You are on page 1of 4

Chương 2

Câu 1: vì sao nói cách mạng tháng tám năm 1945, chính quyền cách mạng việt
nam rơi vào thế “ngàn cân treo sơi tóc”
- Mục I phần 1 a) b) trang 32 33 34
Câu 3: Tại sao Đại hội III của Đảng (9-1960) được xem là đại hội hoàn chỉnh
đường lối chiến lược cách mạng hai miền Nam – bắc ?
- Mục II phần 1 b) trang 45 46 47
Câu 4: Tại sao nói Tổng tiến công và nổi dậy Tết mậu thân năm 1968 là một chủ
trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thắng vào ý chính xâm lược của giới
cầm quyền Mỹ?
- Mục II phần 2 b) trang 48 49 50
Câu 5: Hãy chứng minh Hiệp định Parí ( 27-1-1973) là kết quả của quá trình “
vừa đánh, vừa đàm” vừa là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
đi đến thắng lợi hoàn toàn
- Mục II phần 2 c) trang 50 51 52

* Hiệp định Paris (27-1-1973) là một văn kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu bước
ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Hiệp định này là kết quả của quá trình “vừa đánh, vừa đàm” kiên cường, bền bỉ của
quân và dân ta, đồng thời là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi
đến thắng lợi hoàn toàn.

* Hiệp định Paris là kết quả của quá trình “vừa đánh, vừa đàm”

- Từ cuối năm 1968, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra
chủ trương “vừa đánh, vừa đàm”. Chủ trương này được thực hiện trên cơ sở
đánh giá đúng tình hình thế giới và khu vực, cũng như cục diện chiến tranh ở
Việt Nam. Theo đó, quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, thực
hiện chiến lược “tìm diệt”, “đánh phá”, nhằm tiêu hao, tiêu diệt lực lượng địch,
buộc chúng phải xuống thang chiến tranh. Đồng thời, ta tiếp tục mở rộng mặt
trận ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, tạo áp lực buộc Mỹ
phải đàm phán.
- Chủ trương “vừa đánh, vừa đàm” đã được thực hiện một cách sáng tạo, linh
hoạt, phù hợp với từng giai đoạn của cuộc kháng chiến. Trong đó, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 là một thắng lợi lớn, đánh trúng
vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải ngồi vào bàn đàm
phán.
- Tại Hội nghị Paris, đoàn đàm phán của ta đã kiên trì đấu tranh, bảo vệ vững
chắc các nguyên tắc cơ bản của cuộc kháng chiến, giành được nhiều thắng lợi
quan trọng, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris. Hiệp định Paris đã ghi nhận
những thắng lợi của quân và dân ta trên cả ba mặt trận, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân ta tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước.

* Hiệp định Paris là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng
lợi hoàn toàn

* Hiệp định Paris đã chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo điều kiện
cho nhân dân ta tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiệp
định này đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Cụ thể, Hiệp định Paris đã:

- Loại bỏ lực lượng quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt sự can
thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam. Điều này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho quân và dân ta tập trung lực lượng, đánh bại quân ngụy Sài
Gòn.
- Cam kết tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân Việt Nam, tạo điều kiện
cho nhân dân ta thực hiện quyền tự quyết của mình. Điều này đã cổ vũ tinh
thần yêu nước, đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam.
- Tạo ra dư luận quốc tế ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta, làm
suy yếu thế lực của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn.

Với những thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt
Nam đã lập nên một kỳ tích lịch sử, làm rạng rỡ truyền thống yêu nước, bất khuất của
dân tộc. Hiệp định Paris là một trong những dấu mốc quan trọng, góp phần quyết định
vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Chương 3
Câu 1: Quá trình tìm tòi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam thời kì trước đổi mới toàn diện đất nước ( 1975 - 1986)
- Mục I phần 1 b) trang 56 57 58
- Mục II phần 1 a)
Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ trước đổi mới toàn diện đất nước (1975-1986) là một quá trình lâu dài,
đầy khó khăn và thử thách. Trong quá trình này, Đảng ta đã trải qua nhiều bước đi, từ
những thử nghiệm ban đầu ở một số địa phương, đến việc ban hành các chính sách,
nghị quyết mang tính đột phá, tạo tiền đề cho Đại hội VI (1986) thông qua đường lối
đổi mới toàn diện đất nước.

Những bước đi ban đầu

Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Nam, trong đó có việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh
tế tư bản tư doanh. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, do một số nguyên nhân chủ
quan và khách quan, nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.

Để khắc phục tình trạng này, Đảng ta đã tiến hành một số thử nghiệm, bước đầu đổi
mới tư duy kinh tế. Một số địa phương đã chủ động thực hiện các biện pháp tháo gỡ
khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Trong đó, nổi bật là các mô hình “cải tạo
khoán gọn”, “ khoán sản phẩm cuối cùng”, “ khoán sản phẩm theo giá cả”. Những mô
hình này đã mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản
phẩm, cải thiện đời sống nhân dân.

Những chính sách, nghị quyết mang tính đột phá

Từ năm 1980, Đảng ta đã ban hành một số chính sách, nghị quyết mang tính đột phá,
mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế. Trong đó, có thể kể đến:

 Nghị quyết 16 (khoá IV) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của kế hoạch
Nhà nước 5 năm (1981-1985), trong đó nhấn mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển
sản xuất, kinh doanh.
 Nghị quyết 21 (khoá IV) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, trong đó xác định
các nguyên tắc cơ bản của cơ chế quản lý kinh tế mới, như: hạch toán kinh tế,
tự do trao đổi hàng hóa, dịch vụ, cạnh tranh lành mạnh,...
Những chính sách, nghị quyết này đã tạo cơ sở pháp lý cho quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam.

Kết quả của quá trình tìm tòi, khảo nghiệm

Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ trước đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được một số kết quả quan trọng,
như:

 Đã có những bước đi đầu tiên trong đổi mới tư duy kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh.
 Đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho Đại hội VI (1986) thông qua đường lối
đổi mới toàn diện đất nước.

Tuy nhiên, quá trình này cũng còn nhiều hạn chế, như:

 Các chính sách, nghị quyết còn mang tính thử nghiệm, chưa đồng bộ, thiếu tính
khả thi.
 Việc thực hiện các chính sách, nghị quyết còn chậm, chưa được triển khai đồng
đều ở các địa phương.

Những hạn chế này đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn tiếp tục
diễn ra, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới, tìm ra những giải pháp phù hợp, mang
tính đột phá để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.

You might also like