Professional Documents
Culture Documents
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa tư bản
DẪN CHỨNG 1:
Tôi đưa vào nghiên cứu ở Việt Nam cuối thế kỉ XXI - đầu thế kỉ XX về lực lượng sản xuất và
giai cấp công nhân ở Việt Nam.
DẪN CHỨNG 1: Nói về lực lượng sản xuất của Việt Nam lúc bấy giờ phải gắn liền với hai từ:
“Lạc hậu” do sự ảnh hưởng của phong kiến quá nhiều.
Về nông nghiệp: Đảng đã xác định nông nghiệp là lợi thế quốc gia. Đây là lợi thế ít quốc
gia có được là Việt Nam có thể phát triển được cả sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, cận
nhiệt đới và ôn đới. Nhưng trong thời kì này, phương pháp canh tác và công nghệ sản
xuất còn lạc hậu, dẫn đến năng suất thấp và người dân phải làm việc vất vả để có thu
nhập.
Về thủ công: Đây là nghề truyền thống đã tồn tại từ lâu đời và đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo tồn và lưu giữ nét đẹp văn hoá. Tuy nhiên, việc sản xuất thủ công vẫn sử
dụng công nghệ và phương pháp truyền thống, giới hạn khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
Về công nghiệp: Công nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ này còn rất nhỏ bé và chưa có
những lần trở mình. Các nhà máy và xí nghiệp chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như
Hà Nội và Sài Gòn. Công nghiệp chủ yếu liên quan đến chế biến nông sản và sản xuất
một số mặt hàng như xi măng, gỗ và đường.
DẪN CHỨNG 2: Bên cạnh những khu công nghiệp quy mô nhỏ chưa đc cải tiến dẫn đến giai
cấp công nhân vẫn còn rất nhỏ so với các tầng lớp khác. Như vậy, Việt Nam chưa đủ điều kiện
để đi lên chủ nghĩa xã hội
Về công nhân: Hầu hết tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội và Sài Gòn.
Công nhân phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt, có thời gian làm việc dài và nhận
lương thấp.
Về tổ chức công đoàn: Trong thời kỳ này, các tổ chức công đoàn chưa được hình thành
mạnh mẽ và chưa có vai trò quan trọng như hiện nay. Tuy nhiên, vẫn có một số hoạt động
tổ chức của công nhân nhằm bảo vệ quyền lợi và cải thiện điều kiện làm việc. Các cuộc
biểu tình và cuộc đình công đã diễn ra nhằm đòi hỏi quyền lợi công nhân.
=>