà họ đã hết sức nỗ lực nghiên cứu, đổi mới, nâng cao, biến chúng thành kỹ thuật riêng, qua đó đóng góp vào tiến bộ khoa học kỹ thuật của nhân loại. Kiên trì với nguyên tắc: chỉ mau bằng phát minh hoặc thiết bị của nước ngoài rồi nghiên cứu sử dụng, làm chủ kỹ thuật đó, hạn chế để người nước ngoài sử dụng kỹ thuật mới của minh trên đất Nhật. 2. Yếu tố con người Một trong những yếu tố quan trọng nữa làm nên sự phát triển “thần kì” của Nhật Bản chính là yếu tố con người. Người Nhật có những đức tính khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ và khâm phục. Ta thấy ở những con người nhỏ bé về tầm vóc là cả một tinh thần ham học hỏi lớn lao, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thách thức, cần cù, chăm chỉ trong lao động và niềm tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh dân tộc. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, bước ra khỏi cuộc chiến với tư thế một quốc gia thua cuộc, người dân Nhật Bản hiểu rằng giờ đây những gì họ cần làm là chứng minh cho thế giới thấy dân tộc Nhật Bản thực lòng mong muốn một sự hòa bình, rằng chiến tranh chưa bao giờ và không bao giờ là mong muốn của người dân Nhật. Chính vì vậy, họ tiếp nhật sự quân quản của quân Đồng Minh, tiếp nhận các cải cách từ SCAP, góp phần biến quá trình bảy năm quân quản của quân Đồng minh cơ bản diễn ra trong hòa bình và đạt được nhiều thành tựu. 3. Những cải cách của tướng Douglas MacArthur-Chỉ huy tối cao bộ tổng tư lệnh các lực lượng Đồng minh Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, từ tháng 8- 1945, quân đồng minh trên thực tế là các lực lượng quân đội Mỹ đã tiến sang chiếm đóng Nhật Bản. Người giữ trách nghiệm là tướng Douglas MacArthur. Mặc dù không tránh khỏi những hạn chế nhưng sự chiếm đóng trong vòng 7 năm này của SCAP được coi là cuộc chiếm đóng hòa hiếu và tích cực nhất của hai dân tộc. Mặc dù chiếm đóng Nhật bản nhưng tướng Douglas MacArthur - người có lòng khoan dung và tầm nhìn chiến lược, đã coi việc cải cách và chấn hưng nền kinh tế Nhật bản là sứ mệnh của Đồng minh. Chính sách cải cách được tướng Douglas MacArthur công bố ngày 9 tháng 10 năm 1945 nhằm phi quân sự hóa nền kinh tế, khuyến khích các lực lượng dân chủ, thủ tiêu sự tập trung trong sản xuất và chiếm hữu tài sản. Biện pháp quan trọng đầu tiên nhằm thủ tiêu tình trạng tập trung sức mạnh kinh tế mà trọng tâm là giải thể các Zaibatsu. Hoạt động và các mục tiêu kinh tế của các Zaibatsu được coi là một trong những nguyên nhân căn bản thúc đẩy Nhật Bản tham gia vào cuộc chiến tranh xâm lược. Bước đầu tiên là tiến hành giải tán các công ty mà các Zaibatsu chiếm cổ phần nhiều nhất sau đó bán những cổ phần đó cho dân chúng. Từ tháng 4 năm 1947 “ Luật chống độc quyền” (Dokusen kinshi) được ban hành nhằm ngăn chặn sự phục hồi của các thế lực tài phiệt và “ trở thành nguyên tắc căn bản của nền kinh tế Nhật bản sau chiến tranh” . Tháng 12 năm 1947, Luật thủ tiêu sự tập trung quá mức sức mạnh kinh tế được ban hành nhằm giải tán các công ty có quá nhiều nguồn lực kinh tế. Việc giải thể phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngàng công nghiệp chủ chốt của Nhật như đóng tàu, thép,…đã lamg thay đổi hoang toàn bản đồ công nghiệp của Nhật Bản. Ngoài ra việc giải thể các Zaibatsu còn góp phần xóa bỏ tình trạng tập trung kinh tế, thiết lập một nền kinh tế đặc trưng bởi sự cạnh tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng và công nghiệp hóa chất. Điều này đã hình thành nên cơ chế thị trường khá tốt và thuận lợi - một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.. Cùng với đó là tạo cơ hội cho các nhà quản lí trẻ tuổi, năng động, táo bạo phát triển, giúp nền kinh tế Nhật Bản lấy lại sức sống của nó. Cải cách ruộng đất Nhằm thực hiện một chương trình cải cách toàn diện nền kinh tế Nhật Bản, SCAP còn khẩn trương tiến hành cải cách ruộng đất. Một chương trình cải cách ruộng đất kết hợp giữa yêu cầu của các nhà cầm quyền chiếm đóng và dự thảo của Bộ Nông lâm Nhật đã được đưa ra vào giữa năm 1946. Tác dộng của cuộc cải cách ruộng đất có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển kinh tế Nhật Bản. Việc cải cách ruộng đất đã kích thích mạnh mẽ tính tích cực sản xuất của người làm nông nghiệp, phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá của Nhật Bản đồng thời đem lại sản lượng lương thực vượt trội cho xã hội. Ở nhiều vùng nông thôn Nhật Bản đã thấy xuất hiện một tầng lớp tiểu chủ trung lưu. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và thu nhập của người nông dân tăng cũng đã góp phần mở rộng đang kể thị trường trong nước do nông dân đã nổi dần lên như người mua đáng kể các sản phẩm công nghiệp. Với những thành công đó, chính sách cải cách ruộng đất mà SCAP chủ trương được coi là một trong những cuộc cải cách thành công nhất của Nhật Bản sau Chiến tranh Thế giới thứ II. Dân chủ hóa lao động Song song với việc thực hiện những chính sách cải cách trên, SCAP còn chủ trường dân chủ hóa lao động bằng việc ban hành ba bộ luật về lao động từ cuối năm 1945 đến đầu xuân năm 1947. Đó là Luật về công đoàn năm 1945, đảm bảo các quyền tổ chức thương lượng tập thể và bãi công. Luật về tiêu chuẩn lao động năm 1946 và Luật về điều chỉnh quan hệ lao động năm 1947. Nhằm quy định cơ chế giải quyết các tranh chấp lao động, cung cấp dịch vụ việc làm không mất tiền và thủ tiêu các thực tế lao động có tính chất phong kiến. Nhìn chung, các cuộc cải cách trên đã chuẩn bị những điều kiện hết sức quan trọng cho viêc mở rộng dân chủ trong xã hội Nhật Bản và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Nhật Bản về sau. 4.Tích lũy vốn và sử dụng vốn 4.1 Tích lũy vốn Nhật Bản là quốc gia có khả năng tích lũy vốn cao. Việc tích lũy vốn này được thực hiện ở mọi cấp độ từ Nhà nước, chính phủ đến mỗi người dân Nhật Bản. Nhà nước thực hiện hàng loạt các chính sách như hạn chế các khoản chi tiêu cho phúc lợi xã hội như y tế, nhà ở; cắt giảm bộ máy hành chính; giảm chi phí quân sự; thu hút vốn từ nước ngoài bằng cách tận dụng mối quan hệ thân thiết với Mỹ, tham gia vào các tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát triển quốc tế, quỹ tiền tệ quốc tế IMF,… Việc huy động được nguồn vốn từ cả trong và ngoài nước cho phép Nhật Bản có sự đầu tư vào các ngành công nghiệp quan trọng, khoa học kĩ thuật để phát triển kinh tế. 4.2 Sử dụng vốn Nhật Bản là quốc gia sử dụng vốn hiệu quả, chính phủ giao cho Bộ Tài chính quản lí chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn, việc đầu tư trực tiếp chỉ được khuyến khích cho các mục tiêu tìm kiếm công nghệ và bí quyết sản xuất. Các doanh nghiệp lớn ở Nhật lúc bấy giờ như Mitsubishi, Mitsu,.. theo mô hình hoạt động Kereitsu phần nào cho phép dòng vốn của các doanh nghiệp lưu thông trong một hệ thống của tập đoàn, đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các công ty con. Đầu tư trong nước tập trung vào các ngành công nghiệp trọng điểm, then chốt như luyện kim, đóng tàu, chế tạo máy móc, điện tử, vi điện tử và quan trọng nhất là đổi mới máy móc, dây chuyền sản xuất. Bắt đầu từ những năm 60 70, khi nguồn thu ngoại tệ của Nhật nhiều hơn, Nhật đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Nguồn đầu tư nước ngoài này là một yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế trong nước, tăng vị thế và sức cạnh tranh của công ty Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới. 5. Sự điều tiết, quản lí của nhà nước Trong nhưng năm 1950 – 1970, nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế. Chính phủ Nhật Bản đã biết nắm bắt thời cơ để đưa Nhật Bản di lên. Nhằm thúc đẩy kinh tế Nhật Bản đạt mức độ tăng trưởng cao, chính phủ và các nhà quản lí kinh tế cũng đã thức hiện đồng loạt nhiều chính sách tích cực để mở đường cho kinh tế phát triển. Dưới sự điều hành của nhà nước, các công ty đã đóng vai trò quyết định đối với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế, tạo ra tiềm lực cạnh tranh vững chắc của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới sau chiến tranh. 6. Sức cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty Nhật Bản Các công ty Nhật có tầm nhìn xa, năng động, táo bạo và thực thi những biện pháp quản lí đạt hiệu quả cao trong một môi trường có nhiều biến chuyển to lớn. Hàng hóa do Nhật Bản tạo ra đa dạng, chất lượng cao, giá cả phù hợp, trên nhiều thị trường quốc tế, sản phẩm Made in Japan luôn được tin dùng và đánh giá cao. 7. Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật Hiệp ước anh ninh Mỹ Nhật được kí kết lần đầu tiên vào năm 1951 có thời hạn mười năm sau đó tiếp tục được kí kết một lần nữa vào năm 1960 với sự thỏa thuận đến từ hai phía rằng cứ sau mười năm, hiệp ước sẽ được tự động gia hạn nếu một trong hai bên không có sự thay đổi khác. Với hiệp ước an ninh này, Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ của Mỹ thông qua việc cho phép Mỹ đóng quân trên lãnh thổ Nhật Bản. Hiệp ước an ninh này không chỉ giúp Nhật Bản, một quốc gia không được phép duy trì quân đội thường trực và các vũ khí hạng nặng phục vụ chiến tranh, đảm bảo được an ninh quốc phòng trước sự uy hiếp của Triều Tiên, Trung Quốc, Nga,… mà còn giúp Nhật tiết kiệm ngân sách quốc gia. Tổng chi phí cho quốc phòng của Nhật hằng năm không vượt quá 1% GDP. Trong khi các cường quốc khác lo chạy đua về mặt vũ trang và bị sa lầy trong các cuộc chiến tranh, Nhật Bản có thể tập trung nhiều hơn vào các hoạt động phát triển kinh tế, đầu tư cho giáo dục, khoa học kĩ thuật. Những sự đầu tư này đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ, lấy lại vị thế là cường quốc kinh tế trên bản đồ quốc tế. 8. Hai cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam là sản phẩm của cuộc Chiến Tranh Lạnh mà thực tế là cuộc chiến của hai phe Xã hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ và Nga. Đây được đánh giá là hai cuộc chiến cục bộ tiêu tốn nhiều sức người, sức của của các nước tham gia. Tuy nhiên, với Nhật Bản, đây được đánh giá là “ngọn gió thần” thổi vào nền kinh tế của quốc gia này. Với sự phát triển về khoa học kĩ thuật từ trước chiến tranh thế giới, Nhật Bản trở thành xưởng sản xuất, cung cấp khí tài quân sự cho Mỹ ở cả hai cuộc chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam. Hạn chế Những thành tựu vượt bậc của giai đoạn phát triển thần kỳ đã đưa Nhật Bản chỉ sau 20 năm từ một đống tro tàn vươn lên thành cường quốc thế giới, là nền tảng để khẳng định địa vị của nước Nhật trên bản đồ chính trị thế giới .Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế ngay trong giai đoạn phát triển nhanh chóng này. Nhật Bản đã phải đối mặt với những mâu thuẫn kinh tế - xã hội gay gắt. 1.Về kinh tế Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế, giữa khả năng sản xuất hiện đại với cơ sở hạ tầng lạc hậu, giữa tài chính và tín dụng, giữa tiềm lực của công nghiệp và nông nghiệp. Mặc dù nền sản xuất công nghiệp đã đạt đến trình độ cao nhưng cơ sở hạ tầng ở Nhật Bản vẫn bị coi là loại lạc hậu trong các nước tư bản phát triển khác. Bên cạnh đó, đây còn là một nền kinh tế bấp bênh, không ổn định về thị trường và nguồn nguyên liệu. Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu Nhập Khẩu từ bên ngoài. Bởi vì phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào nhiên liệu nhập khẩu nên Nhật Bản buộc phải thường xuyên tìm cách tăng thu từ xuất khẩu đặt biệt là những ngành trụ cột góp phần tạo ra kinh tế “thần kỳ” như ngành sắt, thép, đóng tàu , hóa chất, chế tạo ô tô, hàng dệt,...thường phải dựa vào thị trường nước ngoài để tiêu thụ.Do đó, từ những năm 70, những biến động trong quan hệ giữa Nhật Bản và các nước u Mỹ đã khiến điều kiện buôn bán của nước này xấu đi rõ rệt. .Về xã hội Gặp khó khăn về vấn đề nhà ở và quản lý xã hội do sự phân bố dân cư không đều. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty mải chạy theo lợi nhuận nên đã hạn chế những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì mức sống thấp hơn so với các nước tư bản phát triển, vấn đề nhà ở, tai nạn giao thông trầm trọng,… Ngoài ra công ty còn duy trì lề lối làm việc khắc nghiệt khiến người làm công bị áp lực nặng nề, dẫn tới nạn tự sát và thanh niên ngại kết hôn và sinh con. … Về lâu dài, những mâu thuẫn đã gây ra tình trạng già hóa dân số và thực sự trở thành vấn đề nghiêm trọng tại Nhật lúc đó.Một trong những hậu quả đó là nguồn lao động của Nhật ngày càng giảm .Nếu như những năm 50 và 60, thị trường lao động Nhật Bản vẫn còn dồi dào, người lao động giai đoạn này được coi là “thế hệ vàng” của lao động Nhật Bản thì đến những năm 70, nguồn lao động này suy giảm và thiếu hụt một cách rõ rệt. Do chạy theo tốc độ tăng trưởng cao, vấn đề môi trường không được chú ý đúng mức. Kết quả là cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70, môi trường bị xuống cấp nhanh chóng, một số vùng công nghiệp bị ô nhiễm nặng nề. Đó là mặt trái, là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng “thần kì” của Nhật Bản thời kì 1951-1973. 3.Về chính trị Trong thời kỳ này, sự thay đổi trong nội các chính phủ Nhật đã dẫn đến sự bất ổn trong chính trị và cả nền kinh tế. Những năm 1960-1970, Cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân Nhật Bản do Đảng Cộng Sản và các tổ chức dân chủ tiến bộ đang giành được sự ủng hộ mạnh mẽ trong tầng lớp xã hội cũng gây ra sự bất ổn trong chính trị ở Nhật Bản. Những mâu thuẫn này,đã dẫn đến sự hoài nghi và bất bình không chỉ của dân chúng mà còn là nhiểu tầng lớp xã hội đối với chính - sách của chính phủ. Phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, sự nổi dây từ các cuộc biểu tình của sinh viên chính là sự biểu hiện tập trung của sự bất bình đó , gây ra sự bất ổn trong xã hội. Đối với những hạn chế trên từ những năm 60 Nhật Bản đã có những biện pháp và chính sách để khắc phục nhất là với vấn đề môi trường. Còn đối với hạn chế về mặt kinh tế, các mâu thuẫn xã hội và chính trị, trong những năm 1970 trở về sau,Nhật Bản cũng đã có những chính sách kịp thời để ngăn chặn hậu quả.Tuy nhiên, Vẫn còn những hạn chế ở giai đoạn mà cho đến ngày nay Nhật Bản còn đang phải đối mặt.Mà một trong số đó chính là tỷ lệ sinh thấp song song đó là sự già hóa dân số mà nguyên nhân chủ yếu là do một phần hậu quả từ sự phát triển kinh tế và hiện đại hóa xã hội.
MINH TRỊ DUY TÂN
Minh Trị Duy tân hay cải cách Minh Trị là một chuỗi các sự kiện cải cách dẫn đến những thay đổi to lớn trong cấu trúc xã hội và chính trị Nhật Bản. Dựa trên sự phân kì Minh Trị Duy Tân, chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 (Tiền Duy tân): từ 1853 đến 1868: giai đoạn đấu tranh lật đổ chính quyền Tokugawa, thiết lập chính quyền Minh Trị. Giai đoạn 2 (giai đoạn Duy tân): từ 1869-1877, là giai đoạn cải cách, phá bỏ cái cũ, xác lập cái mới. Giai đoạn 3 (giai đoạn Duy Tân): từ 1878-1895: giai đoạn hoàn thiện, củng cố cái mới, hoàn thành sự nghiệp Duy tân. GIAI ĐOẠN 1: TIỀN DUY TÂN Tình hình trong nước: Đến giữa thế kỉ XIX, suốt 200 năm thống trị của dòng họ Tokugawa, Nhật Bản đã có nhiều biến đổi mang lại những cơ sở hạ tầng về Kinh tế và xã hội tương đối toàn diện. Nhưng sự cô lập phi tự nhiên đã làm cho Nhật Bản ngày càng tụt hậu. Chế độ Mạc phủ Tokugawa lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội đến chính trị. Về mặt kinh tế, Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp duy trì cách sản xuất lạc hậu dựa trên nền tảng phong kiến. Về mặt xã hội, Nhật Bản lúc bấy giờ vẫn duy trì chế độ đẳng cấp với quyền bính do các đại danh (daimyo) và võ sĩ Samurai nắm cả. Tuy nhiên vào thời kỳ này tình hình quốc nội đã yên, chiến tranh kết thúc nên địa vị của Samurai đã không còn như trước. Một số phải chuyển sang làm ruộng, làm thợ hay đi buôn. Trong khi đó tầng lớp tư sản công thương nghiệp ngày càng giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên tạo ra mối xung khắc giữa tầng lớp thương nhân và giai cấp thống trị ngày càng lớn. Nông dân Nhật thì bị áp lực của cả hai phía, giới quý tộc và thương nhân. Về mặt chính trị, nền phong kiến Nhật Bản đúng ra là do Thiên hoàng đứng đầu nhưng quyền hành thực tế lại thuộc về Shogun của Mạc phủ. Phe bảo hoàng tôn quân lấy điều đó làm bất bình nên khơi ra phong trào lật đổ Mạc Phủ, trao lại quyền bính cho triều đình Thiên hoàng. 2. Tình hình ngoài nước: Từ cuối thế kỉ XVIII, những cuộc cách mạng tư sản liên tiếp bùng nổ ở Châu Âu, Bắc Mỹ và cùng với nó là những làn sóng của cuộc cách mạng công nghiệp lan rộng làm ảnh hưởng sâu sắc tới kinh tế- xã hội của các quốc gia này. Anh, Pháp, Mỹ tranh thủ thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp đã trở thành cường quốc thay thế các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan. Trong lúc Nhật Bản và các nước phương Đông thực thi chính sách “ đóng cửa” thì các nước phương Tây lại có nhu cầu mở rộng thị trường ra bên ngoài để tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm nguồn nguyên liệu và đất đai thuộc địa nên đã khiến các cường quốc này có âm mưu hướng tham vọng sang các nước Châu Á. GIAI ĐOẠN 2: 1869-1877 1/ Thành lập chính phủ Minh Trị * Bối cảnh hình thành: - 3/1/1868, tướng quân Tokugawa Yoshinobu trao lại toàn bộ quyền hành cho Thiên Hoàng. - 11/4/1868, Mạc phủ ra lệnh mở thành Edo đầu hành quân triều đình => Tokugawa hoàn toàn bị đánh bại, Edo chấm dứt vai trò là trung tâm quyền lực nhà nước do dòng họ Tokugawa dựng từ đầu thế kỉ XVII. - 1 số han vùng Đông Bắc vẫn chưa chịu khuất phục nên kiên trì chống cự đến tháng 5/1869 mới chịu đầu hàng. Từ lúc này, chính phủ mới mới có thể thực thi quyền chi phối trên cả nước. * Thực trạng: - Mutsuhito lên ngôi năm 1867 khi tròn 15 tuổi. Dù là người thông minh, tài giỏi nhưng ông vẫn còn quá trẻ. - Quyền hành thực tế nằm trong tay nhóm võ sĩ lớp dưới thuộc các han phía Tây. 1868, hầu hết lãnh đạo chủ chốt của chính quyền mới không ai quá 40 tuổi và đều là xuất thân võ sĩ lớp dưới. + Ưu điểm: Qua huấn luyện quân sự, họ trở thành con người của hành động và tri thức họ tiếp thu được chủ yếu là Nho học- nhấn mạnh sự hiến thân và trung thành với đất nước. Ham học hỏi kiến thức, văn minh phương Tây như Anh, Mỹ thông qua việc đến các nước đó học tập. + Khuyết điểm: chỉ hoàn thành công việc trong han của mình, chưa bao giờ cùnh thực hiện chung một đường lối nào cả. * Mục tiêu của chính quyền Minh Trị: - Trong 2 năm đầu tiên, chính quyền Minh Trị vẫn loay hoay tìm cơ cấu chính trị mới. Vẫn phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp và cấp bách song do mới lên cầm quyền nên vẫn chưa triển khai chính sách thực tiễn nào một cách đáng tin, đưa ra nhiều quyết định mâu thuẫn khiến dân chúng phàn nàn về sự không nhất quán của họ. - Hai mục tiêu được đề ra ngay từ đầu là : Độc lập quốc gia - Phấn đấu từng bước tiến lên bình đẳng với các nước phương Tây. Con đường để đạt được hai mục tiêu đó là Phú quốc cường binh. 2/ Chính sách: * Chính quyền trung ương: + Hình thành: - Tháng 3/1868, hội nghị tư vấn gồm đại diện các han được triệu tập chuẩn bị cho bản tuyên bố Năm lời thề. => Năm lời thề này chính là đường lối của chính phủ mới. * Chính quyền địa phương: - 1868, áp dụng chế độ phủ fu, phiên han, huyện ken. - Các han vẫn thuộc quyền cai trị của daimyo trước đây. - Tuy nhiên 1869 tình hình Nhật Bản bắt đầu thay đổi, chính quyền mới do thấy được sức mạnh của chính phủ trung ương cũ đã thấm vào các han nên mới chuẩn bị cho việc đưa quyền lực của mình vào thay thế quyền lực cũ. => Ý nghĩa: Cải cách phế phiên trí huyện có ý nghĩa to lớn. Khẳng định quyền lực của chính quyền mới trên quy mô toàn quốc ; tạo tiền đề căn bản và rất quan trọng cho chính phủ thực thi những cải cách khác. 3/ Những cải cách : Cải cách kinh tế: Cải cách công nghiệp-tài chính: -Trước tiên là củng cố về mặt quân sự: công nghiệp quân sự là cơ sở sản xuất vũ khí hiện đại, nhiều thiết bị tối tân và thu hút một lượng lớn các nhân tài về khoa học kĩ thuật ở Nhật. Cũng là cơ sở chủ yếu cho ngành chế tạo máy móc, đóng tàu hiện đại phục vụ cho dân sự. -Tiến hành nhiều biện pháp để chấn hưng sản nghiệp trong nước, bắt đầu mở rộng xuất khẩu bằng cách trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa xuất khẩu. -Chú trọng phát triển công nghiệp tư nhân, cho các xí nghiệp vay vốn, ưu tiên phát triển ngành vận tải đường biển. -Hệ thống giao thông và thông tin liên lạc cũng được mở mang hay xây dựng mới. Ngành bưu chính cũng nhanh chóng được tổ chức để đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại. -Tổ chức lại hệ thống tài chính, thiết lập chế độ tiền tệ hiện đại. Cải cách địa tô: -Cải cách địa tô cũng là một trong “tam đại cải cách’ của Minh Trị Duy tân. Việc cho phép mua bán ruộng đất và đóng tô thuế bằng tiền là một bước tiến mới trong hoàn cảnh lịch sử Nhật Bản lúc bấy giờ. Cải cách tô thuế của chính quyền Minh Trị là một phần trong các chính sách phát triển tư bản chủ nghĩa ở Nhật. Thuế đất và địa tô được chuyển hoá thành tiền vốn một cách trực tiếp hay gián tiếp, góp phần giải quyết những khó khăn to lớn về tài chính và là nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cải cách quân đội: Nhằm xây dựng chính quyền nhà nước mạnh mẽ, chính quyền Minh Trị thay vì dựa vào lực lượng quân sự, han đã thành lập một quân đội thống nhất cho quốc gia. Ngoài việc gia tăng sức mạnh quan đội, chính quyền Minh Trị cũng không ngừng nâng cao sức mạnh vũ trang. Hàng năm đều cho mua vũ khí các loại và cho người ra nước ngoài học tập, nghiên cứu để tự sản xuất vũ khí, thuê chuyên gia nước ngoài đóng tàu chiến. Đến năm 1876 Nhật đã có các chuyên gia có thể tự đóng tàu. Cải cách giáo dục, văn hóa: Dưới thời Tokugawa, giáo dục Nhật Bản cũng đã phát triển và có được những thành tựu to lớn. Tỉ lệ người biết đọc và biết viết ở Nhật Bản tương đối cao (43% nam giới và 10% nữ giới biết chữ), mặt bằng dân trí khá cao so với nhiều nước trong khu vực. Tuy nhiên, nền giáo dục thời Tokugawa mang nặng tính “hư học”, ít chú trọng giáo dục “thực học” và chưa phổ cập cho toàn dân. Vấn đề đặt ra: chính quyền Minh Trị làm sao loại bỏ được tính chất của nền giáo dục phong kiến- chế độ giáo dục đặc quyền cho giai cấp phong kiến-võ sĩ. Phải thực hiện giáo dục phổ cập cho tất cả các tầng lớp nhân dân, được nhân dân chú trọng song song với việc nâng cao trình độ cho tầng lớp tri thức. Cải cách xã hội: -Một trong những cải cách quan trọng nhất về mặt xã hội là xóa bỏ chế độ đẳng cấp. Đáng nhắc đến là việc xóa bỏ các đặc quyền phong kiến của các tầng lớp võ sĩ. Nhằm phế bỏ tàn tích của xã hội phong kiến, vào năm 1869, chính quyền Minh Trị đã lập ra 4 tầng lớp mới nhưng không có đặc quyền và ra tuyên bố ‘ tứ dân bình đẳng’. Công cuộc cải cách về xã hội đã tước bỏ rất nhiều đặc quyền đặc lợi của tầng lớp võ sĩ cũ nhưng nó giải phóng thân phận cho hàng chục triệu nhân dân lao động, kể cả tầng lớp trước đây không được coi là con người nên nó có sức giải phóng mạnh mẽ sức lao động cho xã hội, tạo nên động lực to lớn cho công nghiệp hóa và phát triển đất nước. GIAI ĐOẠN 3: 1878-1895: Phong trào tự do dân quyền: Sự ra đời các đảng phái: -Sau khi chính quyền Tokugawa sụp đổ, ban lãnh đạo mới do Thiên Hoàng Minh Trị đứng đầu trên thực tế vẫn là chính quyền chuyên chế. Sự ra đời hiến pháp. * Bối cảnh - Sau cuộc chiến tranh Tây Nam tình hình tài chính của chính phủ hết sức khó khăn. Chính phủ in thêm tiền khiến lạm phát xuất hiện. - Để đối phó, chính phủ công bố luật An ninh cấm phong trào tự do dân quyền và đàn áp các phong trào chống đối, chia rẽ các đảng phái. * Nội dung hiến pháp - Bản Hiến pháp công bố ngày 11/2/1889 với tên gọi chính thức Đại Nhật Bản đế quốc hiến pháp. Người thống trị quốc gia là Thiên hoàng. Là người bất khả xâm phạm. Quyền lực của Thiên hoàng là tuyệt đối, đứng đầu quân đội có quyền tuyên chiến, giảng hoà, ký hiệp ước hoặc từ chối các dự luật mà Quốc hội đưa ra. Quốc hội gồm 2 viện: Shugiin Hạ viện được thần dân bầu nên; Kizokuin Thượng viện do Thiên hoàng chỉ định trong các hoàng tộc. - Trong thời gian này một số bộ luật khác cũng được công bố như luật dân sự, luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự,... -> Bản Hiến pháp 1889 vừa mang yếu tố hiến pháp tư bản, hiện đại vừa giữ những yếu tố truyền thống. Đồng thời cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của hiến pháp nước Phổ. => Ý nghĩa: Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng đây là bản Hiến pháp đầu tiên của châu Á, tồn tại cho đến năm 1947 như là nền tảng của các đạo luật, đặt cơ sở pháp lí cho việc xây dựng chế độ quân chủ lập hiến ở Nhật, một thành tựu của Minh Trị Duy Tân. Nhưng chưa thể nói việc công bố Hiến pháp, thành lập Nghi viện là nước Nhật đã có một nền dân chủ thực sự. KẾT QUẢ , Ý NGHĨA VÀ TÍNH CHẤT CỦA CUỘC DUY TÂN MINH TRỊ: Kết quả: Minh Trị Duy Tân đã giải quyết được 2 mâu thuẫn cơ bản ở giữa TK XIX của Nhật: mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc. - Tiêu diệt chế độ phong kiến tiến lên chủ nghĩa tư bản “phú quốc cường binh”. - Đã xóa bỏ được nguy cơ dân tộc, nguy cơ bị các nước phương Tây thực dân hóa, xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng, hơn nữa còn bành trướng thế lực sang nước Châu Á, xác lập vị trí bá chủ ở Châu Á và vị thế cường quốc trên phạm vi thế giới. Ý nghĩa: a) Ý nghĩa trong nước: Công cuộc Duy Tân nửa sau thế kỉ XIX là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để và thời kì Minh Trị là thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản. Công cuộc Duy Tân nửa sau TK XIX cũng mở đường cho việc biến nước Nhật Bản phong kiến thành một nước tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi số phận một nước thuộc địa hay nửa thuộc địa. Cuộc cách mạng Minh Trị đã dẫn đến quá trình công nghiệp hóa của Nhật Bản đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh mẽ trong 30 năm cuối của thế kỷ XIX đưa nước này trở thành một nước phú quốc cường binh. Về văn hóa-xã hội: Nhật đã xây dựng một xã hội văn minh, “tứ dân bình đẳng”, nền giáo dục “thực học”, giáo dục tinh thần, “độc lập tự tôn”. b) Ý nghĩa quốc tế: - Minh Trị Duy Tân đã tác động nhiều mặt đến phong trào cải cách và cách mạng của các nước châu Á.