You are on page 1of 13

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHÂN VIỆN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Khoa: Nhà nước và pháp luật

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC THEO
HIẾN PHÁP 2013. TRÌNH BÀY NHẬN ĐỊNH VỀ THỰC
TRẠNG CỦA GIÁO DỤC HIỆN NAY

Người thực hiện: Lâm Xà Thia


MSSV: 2305TTRC055
Lớp: 2305TTRC
Giảng viên phụ trách: Đặng Thị Mai Dung
Môn: Luật hiến pháp Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh – 2023


Lời giới thiệu
Tiểu luận này em xin được trình bày với hai nội dung chính là Chính sách giáo
dục theo Hiếp pháp năm 2013 và nhận định về chính sách giáo dục Việt
Nam hiện nay.

Giáo dục luôn là một vấn đề rất quan trọng, cần thiết của mỗi quốc gia. Nó đóng
góp chính vào quá trình xây dựng và sự phát triển bền vững về mọi mặt của đất
nước. Giáo dục quyết định cho bản tính của con người trong tương lai. “Giáo
dục là quốc sách hàng đầu” là khẩu hiệu thường thấy ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Nước Việt Nam ta cũng không ngoại lệ, Giáo dục đang là mối quan
tâm lớn của toàn xã hội. Chúng ta đang nỗ lực để xấy dựng và thực hiện chương
trình cải cách giáo dục, nhằm đáp ứng đòi hỏi về nhân lực của xã hội hiện đại
ngày nay. Song song với sự phát triển của giáo dục là sự phát triển của giáo dục
học với tư cách là một môn khoa học về giáo dục người.

Từ đó có thể thấy rằng “Giáo dục” là đề tài cần được quan tâm trong xã hội
ngày nay. Và sau đây với sự cố gắng trong quá trình tìm hiểu của em, Tiểu luận
này em giới thiệu, đưa ra ý kiến và trao đổi về nội dung “Giáo Dục”.
Mục lục
I. Phân tích chính sách giáo theo Hiến pháp năm 2023.....................................04
1. Khái niệm giáo dục và chính sách giáo dục..............................................04
1.1. Khái niệm giáo duc........................................................................04
1.2. Khái niệm chính sách giáo dục......................................................04
2. Thực trạng................................................................................................04
2.1. Thực trạng giáo dục và những đề xuất ở vùng dân tộc thiểu
số....................................................................................................04
2.2. Một số khó khăn trong việc thực hiện chính sách pháp luật giáo
dục mầm
non.........................................................................................05
2.3. Thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ giáo dục...........................06
3. Chính sách giáo dục theo Hiến pháp năm
2013........................................07
II. Trình bày nhận định về thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện
nay........................................ ..............................................................................11
1. Ưu điểm.....................................................................................................11
2. Nhược điểm...............................................................................................12
3. Phương hướng...........................................................................................13
4. Kết luận.....................................................................................................13
I. Phân tích chính sách giáo dục theo Hiến pháp năm 2013.
1.Khái niệm giáo dục và chính sách giáo dục.
1.1 Khái niệm giáo dục?
Giáo dục là quá trình hoạt động nhằm tác động một hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của con người nhằm tạo ra những phẩm chất và năng lực
cần thiết của con người phù hợp với yêu cầu của xã hội. Giáo dục là quá trình
dạy, rèn luyện và học tập nhằm nâng cao tri thức khoa học và kỹ thuật nghề
nghiệp.
1.2 Khái niệm chính sách giáo dục?
Chính sách giáo dục là những định hướng, những nguyên tắc cơ bản trong
việc xác định mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, nội dung, phương pháp giáo dục
và tổ chức hệ thống giáo dục, đào tạo.
2. Thực trạng
2.1. Thực trạng giáo dục và những đề xuất ở vùng dân tộc thiểu số.

Đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) rất ít người thường sinh sống ở vùng cao,
biên giới, sống ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Do độ dốc lớn, giao thông
đi lại không thuận tiện nên hầu hết các thôn đều bị cô lập với khu vực xung
quanh vào mùa mưa; thiếu điện, nước sinh hoạt; cơ sở vật chất, trang thiết bị y
tế chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân.

Trong những năm gần đây, đảng và nhà nước đã có nhiều quyết sách coi
trọng phát triển số lượng giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số
làm mục tiêu tạo điều kiện và nâng cao chất lượng. Án Lệnh. Trong đó, Nghị
quyết số 2123/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu
số 2010-2015; Nghị định số 57/2017/QĐ-TTg ngày 09 tháng 5 năm 2017 của
Chính phủ về chính sách ưu tiên đối với trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu
số (thuộc 10.000) hỗ trợ tuyển sinh và học tập. Các chính sách trên được triển
khai, cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư cho các thôn, bản có học sinh dân
tộc thiểu số; chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong các
cơ sở giáo dục cho học sinh dân tộc thiểu số được nâng cao.

Tuy nhiên, ở một số nơi vẫn còn thiểu số học sinh bỏ học, nguyên nhân là do
một số người dân hiểu biết về việc học của con em mình còn hạn chế, chưa
quan tâm tạo điều kiện thuận lợi. Cho trẻ đọc, đi học. Các bản đồng bào dân tộc
thiểu số ở cách xa xã, trung tâm huyện, một số học sinh sau khi tốt nghiệp tiểu
học, THCS do không vượt qua được khó khăn phải bỏ nhà đi học. Điều kiện
kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, đa số là hộ nghèo,
cận nghèo, học sinh cấp 2 người dân tộc thiểu số là lao động chính trong gia
đình, phải đi làm phụ giúp gia đình.

Để tiếp tục phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhà nước cần
có chính sách hỗ trợ các nhóm dân tộc thiểu số khan hiếm nhân lực (gồm 16 dân
tộc thiểu số có số dân dưới 10.000 người) và một số nhóm dân tộc thiểu số.
Nhóm: Kháng, Gia Rai, Ba Na, Mông, Thái, Khmer, Raglai, Xtiêng, Khơ Mú,
Co, Giẻ Triêng) Có học viên thạc sĩ, tiến sĩ được ưu tiên tuyển dụng công chức,
viên chức. Vùng dân tộc thiểu số cần tăng cường công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức về phát triển giáo dục dân tộc thiểu số; quan tâm đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học phù hợp với điều kiện của địa phương; thường xuyên
giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với trẻ em, học sinh tiểu học và
học sinh; xây dựng kế hoạch, việc thực hiện chính sách ưu tiên tuyển sinh đảm
bảo việc làm sau khi tốt nghiệp.

2.2. Một số khó khăn trong việc thực hiện chính sách pháp luật giáo dục
mầm non.
Nhiều năm qua, tỉnh Lào Cai đã ban hành đề án giai đoạn 2020-2025 đổi
mới, phát triển và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục - nhân lực - khoa học
và công nghệ. Đầu năm 2021, HĐND tỉnh đã ban hành một số nghị quyết quy
định cụ thể cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó có
chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non. Sở giáo dục và đào tạo các nơi
tích cực tuyên truyền các chủ trương, quy định bằng nhiều hình thức, nâng cao
nhận thức cho cha mẹ học sinh và nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong chấp
hành pháp luật.

Qua giám sát của Ban Văn hóa - Xã hội HĐND tỉnh cho thấy: mạng lưới
trường mầm non, phổ thông trên địa bàn tỉnh đã được quy hoạch, mở rộng, đa
dạng đáp ứng nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ em; Năm học 2021-
2022, trên địa bàn tỉnh có 197 trường mầm non (trong đó có 15 trường tư thục
và 03 trường mầm non - liên cấp), với tổng số 842 điểm trường. Tổng số 2331
lớp, tổng số 57801 trẻ, trong đó trẻ 4 tuổi đạt 97%, trẻ 5 tuổi đạt 99,8%. Cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi… phục vụ các hoạt động nuôi dưỡng,
chăm sóc trẻ và hoạt động giáo dục được quan tâm đầu tư. Trước diễn biến của
dịch Covid-19, các cơ sở giáo dục đã điều chỉnh việc thực hiện kế hoạch theo
tình hình thực tế để đảm bảo an toàn về thể chất và tinh thần cho trẻ.

2.3. Thực trạng triển khai chính sách hỗ trợ giáo dục.
-Theo báo cáo, từ đầu năm 2020 đến nay, dịch bệnh COVID-19 đã có nhiều
tác động tiêu cực đến ngành giáo dục. Trẻ mẫu giáo, học sinh và sinh viên phải
nghỉ học hàng tháng trời. Nhiều giáo viên, trẻ em và học sinh đã bị nhiễm
COVID-19. Nhiều nhiệm vụ quan trọng của ngành không đạt kế hoạch.
Việc dạy và học, xây dựng đội ngũ, tài chính và đảm bảo chất lượng giáo dục,
tâm lý của giáo viên, trẻ mầm non, học sinh, sinh viên và cha mẹ học sinh đều
bị ảnh hưởng rất lớn.

- Việc giáo dục mầm non bị gián đoạn trong thời gian dài đã ảnh hưởng lớn đến
lịch trình, thói quen và nề nếp của khoảng 4 triệu trẻ em, đặc biệt là ở các khu
đô thị và khu công nghiệp. Đối với trẻ 5 tuổi, việc chuẩn bị kiến thức, kỹ năng
cần thiết để vào lớp 1 trong chương trình giáo dục mầm non 5 tuổi còn hạn chế
khiến trẻ gặp khó khăn khi tiếp thu chương trình lớp 1 cấp tiểu học.

 Thay đổi hình thức giảng dạy dẫn đến nhầm lẫn và lúng túng

-Đại dịch đang ảnh hưởng lớn đến giới trẻ, đặc biệt là những lao động trẻ bị
cho thôi việc, bị đình chỉ công tác hoặc cho nghỉ không lương... nhưng không
đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, không có việc làm và hợp đồng lao
động. Dịch bệnh đã ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ và cuộc sống của giới trẻ,
đặc biệt là trường học và công việc bị ảnh hưởng trực tiếp.

 COVID-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm trí và nhận thức của giới trẻ

-Từ đó Nhà nước đã thực hiện có những chính sách hỗ trợ ví dụ như:

+ Tặng quà đối với con em thương – bệnh binh, liệt sĩ nhân ngày 22/12. Miễn,
giảm học phí cho con em gia đình khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt. Tặng quà hỗ
trợ nhân dịp tết nguyên đán.

+ Trao học bổng cho những học sinh, sinh viên có thành tích học tập xuất sắc,
tuyển thẳng đối với sinh viên tốt nghiệp thủ khoa của đại học.

3.Chính sách giáo dục theo Hiến Pháp năm 2013

* Hiến pháp năm 2013 chú trọng những quy định về giáo dục và đào tạo, khẳng
định: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” (Điều 39); “Phát triển giáo dục
là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút nguồn đầu tư khác cho giáo
dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà
nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo
dục đại học, giáo dục chuyên nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí
hợp lý. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục vùng miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu
tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người
nghèo được học văn hóa và học nghề” (Điều 61). Việc Hiến pháp năm 2013 tiếp
tục nhấn mạnh học tập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công dân đã khẳng
định vai trò to lớn của giáo dục trong đời sống xã hội, trong đó mọi công dân
không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa
vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế có quyền được đi học, đều bình đẳng về cơ hội học
tập. Nhà nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai
cũng được học hành.
- Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định đường lối “phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” (khoản 1 Điều 61); “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các
nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo tiểu
học là bắt buộc, nhà nước không thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung
học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học
bổng, học phí hợp lí” (khoản 2 Điều 61). Chính sách giáo dục thể hiện trong
Hiến pháp năm 2013 cũng là một phần của chính sách xã hội nhất quán của
Đảng và Nhà nước ta từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa đến
nay, vì vậy Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992
và tiếp tục xác định: “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo,
vùng đồng bằng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài, tạo điều kiện để người khuyết tật
và người nghèo được học văn hóa và học nghề” (khoản 3 Điều 61).

+ Khoản 1 của Điều 61: "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Học tập là quyền và
nghĩa vụ của công dân. Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín
ngưỡng, giới tính, đặc điểm cá nhân, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn
cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm
lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không
thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.

+ Khoản 2 của Điều 61 nêu lên nhiệm vụ phát triển các bậc học trong hệ thống
phát triển quốc dân và điều kiện triển khai. Hiến pháp khẳng định là trong giai
đoạn phát triển cách mạng sắp tới, các bậc học từ mầm non, giáo dục nghề
nghiệp, cho tới giáo dục đại học đều được quan tâm thích đáng và phát triển
theo yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khoản này nêu
rõ giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc và trung học là bậc học phổ cập giáo
dục. Ngày nay, thực hiện Nghị quyết T.Ư 8 khóa XI, đồng thời triển khai Hiến
pháp sửa đổi phải thấm nhuần và quán triệt tư tưởng chỉ đạo này: tổ chức phân
luồng sau lớp chín và trong các năm học THPT và sau THPT.Tránh tình trạng
tất cả đều đổ xô vào đại học, không phục vụ theo đúng yêu cầu của cơ cấu
nguồn nhân lực ở địa phương và cả nước. Khoản 2 Điều 61 Hiến pháp sửa đổi
lần này chưa quy định phổ cập giáo dục mầm non, mà chỉ xác định: "Chăm lo
giáo dục mầm non", vì vậy các cấp có thẩm quyền cần xem lại chính sách giáo
dục mầm non cho phù hợp.
Chúng ta cần phải triển khai phát triển giáo dục ĐH, nghề nghiệp cho phù
hợp với tình hình. Phải chấn chỉnh những lệch lạc trong nhận thức, chính sách
và triển khai việc phát triển hệ thống các trường đại học, cao đẳng thì mới hy
vọng giáo dục đại học có chất lượng, trước hết đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao, sau đó hãy bàn các chỉ tiêu phấn đấu theo tiêu chuẩn khu vực Đông -
Nam Á và thế giới. Hiện nay, trong tình hình kinh tế khó khăn, Hiến pháp sửa
đổi vẫn quy định nhiệm vụ của Nhà nước đối với việc đầu tư cho giáo dục như
là đầu tư cho phát triển, là hết sức có ý nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân và ngành
giáo dục đều trông đợi mong mỏi nội dung này của Hiến pháp sửa đổi mau
chóng được triển khai.
+ Khoản 3 của Điều 61 nêu lên quan điểm, phát triển giáo dục theo vùng miền.
Do điều kiện lịch sử, bảy vùng miền ở nước ta hiện nay chưa phát triển đồng
đều, có nơi nhiều thuận lợi, có nơi nhiều khó khăn. Đường lối chủ trương của
Đảng, Nhà nước ta là làm cho tất cả các vùng miền đều phát triển. Các vùng
Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ nói riêng và ngành giáo dục nói
chung rất hoan nghênh đường lối ưu tiên các vùng khó khăn. Chúng tôi mong
rằng, trong những năm tới, nước ta sẽ là nước công nghiệp, hiện đại, văn minh.
Các trường học ở các vùng kém phát triển cũng được quan tâm như các vùng
thuận lợi.
Làm sao trường lớp ở những vùng này hết cảnh tranh, tre nứa lá, đều được
kiên cố hóa theo chương trình Chính phủ đề ra từ năm 2004. Các em học sinh
khó khăn đều được cung cấp sách giáo khoa; các thầy cô giáo công tác ở các
vùng này cũng được tạo thêm điều kiện để thật sự an tâm cống hiến. Trong
khoản 3 Điều 61 nêu bật quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với những trẻ
em khuyết tật và trẻ em nghèo khó. Để thực hiện khẩu hiệu công bằng xã hội,
trước hết Đảng và Nhà nước nên có những chính sách cụ thể để thực hiện khoản
3 Điều 61. Giúp các em khuyết tật và nghèo khó được học hành, ít nhất đến hết
PTCS và có một nghề bảo đảm cuộc sống.
=> Ba khoản cụ thể trong Điều 61, một lần nữa khẳng định triển vọng tốt đẹp
của nền giáo dục nước nhà do toàn Đảng, toàn dân với nòng cốt đội ngũ nhà
giáo và quản lý giáo dục, ra sức thực hiện, biến những điều của Hiến pháp sửa
đổi về giáo dục thành những chính sách và công việc cụ thể, để giúp cho thế hệ
trẻ có đầy đủ năng lực tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thực hiện sứ
mệnh vẻ vang bảo vệ và xây dựng đất nước giàu mạnh và cường thịnh.
II.Trình bày nhận định về thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

1.Ưu điểm.

Trong thời gian qua giáo dục Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực:
- Hệ thống giáo dục quốc dân được hoàn thiện hơn với các cấp, bậc học,
trình độ đào tạo, các loại hình và phương thức giáo dục. Quy mô giáo dục tăng
nhanh, nhất là ở bậc đại học và đào tạo nghề.
- Công bằng xã hội trong giáo dục được cải thiện, đặc biệt là tăng cơ hội tiếp
cận giáo dục đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các gia đình
nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội giáo dục ở vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa tiếp tục phát triển.
- Các loại hình nhà trường ngày càng được đa dạng hóa, thu hút được nhiều
người học các trường công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong phổ cập giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực, quy mô giáo dục ngoài công lập phát triển.
- Quy mô hệ thống giáo dục năm học 2008-2009:
+ Học sinh: Số trẻ em nhà trẻ và mẫu giáo: 3.305.391 Tiểu học: 6.745.016
Trung học cơ sở: 5.515.123 Trung học phổ thông: 2.951.889 Giáo dục thường
xuyên: 418.319 Trung cấp chuyên nghiệp: 625.770 Cao đẳng: 476.721 Đại học:
1.242.778 (đạt tỉ lệ 195/1 vạn dân).
+ Giáo viên: Mầm non: 183.443 Tiểu học: 345.505 (Tỷ lệ 1,3 giáo viên/lớp)
Trung học cơ sở: 313.536 (Tỷ lệ 2,06 giáo viên/lớp) Trung học phổ thông:
138.737 (Tỷ lệ 2,08 giáo viên/lớp) Trung cấp chuyên nghiệp: 16.214 Cao đẳng:
20.183 Đại học: 41.007.
+ Trường học: Mầm non: 12.190 Tiểu học: 15.051 Phổ thông cơ sở: 674
Trung học cơ sở: 9.902 Trung học: 295 Trung học phổ thông: 2.192 Trung cấp
chuyên nghiệp: 273 Cao đẳng: 223 Đại học: 146.
+ Tính đến tháng 9/2009, có 48/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập tiểu
học đúng độ tuổi (đạt 76,1%) 56/63 tỉnh, thành phố đạt chuẩn cập giáo dục
THCS (đạt 88,9%).
- Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng nhanh (Tổng chi ngân sách
Nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm học 2008-2009 là 91.986 tỉ đồng). Việc
huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục thông qua chủ trương xã
hội hoá đạt hiệu quả khá. Các nguồn lực đầu tư cho giáo dục ngày càng được
kiểm soát và tăng dần hiệu quả sử dụng.
- Việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, chương trình và
giáo trình ở dạy nghề và đại học đang được tích cực thực hiện, phương pháp dạy
học dần từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng phát triển cả về số lượng
và chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giáo dục.
Có được những kết quả trên trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó khăn là
do sự nỗ lực không ngừng của toàn Ðảng, toàn dân ta, sự đóng góp to lớn của
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Những thành tựu nói trên đã khẳng
định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, góp phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước trong hơn 20 năm đổi
mới, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.

2.Nhược điểm.
Bên cạnh những mặt tốt thì vần tồn tại một số mặt chưa tốt:
Giáo dục và đào tạo chưa thật sự là quốc sách hàng đầu. Mặc dù được tăng
đầu tư tài chính nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao công tác tổ chức, cán bộ, chế
độ, chính sách chậm đổi mới. Chất lượng giáo dục còn thấp so với nhu cầu phát
triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, không đồng đều giữa các vùng, miền quan
tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng. Việc thẩm định cho phép
thành lập mới các trường cao đẳng, đại học chưa thật chặt chẽ, dẫn đến chất
lượng đào tạo thấp, nhất là ở các trường ngoài công lập và các trường của địa
phương. Hệ thống giáo dục thiếu đồng bộ, chưa liên thông giữa các cấp học,
ngành học và trình độ đào tạo mất cân đối về cơ cấu đào tạo theo vùng, miền, cơ
cấu trình độ và ngành nghề đào tạo. Việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống
cho học sinh, sinh viên chưa đáp ứng mong muốn của các gia đình và đòi hỏi
của sự phát triển đất nước.
Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới, chưa chú
trọng phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên áp lực
thi cử còn nặng.
Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, cơ chế quản lý giáo dục
chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới của đất nước. Hệ thống luật pháp và
các chính sách về giáo dục chưa hoàn chỉnh. Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý
nhà nước về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã
làm cho công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục còn chồng chéo,
phân tán, thiếu thống nhất.
Những hạn chế nêu trên là do thiếu sự chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của
các cấp quản lý, chậm cụ thể hóa những quan điểm của Ðảng thành cơ chế,
chính sách của Nhà nước thiếu những quyết sách đồng bộ, hợp lý ở tầm vĩ mô.
Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những
khó khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục.
Tâm lý khoa cử, bằng cấp vẫn chi phối nặng nề việc học và thi cử. Chậm đổi
mới cơ chế, chính sách tài chính giáo dục để động viên hợp lý các nguồn lực xã
hội phát triển giáo dục và sử dụng các nguồn lực cho giáo dục hiệu quả cao.

3. Phướng hướng

- Thay đổi phương thức giảng dạy

- Chú trọng việc thực hành, giảm lí thuyết trên lớp học (áp dụng vào thực tiễn)

- Đánh giá kết quả học tập dựa trên năng lực, trong quá trình học tập, kết quả
kiểm tra kiến thức lí thuyết lẫn thực hành.

- Đổi mới cơ sở vật chất, trang bị cơ sở vật chất, công nghệ, thiệt bị điện tử
đến vùng sâu vùng xa
4. Kết luận
Về chính sách giáo dục: Hiến pháp quy định phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm
lo giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không
thu học phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học,
giáo dục nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý; Nhà nước
ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát
triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn
hoá và học nghề (Điều 61).

Mặc dù Nhà nước có những chính sách tích cực đầu tư cho giáo dục, thể hiện
ngay trong những quy đinh trong Hiến pháp, đạo luật cơ bản trong Nhà nước,
nhưng thực tế việc thực hiện những chính sách đó còn nhiều bất cập, hạn chế.
Do đó cần có sự quan tâm hơn nữa trong việc công tác thực hiện những chủ
trương của nhà nước để những chính sách giáo dục thực sự đi vào thực tế, đến
với đời sống của người dân.

HẾT

You might also like