Professional Documents
Culture Documents
Phap Luat Va Phong Tuc Tap Quan
Phap Luat Va Phong Tuc Tap Quan
- Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, do nhà nước
ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, được
bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, là công cụ có hiệu lực nhất
để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản theo ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị.
• Ví dụ: Hiến pháp 1992 của nhà nước ta quy định các nguyên tắc cơ bản như
tôn trọng quyền con người (điều 50), quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ
của công dân (điều 51), mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (điều 92)…
- Phong tục tập quán là những thói quen trong ứng xử của cộng đồng hay những
quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư,
được lưu truyền chủ yếu theo phương thức truyền miệng, được bảo đảm thực hiện bằng
thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả biện pháp
cưỡng chế phi nhà nước.
• Ví dụ: Theo phong tục tập quán cưới xin của người Việt, trình tự cưới xin đa
số được tiến hành theo các bước: Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ xin dâu và lễ cưới.
2.1. Sự giống nhau giữa pháp luật và phong tục tập quán.
- Cả phong tục tập quán và pháp luật đều là những quy tắc xử sự chung có tính
khuôn mẫu chuẩn mực để hướng dẫn mọi hành vi xử sự, là tiêu chuẩn để xác định giới
hạn, đánh giá hành vi con người. Chúng cùng thực hiện vai trò duy trì một trật tự cần
thiết cho sự phát triển xã hội, điều chỉnh và điều hoà các quan hệ xã hội. Như vậy,
phong tục tập quán ở một phạm vi nhất định cũng có vai trò quan trọng như pháp luật.
- Không chỉ vậy, chúng đều có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với các cá nhân,
tổ chức khi cá nhân, tổ chức đó ở vào những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà các
quy phạm đó đã dự liệu từ trước.
- Ngoài ra, giữa phong tục tập quán và pháp luật còn điểm chung là đều được đảm
bảo thực hiện bằng những biện pháp nhất định như dư luận xã hội, giáo dục cộng đồng
hoặc cưỡng chế.
- Cuối cùng, chúng đều có tính quy phạm, tính xã hội, tính ý chí và đều có sự thay
đổi theo điều kiện và tình hình phát triển của xã hội.
2.2. Sự khác nhau giữa pháp luật và phong tục tập quán.
Thứ nhất, về quá trình hình thành và phát triển:
- Phong tục tập quán hình thành trước khi có pháp luật, chúng được coi như ”luật
dân gian” hay “luật tự nhiên” và chúng tồn tại trong tất cả mọi giai đoạn, mọi tiến trình
phát triển của xã hội. Sự phát triển của phong tục tập quán gắn liền với sự phát triển của
đời sống xã hội, xã hội thay đổi thì phong tục tập quán cũng theo đó mà thay đổi theo.
- Trong khi đó, có rất nhiều quan niệm về việc hình thành pháp luật, ở đây ta chỉ
xét đến thời điểm từ sau khi xã hội đã có sự phân chia giai cấp – khi xuất hiện chế độ
chiếm hữu nô lệ thì pháp luật mới ra đời, còn trước đó – xã hội công xã thị tộc chưa có
pháp luật.
Thứ hai, về chủ thể ban hành và tính bắt buộc chung (tính quy phạm
phổ biến):
- Phong tục tập quán là do một nhóm người, một cộng đồng dân cư, một dân tộc
đặt ra để điều chỉnh hành vi trong nội bộ nhóm người, trong cộng đồng dân cư hay dân
tộc đó. Do đó, tính quy phạm của phong tục tập quán hẹp hơn pháp luật về không gian
và đối tượng tác động.
- Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nghĩa là nó chỉ được hình thành
bằng con đường nhà nước. Ngoài ra nhà nước còn thừa nhận một số quy phạm phong
tục tập quán đã tồn tại từ trước nhưng có lợi cho mình và nâng lên thành pháp luật.
Pháp luật có vai trò điều chỉnh hành vi của tất cả các thành viên trong xã hội, không
loại trừ ai. Tính bắt buộc chung của pháp luật thể hiện ở chỗ: Bất cứ ai, cơ quan tổ chức
nào, nếu ở những điều kiện, hoàn cảnh mà pháp luật dự liệu từ trước thì: hoặc đều được
làm những gì mà pháp luật cho phép, hoặc đều không được làm những gì mà pháp luật
ngăn cấm, hoặc đều phải làm những gì mà pháp luật yêu cầu phải làm; nếu họ vi phạm
pháp luật thì đều phải chịu trách nhiệm pháp lí như nhau.
Thứ tư: Về tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức:
- Phong tục tập quán mang tính cục bộ, địa phương, mỗi cộng đồng dân cư có
những phong tục tập quán khác nhau. Hình thức lưu trữ chủ yếu là truyền miệng, tồn tại
dưới hình thức bất thành văn nên có tính ước lệ, độ chính xác không cao, không có hệ
thống rõ ràng dẫn đến việc áp dụng nhiều khi không thống nhất, dễ tùy tiện.
- Trái lại, pháp luật về nguyên tắc pháp luật phải cụ thể, khuôn phép, mực thước,
không thể lạm dụng hoặc tùy tiện. Vì vậy nói đến pháp luật suy cho cùng là phải xét
đến các quy phạm cụ thể tồn tại dưới hình thức các văn bản cụ thể (các điều luật, chế
định luật, các văn bản quy phạm pháp luật với kết cấu chặt chẽ, logic trong lời văn, cấu
trúc…). Đặc trưng về tính quy phạm này của pháp luật làm cho pháp luật ngày càng có
"tính trội", nói cách khác pháp luật mang tính hệ thống và tính chính xác cao.
Tuy nhiên, những điểm khác nhau trên chỉ mang tính chất tương đối, trong
một số trường hợp vẫn có sự sai khác. Chẳng hạn, phạm vi tác động, ảnh hưởng của
pháp luật đôi khi chưa hẳn đã bằng với phong tục tập quán (như phong tục tín ngưỡng,
thần linh); hoặc không chỉ pháp luật mới có hình thức biểu hiện chặt chẽ, logic mà
phong tục tập quán cũng có tính này (như những văn bản truyền đạo) v.v…
Quan hệ giữa phong tục tập quán với pháp luật thể hiện trên hai phương diện: Xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật.
b. Tác động của phong tục tập quán tới pháp luật.
- Phong tục tập quán tác động đến việc hình thành các quy định của pháp luật. Một
số phong tục tập quán có thể được áp dụng để giải quyết vụ việc. Có thể nói rằng, các
quy phạm pháp luật là kết quả của sự “chọn lọc” trong xã hội. Vì vậy phong tục tập
quán được coi là nguồn luật quan trọng đối với một số hình thức nhà nước ở các giai
đoạn lịch sử khác nhau.
- Phong tục tập quán tác động đến quá trình thực hiện pháp luật của các chủ thể,
biểu hiện dưới hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: Với những phong tục tập quán mang bản sắc truyền
thống dân tộc, phù hợp với pháp luật thì nó có thể tác dụng làm cho những quy
định của pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống và được mọi người tự giác thực hiện.
Khuynh hướng thứ hai: Bên cạnh sự tác động tích cực, phong tục tập quán
cũng có những hạn chế, ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện pháp luật. Pháp
luật luôn mang tính thống nhất, trong khi mức độ phát triển của từng địa phương
không đồng đều. Do đó, không phải lúc nào pháp luật cũng có hiệu lực như nhau ở
các địa phương khác nhau.
Ví dụ: Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp
pháp luật không quy định và các bên không thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán,
…Tập quán…không được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật này”,
hoặc Điều 6 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “trong quan hệ hôn nhân và gia
đình, những phong tục tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với
những nguyên tắc quy định của Luật này thì được tôn trọng và phát huy”.
KẾT LUẬN
Tóm lại, phong tục tập quán và pháp luật là hai hình thức giữ vai trò công cụ quan
trọng, không thể thiếu trong việc điều chỉnh những hành vi ứng xử, đạo đức của con
người. Một dân tộc với những tinh hoa của phong tục tập quán và những giá trị
nghiêm minh của pháp luật song song tồn tại sẽ là động lực thúc đẩy quá trình hội
nhập với nền văn minh tiên tiến của nhân loại mà Việt Nam là một điển hình tiêu biểu.