You are on page 1of 33

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU...........................................................................................................................1
1. Lí do lựa chọn đề tài....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................2
3. Đối tượng và phạm nghiên cứu...................................................................................3
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................................................3
5. Kết cấu của tiểu luận....................................................................................................3
B. NỘI DUNG.......................................................................................................................5
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ................................................5
1.1. Khái niệm ngoại giao kinh tế....................................................................................5
1.2. Cấp độ của ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế...............................................8
1.3. Một số nhận xét về ngoại giao kinh tế......................................................................9
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO KINH TẾ TIÊU
BIỂU GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY.................................................................................13
2.1. Quan điểm, chủ chương của Đảng về ngoại giao kinh tế qua các kỳ Đại hội........13
2.2. Thành tựu của Việt Nam trong hoạt động ngoại giao kinh tế sau hơn 35 năm Đổi
mới.................................................................................................................................16
2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác ngoại giao kinh tế của Việt Nam...............20
CHƯƠNG III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
NGOẠI GIAO KINH TẾ...................................................................................................24
3.1. Nhiệm vụ trọng tâm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế đến
năm 2030........................................................................................................................24
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao kinh tế trong bối cảnh mới.....28
C. KẾT LUẬN....................................................................................................................31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................33
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong suốt 78 năm kể từ khi được thành lập, ngành ngoại giao luôn đồng
hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoại giao là mặt
trận quan trọng, chiến lược trong thời kỳ đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, thống
nhất đất nước; là lực lượng tiên phong trong thiết lập, mở rộng quan hệ với
các nước, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, thu hút các nguồn lực bên ngoài
phục vụ phát triển, nâng cao vị thế quốc tế, góp phần tạo lập và giữ vững môi
trường đối ngoại ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn xây
dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Với vai trò là một trong bốn trụ
cột của ngành, công tác ngoại giao kinh tế là nội hàm, nhiệm vụ xuyên suốt và
ngày càng được quan tâm, chú trọng thúc đẩy nhằm phục vụ thiết thực nhất
cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
“Ngoại giao kinh tế” là một khái niệm được sử dụng với tần suất tương
đối cao trong lĩnh vực quan hệ quốc tế ngày nay. Thế nhưng, tính đến thời
điểm hiện tại, định nghĩa về “ngoại giao kinh tế” trong lĩnh vực học thuật vẫn
rất mơ hồ. Người ta không thể phân biệt từ căn bản “ngoại giao kinh tế” với
ngoại giao mang ý nghĩa thông thường. Xuất phát từ hiện thực quan hệ quốc
tế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đẩy mạnh chính sách ngoại giao phục
vụ phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, việc hiểu rõ nội hàm của “ngoại giao
kinh tế”, các đặc điểm cơ bản của nó, sẽ rất có ý nghĩa trong xác định nội hàm
chính sách đối ngoại nói chung của đất nước. Cùng với đó, việc xác định, xây
dựng chiến lược ngoại giao kinh tế đúng đắn và sáng suốt theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XIII cũng là yêu cầu vô cùng cấp thiết trong giai đoạn từ nay
đến năm 2030.
Từ những lí do trên, nhóm em đã lựa chọn vấn đề “Chiến lược ngoại giao
kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay” để làm đề tài cho tiểu luận kết
thúc học phần Chính sách ngoại giao Việt Nam.

1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chính của tiểu luận là làm rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn về ngoại giao kinh tế, các chiến lược ngoại giao kinh tế của Việt
Nam giai đoạn 1986 đến nay. Từ đó, rút ra những đánh giá và đề xuất giải
pháp nâng cao sự hiệu quả trong công tác ngoại giao kinh tế thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ
nghiên cứu chính sau:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về ngoại giao kinh tế.
- Phân tích các chiến lược ngoại giao kinh tế tiêu biểu của Việt Nam thời
kỳ Đổi mới đến nay.
- Rút ra những đánh giá về các chiến lược ngoại giao kinh tế giai đoạn
1986 đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác xây dựng, định hướng
và phát triển các chiến lược ngoại giao kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn
tới.
3. Đối tượng và phạm nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của tiểu luận là các chiến lược ngoại giao
kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay.
3.2. Phạm nghiên cứu
Về không gian: Ngoại giao là một lĩnh vực rộng lớn, là bộ mặt của đất
nước trong quan hệ với các nước trên thế giới, trong khuôn khổ của tiểu luận
sẽ chỉ tập trung nghiên cứu các chiến lược ngoại giao kinh tế đã được áp dụng
vào tình hình thực tế của Việt Nam.
Về thời gian: Kể từ khi được thành lập, ngoại giao là một lĩnh vực đóng
góp to lớn vào sự phát triển của dân tộc, tuy nhiên tiểu luận sẽ nghiên cứu các

2
chiến lược ngoại giao kinh tế khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới đến
nay.
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Tiểu luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các chính sách đối ngoại được Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra từ
Đại hội năm 1986 đến Đại hội XIII năm 2021.
Tiểu luận chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu về quan hệ quốc
tế như: Phương pháp lô-gíc, lịch sử, phân tích, tổng hợp, dự báo, chuyên gia.
5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của tiểu luận gồm 3 chương sau:
Chương I. Một số vấn đề lý luận chung về ngoại giao kinh tế
Chương II. Đánh giá một số chiến lược ngoại giao kinh tế tiêu biểu giai
đoạn 1986 đến nay
Chương III. Nhiệm vụi, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao
kinh tế.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận này, em
không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, rất mong thầy/ cô có những
đóng góp, chỉnh sửa để bài tiểu luận của em được hoàn thiện chỉnh chu và
khách quan toàn diện hơn.

3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
NGOẠI GIAO KINH TẾ
1.1. Khái niệm ngoại giao kinh tế
Lịch sử quan hệ quốc tế đã trải qua các loại hình ngoại giao truyền thống
và đặc thù: “ngoại giao năng lượng”, “ngoại giao pháo hạm”, “ngoại giao
bóng bàn”, “ngoại giao tôn giáo”, “ngoại giao nhân quyền”... Trong vài thập
kỷ trở lại đây, quan hệ giữa các quốc gia đang hình thành một xu thế mới -
ngoại giao kinh tế. Ngoại giao kinh tế chỉ loại ngoại giao với xuất phát điểm
là mở rộng lợi ích kinh tế ở mức lớn nhất có thể, để xác định mục tiêu hoạt
động ngoại giao, thiết lập chính sách đối ngoại, đồng thời triển khai hoạt động
ngoại giao tương ứng.
“Ngoại giao kinh tế” không phải là khái niệm mới. Ngoại giao với những
mục tiêu kinh tế ra đời từ khá sớm. Kể từ thời Phục hưng của Italy, kinh tế đã
trở thành một trong hai nhiệm vụ song hành của ngành ngoại giao bên cạnh
chính trị và an ninh. Vào những thập niên 50 đến 70 của thế kỷ XX, ngoại
giao kinh tế còn được biết đến với tên gọi Ngoại giao thương mại (Trade
Diplomacy), ra đời cùng với quá trình quốc hữu hóa các ngành công nghiệp ở
nhiều quốc gia. Nó bắt nguồn từ sự tham gia của các nhà ngoại giao trong các
vấn đề thương mại, đó là việc giúp các quốc gia có thể phân phối hàng hóa,
sản phẩm sang các quốc gia khác. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong bối
cảnh Chiến tranh lạnh, xung đột quân sự và sự chia cắt thế giới thành hai phe
đã khiến cho vai trò của ngoại giao kinh tế mờ nhạt hơn. Nhưng sau đó, một
trào lưu mới của quá trình toàn cầu hóa xuất hiện, kinh tế một lần nữa khẳng
định vai trò nổi bật của mình và trong quan hệ quốc tế nổi lên vấn đề ngoại
giao kinh tế. Thuật ngữ “ngoại giao kinh tế” cũng bắt nguồn từ đây và trở nên
phổ biến (Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp: Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc
tế, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, TPHCM, 2013.)

4
Theo định nghĩa của G.R.Berridge và Aliab James, ngoại giao kinh tế là
hoạt động ngoại giao liên quan đến các vấn đề kinh tế bao gồm công tác của
các đoàn ngoại giao cho đến các hội nghị quốc tế, do các tổ chức quốc tế đảm
nhận, chẳng hạn như Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đồng thời, hoạt
động ngoại giao kinh tế cũng bao hàm việc theo dõi và báo cáo cho chính phủ
về tình hình, chính sách kinh tế của nước nhận đại diện nhằm có những biện
pháp thích hợp tạo nên sự ảnh hưởng đến kinh tế nước đó. Bên cạnh đó, ngoại
giao kinh tế cũng liên quan tới việc sử dụng các nguồn tài nguyên kinh tế, các
biện pháp như trừng phạt kinh tế nhằm theo đuổi những mục tiêu cụ thể của
chính sách đối ngoại (G.R. Berridge, A. James: Dictionary of Diplomacy,
Basingstoke, 2003.)
Học giả người Pháp Guy Carron de la Carriere định nghĩa, ngoại giao kinh
tế là đạt mục đích kinh tế bằng phương pháp ngoại giao, không phụ thuộc vào
việc ngoại giao có sử dụng những đòn bẩy kinh tế để đạt được mục tiêu hay
không (Guy Carron de la Carriere: La Diplomatie economique: Le diplomate
et le marche, Paris: Economica, 1998.)
Nhà ngoại giao Dubravko Žirovcic quan niệm ngoại giao kinh tế là một
phương tiện của chính sách đối ngoại kinh tế và những chủ thể tham gia thực
hiện bao gồm: nhà nước (các nhà ngoại giao, cán bộ, nhân viên chính phủ ...)
và phi nhà nước (các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, công
đoàn,...). Phạm vi mà các chủ thể hoạt động rất rộng, bao gồm: nền kinh tế
quốc dân, nền kinh tế quốc tế (thương mại quốc tế, ngoại thương, tài chính...),
các tổ chức quốc tế (hệ thống Liên Hợp quốc, các chính phủ và tổ chức phi
chính phủ...)
Nghị định 08/2003/NĐ-CP, ngày 10-02-2003 quy định về Cơ quan của
Việt Nam ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế định nghĩa: ngoại
giao kinh tế là hoạt động nhằm “thúc đẩy thương mại, hợp tác đầu tư, hợp tác
khoa học công nghệ, du lịch, lao động, dịch vụ, thu ngoại tệ, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân Việt Nam trong

5
hoạt động kinh tế đối ngoại”. Chủ thể chính trong hoạt động ngoại giao là các
quốc gia, nhưng trong quan hệ kinh tế quốc tế có nhiều chủ thể ở cấp độ khác
nhau nên điểm đặc biệt của ngoại giao kinh tế là sự đa dạng về mặt chủ thể từ
các tổ chức kinh tế, tiền tệ, tài chính quốc tế, các nền kinh tế quốc gia, các
công ty xuyên quốc gia, hay tập đoàn quốc tế.
Dưới góc độ quan hệ quốc tế, có thể phân biệt ngoại giao kinh tế với ngoại
giao văn hóa. Ngoại giao kinh tế sử dụng công cụ kinh tế để hỗ trợ thực hiện
các hoạt động ngoại giao. Ngoại giao văn hóa là một hình thức ngoại giao
thông qua công cụ văn hóa để thiết lập, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại
nhằm đạt được các mục tiêu lợi ích cơ bản của quốc gia là phát triển, an ninh
và ảnh hưởng. Đó là việc thực hiện chính sách đối ngoại để đạt được mục tiêu
chính trị bằng công cụ văn hóa, biện pháp văn hóa. Trong đó, các giá trị văn
hóa sẽ là chỗ dựa tinh thần bền vững cho các hoạt động ngoại giao, làm áp lực
đối với các đối tác để thực hiện có kết quả các chính sách chính trị, kinh tế.
Ở Việt Nam, ngoại giao kinh tế cùng với ngoại giao chính trị và ngoại
giao văn hóa là ba trụ cột của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Ba trụ cột
này gắn bó, tác động lẫn nhau, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của
Đảng và Nhà nước. Ngoại giao chính trị có vai trò định hướng, ngoại giao
kinh tế là nền tảng vật chất và ngoại giao văn hóa là nền tảng tinh thần của
hoạt động đối ngoại.
Trên thực tế, có nhiều cách giải thích khác nhau về định nghĩa ngoại giao
kinh tế. Xét từ góc độ chính trị, những hoạt động thông qua công cụ kinh tế để
đạt được mục đích chính trị, an ninh đều thuộc ngoại giao kinh tế. Xét từ góc
độ kinh tế, ngoại giao kinh tế là những hoạt động ngoại giao được khai triển
thông qua công cụ kinh tế để đạt được lợi ích kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, ngoại giao kinh tế chỉ hoạt động ngoại giao được tiến
hành thông qua công cụ kinh tế để đạt được các mục đích kinh tế. Theo nghĩa
rộng, ngoại giao kinh tế không chỉ là công cụ để chính phủ theo đuổi lợi ích
kinh tế, mà còn được sử dụng để theo đuổi các mục đích chính trị, an ninh…

6
Như vậy, có thể nhận thức một cách tương đối toàn diện về ngoại giao
kinh tế như sau: ngoại giao kinh tế chỉ hoạt động ngoại giao được tiến hành
để thực hiện mục tiêu kinh tế, tức coi ngoại giao là công cụ để theo đuổi lợi
ích về mặt kinh tế; ngoại giao kinh tế chỉ các hoạt động kinh tế được quốc gia
tiến hành để thực hiện các mục tiêu ngoại giao (như chính trị hay quân sự),
tức coi kinh tế là công cụ để theo đuổi lợi ích về mặt chính trị, quân sự... một
cách trọn vẹn nhất.
1.2. Cấp độ của ngoại giao kinh tế trong quan hệ quốc tế
Ngoại giao là một lĩnh vực hoạt động chính trị có liên quan đến quá trình
giao tiếp, đàm phán và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia. Các mục tiêu của
ngoại giao kinh tế thường được thực hiện trong các cuộc đàm phán song
phương, khu vực hoặc đa phương.
Theo quan điểm của nhà ngoại giao Dubravko Žirovcic, xét về mặt cấp độ,
ngoại giao kinh tế theo hình thức truyền thống là ngoại giao của chính quyền
nhà nước và các tổ chức của họ trong việc thúc đẩy lợi ích kinh tế ở tất cả các
cấp: song phương, khu vực, nhiều bên và đa phương.
Quan hệ song phương vẫn là mối quan hệ cơ bản và quan trọng của ngoại
giao kinh tế. Nó bao gồm các hiệp định thương mại song phương, các hiệp
ước, hiệp định về đầu tư, việc làm, các hiệp định tránh đánh thuế hai lần và rất
nhiều hoạt động chính thức và không chính thức khác giữa hai quốc gia. Có
thể kể đến các hiệp định mậu dịch tự do của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc... Ngoại giao kinh
tế song phương đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa
các quốc gia. Xây dựng hiệp định thương mại tự do song phương được rất
nhiều quốc gia trên thế giới chú trọng.
Đa phương là kiểu ngoại giao kinh tế giống như cấu trúc song phương,
song bao gồm các giao thương không chính thức từ 3 quốc gia trở lên trên
một loạt các vấn đề hoặc thông qua một hiệp định đa phương chính thức. Hợp
tác khu vực ngày càng trở nên quan trọng trong ngoại giao kinh tế. Lợi ích

7
quốc gia và tự do hóa kinh tế được phục vụ tốt nhất là trong bối cảnh của một
khu vực cụ thể. Việc dỡ bỏ các rào cản và mở cửa thị trường trở nên dễ dàng
hơn trong khuôn khổ khu vực. Các hiệp định kinh tế khu vực, đa phương là
cách các quốc gia mở cửa nền kinh tế nhanh hơn. Tự do hóa kinh tế có thể dễ
được chấp nhận hơn đối với lợi ích quốc gia khi nó diễn ra trong khuôn khổ
một nhóm các nước trong khu vực. Ngoại giao kinh tế đa phương diễn ra
trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như nhiều tổ
chức kinh tế và tài chính quốc tế khác, như: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF), các cơ quan Liên Hợp quốc khác nhau... Việc thành
lập WTO tạo sự thay đổi chính sách trong hệ thống thương mại toàn cầu
hướng tới việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế.
Trên thực tế, hai cấp độ của ngoại giao kinh tế có sự tương tác lẫn nhau.
Bản chất đa cấp của ngoại giao kinh tế đồng nghĩa với việc các nước tận dụng
được lợi ích của các cấp độ kinh tế khác nhau đó. Điều đó cũng bao hàm rằng
các chính phủ các quốc gia có rất nhiều lựa chọn để theo đuổi.
1.3. Một số nhận xét về ngoại giao kinh tế
1.3.1. Ngoại giao kinh tế là một bộ phận cấu thành ngoại giao tổng thể
Nhìn từ bề ngoài, chính sách ngoại giao được chia thành các hình thức
như: ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao quân sự, ngoại giao
văn hóa… Tổng hòa các hình thức ngoại giao này cấu thành nên “ngoại giao
tổng thể” của một quốc gia. Do đó, “ngoại giao kinh tế” chỉ là một trong
những thành tố cấu thành nên “ngoại giao tổng thể”, cần phải phối hợp với
các hình thức ngoại giao khác như “ngoại giao chính trị”, “ngoại giao quân
sự”, “ngoại giao văn hóa”… mới có thể phát huy tác dụng của mình một cách
trọn vẹn nhất.
Xét từ mặt lý luận, an ninh và phát triển là hai mục tiêu cơ bản mà một
quốc gia theo đuổi. Sinh tồn là vấn đề an ninh của một quốc gia, thuộc về
phạm trù chính trị; phát triển là vấn đề chấn hưng kinh tế của một quốc gia,
thuộc phạm trù kinh tế. Hai mặt này có mối liên hệ mật thiết với nhau, sinh

8
tồn là nền tảng, không có sinh tồn thì không có phát triển, phát triển để sinh
tồn một cách tốt hơn nữa, đảm bảo nâng cao chất lượng của sinh tồn. Xét từ
biểu hiện, sinh tồn và phát triển ảnh hưởng lẫn nhau, tác động đến nhau, song
là một vấn đề nền móng hơn so với vấn đề phát triển, an ninh quốc gia quan
trọng hơn lợi ích kinh tế.
Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, địa vị của nhân tố kinh tế
trong quan hệ quốc tế đã được nâng cao lên một tầm nhất định so với trước.
Trong lĩnh vực quan hệ quốc tế đã xuất hiện xu hướng từ ưu tiên chính trị
chuyển sang ưu tiên kinh tế. Làm thế nào để bảo đảm tối đa lợi ích kinh tế
quốc gia ngày càng trở thành nhiệm vụ trọng yếu của ngoại giao các nước.
Tuy nhiên, còn sớm để nói rằng ngoại giao kinh tế đã trở thành nhân tố mang
tính quyết định hoặc tính chủ đạo trong “ngoại giao tổng thể” của một quốc
gia.
1.3.2. Ngoại giao kinh tế có tính chất hai mặt
Áp dụng “ngoại giao kinh tế” vừa độ, ở mức thích hợp sẽ có thể phát huy
tác dụng tích cực của nó. Nếu không coi trọng lợi ích kinh tế của quốc gia,
thậm chí xa rời mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia, sẽ khiến lợi ích kinh tế
của quốc gia chịu tổn thất. Nhưng theo đuổi tối đa hóa lợi ích kinh tế một
cách phiến diện, thi hành “ngoại giao kinh tế” lợi mình hại người, có thể
khiến lợi ích của các bên đều chịu tổn thất. Trong thập niên 1950-1960, Nhật
Bản theo đuổi lợi ích kinh tế tại khu vực Đông Nam Á một cách gần như
tuyệt đối, coi nơi đây là nơi cung cấp nguyên liệu sản xuất và thị trường tiêu
thụ hàng hóa, và thực thi chính sách thương mại, đầu tư, viện trợ để nhằm đạt
tới mục đích của riêng mình, bất chấp các yếu tố khác. Điều đó đã gây tổn hại
nghiêm trọng tới hình tượng của Nhật Bản tại Đông Nam Á, khiến cho tinh
thần chống Nhật của người dân một số nước dâng cao, thậm chí xuất hiện
những sự kiện chống Nhật như tẩy chay hàng Nhật, đốt xe hơi và quốc kỳ
Nhật Bản… Nhật Bản cũng theo đuổi chính sách tối đa hóa lợi ích một cách
phiến diện, thực thi bảo hộ thị trường trong nước quá mức, đã làm căng thẳng

9
và gây ra va chạm trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài, đặc biệt là
các nước Âu, Mỹ khiến các cuộc chiến thương mại thường nổ ra vô cùng kịch
liệt.
1.3.3. Ngoại giao kinh tế có thể mang tính giai đoạn, có thể mang tính lâu
dài
Trong lịch sử hiện đại, có một số nước thực hiện ngoại giao kinh tế trong
một giai đoạn nhất định. Nhưng tính chất giai đoạn không đúng trong trường
hợp đối với các quốc gia có tham vọng trở thành cường quốc kinh tế, theo
đuổi hoài bão quốc tế lớn hơn nữa, đã thực hiện ngoại giao kinh tế như một
chiến lược lâu dài. Ví như trường hợp Nhật Bản đã duy trì chiến lược ngoại
giao kinh tế liên tục từ những năm 1950 đến nay. Thậm chí, người ta chưa
thấy dấu hiệu chứng tỏ Nhật Bản sẽ dừng lại hay giảm bớt việc thực hiện
ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển kinh tế và đối ngoại.
1.3.4. Ngoại giao kinh tế không thể là công cụ để chuyển hóa sức mạnh
kinh tế thành sức mạnh chính trị một cách tuyệt đối
Đối với một nước lớn, thực lực kinh tế không đồng nghĩa với tổng lực
quốc gia, thực lực kinh tế cũng không đồng nghĩa với sức mạnh quân sự,
cường quốc kinh tế càng không đồng nghĩa với một cường quốc chính trị,
muốn chuyển biến sức mạnh kinh tế hùng mạnh thành tư bản chính trị to lớn,
buộc phải trải qua một quá trình hoán chuyển thực lực, quá trình hoán chuyển
này cần thời gian và thời cơ để hoán chuyển, không thể thực hiện trong phút
chốc. Trường hợp Nhật Bản và Đức giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến hết Chiến
tranh thế giới thứ hai, sau khi trở thành cường quốc kinh tế, đều tích cực nỗ
lực thực hiện chuyển biến từ cường quốc kinh tế sang cường quốc chính trị.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ngoại giao kinh tế đã giúp Nhật Bản từ một
nước chiến bại sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trở thành cường quốc kinh tế
lớn thứ hai trên thế giới vào những năm 1970, nhưng quá trình chuyển biến
thành cường quốc chính trị của Nhật Bản không hề thuận lợi. Trung Quốc
hiện nay, sau khi trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang nỗ lực

10
chuyển biến sức mạnh kinh tế với những ảnh hưởng quốc tế to lớn thành sức
mạnh chính trị toàn cầu nhưng chưa đạt được mục tiêu.
1.3.5. Ngoại giao kinh tế có thể thỏa hiệp
Điểm khác biệt rõ ràng giữa “ngoại giao kinh tế” và “ngoại giao chính trị”
là “ngoại giao chính trị” mang “tính cương” còn “ngoại giao kinh tế” mang
“tính nhu”. “Tính cương” nghĩa là khó đạt được thỏa hiệp bởi bản chất của
chính trị quốc tế là tranh giành quyền lực, thông thường nước nắm quyền lực
trong tay quyết không muốn chia sẻ quyền lực với quốc gia khác, mà họ quan
tâm nhiều hơn tới lợi ích tương đối, tức ai giành được nhiều lợi ích hơn. “Tính
nhu” thường dễ dàng đạt được thỏa hiệp, do một quốc gia khó lòng độc chiếm
lợi ích kinh tế. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Nhật Bản, Mỹ và châu Âu
đã từng có thời điểm vô cùng quyết liệt, nhưng cuối cùng vẫn đạt được thỏa
hiệp. Do đó, “ngoại giao kinh tế” có hình tượng hòa bình, có lợi cho việc tăng
cường quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, dễ dàng được chấp nhận. Khi lâm
vào tình thế khó khăn, các nước đều lựa chọn “ngoại giao kinh tế” để tìm đến
lối thoát, duy trì sự tồn tại và phát triển.

11
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHIẾN LƯỢC NGOẠI GIAO
KINH TẾ TIÊU BIỂU GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY
2.1. Quan điểm, chủ chương của Đảng về ngoại giao kinh tế qua các kỳ
Đại hội
Công tác Ngoại giao Kinh tế đã có một quá trình hình thành, phát triển
hơn nửa thế kỷ, đồng hành cùng sự phát triển của đất nước kể từ khi giành
được độc lập.
Ngay từ những năm giữa thập kỷ 70 khi đất nước sắp được thống nhất,
Ngành Ngoại giao đã sớm xác định cần một phương hướng mới là Ngoại giao
Kinh tế để phục vụ đất nước phục hồi sau chiến tranh.
Tổ Công tác nghiên cứu về kinh tế của Bộ Ngoại giao được thành lập, đã
tiên phong tìm hiểu, nghiên cứu mô hình, xu thế phát triển của kinh tế thế giới
và tham mưu cho Đảng và Chính phủ trong hoạch định đường lối, chính sách
phát triển kinh tế, khắc phục các khó khăn như chống lạm phát, giải quyết vấn
đề nợ...; mạnh dạn đề xuất các ý tưởng đổi mới và mang tính đột phá về kinh
tế, góp phần khởi nguồn cho sự nghiệp đổi mới của nước ta; tích cực mở rộng
quan hệ quốc tế, vận động tranh thủ viện trợ phục vụ tái thiết đất nước và nỗ
lực triển khai các chính sách phá bao vây, cấm vận.
Cùng với sự chuyển biến của bối cảnh trong và ngoài nước, quan điểm và
nhận thức của Đảng về ngoại giao kinh tế cũng có những thay đổi, làm kim
chỉ nam cho các chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước trong từng thời
kỳ.
Nếu như tại Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự hợp
tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ
kinh tế” thì đến Đại hội Đảng VI (1986) Đảng đã xác định quan hệ kinh tế
quốc tế giai đoạn này không chỉ tập trung vào Liên xô và các nước trong cùng
hệ thống xã hội chủ nghĩa mà phải mở rộng quan hệ với các nước thứ ba, các
nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Đây là quan điểm mở đường cho việc “đa

12
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế” của
Việt nam giai đoạn sau này (Đại hội VII năm 1991).
Tuy nhiên, thuật ngữ “hội nhập” trong các phương châm về ngoại giao
kinh tế chỉ được chính thức được đề cập tại Đại hội VIII (năm 1996) khi Đảng
xác định nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn mới phải “đổi mới cơ chế kinh tế
đối ngoại, hội nhập với khu vực và thế giới”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng đã xác
định việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (hội nhập KTQT)
nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Nghị quyết nhấn mạnh “xây
dựng một nền kinh tế mới hội nhập với khu vực và thế giới hướng mạnh về
xuất khẩu”, "Trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính
sách thu hút các nguồn lực bên ngoài", "tích cực và chủ động thâm nhập và
mở rộng thị trường quốc tế".
Giai đoạn sau này (Đại hội IX, X, XI, XII), Đảng đã nhấn mạnh tới việc
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế song vẫn phải đảm bảo
độc lập tự chủ. Khác với giai đoạn trước, đẩy mạnh hợp tác với các nước trên
thế giới và khu vực của giai đoạn này không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn
ở các lĩnh vực khác, thể hiện tinh thần hội nhập toàn diện với khu vực và thế
giới.
Nhằm thực hiện các quan điểm đó, nhiều văn bản đã được ban hành. Cụ
thể: Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-
NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số
chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”; Ngày 10-4-2013,
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế;
Ngày 7 tháng 1 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
40/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020,

13
tầm nhìn đến năm 2030 của Việt Nam; Nghị quyết số 06-NQ/TW Hội nghị
Trung ương 4 khóa XII ngày 5/11/2016…
Đại hội Đảng lần XIII đã đề ra những chủ trương, đường lối quan trọng
đối với công tác đối ngoại nói chung và công tác ngoại giao kinh tế nói riêng.
Đại hội XIII khẳng định “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” và xác
định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong “tạo lập và giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.
Văn kiện Đại hội cũng lần đầu tiên đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại
giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp
làm trung tâm”.
Quán triệt và thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XIII,
phát huy truyền thống của ngành Ngoại giao, thời gian qua, công tác ngoại
giao kinh tế đã được ngành Ngoại giao triển khai quyết liệt, toàn diện, chuyển
biến sâu sắc về chất và lượng, đạt nhiều kết quả quan trọng, đáng tự hào, tiếp
tục đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Trong bối cảnh thế giới và đất nước đối mặt với những thách thức chưa
từng có tiền lệ, đặc biệt là tác động của đợt dịch COVID-19 lần thứ tư, công
tác Ngoại giao Kinh tế đã được triển khai chủ động, tích cực, trong đó, ''Ngoại
giao Vaccine'' là điểm sáng nhất, đạt kết quả vượt kỳ vọng, đóng góp quan
trọng vào công cuộc phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Bộ Ngoại giao cùng các bộ, ngành thành viên của Tổ Công tác của Chính
phủ về Ngoại giao Vaccine do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn là Tổ
trưởng đã tham mưu Lãnh đạo Cấp cao điện đàm, tiếp xúc, trao đổi, gửi thư
tới lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế và tập đoàn sản xuất vaccine để vận
động viện trợ, cung ứng vaccine, trang thiết bị y tế, thuốc điều trị và chuyển
giao công nghệ.

14
Đây là các văn kiện, chủ trương, đường lối quan trọng, có ý nghĩa chiến
lược, làm rõ và thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập
quốc tế trong tình hình mới.
2.2. Thành tựu của Việt Nam trong hoạt động ngoại giao kinh tế sau hơn
35 năm Đổi mới.
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, hoạt động ngoại giao tập trung vào
việc tranh thủ viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, khắc phục hậu quả từ
thế bao vây cấm vận của phương Tây đối với Việt Nam. Bộ Ngoại giao tích
cực đóng góp vào việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Năm 1985,
ngoại giao phục vụ kinh tế được xác định là nhiệm vụ chính của ngành. Bước
vào thời kỳ đổi mới, Bộ Ngoại giao dành nhiều quan tâm và nguồn lực hơn
cho các hoạt động kinh tế nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động
thương mại, đầu tư. Công tác ngoại giao kinh tế đã có những bước phát triển
quan trọng, góp phần tích cực vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định,
phá bỏ thế bao vây cấm vận; tháo gỡ, khai thông bế tắc giữa Việt Nam với các
đối tác lớn, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), triển khai chính sách hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ
động.
Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX cho đến năm 2006, công tác ngoại
giao kinh tế được triển khai với ba trọng tâm: Tiếp tục mở rộng quan hệ giữa
Việt Nam với các nước; thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc gia
nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đàm phán
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tích cực tham gia các diễn đàn
khu vực và cơ chế hợp tác của Liên hợp quốc; mở rộng hỗ trợ các bộ, ngành,
địa phương và doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại,
như thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức
(ODA); đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, xuất khẩu lao động và xúc tiến du lịch.

15
Trong giai đoạn này, nhận thức về ngoại giao kinh tế được nâng cao. Hoạt
động ngoại giao kinh tế được triển khai một cách đồng bộ, toàn diện, có trọng
tâm, trọng điểm. Ngoại giao kinh tế đã kết hợp hài hòa với ngoại giao chính
trị và ngoại giao văn hóa. Qua các chuyến thăm cấp cao, nhiều thỏa thuận hợp
tác kinh tế lớn được triển khai; các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại được
tổ chức thành công và đạt hiệu quả tích cực. Nhiều cơ quan đại diện tích cực
trong việc giới thiệu các cơ hội, đối tác, khai thác các thị trường tiềm năng,
cũng như phối hợp, hỗ trợ các cơ quan, doanh nghiệp trong nước kịp thời xử
lý các tranh chấp kinh tế quốc tế.
Ngoại giao kinh tế thường xuyên tăng cường thông tin, nghiên cứu để
tham mưu cho Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô, đưa ra các
giải pháp để khắc phục các thách thức, khó khăn. Ngoài ra, ngoại giao kinh tế
chủ động hỗ trợ các yêu cầu cụ thể của các bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp, tham gia xử lý các vụ kiện tranh chấp thương mại,...; hỗ trợ các địa
phương trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, như giới thiệu các tổ
chức xúc tiến đến tìm hiểu các địa phương Việt Nam, tổ chức các hội nghị
xúc tiến đầu tư của địa phương trong nước.
Ngoại giao kinh tế còn chú trọng vận động kiều bào ở nước ngoài. Tháng
7-2006, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị các doanh nghiệp
Việt kiều tại Đà Nẵng, thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp Việt kiều. Nhiều
cơ quan đại diện, nhất là tại Nga và Trung - Đông Âu, đã vận động các doanh
nghiệp Việt kiều kết nối, đưa hàng hóa của Việt Nam vào khu vực này. Tuy
nhiên, do đây là thời kỳ “chuyển mình”, “tìm đường” nên hoạt động ngoại
giao kinh tế không tránh khỏi những lúng túng, bỡ ngỡ ban đầu. Cách thức
thực hiện, tổ chức bộ máy vẫn chưa theo kịp thực tiễn. Nội hàm của ngoại
giao kinh tế vẫn cần tiếp tục được điều chỉnh và hoàn thiện.
Giai đoạn từ năm 2007 đến nay, vai trò của ngoại giao kinh tế đã được xác
định rõ hơn, đó là: Vai trò mở đường, phát huy sức mạnh của ngoại giao kinh
tế cùng với ngoại giao chính trị, ngoại giao văn hóa để khai thông, mở rộng và

16
đưa quan hệ hợp tác của Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, đi tiên
phong trong việc khai mở các thị trường, các lĩnh vực hợp tác quốc tế mới.
Vai trò tham mưu cho Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương trong việc
hoạch định chính sách vĩ mô, chiến lược phát triển, các vấn đề kinh tế - chính
trị quốc tế, quan hệ kinh tế quốc tế. Vai trò hỗ trợ cùng các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế đối ngoại trên tinh thần các bộ,
ngành, địa phương, doanh nghiệp là chủ đạo, ngoại giao kinh tế hỗ trợ, giải
quyết những vấn đề vướng mắc trong triển khai các kế hoạch, dự án hợp tác
với nước ngoài. Vai trò đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện các nhiệm
vụ, các cam kết quốc tế về kinh tế đối ngoại.
Đến nay, công tác ngoại giao kinh tế được triển khai trên nhiều lĩnh vực
và đạt được những kết quả quan trọng:
Một là, chủ động đề xuất, gia tăng nội hàm kinh tế trong các chuyến thăm
của lãnh đạo cấp cao, nâng cao hiệu quả cơ chế điều hành và phối hợp của
ngoại giao kinh tế. Những chuyến thăm này khác trước ở chỗ, vừa tăng cường
quan hệ chính trị, vừa tăng cường quan hệ kinh tế. Năm 2018, ngoại giao kinh
tế đã đi đầu thúc đẩy hình thành có trọng tâm các kênh hợp tác mới, khả thi,
dài hạn, nhất là với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đồng thời tháo gỡ
những vướng mắc trong quan hệ kinh tế song phương. Về bình diện đa
phương, Bộ Ngoại giao cùng các bộ, ngành đã vận động các nước, thúc đẩy
các đàm phán, ký kết và phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do (FTA),
nhất là các FTA thế hệ mới, bảo đảm lợi ích then chốt, vị thế đối ngoại và
quan hệ của Việt Nam với các đối tác quan trọng. Góp phần hiệu quả vào việc
vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Đến nay đã
có 71 nước công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường(1).
Hai là, thúc đẩy, tạo bước đột phá trong quan hệ của Việt Nam với các
nước, tạo môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2018 ghi
nhận nỗ lực thúc đẩy những lợi ích kinh tế thiết thực, nâng cao hình ảnh và vị
thế đối ngoại của Việt Nam tại các diễn đàn đa phương, như Hiệp hội các

17
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), APEC, Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM),
các cơ chế hợp tác tiểu vùng như Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS),
Tổ chức Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady - Chao Phraya - Mê Công
(AMECS),... Đặc biệt, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN (WEF
ASEAN) được tổ chức tại Việt Nam năm 2018 đã tạo được nhiều dấu ấn sâu
đậm. WEF ASEAN 2018 đem lại nhiều ý tưởng hữu ích cho Việt Nam trong
xây dựng, triển khai các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng
như trong công tác chuẩn bị cho việc đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN
2020.
Ba là, với thế mạnh đặc thù quản lý mạng lưới cơ quan đại diện ở nước
ngoài và được tiếp xúc các cơ chế tham vấn chính sách quốc tế, ngoại giao
kinh tế kịp thời thực hiện các báo cáo đánh giá, dự báo về tình hình kinh tế
thế giới, cung cấp kinh nghiệm quốc tế về xử lý các vấn đề kinh tế, tham mưu
cho Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, ứng phó với khủng hoảng.
Đối với doanh nghiệp, các cơ quan đại diện và các đơn vị của Bộ Ngoại
giao đã tích cực hỗ trợ việc tìm hiểu tập quán kinh doanh, tìm kiếm cơ hội đầu
tư, thâm nhập thị trường nước ngoài, bảo hộ lợi ích và hỗ trợ doanh nghiệp
tháo gỡ khó khăn trong tranh chấp thương mại. Phát huy vai trò cầu nối, các
cơ quan đại diện cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, kinh doanh, giải
đáp các thắc mắc về quy định kinh doanh của Việt Nam, hỗ trợ nhiều tập đoàn
nước ngoài mở rộng, tăng cường đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Bộ Ngoại
giao cũng đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai các hoạt động xúc
tiến kinh tế đối ngoại mang tính đột phá vào một số thị trường trọng điểm.
Bốn là, đổi mới vai trò của ngoại giao kinh tế trong việc góp phần kiến tạo
những điều kiện cần cho chuyển tiếp kinh tế Việt Nam trong giai đoạn phát
triển mới. Bộ Ngoại giao đã đa dạng hóa, đa phương hóa các kênh, nguồn
thông tin, tranh thủ tối đa hợp tác của các đối tác nước ngoài. Đa dạng hóa các
sản phẩm thông tin kinh tế, như ngoại giao kinh tế trực tuyến, bản tin nhanh
nhằm cung cấp thông tin cập nhật và kịp thời về tình hình và chính sách kinh

18
tế của các nước lớn, của khu vực, các bài nghiên cứu về các vấn đề “nóng”,
các vấn đề mới nổi.
Các hoạt động hỗ trợ địa phương được coi trọng và triển khai dưới nhiều
hình thức như hỗ trợ tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tại chỗ, hỗ trợ kết nối
hợp tác giữa các địa phương Việt Nam với các địa phương nước ngoài, tổ
chức các đoàn xúc tiến của địa phương ở nước ngoài có trọng tâm, trọng
điểm. Trong năm 2018, nhân dịp Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, Bộ Ngoại
giao lần đầu tiên tổ chức tọa đàm giữa các cơ quan đại diện của Việt Nam ở
hơn 90 quốc gia với gần 400 doanh nghiệp để trao đổi về nhu cầu cần hỗ trợ
của doanh nghiệp và cùng thảo luận về cơ chế hỗ trợ trong những năm tiếp
theo.
Năm là, ngoại giao kinh tế góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc. Việc huy động cộng đồng và doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài
đóng góp trí tuệ, vốn, tài sản và tiềm năng khoa học - công nghệ đối với sự
phát triển của đất nước được quan tâm thỏa đáng. Bộ Ngoại giao đã tích cực
tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, tranh thủ nguồn lực tri thức và tài chính
của kiều bào đóng góp cho phát triển đất nước, phát huy vai trò của cộng
đồng và doanh nghiệp người Việt Nam ở nước ngoài để mở rộng thị trường
cho hàng hóa, dịch vụ Việt Nam tại địa bàn.
2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác ngoại giao kinh tế của Việt
Nam.
Sau hơn 35 năm đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những thành
tựu đạt được, kinh tế đối ngoại Việt Nam vẫn còn một số tồn tại, hạn chế sau:
Thứ nhất, nhận thức của một bộ phận cán bộ về kinh tế đối ngoại nói riêng
và kinh tế quốc tế nói chung vẫn còn hạn chế. Trong đó, sự chuyển biến về
nhận thức và hành động ở các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài chưa
thật sự đồng đều, toàn diện…
Thứ hai, công tác phổ biến thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế
chưa thật sâu rộng ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương và cả trong

19
cộng đồng doanh nghiệp. Việc cung cấp thông tin tham mưu chiến lược về
tình hình kinh tế thế giới, về đối tác, thị trường trong thời gian qua đã được
tăng cường, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh mới... Khả
năng nhận định, đánh giá và dự báo tình hình chưa cao, các vấn đề về xây
dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong các lĩnh vực hội nhập
kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới nhìn
chung còn yếu.
Thứ ba, hiệu quả hợp tác chưa được như kỳ vọng, ngoại giao đa phương
chưa phát huy hết các lợi thế, chưa tận dụng tốt các cơ hội để kinh tế nước ta
hội nhập quốc tế nhanh và sâu hơn. công tác quảng bá hình ảnh đất nước, hỗ
trợ xúc tiến kinh tế đối ngoại chưa ngang tầm với tiềm năng quan hệ giữa Việt
Nam và đối tác. Về mặt chính sách, Việt Nam đang thiếu một Chiến lược tổng
thể về hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó tăng cường hiệu quả và tính chủ động
trong phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.
Thứ tư, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao kinh tế vẫn còn
nhiều hạn chế, cần tiếp tục được nâng cao năng lực và trang bị những kỹ năng
cần thiết, nhất là trình độ ngoại ngữ, kiến thức luật kinh tế quốc tế, kỹ năng
thương lượng, đàm phán, vận động… Đội ngũ các doanh nghiệp tham gia vào
hoạt động ngoại giao kinh tế đã tăng cả về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các công ty
hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn chủ yếu là các công ty quốc
doanh, không hoạt động xuyên quốc gia, không đa dạng hóa các hoạt động...
khiến lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế thua kém các công ty xuyên quốc
gia của các quốc gia khác.
2.4. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Việt Nam cũng còn gặp không ít khó
khăn, đặc biệt là chưa tận dụng được hết những cơ hội mà quá trình hội nhập

20
kinh tế quốc tế đem đến mà ngược lại hội nhập kinh tế quốc tế còn làm trầm
trọng hơn những khó khăn nội tại của nền kinh tế, cụ thể:
Thứ nhất, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng nhanh, càng rộng thì áp
lực cạnh tranh đối với sản xuất trong nước càng lớn trong khi đó năng lực sản
xuất trong nước chậm cải thiện, đặc biệt là ở các ngành công nghiệp hỗ trợ
nên nhập siêu đã liên tục tăng lên (chủ yếu nhập các nguyên vật liệu đầu vào
cho sản xuất). Trong khi đó, sự chuẩn bị trong nước về cơ bản là chưa đầy đủ,
chưa có sự nỗ lực chung của cả cộng đồng để tận dụng cơ hội từ hội nhập. Do
đó, cơ cấu kinh tế còn chậm chuyển dịch theo hướng hợp lý và hiệu quả. Tình
trạng phát triển dàn trải, không có trọng tâm của nền kinh tế trong điều kiện
các nguồn lực hạn chế đang kìm hãm khả năng tăng trưởng vượt bậc và bền
vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vẫn ở mức thấp, khu vực tư
nhân mặc dù đã phát triển song quy mô còn nhỏ và còn nhiều hạn chế về năng
lực tài chính. Ngoài ra, các vấn đề về đất đai, lao động, vốn và công nghệ còn
chưa phát triển đồng bộ … tất các những vấn đề này đều tác động và ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Thứ hai, năng lực kiểm soát và điều tiết các dòng vốn còn yếu khiến cho
hiệu quả của FDI cũng như ODA chưa cao. Hội nhập KTQT đã mang lại cho
Việt nam cơ hội thu hút các dòng vốn nước ngoài cho phát triển kinh tế đất
nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy bên cạnh những tác động tích cực, chất
lượng kiểm soát và điều tiết, quản lý các dòng vốn này chưa cao nên những
vấn đề từ thu hút FDI (ô nhiễm môi trường, chuyển giá, thất thu thuế, tác
động lan tỏa từ khu vực kinh tế nhà nước sang các khu vực khác kém…), hiệu
quả sử dụng ODA, ổn định kinh tế vĩ mô… đều là thách thức không nhỏ đối
với Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ ba, các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong
các lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến
lược tổng thế. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực hiện và giám sát quá
trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều

21
bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện.
Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu
hội nhập.
Thứ tư, khả năng nhận định, đánh giá và dự báo trước tình hình diễn biến
trên thực tế để chủ động xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế.

22
CHƯƠNG III. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC NGOẠI GIAO KINH TẾ.
3.1. Nhiệm vụ trọng tâm nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế
đến năm 2030.
Chỉ thị số 15-CT/TW nêu rõ, sau 12 năm thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW
ngày 15/4/2010 của Ban Bí thư khoá X, công tác ngoại giao kinh tế đã có
chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Tuy nhiên, nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của ngoại giao kinh tế chưa đầy đủ; ngoại giao kinh tế
chưa theo kịp tình hình và yêu cầu phát triển đất nước, chưa gắn kết chặt chẽ
với ngoại giao về quốc phòng, an ninh, văn hoá - xã hội để tạo thành sức
mạnh tổng hợp…
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội
và đường lối đối ngoại mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế một cách toàn diện, thực
chất trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, Ban Bí thư yêu cầu các cấp
uỷ, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của công tác ngoại giao kinh tế. Xác định ngoại giao kinh tế là một
nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của nền ngoại giao Việt Nam, một động lực quan
trọng để phát triển đất nước nhanh, bền vững; đóng vai trò tiên phong trong
huy động các nguồn lực bên ngoài, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, tăng cường tiềm lực, sức cạnh tranh và năng lực thích ứng của nền
kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, hiệu quả. Trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác ngoại
giao kinh tế cần xác định rõ trọng tâm, trọng điểm, lấy lợi ích quốc gia - dân
tộc, hiệu quả thực chất làm tiêu chí hàng đầu trong triển khai hoạt động ngoại
giao kinh tế.

23
Thứ hai, tiếp tục mở rộng, làm sâu sắc hơn quan hệ và tạo thế đan xen lợi
ích kinh tế với các đối tác. Với các đối tác quan trọng, nhất là các nước láng
giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện phải chủ động, tích cực tạo lập,
hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác, gắn kết chặt chẽ quan hệ chính trị, đối
ngoại với hợp tác kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hoá, giáo dục và khoa học
- công nghệ... Tranh thủ tối đa các quan hệ chính trị đối ngoại để thúc đẩy hợp
tác, liên kết kinh tế, qua đó củng cố vững chắc quan hệ với các đối tác, nâng
cao tiềm lực, vị thế, uy tín đất nước.
Việc giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế với các đối tác phải bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, hài hoà với lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các đối tác. Nâng tầm đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và
phát huy vai trò, thúc đẩy sáng kiến của Việt Nam tại các cơ chế, diễn đàn
kinh tế quốc tế và những vấn đề quốc tế có tầm quan trọng chiến lược, phù
hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể của ta. Chủ động đóng góp vào
tiến trình cải tổ, nâng cao hiệu quả các tổ chức quản trị kinh tế toàn cầu; xây
dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế quốc tế.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030. Thực thi và tận
dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, chủ động xử lý các vấn đề
phức tạp nảy sinh trong quá trình thực hiện các cam kết, giảm thiểu tối đa
thiệt hại, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Tham gia có chọn lọc các liên
kết kinh tế quốc tế; đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do phù
hợp với ưu tiên và lợi ích của ta; tích cực vận động, thu hút, hợp tác đầu tư
nước ngoài có chọn lọc. Chủ động mở rộng, làm sâu sắc hơn hợp tác khoa học
- công nghệ, thu hút nguồn lực bên ngoài cho nghiên cứu, ứng dụng, chuyển
giao và phát triển công nghệ; thành lập các trung tâm nghiên cứu phát triển,
đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển hệ sinh
thái khởi nghiệp sáng tạo, tham gia hiệu quả vào mạng lưới đổi mới sáng tạo
toàn cầu.

24
Đồng thời, tiếp tục đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường, đối tác, tránh
lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; chủ động, tích cực tham gia và củng
cố vững chắc vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu trên cơ sở
đáp ứng các tiêu chí phát triển bền vững. Xây dựng, hoàn thiện chính sách,
pháp luật, cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả viện trợ của Việt Nam cung cấp
cho nước ngoài, bảo đảm thống nhất, minh bạch, thiết thực, phù hợp với tiềm
lực đất nước, phục vụ các lợi ích an ninh - phát triển và nâng cao vị thế, uy tín
đất nước.
Bên cạnh đó, khuyến khích, tạo điều kiện để đồng bào Việt Nam ở nước
ngoài tích cực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách thủ tục hành chính và triển khai đồng
bộ các chính sách liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài khi về nước
làm việc, thường trú; tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài
về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Thứ tư, xây dựng ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân và
doanh nghiệp làm trung tâm. Khuyến khích sự tham gia chủ động, tích cực
của các địa phương, doanh nghiệp và người dân vào hoạt động ngoại giao
kinh tế. Tập trung hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp khai thác
hiệu quả các thị trường quốc tế, tiếp cận các nguồn vốn gắn với công nghệ
cao, tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị, sản xuất khu vực và toàn cầu.
Hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp và thị
trường trong nước phù hợp với các cam kết và luật pháp quốc tế. Tiếp tục đổi
mới, đa dạng hoá phương thức, phát huy vai trò của các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại - đầu tư. Tăng
cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đối ngoại trong thẩm định, xử lý
vướng mắc trong các dự án quan trọng có yếu tố nước ngoài hoặc nhạy cảm
về đối ngoại.

25
Thứ năm, tăng cường theo dõi, nắm chắc, cập nhật kịp thời, hiệu quả
thông tin, tình hình kinh tế thế giới; nâng cao năng lực dự báo, tham mưu
chiến lược về kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh hơn nữa nghiên cứu, tổng kết kinh
nghiệm phát triển của các nước, luật pháp và tập quán kinh tế quốc tế, nhạy
bén phát hiện các xu hướng, mô hình phát triển mới. Tích cực mở rộng mạng
lưới, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức nghiên cứu, tư vấn kinh tế
quốc tế có uy tín để có nguồn thông tin chính xác, chất lượng phục vụ công
tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo chiến lược về kinh tế. Các bộ, ngành, địa
phương cần gắn kết, trao đổi thông tin với người dân, doanh nghiệp để triển
khai các hoạt động ngoại giao kinh tế thiết thực, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất
nước.
Thứ sáu, tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy hơn nữa vai trò
của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân tại các diễn
đàn kinh tế đa phương. Nâng tầm quan hệ đối ngoại với các chính đảng, các
đảng cầm quyền, các tổ chức nhân dân của các nước, góp phần thúc đẩy quan
hệ song phương, tạo thuận lợi cho công tác ngoại giao kinh tế. Nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ chế phối hợp liên ngành trong đối ngoại và hội nhập
quốc tế, giữa ngoại giao kinh tế với ngoại giao văn hoá, quốc phòng - an ninh;
giữa song phương và đa phương; giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị,
các ngành, các địa phương và doanh nghiệp trong triển khai ngoại giao kinh
tế.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm
công tác đối ngoại và ngoại giao kinh tế của các cấp, ngành, địa phương,
doanh nghiệp về đạo đức, bản lĩnh chính trị, kiến thức, năng lực, trình độ, kỹ
năng về ngoại giao kinh tế, kinh tế quốc tế, pháp luật quốc tế và hội nhập kinh
tế quốc tế... Bố trí và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công tác ngoại giao kinh tế trong tình hình mới, bảo đảm thiết thực,
hiệu quả, phù hợp với đặc thù của ngoại giao kinh tế.

26
Thứ bảy, các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn,
đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, học tập quán triệt Chỉ thị
cho cán bộ, đảng viên, nhân dân và doanh nghiệp; lãnh đạo, chỉ đạo việc thực
hiện Chỉ thị trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao. Đảng đoàn Quốc
hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện cơ
chế, chính sách, pháp luật; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối
với các hoạt động ngoại giao kinh tế.
Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với ban cán sự đảng các
bộ, ngành và cơ quan liên quan xây dựng, triển khai kế hoạch ngoại giao kinh
tế trong từng giai đoạn; chủ trì, phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương và
các cơ quan liên quan theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện
Chỉ thị này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại giao kinh tế trong bối
cảnh mới
Theo Elias G. Hadjikoumis (2021), sự bùng phát của đại dịch COVID-19
đang trở thành thách thức lớn nhất hiện nay của toàn cầu, khiến một số vấn đề
kinh tế trở nên trầm trọng, đặc biệt là sự suy giảm trong xu hướng toàn cầu
hóa và thương mại tự do, xuất hiện thái độ bảo hộ với thương mại quốc tế và
sự gián đoạn của chuỗi cung ứng. Nếu như trước đây, chuỗi cung ứng kịp thời
được coi là phương pháp hiệu quả nhất thì trong tương lai gần, nhiều quốc gia
lựa chọn phát triển các chuỗi cung ứng phù hợp với mục đích phục hồi kinh
tế.
Điển hình là trong đại dịch COVID-19, việc dựa vào hàng công nghiệp
của Trung Quốc có thể gây tổn hại khả năng phục hồi kinh tế của Mỹ, nên
nước này đã khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc hoặc
chuyển sang các quốc gia khác. Nhật Bản đã dành một quỹ trị giá 2,2 tỷ USD
để hỗ trợ các công ty của nước này chuyển cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang
Đông Nam Á. EU đóng vai trò quan trọng trong ngoại giao kinh tế đối với 28

27
quốc gia thành viên, nhưng mỗi quốc gia đều có chiến lược ngoại giao kinh tế
độc lập riêng, vì lợi ích cụ thể của một quốc gia có thể không phù hợp với lợi
ích của EU.
Sự kiện Brexit là một minh chứng cụ thể về tầm quan trọng của việc mỗi
quốc gia cần có chiến lược ngoại giao kinh tế độc lập. Dưới tác động của toàn
cầu hoá, các quốc gia phải điều chỉnh lại chính sách và chiến lược kinh tế đối
ngoại của mình đối với các quốc gia khác nhằm thúc đẩy lợi ích của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, thúc đẩy phát triển ngoại giao kinh tế trong bối cảnh mới,
Việt Nam cần chú trọng các giải pháp trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức cho các cơ quan, đội ngũ cán bộ liên quan đến
ngoại giao kinh tế và cộng động doanh nghiệp về chiến lược ngoại giao kinh
tế, đặc biệt là về những diễn biến mới, thách thức mới và các cách thức ứng
phó như: Bảo hộ với thương mại quốc tế, đứt gãy chuối cung ứng, các biện
pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá…
Hai là, tiếp tục sửa đổi và ban hành các quy định pháp luật phục vụ cho
hoạt động ngoại giao kinh tế, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
Theo các chuyên gia kinh tế, mức độ tín nhiệm của một quốc gia phụ thuộc
vào khả năng đảm bảo rằng, hệ thống luật pháp của quốc gia đó đối với các
hoạt động kinh tế phải minh bạch, rõ ràng, tuân theo các nguyên tắc của thị
trường và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam cần có chiến lược tổng thể về
hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tăng cường hiệu quả và tính chủ động trong
phối hợp liên ngành để triển khai các cam kết quốc tế.
Ba là, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa lợi thế từ
các hiệp định thương mại tự do đã có hiệu lực; đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu, nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường nhỏ và thị trường ngách; đa dạng
hóa cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất
khẩu. Điều này càng phải được đẩy mạnh hơn trong bối cảnh đại dịch
COVID-19 đang tác động đến hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn của Việt
Nam.

28
Bốn là, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng để mở rộng các hoạt động
ngoại giao kinh tế: Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là
các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các
đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống
liên lạc, viễn thông, các trung tâm logistics... Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới; cung cấp, cập
nhật thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách biên mậu của nước láng
giềng; hướng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa
khẩu chính để đảm bảo ổn định và phòng tránh được những rủi ro hoạt động
thương mại biên giới.
Năm là, đổi mới cơ cấu nhập khẩu theo hướng gia tăng nhập khẩu bằng
phát minh sáng chế, các công nghệ mới...; chú trọng nhập khẩu các dịch vụ
cần cho phát triển kinh tế đối ngoại, trước mắt như: Các dịch vụ tư vấn, các
dịch vụ cung ứng vốn, các dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ viễn thông; tăng tỷ
trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng, giảm bớt hàng rào bảo hộ.
Sáu là, nghiên cứu rà soát các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp tham
gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại. Cụ thể, rà soát, điều chỉnh các chính sách
về thu hút đầu tư nhằm thu hút mạnh đầu tư trong nước và ngoài nước vào
lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, rà soát và ưu tiên tín dụng cho
các doanh nghiệp có năng lực xuất khẩu. Về mặt vĩ mô, chủ động điều hành
chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối linh hoạt nhằm ổn định kinh tế vĩ mô,
cân đối hài hòa giữa yêu cầu xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu.
Bảy là, tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường
xuất khẩu; phát triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị
trường lớn và tiềm năng; Tiếp tục phát huy vai trò của các cơ quan đại diện
ngoại giao ở nước ngoài trong việc hỗ trợ tìm kiếm thị trường, chính sách của
quốc gia sở tại, cũng như tăng cường bảo vệ hàng hóa và doanh nghiệp Việt
Nam trên thị trường khu vực và thế giới…

29
Tám là, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động ngoại
giao kinh tế. Trong thời gian tới, tiếp tục cử các cán bộ đi học các lớp ngắn
hạn ở nước ngoài chuyên về các quan hệ kinh tế quốc tế, kỹ thuật đàm phán
quốc tế và luật pháp quốc tế. Tăng cường đầu tư cho các trường đại học đào
tạo các chuyên ngành quốc tế, cho các viện nghiên cứu quốc tế, cho các bộ
phận nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho các trường dạy những nghề phục vụ
cho hoạt động kinh tế đối ngoại...

C. KẾT LUẬN
Hiện nay, kinh tế thế giới chuyển động nhanh với nhiều cơ hội, nhưng
cũng nhiều bất ổn khó lường, trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang
tác động sâu rộng và toàn diện đến mọi nền kinh tế, Việt Nam cần phải “nhập
cuộc”, nếu không sẽ bị tụt hậu và đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng của
ngành ngoại giao. Các nhà hoạch định chiến lược ngoại giao phải nâng tầm
công tác ngoại giao kinh tế và lấy ngoại giao kinh tế làm tiêu chuẩn để đánh
giá các cơ quan đại diện. Cụ thể, ngoại giao kinh tế cần làm tốt bốn nhiệm vụ
lớn là: thu thập thông tin một cách chính xác, kịp thời, liên tục, đặc biệt là dự
báo kinh tế; tham mưu cho Chính phủ, Bộ ngành, địa phương và doanh
nghiệp; đồng hành, hỗ trợ các Bộ ngành và địa phương, doanh nghiệp, đặc
biệt là trong khâu tháo gỡ vướng mắc; đôn đốc triển khai các cam kết, thỏa
thuận, dự án hợp tác quốc tế. Trong đó, ngoại giao kinh tế cần lấy doanh
nghiệp làm trung tâm, đồng hành cùng doanh nghiệp vươn ra thế giới. Tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế có thành công hay không phụ thuộc vào sự năng
động, sáng tạo của các doanh nghiệp và thành công của doanh nghiệp trong
hội nhập. Một nhiệm vụ quan trọng nữa của ngoại giao kinh tế là tăng cường
tìm kiếm nguồn lực, quảng bá, xúc tiến thương mại, thu hút FDI, ODA, du
lịch, kiều hối, xuất khẩu lao động... để cùng cả nước phát triển nền kinh tế số,
công nghệ cao, thông minh trong cách mạng 4.0. Trong quá trình này, các
Trưởng cơ quan đại diện phải đóng vai trò chỉ đạo, tiên phong, lĩnh xướng,

30
thúc đẩy cơ hội đầu tư, quảng bá tiềm năng du lịch, tiếp thị các sản phẩm xuất
khẩu. Các Đại sứ phải trở thành cầu nối thúc đẩy quá trình chuyển giao công
nghệ, thu hút người tài nhất là trong lĩnh vực công nghệ tương lai của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, sức mạnh kinh tế được coi là một trong
những nhân tố hàng đầu quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Sức
mạnh kinh tế chính là nền tảng, là tiền đề, là điều kiện thúc đẩy sức mạnh
quốc gia về mặt chính trị, quân sự... Với vai trò đó, ngoại giao kinh tế trở
thành một trong những trụ cột quan trọng trong chính sách đối ngoại của các
quốc gia ở cả cấp độ song phương và đa phương. Vai trò của ngoại giao kinh
tế ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn hòa bình và phát triển, nhằm
bảo vệ và mở rộng tối đa lợi ích quốc gia, tăng cường cạnh tranh và hợp tác
quốc tế. Đây là xu hướng chung của hoạt động ngoại giao trên thế giới. Bất kể
quốc gia nào dù là nước phát triển hay đang phát triển đều chú trọng sử dụng
công cụ ngoại giao kinh tế để đạt được mục tiêu của mình. Trong kỷ nguyên
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ngoại giao kinh tế đang trở thành xu
thế tất yếu trong quan hệ quốc tế.

31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Lịch, Nguyễn Minh Trang (2018), Giáo trình Ngoại giao
kinh tế: Giáo trình dùng cho sinh viên chuyên ngành Kinh tế Quốc tế, Học
viện Ngoại giao; NXB. Lao động - xã hội.
2. Nguyễn Anh Tuấn (2005), Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, NXB.
Chính trị quốc gia.
3. Nguyễn Văn Lịch (2012), Giáo trình Kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị
quốc gia.
4. Chatterjee Charles (2021), Ngoại giao kinh tế và hoạch định chính sách
đối ngoại, NXB. Chính trị Quốc gia.
5. Trần Thọ Quang (2018), Ngoại giao kinh tế, Tạp chí Lý luận chính trị.
6. Nguyễn Minh Vũ (2023), Ngoại giao kinh tế đóng góp tích cực cho phát
triển đất nước, góp phần thực hiện hiệu quả đường lối của Đại hội Đảng lần
thứ XIII, Báo Chính phủ.
7. Đào Thị Nguyệt Nguyệt Hằng (2019), Nhận diện ngoại giao kinh tế trong
quan hệ quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị.
8. Nguyễn Văn Lịch, Phùng Huy Hoàng (2020), Nâng cao hiệu quả công
tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước, Tạp chí Cộng sản.
9. Bùi Thu Chang (2022), Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của Việt
Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Cộng sản.

32

You might also like