You are on page 1of 12

1. Bị cáo: Vũ Xuân H, sinh ngày 31/3/1972.

Nơi ĐKHKTT: Tổ 13,


phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: Xóm 9, xã Sủ
Ngòi (nay là phường Quỳnh Lâm), thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; Nghề
nghiệp: Hưu Trí; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; bố là Vũ Xuân Tỵ (đã
chết) và mẹ là Nguyễn Thị Phin; vợ là Nguyễn Thị Nga và có 02 con, con lớn
sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2008; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con
thứ 07; Tiền án, tiền sự: Không.
Là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng
ngày 02/02/2021.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/01/2021 tại trại tạm giam công an tỉnh Hòa
Bình cho đến nay, có mặt.
2. Người bào chữa cho bị cáo:
Luật sư Phạm Thế H và luật sư Lê Sỹ H - Văn phòng Luật sư H, thuộc
Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
3. Bị hại:
3.1 Ông Nguyễn Minh Quang, sinh năm 1965; vắng mặt, có đơn xin xét
xử vắng mặt.
3.2 Bà Đỗ Thị Hòa, sinh năm 1974; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Cùng cư trú tại: Tổ 15, phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh
Hòa Bình.
4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
4.1 Anh Nguyễn Quốc Cường, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Tổ 15, phường
Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; vắng mặt, có đơn xin xét xử
vắng mặt.
4.2 Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1977; Nơi cư trú: Tổ 13, phường Đồng
Tiến, Thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Xuân H nguyên là cán bộ công tác tại Phòng Cảnh sát cơ động, Công
an tỉnh Hòa Bình do biết giữa con trai H là anh Vũ Đức Huy với anh Nguyễn
Quốc Cường đang là chiến sỹ nghĩa vụ tại Trung đoàn Cảnh sát bảo vệ mục tiêu
Cơ quan đại diện Ngoại giao (E30) - Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động có mối quan
hệ chơi với nhau nên H đã chủ động tiếp cận và nói chuyện với ông Nguyễn
Minh Quang (bố đẻ của anh Cường) là mình có khả năng xin cho anh Cường thi
đỗ vào trường Học viện cảnh sát nhân dân trong kỳ thi Phổ thông trung học

1
quốc gia năm 2018, với chi phí là 2.000.000.000 VNĐ (Hai tỷ đồng). Ông
Quang về bàn bạc với vợ là bà Đỗ Thị Hòa. Sau khi thống nhất, ông Quang, bà
Hòa đồng ý nhờ H lo cho anh Cường được vào học tại trường Học viện cảnh sát
nhân dân với chi phí như Hùng đưa ra.
Ngày 11/12/2017, tại nhà bà Đỗ Thị Hòa ở tổ 15, phường Phương Lâm,
TP Hòa Bình, H đã trực tiếp nhận 2.000.000.000 VNĐ (Hai tỷ đồng) tiền mặt,
đồng thời H viết "Giấy nhận tiền" và ký ghi rõ họ tên Vũ Xuân H. Đến ngày
22/6/2018, H đưa ra lý do việc xin học cho cháu Cường có khó khăn, cần thêm
tiền nên tiếp tục yêu cầu ông Quang, bà Hoà đưa thêm 500.000.000 VNĐ (Năm
trăm triệu đồng) để lo tiếp. Do số tiền chi phí lớn nên ông bà Quang, Hòa chỉ
đồng ý đưa thêm số tiền 400.000.000 VNĐ (Bốn trăm triệu đồng), Hùng đồng ý
nhận 400.000.000 VNĐ (Bốn trăm triệu đồng) sau đó viết thêm vào tờ "Giấy
nhận tiền" viết ngày 11/12/2017 và ký xác nhận đã nhận đủ (BL: 103). Trong cả
hai lần nhận tiền đều có mặt của H, ông Quang và bà Hòa. Tổng số tiền mà Vũ
Xuân H đã nhận của ông Quang, bà Hòa là 2.400.000.000 VNĐ (Hai tỷ bốn
trăm triệu đồng). Toàn bộ nội dung trong giấy nhận tiền đều do H trực tiếp viết.
Kết thúc kỳ thi Phổ thông trung học quốc gia năm 2018, anh Cường
không trúng tuyển vào trường Học viện cảnh sát nhân dân và các trường của
ngành Công an như Vũ Xuân H đã hứa hẹn. Thấy việc H nhận tiền nhưng không
thực hiện được việc lo cho Cường nên ông Quang, bà Hòa đã nhiều lần gặp, gọi
điện cho Hùng để đòi lại tiền, nhưng H không trả và đưa ra nhiều lý do không
trả tiền cho ông Quang, bà Hòa.
Do H không trả lại tiền, ngày 16/6/2020 bà Hòa làm đơn tố cáo hành vi
của Hùng đến Công an tỉnh Hòa Bình. Quá trình phòng Cảnh sát cơ động Công
an tỉnh Hòa Bình giải quyết đơn tố cáo của bà Hòa, Vũ Xuân H có trả cho bà
Hòa số tiền là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) và viết giấy cam kết sẽ
trả cho bà Hòa số tiền còn lại đã nhận của gia đình bà Hòa là 2.200.000.000
đồng (có sự chứng kiến của lãnh đạo Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Hòa
Bình). Do nể nang, tin tưởng có lãnh đạo Phòng cảnh sát cơ động chứng kiến
cũng như để tạo điều kiện cho H trả nốt số tiền còn lại nên bà Hòa đã viết đơn
đề nghị xin rút nội dung tố cáo. Tuy nhiên sau đó Hùng vẫn không trả tiền cho
gia đình bà Hòa như đã cam kết (BL: 103). Sau nhiều lần yêu cầu nhưng H vẫn
không trả tiền, ngày 02/10/2020 bà Đỗ Thị Hòa tiếp tục làm đơn tố cáo hành vi
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Vũ Xuân H đến Cơ quan điều tra - Công an tỉnh
Hòa Bình
Tại bản kết luận giám định số 7663/C09-P6 ngày 22/01/2021 Viện khoa
học Hình sự - Bộ công an kết luận nội dung File ghi âm do vợ chồng ông
Quang, bà Hòa giao nộp:
“- Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các file

2
âm thanh gửi giám định.
- Tiếng nói của người đàn ông (ký hiệu "Hùng" trong Bản dịch nội dung)
trong các file mẫu cần giám định và tiếng nói của Vũ Xuân Hùng (mẫu so sánh)
là của cùng một người.
- Tiếng nói của người phụ nữ (ký hiệu "Hòa" trong Bản dịch nội dung)
trong file "20200327 085759.m4a" mẫu cần giám định và tiếng nói của Đỗ Thị
Hòa (mẫu so sánh) là của cùng một người.
- Tiếng nói của người đàn ông (ký hiệu "Quang" trong Bản dịch nội
dung) trong file "20200831 192129.m4a" mẫu cần giám định và tiếng nói của
Nguyễn Minh Quang (mẫu so sánh) là của cùng một người.
- Đã chuyển nội dung tiếng nói trong các file mẫu cần giám định thành
văn bản.”
Tại văn bản dịch của Viện khoa học Hình sự - Bộ công an đã thể hiện nội
dung vợ chồng ông Quang, bà Hòa liên tục yêu cầu Hùng trả lại tiền do không
xin học được cho con, Hùng có thừa nhận việc này nhưng đưa ra nhiều lý do để
né tránh việc trả tiền.
Tại Kết luận giám định số 396/KLGĐ-CAT-PC09…của Phòng Kỹ thuật
hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình về giám định chữ ký, chữ viết trên “Giấy nhận
tiền” do vợ chồng ông Quang, bà Hòa giao nộp:
“- Chữ viết trên giấy nhận tiền ngày 11/12/2017 (ký hiệu A) với chữ viết
của Vũ Xuân H trên 02 (hai) Bản tự khai ngày 28/10/2020 và ngày 26/11/2020
(ký hiệu M1, M2) do cùng một người viết ra.
- Chữ ký đứng tên Vũ Xuân H trên Giấy nhận tiền ngày 11/12/2017 (ký
hiệu A) với chữ ký đứng tên Vũ Xuân Hùng trên các tài liệu mẫu so sánh (ký
hiệu từ M1 đến M5) do cùng một người ký ra.”
Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:
Đối với 01 chìa khóa xe ô tô màu đen, trên chiếc chìa khóa có gắn 01 mã
vạch ghi số 1135-Z5883 thu giữ trong quá trình khám xét, Cơ quan CSĐT
(PC02) CAT Hòa Bình đã xử lý bằng hình thức trả lại cho bà Nguyễn Thị Nga là
vợ bị can Vũ Xuân H, Quyết định xử lý số 30/CSHS ngày 28/8/2021.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips máy cũ đã qua sử
dụng thu giữ của bị can Vũ Xuân H được chuyển Cục thi hành án dân sự tỉnh
Hòa Bình để phục vụ việc xét xử.
Đối với 01 USB chứa file ghi âm cuộc nói chuyện giữa Đỗ Thị Hòa với
Vũ Xuân H và giữa Nguyễn Minh Quang với Vũ Xuân H và các tài liệu khác
thu giữ trong quá trình điều tra, khám xét được đưa vào hồ sơ vụ án.
- Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình Phòng Cảnh sát cơ động Công
3
an tỉnh Hòa Bình giải quyết đơn tố cáo của bà Hòa, Vũ Xuân H đã trả cho bà
Hòa số tiền là 200.000.000 đồng. Đến nay bị hại là ông Quang, bà Hòa yêu cầu
Vũ Xuân Hùng phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt còn lại là 2.200.000.000
đồng (hai tỷ hai trăm triệu đồng).
Bản cáo trạng số: 59/CT-VKS ngày 30/9/2021 của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo Vũ Xuân H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2021/HSST ngày 10/11/2021 của Tòa
án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Căn cứ: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, v khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38, Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Vũ Xuân Hùng 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị
bắt tạm giam 28/01/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Vũ Xuân H phải bồi thường cho: ông
Nguyễn Minh Quang và bà Đỗ Thị Hòa số tiền 2.200.000.000đ (Hai tỷ, hai trăm
triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí,
nghĩa vụ thi hành án, nghĩa vụ chậm trả và thông báo quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 15/11/2021 bị cáo Vũ Xuân H kháng cáo kêu oan;
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Vũ Xuân H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo không thừa nhận
hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng việc bị cáo nhận số tiền 2.400.000.000 đồng
chỉ là giao dịch dân sự.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ Xuân H đề nghị: Đã có dấu hiệu oan, sai
và sự vi phạm nghiêm trọng tố tụng, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm cho tiến hành
thanh tra, kiểm tra lại toàn bộ hoạt động khởi tố, điều tra có dấu hiệu oan, sai và
vi phạm nghiêm trọng, của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố, điều tra
vụ án Vũ Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra năm 2017 tại
thành phố Hòa Bình. Lời khai của bị hại là không thống nhất, vu khống bị cáo và
hoàn toàn không khác quan. File ghi âm có nội dung rõ ràng, về không gian, thời
gian không phù hợp với thời điểm bị cáo vay tiền, file ghi âm đã bị chỉnh sửa.
Theo quy định của pháp luật những lời khai, file ghi âm không đủ điều kiện để
làm chứng cứ trong vụ án. Nội dung file ghi âm không đề cập đến 02 khoản vay
tiền của bị cáo thường. Việc vay mượn tiền của bị cáo là có vay, có trả và có trả

4
lãi. Bị cáo không có hành vi gian dối nên không đủ điều kiện kết tội bị cáo.
Chứng cứ buộc tội trong vụ án duy nhất ngoài các đơn tố cáo của bị hại, đề nghị
Hội đồng xét xử xem xét việc sử dụng lời khai của bị hại thành chứng cứ trong vụ
án trong trường hợp nào. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tuyên bị cáo Vũ
Xuân Hùng vô tội và trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.
Đại diện Viên kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: Bị cáo
Vũ Xuân H kháng cáo kêu oan, không thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo Hùng
cho rằng việc bị cáo nhận số tiền 2.400.000.000 đồng từ ông Nguyễn Minh
Quang và bà Đỗ Thị Hòa chỉ là giao dịch dân sự, không vi phạm pháp luật hình
sự.
Căn cứ vào File ghi âm do bà Đỗ Thị Hòa giao nộp và đã được Viện khoa
học hình sự - Bộ Công an kết luận không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa
nội dung trong các file mẫu cần giám định. Nội dung các file ghi âm ghi lại các
cuộc hội thoại giữa bị cáo H với vợ chồng ông Quang, bà Hòa như: Bà Hòa nói
“Là xin việc đấy”, H trả lời “Chuẩn”; bà Hòa nói “Là anh nhận tiền xin việc cho
cháu”, H trả lời “Vâng đúng”; bà Hòa nói “Đúng là như vậy đấy mà có lý do gì
mà không ghi vào”, H trả lời “Em bởi vì cái này nó đưa vào tội hối lộ hối tiếc nó
rất là mệt, ấy mà bây giờ chỉ vay nợ nhau thì trả nhau là rất đơn giản thôi nhưng
cái kia nó hối lộ hối tiếc, chạy việc xin việc là hối lộ mà đang thi cử như này nó
đang xét xử”. Ông Quang nói “Như thế anh đã nói ngay ban đầu mà chú bảo,
nếu không xin được chú gửi tiền”, H trả lời “Em biết như thế rồi”... Tại phiên
tòa phúc thẩm, bị cáo H thừa nhận nội dung các cuộc nói chuyện giữa bị cáo với
bị hại nhưng cho rằng nội dung các file ghi âm này do bị cáo với bị hại dàn dựng
lên. Căn cứ vào các file ghi âm này thể hiện nội dung bị cáo Hùng nhận của ông
Quang, bà Hòa là để lo cho con ông Quang, bà Hòa thi đỗ vào Học viện Cảnh
sát nhân dân như Hùng đã hứa hẹn. Việc bị cáo H cho rằng bị cáo vay số tiền
2.400.000.000 đồng của vợ chồng ông Quang, bà Hòa để làm ăn và việc vay
mượn tiền này chỉ là giao dịch dân sự, không vi phạm pháp luật hình sự, không
phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có cơ sở chấp nhận.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Vũ Xuân H; Giữ nguyên Bản án
hình sự sơ thẩm số 46/2021/HS-ST, ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Đơn kháng cáo ngày 15/11/2021 của bị cáo Vũ Xuân Hùng đảm bảo về
mặt hình thức, trong hạn luật định được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Tại cấp sơ thẩm, vợ
bị cáo Vũ Xuân H là Nguyễn Thị Nga, có đơn khiếu nại khởi tố và bắt giam
chồng là Vũ Xuân H là bắt giam oan sai chồng chị và Vũ xuân H tố cáo hành vi
của anh Nguyễn Minh Quang, sử dụng vũ khí quân dụng de dọa bị cáo; khiếu
nại này, đã được cơ quan điều tra tỉnh Hòa Bình trả lời tại công văn 698 ngày

5
20/8/2021, nội dung này đã được giải quyết ở giai đoạn điều tra.
Ngoài ra cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã
thực hiện đầy đủ, đúng và đến cấp phúc thẩm, đã thực hiện đúng các qui định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có
ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2]. Về hành vi và tội danh đối với bị cáo Vũ Xuân H:
Căn cứ vào các tại liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, kết luận điều tra, cáo
trạng và án sơ thẩm xác định được diễn biến hành vi của bị cáo Vũ Xuân H như
sau:
[2.1]. Về việc chị Đỗ Thị Hòa giao tiền cho Vũ Xuân H:
Bị cáo Vũ Xuân H thừa nhận đã ký 02 lần nhận tiền của chị Đỗ Thị Hòa,
Lần 1: nhận 2.000.000.000 đồng, ngày 11/12/2017; lần 2: 400.000.000 đồng,
ngày 22/6/2017. Tổng số tiền 2.400.000.000 đồng bị cáo Vũ Xuân H nhận tiền
của chị Đỗ Thị Hòa; Việc giao nhận số tiền này chị Hòa và H đều thừa nhận và
thể hiện giấy nhận tiền (BL103) có chữ ký và viết tên Vũ Xuân H; Giấy này
cũng đã được thực hiện giám định theo qui định của pháp luật.
[2.2]. Về mục đích bị cáo Vũ Xuân H nhận số tiền 2.400.000.000 đồng
của chị Đỗ Thị Hòa:
- Đối với bị cáo Vũ Xuân H cho rằng: Đây là khoản tiền vay có trả lãi
2.000 đồng / 01 triệu đồng / 01 ngày, tương ứng với 120 triệu đồng / 01 tháng,
đã trả lãi nhiều đợt, tổng số tiền đã trả lãi là 600.000.000 đồng (thỏa thuận bằng
miệng); Vũ Xuân H đã trả lãi nhiều lần, nhưng không có giấy nhận của chị Hòa,
mà có ghi lại tại sổ tay của chị Hòa, sổ này chị Hòa quản lý. Bị cáo Vũ Xuân H
không có căn cứ tài liệu nào chứng minh việc vay có trả lãi và đã trả lãi; chị Hòa
không thừa nhận nội dung này.
- Đối với chị Đỗ Thị Hòa cho rằng: Chị Hòa không thừa nhận số tiền
2.400.000.000 đồng là vay, có lãi và đã trả lãi như bị cáo Vũ Xuân H khai; mà
chị luôn khẳng định do tin tưởng Vũ Xuân H có khả năng xin cho con chị là
Nguyễn Quốc Cường thi đỗ vào Học viện Cảnh sát nhân dân; nên chị Hòa mới
đi vay mượn tiền đưa cho Vũ Xuân H để lo việc xin học cho con; nội dung bị
cáo Vũ Xuân H cũng không thừa nhận.
- Về nhân thân và nhận thức về pháp luật của bị cáo Vũ Xuân H:
Về trình độ văn hóa là 12/12 và trình độ chuyên môn của bị cáo Vũ Xuân
H là Học viên an ninh nhân dân - ngành điều tra tội phạm; học sau đại học là
Thạc sỹ Luật kinh tế - Trường Đại học kinh tế quốc dân và đã trải qua công tác
6
29 năm cụ thể như sau: Đi nghĩa vụ Công an năm 1991; vào biên chế ngành
công an năm 1994; công tác liên tục tại Công an tỉnh Hòa Bình từ năm 2002 đến
năm 2020; với cấp bậc quân hàm cấp tá: Năm 2013 là Thiếu tá cảnh sát nhân
dân; năm 2015 là Trung tá cảnh sát nhân dân; tháng 3/2010 là Đội trưởng phòng
PC22 - Công an tỉnh Hòa Bình; đến tháng 10/2020 về nghỉ chế độ.
Tại thời điểm bị cáo Vũ Xuân H thực hiện hành vi nhận 2.400.000.000
đồng của chị Hòa (trong năm 2017 và năm 2018): Bị cáo Vũ Xuân H là Trung tá
- Sỹ quan cảnh sát cơ động thuộc Công an tỉnh Hòa Bình, có thể lực, sức khỏe
tốt, quá trình công tác được được Đảng và Nhà nước, Bộ Công an cho đi đào tạo
các lớp nghiệp vụ, Cao cấp chính trị tại Học viện Quốc Gia Hồ Chí Minh, nhằm
để phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của ngành Công an. Trong quá trình công tác
nêu trên; bị cáo Vũ Xuân H đã được tặng thưởng nhiều giấy khen bằng khen,
của Giám đốc Công an tỉnh Hòa Bình; Cục cảnh sát bảo vệ của Bộ Công an; Bộ
trưởng Bộ Công an và được Chủ tịch nước - Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam tặng Huy chương. Qua đó, thể hiện bị cáo Vũ Xuân H, nguyên là một Sỹ
quan cảnh sát, có sức khỏe tốt, có trình độ chuyên môn tốt; có nhận thức tốt về
pháp luật, có đủ năng lực nhận thức về hành vi của mình đang thực hiện và đã
thực hiện.
[3]. Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy hành vi của bị cáo Vũ Xuân
H như sau:
Tại các đơn tố cáo của chị Đỗ Thị Hòa lần một là ngày 16/6/2020, sau khi
chị tố cáo đến công an tỉnh Hòa Bình nơi bị cáo công tác, thì bị cáo đã trả
200.000.000 đồng. Sau nhiều lần tiếp theo chị đòi tiền bị cáo Vũ Xuân H không
trả; chị Hòa tiếp tục có đơn lần 2 ngày 02/10/2020 tố cáo về hành vi lừa đảo của
Vũ Xuân H đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hòa Bình. Quá trình điều
tra, những bản bản tường trình, biên bản lấy lời khai, biên bản đối chất giữa chị
Hòa và bị cáo Hùng, cho thấy: Việc bị cáo Vũ xuân H khai nhận của chị Hòa
khoản tiền 2.400.000.000 đồng là việc vay mượn có lãi 2000 đồng/ 01 triệu
đồng/ 01 ngày; chị Hòa không thừa nhận nội dung này; Hùng không có căn cứ
chứng minh việc vay có trả lãi và đã thực hiện trả lãi 600.000.000 đồng cho chị
Hòa anh Quang. Nên không có căn cứ xác định đây là hợp đồng dân sự (vay có
trả lãi và đã trả lãi) như nêu ở trên.
Về khoản tiền 2.400.000.000 đồng chị Đỗ Thị Hòa đưa cho bị cáo Vũ
Xuân H, chị Hòa đều luôn khẳng định do tin tưởng Vũ Xuân H có khả năng xin
cho con chị là Nguyễn Quốc Cường thi đỗ vào Học viện cảnh sát nhân dân trong
kỳ thi phổ thông trung học quốc gia năm 2018; nên chị Hòa mới đi vay mượn
tiền đưa đưa cho Vũ Xuân H 02 lần tổng là 2.400.000.000 đồng; Việc giao nhận
tiền được thể hiện tại giấy nhận tiền (BL 103) đồng thời bị cáo Vũ Xuân H và
bị hại Hòa đều thừa nhận; Còn các khoản tiền giao dịch khác Tòa không xét
trong vụ án này.
7
[3.1]. Về mục đích nhận 2.400.000.000 đồng giữa bị cáo Vũ Xuân H và
chị Đỗ Thị Hòa:
Nội dung này được chứng minh qua nội dung các cuộc điện thoại giữa
(Hòa – H – Quang) tại File ghi âm do vợ chồng ông Nguyễn Minh Quang và bà
Đỗ Thị Hòa giao nộp (đã được Bộ công an giám định không có cắt ghép, chỉnh
sửa nội dung) được nêu cụ thể tại (BL 89; 91; 92; 93; 94; 95;97; 98; 99) Vũ
Xuân H có thừa nhận ông Quang bà Hòa liên tục yêu cầu H trả lại tiền do H
không xin học được cho con ông Quang bà Hòa; File ghi âm đã được Viện khoa
học hình sự (C09) Bộ công an giám định giọng nói của (Hòa - H - Quang) và
Văn bản dịch của Viện khoa học Hình sự (C09) Bộ Công an. Tuy bị cáo phủ
nhận những tài liệu này, nhưng bị cáo không có tài liệu nào, không có chứng cứ
vật chất nào phủ nhận lại các chứng cứ tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập
và chứng minh, giám định theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng hình sự quy
định.
Do đó, có căn cứ khẳng định bị cáo Vũ Xuân H đã nhận số tiền
2.400.000.000 đồng của vợ chồng chị Đỗ Thị Hòa và anh Nguyễn Minh Quang
để xin cho con chị Hòa, anh Quang là Nguyễn Quốc Cường thi đỗ vào Học viện
cảnh sát nhân dân, trong kỳ thi Phổ thông trung học quốc gia năm 2018.
[3.2]. Về nhận thức của bị cáo Vũ Xuân H được thể hiện, qua quá trình
công tác 29 năm như đã nêu ở trên, cho thấy bị cáo Vũ Xuân H chưa từng được
ngành Công an, được giao cho chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác
thi tuyển sinh viên của Học viện Cảnh sát nhân dân. Nhưng bị cáo Vũ Xuân
Hùng đã đưa ra những thông tin là mình có khả năng lo cho Nguyễn Quốc
Cường con của chị Hòa, anh Quang thi đỗ vào Học viện Cảnh sát nhân dân,
trong kỳ thi Phổ thông trung học quốc gia năm 2018, nhằm chiếm đoạt
2.400.000.000 đồng (hai tỷ bốn trăm triệu đồng) của chị Hòa, anh Quang.
Với hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Xuân H, đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét
xử bị cáo Vũ Xuân Hùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định theo
điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không
oan.
Xét hành vi phạm tội mà bị cáo Vũ Xuân H là nguy hiểm cho xã hội và
đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài
sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng rất xấu đến ngành
Công an nơi bị cáo đã từng công tác, làm sói mòm lòng tin giữa con người và
con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế gia đình của bị hại; đồng
thời còn gây mất trận tự an ninh ở địa phương, gây ra dư luận xấu trong quần
chúng nhân dân. Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Xuân H cần phải được xử lý
nghiêm minh trước pháp luật nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo thành người lương
thiện và phòng ngừa chung tội phạm chung.

8
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân H kêu oan và hủy bản án sơ
thẩm để điều tra lại:
Diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Xuân H đã được phân tích ở
trên. Sau xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo cho đến nay, bị cáo Vũ Xuân H không
thực hiện bồi thường tiếp cho bị hại, không bổ xung được những căn cứ mới; để
chứng minh về việc nhận tổng số 2.400.000.000 đồng của chị Đỗ Thị Hòa là
giao dịch dân sự (vay tiền có trả lãi và đã trả lãi 600.000.000 đồng); không
chứng minh được những hành vi, vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung
của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm, bị cáo Vũ Xuân H không đưa
ra được những căn cứ nào mới để chứng minh cho nội dung kháng cáo của bị
cáo. Nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, không có căn cứ chấp nhận kháng
cáo kêu oan và không có căn cứ hủy án sơ thẩm.
[4]. Về áp dụng pháp luật của Tòa án sơ thẩm đối với hành vi phạm
tội của bị cáo Vũ Xuân H cụ thể như sau:
[4.1]. Các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo Vũ Xuân H (có hai giai đoạn) :
Giai đoạn một là: Trước khi phạm tội (ngày 11/12/2017): bị cáo có
nhưng thành tích được coi là tình tiết giảm nhẹ như sau: Bị cáo Vũ Xuân H
trước khi phạm tội của vụ án này, có nhân thân tốt; ngày 03/3/2006 được Giám
đốc Công an tỉnh Hòa Bình tặng giấy khen cho Vũ Xuân H, cán bộ phòng PC22
- Công an tỉnh, có thành tích xuất sắc; năm 2013 được Bộ trưởng Bộ Công an
tặng bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác đấu tranh chống tội
phạm; năm 2014 được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng
ba; năm 2016 được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhì,
bị cáo là lao động chính trong gia đình, có các con còn đang độ tuổi đến trường
và có mẹ già hơn 90 tuổi, có xác nhận của chính quyền địa phương. Những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này, đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho
bị cáo theo điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.
Giai đoạn hai là: Sau khi phạm tội (ngày 11/12/2017): Ngày 09/5/2018
được Chủ tịch nước - Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương vì
an ninh tổ quốc; ngày 31/3/2021 được Giám đốc Công an tỉnh Hòa Bình tặng
giấy khen cho Vũ Xuân Hùng, Đội trưởng - phòng PC22 - Công an tỉnh, có
thành tích xuất sắc; ngày 08/5/2021 được Cục cảnh sát bảo vệ - Bộ Công an tặng
giấy khen cho Vũ Xuân H, do có thành tích xuất sắc trong luyện tập và tham gia
bảo vệ an toàn Đại hội lần thứ IX của Đảng; Ngày 04/10/2021 được Giám đốc
Công an tỉnh Hòa Bình tặng giấy khen cho Vũ Xuân Hùng, đội trưởng - phòng
PC22 - Công an tỉnh, có thành tích xuất sắc. Nếu hành vi phạm tội của bị cáo Vũ
Xuân H được tố giác, phát hiện kịp thời hoặc bị cáo tự thú hay đầu thú, thì
những thành tích này, của bị cáo Vũ Xuân H sẽ không được xét theo Luật thi
đua khen thưởng (năm 2017, năm 2019, năm 2020). Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ

9
thẩm áp dụng tình tiết giảm này, để xem xét khi lượng hình cho bị cáo Vũ Xuân
H theo điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bọ luật tố tụng hình sự, là đã có lợi cho
bị cáo.
[4.2].Về tình tiết tăng nặng đối với bị cáo Vũ Xuân H:
Các tài liệu hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo lấy tiền của bị hại cụ thể: Lần 01:
ngày 11/12/2017 lấy với số tiền là 2.000.000.000 đồng và có ký nhận; lần 02:
Ngày 22/6/2018 lấy với số tiền là 400.000.000 đồng và có ký nhận. Như vậy, bị
cáo Vũ Xuân H thực hiện hành vi phạm liên tục (02 lần) đối với chị Đỗ Thị Hòa
và anh Nguyễn Minh Quang. Đây là tình tiết tăng nặng qui định tại điểm g
(phạm tội nhiều lần) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm không nhận định, không áp dụng là thiếu sót. Tòa án cấp phúc thẩm cần áp
dụng bổ xung cho đầy đủ, theo đúng qui định của Bộ luật hình sự.
[4.2]. Về bồi thường, khắc phục hậu quả của bị cáo Vũ Xuân H cho
bị hại:
Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt là 2.400.000.000 đồng; Ngày 16/6/2020
chị Hòa có đơn tố cáo lên phòng Cảnh sát cơ động; trước khi vụ án bị khởi tố; bị
cáo Vũ Xuân H bồi thường là 200.000.000 đồng cho bị hại. Từ đó đến khi vụ án
bị khởi tố vụ án và cho đến nay, bị cáo chưa bồi thường tiếp cho bị hại số tiền
còn lại là 2.200.000.000 đồng. Như vậy, việc bị cáo bồi thường một phần nhỏ
trên tổng số tiền chiếm đoạt. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b
khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, nhưng cũng cần được đánh giá là
bị cáo Vũ Xuân H thiếu ý thức, trách nhiệm trong việc bồi thường và khắc phục
hậu quả cho bị hại; thực tế chỉ bồi thường bằng (01/12) trên tổng số tiền đã
chiếm đoạt của bị hại là bồi thường không đáng kể.
[4.3].Về áp dụng pháp luật và hình phạt đối với bị cáo Vũ Xuân H
của Tòa án cấp sơ thẩm :
Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Xuân H là đặc biệt nghiêm trọng,
việc bồi thường khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là không đáng kể;
thái độ khai báo tại giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm không thành khẩn, không có thái độ tỏ ra ăn năn hối cải; quanh co trối tội,
đổ lỗi cho bị hại, nhằm trốn tránh trách nhiệm trước pháp luật, gây khó khăn cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử. Khi lượng hình bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ
tại điểm b, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự như đã đánh giá ở trên và đối trừ
một tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp
sơ thẩm xét xử mức hình phạt 15 năm tù đối với bị cáo Vũ Xuân H là có phần
nương nhẹ.
Từ những đánh giá nhận định nêu trên, không có căn cứ chấp nhận kháng
cáo của bị cáo Vũ Xuân H và quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Vũ
Xuân H; Ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia
10
phiên tòa phân tích, đánh giá phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc
thẩm nên được chấp nhận; cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
[5]. Những khiếu nại của bị cáo về những vi phạm pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án này, thì các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm đã xem xét. Tuy
nhiên kết quả giải quyết chưa đáp ứng được nguyện vọng của bị cáo Vũ Xuân
H. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ giải quyết vụ án theo
giới hạn của việc xét xử được qui định tại Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự.
Những khiếu nại của bị cáo Vũ Xuân H, ngoài phạm vi vụ án này, bị cáo vẫn có
quyền giao nộp những tài liệu mới, chứng cứ mới và đồng thời có quyền tiếp tục
làm đơn kiến nghị, tố giác những hành vi phạm pháp đến cơ quan điều tra có
thẩm quyền để xem xét giải quyết tiếp.
[6]. Về án phí: Bị cáo Vũ Xuân H kháng cáo không được chấp nhận, phải
chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/ 12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân H; giữ nguyên Bản
án hình sự sơ thẩm số 46/2021/HSST ngày 10/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hòa Bình.
Tuyên bố: bị cáo Vũ Xuân H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, v khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Xuân H
15 (mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn thi hành án
phạt tù tính từ ngày 28/01/2021.
[2]. Án phí: Bị cáo Vũ Xuân H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự
phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo,
không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

11
- VKSNDCC tại Hà Nội; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND tỉnh Hòa Bình;
- TTG Công an tỉnh Hòa Bình;
- Cục THADS tỉnh Hòa Bình;
- Bị cáo Hùng (Qua trại);
- Lưu HS, PHCTP. Hoàng Văn Hạnh

Câu hỏi: Với những diễn biến của hành vi và chứng cứ vụ án như đã nêu
trên, có những quan điểm như sau:
- Bị cáo phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Bị cáo không phạm tội vì đây là quan hệ dân sự có giấy vay nợ
Học viên trình bày về quan điểm của mình? Nêu những căn cứ chứng
minh quan điểm của mình?

12

You might also like