Professional Documents
Culture Documents
KHOA LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: THÀNH LẬP CỘNG HÒA LA MÃ ....................................................3
1.1. Vị trí địa lý ...........................................................................................................3
1.2. Rome và sự khởi đầu của một đế chế ................................................................ 4
1.3. Cộng hòa La Mã sơ khai .....................................................................................5
1.4. Xung đột mệnh lệnh ............................................................................................ 8
1.5. Cộng hòa Phát triển............................................................................................. 8
CHƯƠNG 2: LA MÃ MỞ RỘNG BIÊN GIỚI ........................................................10
2.1. La Mã chiến đấu với Carthage .........................................................................10
2.2. Các vấn đề của sự bành trướng........................................................................12
CHƯƠNG 3: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẾ CHẾ LA MÃ...................................................13
3.1. Nền cộng hòa suy yếu ........................................................................................13
3.2. Caesar nắm quyền lực .......................................................................................15
3.3. Đế chế La Mã .....................................................................................................16
CHƯƠNG 4: XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA LA MÃ ........................................................19
4.1. Xây dựng một đế chế vững mạnh ....................................................................19
4.2. Cuộc sống thời Đế chế .......................................................................................21
4.3. Khoa học và Nghệ thuật ....................................................................................23
CHƯƠNG 5: SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA CƠ ĐỐC GIÁO .....................................26
5.1. Sự khởi đầu của Cơ đốc giáo ............................................................................26
5.2. Sự lan rộng của Cơ đốc giáo .............................................................................28
5.3. Người La Mã chấp nhận Cơ đốc giáo .............................................................. 29
CHƯƠNG 6: SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ CHẾ PHƯƠNG TÂY ....................................30
6.1. Thời kì khủng hoảng trỗi dậy ...........................................................................30
6.1.1. Khủng hoảng về kinh tế ...............................................................................30
6.1.2. Quân sự và chính trị.....................................................................................31
6.2. Sự cố gắng cải cách của các vị hoàng đế.......................................................... 31
6.3. Cuộc xâm lược cuối cùng ..................................................................................32
6.4. Nguyên nhân của sự suy tàn .............................................................................33
1
MỞ ĐẦU
Cung cấp những thông tin chung, cần biết về lịch sử của La Mã từ cộng hòa đến
đế chế.
Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp lịch sử.
Phần mở đầu.
2
CHƯƠNG 1: THÀNH LẬP CỘNG HÒA LA MÃ
Những người La Mã đầu tiên đã thành lập một nước cộng hòa hùng mạnh và
được tổ chức chặt chẽ, phát triển và thay đổi theo thời gian. Mặc dù quyền lực của
người Hy Lạp suy yếu, nền văn hóa của họ vẫn sẽ tồn tại trong một nền văn minh mới
phát triển từ miền Tây nước Ý. Vào khoảng năm 750 trước Công nguyên một nhóm
các làng dọc theo sông Tiber hình thành nơi sẽ trở thành trung tâm của nền văn minh
La Mã.
Tuy nhiên, không phải mọi thứ về địa lý của Ý đều có lợi cho nó. Dãy núi Alps ở
phía bắc ngăn cách Ý với phần còn lại của châu Âu. Một số con đường cắt xuyên qua
các ngọn núi, tạo ra những con đường cho sự di chuyển của các dân tộc. Trong nhiều
thế kỷ, quân đội của kẻ thù đã tràn vào Ý qua những đoạn này. Bờ biển dài của Ý cũng
3
đã mở rộng khả năng tấn công từ biển.
Khoảng trước giữa những năm 700 trước Công nguyên, một nhóm người Latinh
đã di chuyển đến miền Tây trung tâm nước Ý. Vùng đồng bằng này được gọi là
Latium. Họ đã định cư và xây dựng các ngôi làng dọc theo sông Tiber. Theo thời gian,
những ngôi làng này hợp nhất để tạo thành La Mã. Vào cuối những năm 600 trước
Công nguyên, La Mã nằm dưới sự cai trị của các vị vua Etruscan từ miền bắc nước Ý.
Nền văn minh Etruscans chạy dài từ sông Arno ở phía bắc đến sông Tiber hướng vào
trung tâm bán đảo Italia. Ngôi làng nhỏ của người Latinh, mà sau này trở thành La Mã
nằm bên con sông Tiber này. Người La Mã là những dân làng trong giai đoạn phát
triển của nền văn minh Etruscan, có quan hệ mật thiết với người Etruscan về ngôn
ngữ, tư tưởng, tôn giáo, và xã hội. Người Etruscans có một ngôn ngữ viết, mà người
La Mã đã thích nghi. Người Etruscans chế tác đồ trang sức, may quần áo đẹp và làm
việc khéo léo bằng kim loại, đồ gốm và gỗ. Những cư dân thành phố này cũng biết
cách lát đường, khơi thông đầm lầy và xây dựng hệ thống cống rãnh. Dưới thời
Etruscans, Rome phát triển thành một quần thể rộng lớn và theo thời gian, người
Etruscan hòa vào dân số La Mã nói chung. Văn hóa của họ tuy nhiên vẫn tiếp tục ảnh
hưởng đến người La Mã.
Một số người Hy Lạp cũng định cư ở Ý cổ đại. Các thuộc địa của Hy Lạp ở miền
nam nước Ý và trên đảo Sicily trở thành các thành bang. Các thành bang này cũng bị
chia cắt và cãi vã - một số thành phố của Hy Lạp. Tuy nhiên, văn hóa Hy Lạp của
những thuộc địa này ảnh hưởng mạnh mẽ đến người La Mã. Ví dụ, mặc dù họ có
những cái tên khác nhau, nhưng nhiều vị thần La Mã đã phản chiếu các vị thần Hy
Lạp. Ví dụ, sao Mộc có những đặc điểm giống với thần Zeus của Hy Lạp. Thần thoại
La Mã cũng tương tự như thần thoại Hy Lạp.
4
Hình 1.1. Augustus, Hoàng đế La Mã đầu tiên.
(Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/2015/04/12/augustus/)
Rome được xây dựng trên bảy ngọn đồi dọc theo sông Tiber, cách bờ biển
khoảng 15 dặm vào đất liền. Vị trí này đã bảo vệ thành phố khỏi sự xâm lược của
đường biển. Vị trí của Rome cũng mang lại cho người dân những lợi thế về kinh tế.
Thành phố nằm dọc theo phần nông của sông Tiber, khiến nó trở thành một trong
những nơi dễ dàng nhất để băng qua sông. Điều này chính là lí do Rome trở thành
trung tâm của các tuyến đường thương mại trải rộng khắp vùng đất theo mọi hướng.
5
Năm 509 TCN vua Etruscan đã bị lật đổ và từ đó thay thế cho chế độ quân chủ,
người La Mã thành lập một nền cộng hòa. Cộng hòa là một hình thức chính phủ trong
đó cử tri bầu ra các quan chức để điều hành nhà nước. Ở Cộng hòa La Mã, chỉ có nam
công dân trưởng thành mới được quyền bầu cử và tham gia vào chính phủ. Ba nhóm
công dân quan trọng đã giúp điều hành nước cộng hòa: Thượng viện, các thẩm phán và
một loạt các hội đồng bình dân.
Thượng viện, bao gồm các nhà yêu nước, là cơ quan có ảnh hưởng và quyền lực
nhất trong ba cơ quan quản lý vì cơ quan này kiểm soát công quỹ và quyết định chính
sách đối ngoại. Viện nguyên lão của Vương quốc La Mã nắm ba trách nhiệm chính:
nắm quyền hành pháp, có vai trò như một hội đồng cố vấn cho nhà vua, là cơ quan
lập pháp của nhân dân La Mã. Trong thời kỳ quân chủ, nhiệm vụ quan trọng nhất của
Viện là bầu ra vị vua mới.
Ngoài ra một nhiệm vụ quan trọng khác của Viện nguyên lão là làm một hội
đồng cố vấn cho nhà vua. Nhà vua có thể bác bỏ những đề nghị của Viện, nhưng uy
tín ngày càng tăng của Viện nguyên lão khiến nhà vua càng trở nên khó khăn trong
việc bác bỏ các quyết nghị. Về cơ bản Viện cũng có thể soạn thảo ra luật mới, mặc
dù thật không đúng lắm khi xem những quyết nghị của Viện là "pháp luật" theo nghĩa
hiện đại. Chỉ có nhà vua mới có thể ra được luật mới, mặc dù ông cũng tham gia vào
cả Viện nguyên lão lẫn Đại hội Curia (Đại hội nhân dân).
(Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Maccari-Cicero.jpg)
6
• Thẩm phán.
Các thẩm phán hành pháp của Cộng hòa La Mã là các quan chức của Cộng hòa
La Mã cổ đại từ sau năm 509 TCN do nhân dân Rome bầu ra, bao gồm những người
bình dân (thường dân) và những người yêu nước (quý tộc). Mỗi thẩm phán được trao
cho một mức độ quyền lực, được gọi là "quyền lực lớn". Nhà độc tài là một quan tòa
phi thường thường được bầu trong thời gian khẩn cấp (thường là quân sự) trong một
thời gian ngắn. Trong thời kỳ này, quyền lực của nhà độc tài đối với chính quyền La
Mã là tuyệt đối, vì họ không bị kiểm tra bởi bất kỳ tổ chức hay quan tòa nào.
Các quan tòa tạo nên nhóm thứ hai của các nhà lãnh đạo La Mã là các quan chức
được bầu chọn. Các thẩm phán bao gồm các quan chấp chính, pháp quan và kiểm
duyệt. Sau khi chế độ quân chủ chấm dứt vào năm 509 TCN, các thẩm phán được bầu
với nhiệm kỳ một năm để làm chấp chính hoặc giám đốc điều hành. Các quan chấp
chính điều hành chính phủ, chỉ huy quân đội và có thể bổ nhiệm các nhà độc tài, ngoài
ra các quan chấp chính cũng không thể được bầu lại trong hơn 10 năm để ngăn chặn
chế độ chuyên chế.
Một số hội đồng đã tồn tại ở Cộng hòa La Mã. Các công dân trong các hội đồng
này đã bỏ phiếu về luật và các quan chức được bầu, kể cả các lãnh sự. Một số hội
đồng đã bỏ phiếu để đưa ra chiến tranh hoặc hòa bình, trong khi những hội đồng khác
đóng vai trò là tòa án. Các hội đồng đã bầu ra 10 quan chức được gọi là ủy ban, những
người có một số quyền lực đối với các hành động của Thượng viện và các quan chức
công quyền khác. Nếu tòa án tin rằng các hành động không vì lợi ích công cộng, họ có
thể từ chối phê duyệt chúng.
Hình 1.4. Gaius Gracchus, tòa án nhân dân, chủ tọa Hội đồng Plebeian.
(Nguồn:https://www.quora.com/Why-is-it-said-that-the-Roman-Republic-ended-with-
the-Gracchi)
7
1.4. Xung đột mệnh lệnh
Không lâu sau khi thành lập nước Cộng hòa, một cuộc đấu tranh chính trị giữa
những người bình dân (thường dân) và những người yêu nước ( quý tộc) đã xảy ra.
Kéo dài từ năm 500 RCN đến năm 287 TCN, trong đó những người bình dân tìm kiếm
sự bình đẳng chính trị với những người yêu nước. Nó đóng một vai trò quan trọng
trong sự phát triển của Hiến pháp Cộng hòa La Mã.
Trong thời kỳ đầu của nền cộng hòa, người La Mã được chia thành các hạng
người: người yêu nước và người cầu xin. Những người yêu nước là những chủ đất có
quyền lực, những người kiểm soát chính phủ. Là quý tộc, họ được thừa hưởng sức
mạnh của mình. Người Plebeians, gồm những người nô lệ được giải phóng, nông dân
nghèo, người sống dựa vào tầng lớp quý tộc và thợ thủ công. Trong nhiều năm, họ có
rất ít quyền. Họ có thể bỏ phiếu, nhưng họ bị cấm nắm giữ hầu hết các cơ quan công
quyền. Người Plebeians thậm chí không thể biết luật La Mã vì luật không được viết
ra. Tại tòa án, một thẩm phán tuyên bố và áp dụng luật, nhưng chỉ những người yêu
nước làm thẩm phán.
Theo thời gian, người bình dân đã gia tăng quyền lực của mình thông qua các
cuộc đòi hỏi và đình công. Họ giành được quyền tham gia quân đội, nắm giữ chức vụ
chính phủ, thành lập hội đồng của riêng mình và bầu ra các tòa án. Trong một trong
những chiến thắng vĩ đại nhất của mình, họ đã buộc chính phủ phải viết ra luật của
Cộng hòa La Mã. Vào khoảng 450 TCN người La Mã đã khắc luật của họ trên các
máy tính bảng được gọi là Mười Hai Bảng. Các luật được đặt trong diễn đàn, quảng
trường chính, cho tất cả mọi người xem.
Những người dân biểu đầu tiên được bổ nhiệm vào chính phủ vào cuối những
năm 400 TCN. Sau năm 342 TCN một nghị sĩ luôn luôn giữ một trong những vị trí
lãnh sự. Vào khoảng năm 300 trước Công nguyên. nhiều người bình dân đã trở nên
quyền lực và giàu có đến mức họ đã tham gia với những người yêu nước để thành lập
giới quý tộc La Mã. Kể từ thời điểm đó, sự phân biệt giữa những người yêu nước và
những người bình dân không còn quan trọng nữa. Tuy nhiên, tư cách thành viên trong
giới quý tộc vẫn rất quan trọng. Vì các quan chức chính phủ không được trả lương
nên chỉ những quý tộc giàu có mới đủ khả năng để nắm giữ chức vụ. Như vậy, các
quý tộc vẫn kiểm soát nền cộng hòa.
Theo luật, mọi công dân nam trưởng thành người mà sở hữu đất đều phải phục vụ
trong quân đội La Mã. Nhìn chung, các binh sĩ tự mình thi hành kỷ luật quân đội, có
xu hướng rất nghiêm ngặt. Đơn vị chính của lục quân là quân đoàn, bao gồm từ 4.500
đến 6.000 công dân được gọi là quân đoàn. Người La Mã sau đó cũng thành lập Quân
chủng trợ chiến, là những đơn vị được tạo thành từ những người không phải là cư dân.
Nhìn chung trong thời gian này, các đơn vị quân đội La Mã được huấn luyện tốt, và
nhuệ khí giữa các quân đội thường rất cao.
Người La Mã có tài cai trị người khác. Vì họ muốn những người mà họ chinh phục
phải trung thành với La Mã, người La Mã đã cấp quyền công dân đầy đủ cho cư dân
của các thành phố gần đó của Ý. Họ cấp quyền công dân ngang hàng cho người dân ở
các thành phố xa hơn, bao gồm cả các thành phố Hy Lạp ở Ý. Mặc dù công dân mộ có
thể sở hữu tài sản và kết hôn, nhưng theo luật La Mã, họ không thể bỏ phiếu. Khi
người La Mã tạo đồng minh ở những khu vực xa hơn, họ cho phép đồng minh duy trì
độc lập, nhưng những khu vực này phải cung cấp binh lính cho quân đội La Mã.
Người La Mã cũng mông đợi những dân tộc bị chinh phục để chia đất cho nông dân
La Mã. Chính sách đất đai này đã giúp người La Mã duy trì quyền kiểm soát đối với
các khu vực bị chinh phục. Nó cũng dẫn đến sự phổ biến của ngôn ngữ Latinh, luật La
Mã và các khía cạnh khác của văn hóa La Mã trên khắp nước Ý.
9
CHƯƠNG 2: LA MÃ MỞ RỘNG BIÊN GIỚI
Hình 2.1. Chiến tranh Punic lần thứ nhất (Nguồn: https://bitly.com.vn/losf56)
Chiến tranh Punic lần thứ nhất bắt đầu vào năm 264 TCN, chủ yếu diễn ra trên
đảo Sicily. Lúc đầu, La Mã không có hải quân, nhưng nó đã nhanh chóng xây dựng
10
một đội. Người La Mã sử dụng chiến thuật chiến tranh bộ trên biển. La Mã bao vây
nhiều thành phố của Carthage ở Sicily và khi Carthage. Vào năm 241 TCN, sau 23
năm chiến tranh, Carthage đã yêu cầu hòa bình. Người La Mã bắt Carthage phải đền
bù một khoản tiền lớn cho những thiệt hại mà nó đã gây ra và buộc nó phải từ bỏ
Sicily. La Mã bây giờ có một lãnh thổ chính bên ngoài Ý.
Chiến tranh Punic lần thứ hai bắt đầu vào năm 218 trước Công nguyên. Tại Tây
Ban Nha, Hannibal, một trong những vị tướng vĩ đại nhất mọi thời đại, đã tập hợp một
đội quân Carthage khổng lồ bao gồm lính bộ, lính ngựa và voi. Đoàn quân hành quân
vượt dãy Alps vào Ý. Việc vượt qua rất khó khăn, và nhiều người trong lực lượng của
Hannibal đã chết. Mặc dù lực lượng bị tổn thất, nhưng người La Mã không thể đối
đầu với Hannibal – một đối thủ đáng sợ. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng
và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các thành phố như Rome. Tất cả những gì ông
có thể làm là đi khắp các miền nông thôn Italy và tàn phá nó. Ông cũng cố gắng thu
phục các đồng minh của Rome. Tuy nhiên, chính sách chia sẻ quyền công dân và
quyền lực chính trị của La Mã đã chứng tỏ giá trị của nó vì hầu hết các đồng minh của
nước cộng hòa vẫn trung thành. Nhà sử học Polybius viết rằng sau thất bại tại Cannae
vào năm 216 trước Công nguyên, người La Mã thề sẽ chiến thắng kẻ thù hoặc chết
trên chiến trường. Cuối cùng, La Mã lật ngược thế cờ bằng cách xâm lược châu Phi và
đe dọa Carthage. Chính phủ của Hannibal ra lệnh cho anh ta rút lui để bảo vệ thành
phố. Vào năm 202 TCN trong trận Zama, gần Carthage, Scipio và người La Mã đã
đánh bại Hannibal và quân đội của ông. Thêm một lần nữa Carthage phải trả một
khoản tiền khổng lồ. Đồng thời cũng phải từ bỏ hầu hết các thuộc địa của mình ở Tây
Ban Nha. Carthage vẫn độc lập, nhưng nó đã mất hết quyền lực. La Mã lúc này là lực
lượng hùng mạnh nhất ở phía tây Địa Trung Hải.
Mặc dù Carthage không còn là mối đe dọa, nhưng một số người La Mã vẫn căm
ghét thành phố này. Vì vậy, Thượng viện La Mã quyết định nghiền nát Carthage. Vào
năm 149 trước Công nguyên. La Mã lại tuyên chiến với kẻ thù cũ của mình. Sau một
cuộc bao vây gay gắt, Carthage bị tiêu diệt vào năm 146 TCN.
Trong Chiến tranh Punic lần thứ hai, Macedonia đã liên minh với Carthage. Để
trả thù, La Mã bắt đầu cuộc chiến chống lại và lật đổ Macedonia vào năm 197 TCN.
Các thành phố Hy Lạp nằm dưới sự "bảo hộ" của La Mã. Đến năm 133 TCN La Mã
đã mở rộng quyền kiểm soát của mình trên toàn bộ khu vực. Bây giờ La Mã có quyền
lực tối cao ở Địa Trung Hải.
11
2.2. Các vấn đề của sự bành trướng
Bởi vì La Mã hiện phải kiểm soát một khu vực rộng lớn nên nước cộng hòa và
chính phủ của La Mã đã phải thay đổi. Dù vẫn là một nước cộng hòa, nhưng Thượng
viện đã giành được quyền kiểm soát gần như hoàn toàn đối với quân đội và chính sách
đối ngoại. Các quý tộc thậm chí còn đạt được nhiều quyền lực hơn.
Người La Mã cai quản các vùng lãnh thổ mới, được gọi là các tỉnh, một cách
lỏng lẻo. Mỗi tỉnh được quản lý bởi một thống đốc, người được hỗ trợ bởi sức mạnh
của quân đội La Mã. Một số tỉnh trưởng đã nhận hối lộ và ít quan tâm đến nhu cầu
của người dân. Ngoài ra, những người thu thuế đã cố gắng siết càng nhiều tiền càng
tốt từ các tỉnh.
Những người lính - nông dân La Mã trở về sau cuộc Chiến tranh Punic đã bị ốm
vì gia súc của họ bị giết, nhà cửa đổ nát và những vườn ô liu hoặc vườn nho của họ bị
bật gốc. Những người nông dân không có đủ tiền để khôi phục lại trang trại của họ, do
đó họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc bán đất. Thời gian trôi qua, La Mã trở
nên phụ thuộc vào các tỉnh để cung cấp ngũ cốc, lương thực chính. Nhiều nông dân bị
mất đất đã chuyển đến các thành phố. Tuy nhiên, không phải tất cả họ đều có thể tìm
được việc làm ở đó, và họ phụ thuộc vào chính quyền để kiếm thức ăn. Ngược lại,
thương mại trong đế chế rộng lớn của Rome đã tạo ra một tầng lớp doanh nhân và chủ
đất được gọi là công bằng. Họ có tài sản lớn và có ảnh hưởng chính trị. Trong nước
cộng hòa, khoảng cách giàu nghèo, quyền lực và không quyền lực, tiếp tục gia tăng.
12
CHƯƠNG 3: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẾ CHẾ LA MÃ
Các cuộc tranh giành quyền lực chính trị gay gắt trong Cộng hòa La Mã đã dẫn
đến sự ra đời của Đế chế La Mã. Câu chuyện tiếp tục Khi Cộng hòa La Mã mở rộng
biên giới, các vấn đề của nó ngày càng gia tăng. Một quan chức La Mã đã ghi nhận sự
tham nhũng của chính phủ trong một bức thư gửi cho anh trai mình. "Hãy nhớ rằng
đây là Rome," ông viết, "một thành phố được tạo thành từ nhiều người, có rất nhiều
âm mưu, dối trá và tất cả các loại tệ nạn."
3.1. Nền cộng hòa suy yếu
Vào năm 133 TCN.Cộng hòa La Mã phải đối mặt với nhiều vấn đề. Các nhà lãnh
đạo dũng cảm đã cố gắng cải cách, nhưng những ngày tồn tại của nền cộng hòa đã
chấm hết.
Hai anh em, Tiberius và Gaius Gracchus, thấy được cần thiết phải cải cách cấu
trúc chính trị và xã hội của La Mã để giúp đỡ các tầng lớp thấp hơn. Hai anh em là
những chính trị gia đại diện cho các nghị sĩ, hoặc thường dân, trong chính phủ La Mã.
Họ cũng là thành viên của Populares, một nhóm các nhà hoạt động tiến bộ quan tâm
đến cải cách ruộng đất để mang lại lợi ích cho người nghèo. Hai anh em được gọi là
Gracchi. Để theo đuổi chương trình nghị sự của mình, Tiberius đã cố gắng tái tranh cử
vào tòa án; đây sẽ là một hành động bất hợp pháp. Trên thực tế, Tiberius đã nhận đủ số
phiếu bầu để tái tranh cử — nhưng sự kiện này đã dẫn đến một cuộc đụng độ bạo lực
tại Thượng viện. Mặc dù những cải cách ruộng đất do ông đề xuất đã khiến ông được
lòng dân thường, nhưng họ đã khiến nhiều thượng nghị sĩ tức giận. Một đám đông
gồm các thượng nghị sĩ và những người ủng hộ họ đã đánh đập Tiberius và hàng trăm
tín đồ của ông cho đến chết.
13
Gaius được bầu làm tòa án vào năm 123 TCN và một lần nữa vào năm 122 TCN.
Ông đã sử dụng công quỹ để mua ngũ cốc, sau đó được bán cho người nghèo với giá
rẻ. Điều này và các hành vi khác đã gây phẫn nộ cho các thượng nghị sĩ, những người
tìm cách hủy bỏ một số luật mà Gaius đã thông qua. Gaius và nhiều người ủng hộ ông
cuối cùng đã bị giết trong một cuộc bạo loạn. Cái chết của Gracchi đánh dấu một bước
ngoặt trong lịch sử La Mã. Kể từ thời điểm này, bạo lực đã thay thế tôn trọng luật pháp
như một công cụ chính của chính trị.
• Chiến tranh xã hội
. Trong thời kỳ này, mối quan hệ của La Mã với các đồng minh bên ngoài Bán đảo
Ý đi vào khủng hoảng. Công dân của các thành phố Ý đã phục vụ trong quân đội La
Mã và đã phải chịu đựng nhiều khó khăn để bảo vệ thành La Mã trong các cuộc Chiến
tranh Punic. Các nhóm cai trị của các thành phố này muốn được chia sẻ quyền lực
ngày càng tăng của La Mã. Trên hết, họ muốn có quyền nắm giữ các chức vụ công
trong chính phủ La Mã, và nhập quốc tịch La Mã. Tuy nhiên, Thượng viện đã tìm cách
duy trì quyền lực của mình và kiên quyết chống lại các yêu cầu của đồng minh.
Cuối cùng, vào năm 91 TCN, quân đồng minh nổi dậy. Cuộc chiến diễn ra sau đó
được gọi là Chiến tranh Xã hội, từ từ xã hội Latinh, có nghĩa là "đồng minh". Nhiều
binh lính của các thành phố đồng minh đã phục vụ trong quân đoàn và được huấn
luyện cũng như có kỷ luật như chính người La Mã. Vì vậy, cuộc chiến sau đó là một
trong những cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử thành La Mã. Cuối cùng, La Mã
đã thắng. Tuy nhiên, Thượng viện cuối cùng đã đồng ý với lời kêu gọi của các đồng
minh về quyền công dân và sự tham gia chính trị. Với quyết định này, người dân khắp
nước Ý bắt đầu coi mình là người La Mã, và nhà nước La Mã phát triển bao gồm toàn
bộ bán đảo.
Gaius Marius, một vị tướng La Mã được bầu làm lãnh sự vào năm 107 TCN, đã
mang lại những thay đổi lớn cho chính trị La Mã. Ông đã tạo ra một đội quân tình
nguyện người mà thuộc tầng lớp dân cư La Mã thứ năm hoặc cao hơn, phải có tài sản
trị giá ít nhất 3000 sesterces và phải tự trang bị vũ khí cho chính mình. Khi có nhiều
tướng lĩnh làm theo, quân đội trở nên trung thành với họ hơn là với chính phủ.
Vào năm 88 trước Công nguyên. Lucius Cornelius Sulla được bầu làm lãnh sự.
Sau khi hết nhiệm kỳ, anh ta muốn tham gia một lệnh quân đội hứa hẹn sẽ mang lại
cho anh ta danh tiếng và tài sản lớn. Kẻ thù của anh ta ở La Mã, do Marius lãnh đạo,
đã cố gắng ngăn cản anh ta làm điều đó. Sulla đáp lại bằng cách hành quân đến Rome,
một hành động dẫn đến nội chiến. Sulla đã chiến thắng, và từ năm 82 TCN đến năm
79 TCN ông ta cai trị như một nhà độc tài. Sulla đã cố gắng khôi phục quyền lực cho
Thượng viện, mở rộng nó thêm 300 thành viên và trao quyền kiểm soát hoàn toàn đối
14
với chính phủ. Tuy nhiên, ngày càng nhiều, một chỉ huy quân đội với quân đội trung
thành có thể buộc Thượng viện thực hiện cuộc đấu thầu của mình.
3.2. Caesar nắm quyền lực
Julius Caesar, một người cháu của Marius, đã trở thành một vị tướng phổ biến trong
thời gian này. Caesar là một nhà diễn thuyết mạnh mẽ trước công chúng, người đã chi
rất nhiều tiền để giành được sự ủng hộ. Kết quả là, Caesar đã xây dựng được một
lượng lớn người theo dõi trong số những người nghèo ở Rome.
• The First Triumvirate
18
CHƯƠNG 4: XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA LA MÃ
Pax Romana là một trong những thời kỳ hòa bình và ổn định dài nhất mà thế giới
từng biết. Thời kì này, người La Mã đã có những bước tiến vượt bậc, nhiều trong số
đó ảnh hưởng đến con người cho đến tận ngày nay.
Chính phủ La Mã là lực lượng thống nhất mạnh nhất trong đế chế. Đã giúp giữ
trật tự và thực thi luật pháp. Hoàng đế điều hành việc cố vấn, đưa ra tất cả các quyết
định chính sách và bổ nhiệm các quan chức của các tỉnh, bao gồm cả các thống đốc
tỉnh. Các quan chức này chịu trách nhiệm trước chính phủ ở La Mã về việc quản lý các
tỉnh có hiệu quả, hòa bình và có lợi.
Luật La Mã cũng giúp thống nhất đế chế. Để phù hợp với nhu cầu của đế chế
khổng lồ, người La Mã đã thay đổi luật - Luật Mười hai bảng - theo hai cách quan
19
trọng. Đầu tiên, chính phủ thông qua luật mới khi cần thiết. Thứ hai, các thẩm phán
giải thích các luật cũ để phù hợp với hoàn cảnh mới. Các thẩm phán La Mã đã phát
triển niềm tin rằng các nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất định nên áp dụng cho tất cả loài
người. Ý tưởng này xuất phát từ quan điểm của người Hy Lạp rằng luật pháp do tự
nhiên tạo ra và do đó dành cho tất cả mọi người.
Việc buôn bán rộng rãi các mặt hàng nông sản và các sản phẩm khác cũng giúp
thống nhất đế chế. Chính phủ La Mã đã phát triển các chính sách nhằm khuyến khích
thương mại và buôn bán. Trong suốt thời Pax Romana, nông nghiệp là nghề quan
trọng nhất trong đế chế. Ở Ý, nhiều nông dân làm việc trên các điền trang lớn. Ở các
tỉnh, các trang trại nhỏ khá phổ biến. Hầu hết thương mại trong đế chế tập trung vào
ngũ cốc, rượu, dầu, các mặt hàng thực phẩm khác và các mặt hàng hàng ngày như vải,
đồ gốm và đồ thủy tinh. Ngoại thương thường bao gồm các mặt hàng xa xỉ như ngà
voi châu Phi, lụa Trung Quốc và hạt tiêu Ấn Độ. Hầu hết những hàng hóa này cuối
cùng được chuyển đến La Mã. Từ đó, chúng có thể được vận chuyển đến những
thương buôn có trên khắp đế chế rộng lớn dọc theo các tuyến đường thương mại trên
bộ và đường biển. Trong thời Pax Romana, người La Mã đã nhập khẩu lụa, vải lanh,
đồ thủy tinh, đồ trang sức và đồ nội thất từ Đông Á. Từ Ấn Độ, gia vị, bông và nhiều
thứ xa xỉ mới đối với người La Mã.
Gần như mọi nơi người La Mã đã đi trong thời Pax Romana, những cây cầu La
Mã. Những hệ thống đường được xây dựng tốt phục vụ cho việc di chuyển quân tiếp
viện và tiếp viện một cách nhanh chóng. Họ cũng xúc tiến trong thương mại, du lịch
và thông tin liên lạc trên khắp đế chế. Khoảng 60.000 dặm đường cao tốc trải nhựa
kéo dài đến các tiền đồn quân đội. Những cây cầu bắc qua các con sông, và đường cao
tốc nối tất cả các thành phố. Những con đường này được xây dựng để tồn tại lâu dài.
Mặt đường trên cùng có nhiều lớp đá vụn và đá phấn vụn. Điều này đặc biệt đúng với
các hệ thống đường lớn của La Mã, được thiết kế để vận chuyển giao thông thương
mại và quân sự.
• Quân đội La Mã
Quân đội La Mã cũng giúp củng cố đế chế bằng cách giữ hòa bình. Những người
lính công dân đã phục vụ từ 16 đến 20 năm trong quân đoàn La Mã. Họ đóng quân
trong các trại lớn kiên cố dọc theo biên giới. Mọi người thường định cư xung quanh
các trại này, cuối cùng chúng phát triển hành các thành phố. Thường những người đàn
ông từ các tỉnh hoặc từ các khu vực biên giới nhập ngũ vào quân đội La Mã. Đổi lại,
họ được nhập quốc tịch La Mã khi kết thúc thời gian nhập ngũ. Vì vậy, một đội quân
20
lớn của các cựu chiến binh đã bảo vệ biên giới. Nếu cần, có một đội quân sử dụng vũ
lực để duy trì hòa bình ở các tỉnh. Vào năm 60 SCN, một cuộc nổi dậy ở Anh đã khiến
khoảng 70.000 người La Mã và đồng minh của họ thiệt mạng. Quân đội sớm loại trừ
quân nổi dậy và phá hủy vùng đất của họ. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, các thống đốc
trung ương tự liên kết với các nhà lãnh đạo địa phương. Điều này đã giúp đảm bảo
rằng người dân địa phương sẽ hỗ trợ làm việc để giữ hòa bình.
Những công dân giàu có thường có cả nhà ở thành phố và nhà ở nông thôn. Mỗi
ngôi nhà đều có nhiều tiện nghi, chẳng hạn như nước sinh hoạt và phòng tắm. Người
giàu có nhiều thời gian để giải trí và thư giãn. Họ tham dự những bữa tiệc lớn, tại đó
thường phục vụ những món ăn kỳ lạ, chẳng hạn như sứa hoặc đà điểu luộc. Nhà sử học
Ammianus Marcellinus khinh thường và cho rằng những người giàu tổ chức tiệc tối
chủ yếu để gây ấn tượng với nhau.
Cư dân của La Mã sống trong căn hộ nhiều tầng đông đúc làm bằng gỗ. Ngôi nhà
La Mã trung bình được trang bị thưa thớt với đồ nội thất đơn giản, rất cơ bản làm bằng
gỗ. Những phần này cung cấp ít phong cách hoặc sự thoải mái. Những người dân lao
động ở Rome hầu như không thể kiếm sống. Chính phủ đã cung cấp ngũ cốc miễn phí
cho người dân thành phố, nhưng thực phẩm vẫn khan hiếm. Hầu hết người La Mã ăn
những bữa ăn đơn giản bao gồm bánh mì, pho mát và trái cây.
• Nô lệ và chế độ nô lệ
Nô lệ là một trong những người kém may mắn nhất trong dân số của đế chế. Các
nhà sử học ước tính rằng vào thời điểm Augustus nắm quyền, có vài triệu nô lệ ở Ý,
chiếm một phần lớn tổng dân số. Chế độ nô lệ cũng phổ biến ở đế chế phía đông, nơi
nó đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, nhưng lại ít phổ biến hơn nhiều ở Anh và các khu vực
khác của đế chế phía Tây. Cuộc sống có thể thật tàn nhẫn đối với những người nô lệ.
Cho đến giữa thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, không có gì có thể ngăn các chủ nhân
đối xử với nô lệ theo bất kỳ cách nào họ muốn. Các ghi chép chỉ ra rằng những nô lệ
làm việc trong các hầm mỏ hoặc các trang trại lớn thường bị đối xử vô cùng khắc
21
nghiệt và tàn bạo. Cuộc sống có lẽ tốt hơn đối với những nô lệ gia đình. Thông
thường, những nô lệ làm nghề giữ các vị trí đáng tin cậy, như bác sĩ, giáo viên hoặc
thư ký. Không giống như nô lệ ở Hy Lạp, nô lệ La Mã có thể mua tự do của họ hoặc
được trả tự do theo lệnh của chủ nhân. Tuy nhiên, nô lệ La Mã được hưởng ít quyền
lợi hợp pháp hoặc sự bảo vệ và phụ thuộc vào thiện chí của chủ nhân. Các nhà sử học
không tin rằng chế độ nô lệ cần thiết đối với nền kinh tế La Mã. Với rất nhiều lao động
nghèo hiện có, lao động tự do sẽ rẻ bằng hoặc rẻ hơn lao động nông thôn. Một người
có được địa vị cũng như lối sống dễ dàng hơn nhờ sở hữu nô lệ.
Gia đình là trung tâm của xã hội La Mã. Người cha nắm giữ hầu hết quyền lực.
Ông đưa ra mọi quyết định quan trọng, kiểm soát tài sản của gia đình và tiến hành các
nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên, phụ nữ không phải không có quyền lực. Người mẹ quản lý
gia đình, mua thực phẩm và các nhu cầu trong gia đình, và giúp chồng tiếp đãi khách.
Bằng chứng chỉ ra rằng phụ nữ cũng tham gia vào quyết định của gia đình. Hơn nữa,
vào thời kỳ cuối của nền cộng hòa, phụ nữ - đặc biệt là trong các tầng lớp yêu nước -
đã có ảnh hưởng chính trị. Phụ nữ cũng có thể sở hữu tài sản và nhận thừa kế.
Sự giáo dục sớm diễn ra tại nhà. Các ông bố dạy con trai mình nghĩa vụ công
dân, trong khi các bà mẹ dạy con gái quản lý gia đình. Con cái từ những gia đình giàu
có nhất tiếp tục học chính thức ở nhà. Những đứa trẻ khác đã theo học tại các trường
học trên khắp đế chế. Trẻ em, trai và gái bước vào trường tiểu học ở độ tuổi tương đối
sớm để học đọc, viết, số học và âm nhạc. Nếu gia đình có đủ khả năng chi trả, các con
trai sẽ tiếp tục học trung học, nơi sẽ được học tiếng Anh, tiếng Hy Lạp, văn học, sáng
tác và diễn đạt. Trong hầu hết các trường hợp, con gái không được giáo dục lâu dài
như con trai.
• Tôn giáo
Những người La Mã đầu tiên tìm cách đạt được sự hòa hợp với các vị thần của
họ. Chúng bao gồm các con quỷ, là linh hồn của tổ tiên. Sự thờ cúng của gia đình tập
trung vào Vesta, vị thần canh giữ lửa và lò sưởi. Theo thời gian, niềm tin tôn giáo của
người La Mã ngày càng bị ảnh hưởng bởi tư tưởng Hy Lạp. Đến thời kỳ đế quốc, một
quốc giáo đã phát triển. Dựa trên nền tảng gia giáo cũ, quốc giáo này có tư thế riêng là
đề cao lòng yêu nước và lòng trung thành với nhà nước. Vào năm 12 trước Công
nguyên, Augustus trở thành linh mục chính. Vì người La Mã tin rằng các vị thần và
linh hồn ở khắp mọi nơi, đó là các đền thờ, các buổi lễ và các đám rước. Mục đích của
nó để làm hài lòng họ thông qua các nghi lễ và hy sinh. Vì vậy, nghi lễ tôn giáo là một
phần của cuộc sống hàng ngày và trong chính trị.
22
• Vui vẻ và trò chơi
Người La Mã có nhiều loại hình vui chơi và giải trí. Họ thích rạp hát, đặc biệt là
phim hài và châm biếm. Mimes, người tung hứng, vũ công, người nhào lộn và chú hề
đều rất phổ biến. Người La Mã cũng thích những môn thể thao tàn bạo. Nhiều khán
giả đã xem các cuộc đua xe ngựa trong rạp xiếc Maximus của Rome, một trường đua
có sức chứa hàng nghìn khán giả. Người La Mã cũng đổ xô đến Đấu trường La Mã,
đấu trường lớn ở Rome. Những con thú hoang dã, hung dữ hơn vì đói, chiến đấu với
con người hoặc các động vật khác trong đấu trường. Cuộc chiến giữa các đấu sĩ được
đào tạo bởi các đấu sĩ thường là nô lệ đã thu hút đám đông lớn nhất. Một cuộc chiến
đấu sĩ thường kết thúc bằng cái chết cho một hoặc cả hai người. Các vụ hành quyết tội
phạm công khai cũng thu hút một lượng lớn đám đông và là lời cảnh báo cho những kẻ
vi phạm pháp luật. Đôi khi những vụ hành quyết này diễn ra dưới hình thức chiến đấu
công khai giữa hai hoặc nhiều tội phạm bị kết án. Thượng nghị sĩ La Mã Seneca đã mô
tả một vụ hành quyết công khai như vậy.
Hình 4.2. Claudius Ptolemy - nhà thiên văn học, địa lý học và nhà vật lý người
Hy Lạp (Nguồn: http://vi.brieffacts.org/ptolemey-interesnyie-faktyi_default.htm)
23
Trong những năm 100 SCN, bác sĩ Galen đã viết một số tập sách tóm tắt tất cả
kiến thức y học thời ông sống. Đối với giới y học, mọi người nghĩ rằng ông là người
có thẩm quyền lớn nhất về y học. Mọi người cũng chấp nhận lý thuyết của Ptolemy về
thiên văn học trong gần 1.500 năm. Ptolemy, một nhà khoa học và học giả từ thành
phố Alexandria vĩ đại của Ai Cập, đã phát triển hệ thống thiên văn và địa lý - hệ thống
Ptolemaic dựa trên niềm tin rằng mặt trời, các hành tinh và các ngôi sao quay quanh
trái đất. Các nghiên cứu của Ptolemy về địa lý đã góp phần vào sự hiểu biết của thế
giới cổ điển về các đặc điểm vật lý của trái đất. Người La Mã đã sử dụng kiến thức
khoa học từ người Hy Lạp để quy hoạch thành phố, xây dựng hệ thống thoát nước và
cải thiện trồng trọt và chăn nuôi. Các kỹ sư người La Mã là những bậc thầy trong việc
xây dựng đường xá, cầu cống, đấu trường và các công trình công cộng. Ở hầu hết các
thành phố, người La Mã đã xây dựng các cầu dẫn nước. Những cấu trúc giống như cầu
nối này mang nước từ những ngọn núi. Người La Mã, không giống như người Hy Lạp,
họ đã biết cách xây dựng vòm và mái vòm hình vòm. Tuy nhiên, đóng góp quan trọng
nhất của các kiến trúc sư La Mã là việc sử dụng bê tông, thứ đã tạo nên những tòa nhà
lớn. Các kiến trúc sư La Mã đã thiết kế những công trình kiến trúc vĩ đại - tòa án, cung
điện, đền đài, đấu trường và khải hoàn môn - cho hoàng đế và chính phủ. Các tòa nhà
của họ rất lớn và đẹp mắt.
• Văn chương
Augustus và nhiều hoàng đế đã khuyến khích sự phát triển của nghệ thuật và văn
học. Virgil, người sống dưới triều đại của Augustus, là người vĩ đại nhất trong số các
nhà thơ La Mã. Sử thi của ông, Aeneid, kể về câu chuyện của Aeneas, một hoàng tử
của thành Troy. Một nhà thơ La Mã khác, Horace, đã viết về cảm xúc của con người
trong các bài thơ, châm biếm và thư tín (thư). Một nhà thơ thứ ba, Ovid, đã viết lời
tình yêu và biến thái, một bộ sưu tập những câu chuyện thần thoại được viết bằng câu
thơ. Nhà sử học La Mã vĩ đại Tacitus đã viết Biên niên sử, lịch sử thành La Mã dưới
thời các hoàng đế Julio-Claudian. Trong tác phẩm này, Tacitus bày tỏ sự chỉ trích của
mình đối với chính phủ do Augustus thiết lập. Tacitus đặc biệt quan tâm đến khoảng
cách giàu nghèo ngày càng tăng và sự suy giảm các tiêu chuẩn đạo đức của người La
Mã. Ông phê phán mạnh mẽ lối sống buông thả, xa hoa của những người giàu có, mất
phẩm hạnh và tôn trọng pháp quyền. Tacitus kêu gọi quay trở lại hành vi đơn giản,
thẳng thắn hơn và truyền thống mà ông tin rằng đã đặc trưng cho nền cộng hòa.
Plutarch, một người Hy Lạp, đã viết Những cuộc đời song song, một bộ sưu tập tiểu sử
Hy Lạp và La Mã. Mỗi mô tả về một người Hy Lạp nổi tiếng được theo sau bởi một
24
mô tả về một người La Mã có cuộc sống tương tự với cuộc sống của người Hy Lạp
theo một cách quan trọng nào đó.
• Ngôn ngữ
Người La Mã học bảng chữ cái từ người Etruscans, những người đã phỏng theo
bảng chữ cái của người Hy Lạp. Sau đó, họ đã thay đổi một số chữ cái. Ngày nay
chúng ta sử dụng bảng chữ cái La Mã, hoặc La Tinh, gồm 23 chữ cái, cộng với J, Y và
W, mà tiếng Anh đã thêm vào sau thời La Mã.
Rất lâu sau khi Đế chế La Mã kết thúc, ngôn ngữ Latinh tiếp tục được sử dụng ở
hầu hết châu Âu. Nhà thờ Công giáo La Mã đã tổ chức các buổi lễ bằng tiếng Latinh
cho đến những năm 1960 sau Công nguyên. Tiếng Latinh là cha mẹ của các ngôn ngữ
Lãng mạn hiện đại (từ Roman). Bao gồm tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha,
tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Romania. Nhiều thuật ngữ khoa học chúng ta sử dụng ngày
nay có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp hoặc tiếng Latinh. Trên thực tế, một phần lớn tất cả
các từ tiếng Anh đều có nguồn gốc từ tiếng Latinh.
25
CHƯƠNG 5: SỰ THỊNH VƯỢNG CỦA CƠ ĐỐC GIÁO
Vào thời La Mã, nhiều người Do Thái sống ở Judaea, nơi đã trở thành một tỉnh
của La Mã vào năm 6 SCN. Lúc đầu, người Do Thái không được yêu cầu tôn kính các
vị thần La Mã hoặc "thần linh" của hoàng đế vì người La Mã không muốn vi phạm
niềm tin của người Do Thái. Tuy nhiên, một số người Do Thái, được biết đến như
những người Zealot, lo sợ Do Thái giáo sẽ bị suy yếu bởi những ảnh hưởng bên ngoài
và do đó đã ủng hộ cuộc nổi dậy chống lại La Mã để thành lập nhà nước độc lập của
riêng họ. Những người Do Thái khác tin rằng Đức Chúa Trời sẽ sớm cử một Đấng
Mê-si, hay đấng cứu thế, dẫn dắt người Do Thái đến tự do.
Từ năm 66 đến năm 70 SCN, người Do Thái nổi dậy chống lại La Mã. Sau đó,
người La Mã cướp phá thành thánh Jerusalem của người Do Thái và phá hủy tất cả trừ
bức tường chắn của Đền thờ thứ hai. Ngày nay bức tường phía tây được gọi là Bức
tường Than khóc. Người Do Thái coi đó là địa điểm thiêng liêng của đức tin của họ.
Sự phá hủy của Ngôi đền thứ hai đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử Do Thái.
Ngôi đền bị biến mất, vai trò của các linh mục suy yếu. Rabbis – các học giả Do Thái,
những người đã giải thích thánh thư và đã được học luật Do Thái – trở thành người
dẫn đầu của giáo đoàn Do Thái.
Vào năm 135 SCN, quân đội La Mã, dưới sự chỉ huy của hoàng đế Hadrianus, đã
dập tắt cuộc nổi dậy cuối cùng của người Do Thái một cách tàn bạo. Sau đó,
Hadrianus cấm tất cả người Do Thái đến thánh địa Jerusalem. Tuy nhiên, người Do
Thái đã xây dựng các cộng đồng bên ngoài Jerusalem. Ở đây họ mang trên mình đức
tin và văn hóa Do Thái. Trong bối cảnh này, Cơ đốc giáo đã phát sinh. Tôn giáo mới
này được thành lập bởi các tín đồ của người thầy Do Thái Jesus người Nazareth.
Chúa Giê-su bắt đầu giảng dạy vào khoảng năm 27 sau Công Nguyên. Theo các
sách Phúc âm, Chúa Giê-su tạo ra sự hưởng ứng lớn ở bất cứ nơi nào ngài đến. Ngài
làm phép lạ chữa bệnh và bênh vực người nghèo. Những lời dạy của Chúa Giê-su khi
26
ngài đi qua vùng nông thôn Judaean đã trở thành một trong những ảnh hưởng lớn nhất
đến thế giới phương Tây. Cuộc đời và những lời dạy của ông được ghi lại trong các
sách Phúc âm của Mathew, Mark, Luke và John. Các sách Phúc âm tạo thành bốn
cuốn sách đầu tiên của Tân Ước của Kinh thánh Cơ đốc. Những lời dạy của Chúa Giê-
su dựa trên truyền thống của người Do Thái. Ông nhấn mạnh rằng con người phải yêu
Chúa và đặt lên trên hết, và họ phải yêu người khác như yêu chính mình. Chúa Giê-su
dạy rằng chỉ có một Đức Chúa Trời thật. Ông cũng dạy rằng Đức Chúa Trời quan tâm
đến con người, đặc biệt là những người đang đau khổ, hơn là đối với luật pháp và nghi
lễ. Chúa Giê-su giải thích những quan điểm này trong Bài giảng trên núi. “Phước cho
các con là những người nghèo khó, vì Đức Chúa Trời thuộc về các con. Phước cho các
con là những người hiện đang đói, vì sẽ được no đủ. Phước cho các con là những
người hiện đang khóc lóc, vì sẽ được vui cười. Phước cho các con khi vì cớ con người
mà bị người ta ghen ghét, xua đuổi, mắng nhiếc, loại bỏ tên các con như kẻ gian ác.”
(Luke 6:20–22, N.I.V.). Lời dạy của Chúa Giê-su dành cho tất cả mọi người. Họ hứa
với sự tha thứ và sự sống đời đời cho những ai chấp nhận bằng lòng đức tin những gì
Đức Chúa Trời đã làm cho họ.
Người La Mã sợ rằng Chúa Giê-su sẽ dẫn đầu một cuộc nổi dậy. Đối với họ, ông
là kẻ thù của nhà nước. Chúa Giê-su bị bắt và bị đưa ra xét xử trước Pontius Pilate,
thống đốc La Mã. Ngay sau đó, Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá.
Theo Tân Ước, Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết sau khi bị đóng đinh. Ông ấy
ở lại Trái đất thêm 40 ngày nữa. Sau đó ông ấy lên thiên đàng. Những người theo ông
ấy tin rằng Chúa sống lại và sự thăng thiên chứng tỏ rằng Chúa Giê-su là Đấng
Messiah. Họ tin rằng Chúa Giê-su đã chết vì tội lỗi của con người. Qua cái chết của
ông, tất cả mọi người có thể được cứu chuộc hoặc được cứu khỏi sự phán xét cuối
cùng của Đức Chúa Trời. Sự phục sinh trở thành sự kiện trọng tâm của một tôn giáo
mới - Cơ đốc giáo.
27
5.2. Sự lan rộng của Cơ đốc giáo
Các môn đồ của Chúa Giê-su tin rằng ngày phán xét cuối cùng của Đức Chúa
Trời sắp đến. Họ bắt đầu truyền bá thông điệp này, hoạt động chủ yếu trong các cộng
đồng người Do Thái ở Palestine. Lúc đầu, đạo Cơ đốc truyền bá chậm. Tuy nhiên, sức
hấp dẫn của nó tăng lên khi cuộc sống trong đế chế trở nên khó khăn hơn. Cơ đốc giáo
chấp nhận tất cả mọi người, người nghèo cũng như người giàu. Nó gợi lên niềm hy
vọng và sự tự do khỏi những hình phạt tội lỗi và cái chết.
Lúc đầu, chính quyền La Mã xem những người theo đạo Cơ đốc như một giáo
phái Do Thái và do đó đã giải phóng họ khỏi nghĩa vụ tôn thờ hoàng đế. Tuy nhiên,
đến những năm 100 SCN, La Mã công nhận rằng các tín đồ Cơ đốc giáo khác nhau.
Những người theo đạo Thiên chúa thường lên tiếng phản đối ý tưởng thờ nhiều vị
thần. Họ cũng cố gắng thuyết phục những người khác theo quan điểm của họ. Người
La Mã xem những hành động này là một cuộc tấn công vào tôn giáo và luật pháp La
Mã và sớm đặt ra ngoài vòng pháp luật của Cơ đốc giáo. Người La Mã thỉnh thoảng
chiếm đoạt tài sản của người Cơ đốc và hành quyết những người theo đạo Cơ đốc.
Nhiều người Cơ đốc đã phải chết vì đạo, có nghĩa là họ đã bị xử tử vì niềm tin của họ.
Tuy nhiên, những nỗ lực này của La Mã đã thất bại trong việc ngăn chặn sự truyền bá
của Cơ đốc giáo.
Vào những năm 200 SCN, sau thời đại của Năm vị Hoàng đế tốt, bạo lực và hỗn
loạn một lần nữa làm rung chuyển Đế chế La Mã. Nhiều người đã chuyển sang Cơ
đốc giáo để hy vọng sẽ được giải thoát. Đến những năm 300 SCN, Cơ Đốc giáo đã trở
28
nên quá lớn khiến chính phủ không thể áp đảo được. Đổi lại, luật pháp La Mã đã chấp
nhận Cơ đốc giáo là một tôn giáo ở La Mã.
Trong những năm cuối của Đế chế La Mã, Giáo hội đã có tổ chức tốt. Các linh
mục tiến hành các dịch vụ và nghi lễ địa phương. Phía trên các linh mục là các giám
mục, những người đứng đầu nhà thờ ở mỗi thành phố. Rome, Constantinople,
Alexandria, Antioch và Jerusalem trở thành trung tâm của nhà thờ. Các giám mục của
các thành phố đế chế này được gọi là tộc trưởng. Theo thời gian, giáo chủ của Rome
đã lấy danh hiệu giáo hoàng (từ một từ tiếng Latinh có nghĩa là "cha"). Giáo hoàng
tuyên bố sự tối cao so với các giáo chủ khác. Các giám mục tìm thẩm quyền của mình
từ các môn đệ của Chúa Giê-su, chủ yếu là Phi-e-rơ, người được coi là giáo hoàng đầu
tiên. Bất kỳ quyết định nào do các giám mục và giáo hoàng đưa ra đều tương đương
với những quyết định đến trực tiếp từ các giáo dân, những người đã nhận được quyền
hành trực tiếp từ Chúa Giê-su.
Các hội đồng nhà thờ cũng giúp củng cố nhà thờ Cơ đốc. Vào năm 325 SCN, hội
đồng tại Nicaea đã viết ra những niềm tin chủ yếu của nhà thờ. Nó tuyên bố sự tồn tại
của Chúa Ba Ngôi (sự hợp nhất của một Cha, Con và Thánh thần trong đạo Cơ đốc).
Ngày nay Chúa Ba Ngôi là tín ngưỡng chính của người theo đạo Thiên Chúa.
29
CHƯƠNG 6: SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ CHẾ PHƯƠNG TÂY
Một nhà lãnh đạo La Mã ủng hộ mạnh mẽ Cơ đốc giáo là Hoàng hậu Galla
Placidia (khoảng năm 390 sau Công nguyên - 450 sau Công nguyên). Tuy nhiên, thời
đại mà bà sống không phải là thời đại thuận lợi đối với người La Mã. Sau nhiều năm
lãnh đạo kém và xảy ra nhiều xung đột với các dân tộc bắt đầu gây ra nhiều hệ quả cho
người La Mã. Những vấn đề như vậy sẽ dẫn đến sự sụp đổ của Đế chế La Mã.
Nỗ lực thu nhiều thuế hơn, nên chính phủ đã cấp quyền công dân cho tất cả
những người tự do của đế chế vào năm 212. Nhưng việc bảo vệ biên giới và chống các
cuộc nội chiến tốn kém, và sự kết thúc của việc mở rộng đồng nghĩa với việc của cải
không còn đổ vào đế chế. Kết quả là sự thiếu hụt bạc dành cho tiền xu - hình thức
chính của tiền tệ. Các hoàng đế phản ứng bằng cách giảm số lượng bạc trong mỗi đồng
xu để họ có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Vào năm 270 SCN, một đồng bạc thật sự
chứa rất ít bạc. Để được lượng bạc như trước, các thương gia đã phải tăng giá. Sự tăng
giá này diễn ra bởi sự giảm sút giá trị của tiền hay còn gọi là lạm phát. Đế chế phải trải
qua những cuộc khủng hoảng chính trị, quân sự, kinh tế và bắt đầu suy sụp. Lúc nào
cũng có những cuộc xâm lăng của man tộc, nội chiến và lạm phát.
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng sâu sắc và các cuộc tấn công ở biên giới
liên tục xảy ra, cuộc sống hàng ngày của nhiều người trở nên khó khăn hơn. Nhiều
nông dân bị buộc phải bán trang trại của họ cho những kẻ đầu cơ đất đai và những chủ
đất lớn. Trong những năm 250 và 260 SCN, Athens và Antioch đều bị quân xâm lược
cướp phá. Người giàu có thể thoát khỏi thành phố để về nông thôn, nhưng người lao
động thành phố không may mắn như vậy. Họ không thể rời bỏ công việc của mình
trong mọi trường hợp, họ không còn nơi nào khác để đi.
30
6.1.2. Quân sự và chính trị
Quân sự và chính trị của La Mã cũng rơi vào tình trạng hỗn loạn vào thế kỉ 3
SCN. Đế chế La Mã phát triển quá nhanh và quá lớn. Dù đã cố gắng kiểm soát đế chế
lớn này chỉ với một chính phủ nhỏ. Đối mặt với việc quản lý toàn bộ Địa Trung Hải,
hệ thống chính trị này đã thất bại. Cạnh tranh quyền lực, dịch vụ công áp bức và tòa án
tham nhũng đã làm tăng thêm các vấn đề. Quân đội cũng góp phần làm suy tàn bằng
cách can thiệp vào sự lựa chọn của hoàng đế và khiến chính phủ không ổn định.
Diocletian một vị tướng trong quân đội La Mã, được phong làm hoàng đế vào
năm 284. Là một người chỉ huy tài ba, ông nhận thấy rằng Đế chế La Mã quá lớn và có
quá nhiều áp lực từ bên trong lẫn các mối đe dọa từ bên ngoài, chỉ một vị hoàng đế thì
khó lòng cai trị được. Do đó, ông chia Đế chế ra làm hai nửa Đông và Tây (với ranh
giới ở vùng Đông Ý), ông cai trị Đông La Mã. Hai bên sẽ có hai vị hoàng đế ngang
quyền nhau cùng mang Đế hiệu Augustus. Sự phân chia này là tiền thân của Đế chế
Tây La Mã và Đế chế Đông La Mã. Tới năm 293 thì quyền lực tiếp tục được chia nhỏ
ra hơn nữa, mỗi Augustus sẽ chọn ra một hoàng đế trẻ hơn gọi là nhà độc tài để giúp
mình trị nước. Galerius trở thành nhà độc tài của Diocletian còn Constantius là nhà
độc tài của Maximian. Diocletian và đồng hoàng đế của ông đã nghỉ hưu vào năm 305
SCN. Nhà độc tài của họ giờ đây đã trở thành đồng hoàng đế, với các con trai của họ
sẽ trở thành nhà độc tài. Vào nằm 306 SCN Constantius đột ngột qua đời, con trai của
ông là Constantine lên ngôi hoàng đế. Tuy nhiên, Hoàng đế ở phương Đông từ chối
công nhận Constantine là đồng hoàng đế. Quy tắc mà Diocletian đã tạo ra nhanh
chóng bị phá vỡ. Nội chiến một lần nữa xảy ra.
• Constantine dời đô
Cuối cùng, Constantine đã chiến thắng và trở thành hoàng đế duy nhất vào năm
324 SCN, hai việc làm đáng nhớ nhất dưới thời Constantine là cải sang đạo Thiên chúa
và phát triển thành phố Constantinopolis. Thủ đô mới đóng vai trò như một căn cứ để
bảo vệ đế chế phía đông. Sau khi Constantine qua đời vào năm 337 SCN, đế chế được
ổn định trong khoảng 50 năm nữa. Tuy nhiên, chính phủ lại hoạt động kém hiệu quả
và xảy ra tham nhũng. Đến năm 400 SCN, hai đế chế đã tồn tại, một ở phương Tây và
31
một ở phương Đông. Khi đế quốc phía tây ngày càng suy yếu, đế quốc phía đông trở
thành trung tâm của quyền lực và sự giàu có.
Vào cuối những năm 300 SCN, một lượng lớn người Goth đã tràn vào đế quốc
mang trong mình nỗ lực thoát khỏi những kẻ xâm lược từ phía đông. Người La Mã đã
đối xử tệ bạc với họ. Để đối phó với điều đó, người Goth đã nổi dậy vào năm 378.
Người Goth tự trang bị vũ khí mạnh mẽ và nhanh chóng đè bẹp quân đội La Mã lớn
khi giao chiến trong trận chiến tại Adrianople. Trong số những người thiệt mạng có cả
hoàng đế phương đông Valens. Người La Mã không còn thế thượng phong trước quân
xâm lược. Sau thất bại, người La Mã cho phép người Goth định cư trong đế chế dưới
sự lãnh đạo của chính họ. Đổi lại, người Goth đồng ý tham gia quân đội của người La
Mã mà điều này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Năm 410 SCN, vua Visigoth là Alaric
và quân của ông đã cướp phá thành Rome. Đây là lần đầu tiên La Mã bị cướp phá sau
800 năm.
Trong khi người La Mã tự vệ chống lại người Visigoth thì người Vandals đã vượt
qua biên giới. Họ đã chứng tỏ họ là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với đế chế. Vào
năm 429 SCN, người Vandals xâm lược Bắc Phi, và nhanh chóng chinh phục khu vực
này. Vào năm 455 SCN, họ quay trở lại châu Âu để cướp phá thành La Mã.
Người Huns
Người Goth đã tiến vào đế chế để thoát khỏi sự tấn công của người Huns. Người
Huns là những dân tộc du mục đến từ châu Á sinh sống bằng việc đánh phá và cướp
bóc. Vào giữa những năm 400, người Huns được dẫn đầu bởi Attila - mối hiểm họa
đáng sợ của cả Đế quốc Đông La Mã và Tây La Mã. Vào năm 451 SCN, Attila đã mở
cuộc tấn công vào Gaul. Nhưng sau đó quân của ông đã bị đánh bại bởi đội quân của
người La Mã và người Visigoth trong trận chiến lớn gần Châlons-sur-Marne. Quân đội
của Attila nhanh chóng tan vỡ, nhưng đã quá muộn để cứu Đế chế Tây La Mã. Vào
năm 476 sau Công nguyên, Năm 476, một viên tướng người German là Odoacer nổi
32
dậy làm chính biến lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã là Romulus Augustus.
Đế chế Tây La Mã diệt vong ở đây.
Những người Đức đã xâm lược phương Tây gồm nhiều bộ tộc khác nhau. Vì vậy, họ
đã thành lập các vương quốc bộ lạc riêng biệt khi còn ở đây. Điều này khiến cho
không thể cai trị bằng một đế chế thống nhất. Ở nhiều khu vực, người dân đã rời thành
phố để tìm kiếm nguồn lương thực và cuộc sống an toàn hơn. Vì binh lính thường
giẫm đạp lên các đồng ruộng phá hoại mùa màng trong các trận chiến, và cỏ dại thì
mọc khắp nơi làm nghẹt các cánh đồng. Việc giáo dục không thể duy trì do trường
học và thư viện bị phá hủy. Theo thời gian, kiến thức về thế giới và quá khứ bị lãng
quên.
Trong nhiều thế kỷ, các nhà sử học đã tranh luận về việc tại sao đế chế hùng
mạnh này có thể biến mất. Nguyên nhân rõ ràng nhất dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng là
hàng loạt các cuộc xâm lược của quân Đức do người Huns đẩy lùi về phía tây từ châu
Á. Điều này gây ra một sức ép khủng khiếp đối với các nguồn tài nguyên của La Mã,
vốn đã quá mỏng manh. Áp đảo và thiếu binh lính, quân đội La Mã trở nên phụ thuộc
vào quân Đức, khiến cho quân Đức ngày càng có được nhiều quyền lực và tự do hơn.
Phải mất hàng thế kỷ mới tạo được tiền đề cho kết quả cuối cùng. Giữa những năm
200 SCN và những năm 400 SCN, hầu như không thoát khỏi sự suy tàn về chính trị,
quân sự, kinh tế hoặc xã hội đối với người La Mã.
Trong thời đại giao thông vận tải còn chậm phát triển, Đế chế La Mã phát triển
quá nhanh và quá lớn. Dù đã cố gắng kiểm soát đế chế lớn này chỉ với một chính phủ
nhỏ. Đối mặt với việc quản lý toàn bộ Địa Trung Hải, hệ thống chính trị này đã thất
bại. Cạnh tranh quyền lực, dịch vụ công áp bức và tòa án tham nhũng đã làm tăng
thêm các vấn đề. Quân đội cũng góp phần làm suy tàn bằng cách can thiệp vào sự lựa
chọn của hoàng đế và khiến chính phủ không ổn định.
33
Có thể đưa ra những khái quát về nguyên nhân của sự sụp đổ bằng cách phân tích
thông tin về các yếu tố này. Từ góc nhìn của một nhà sử học: Nhà sử học Edward
Gibbon đã tổng kết quan điểm của mình về nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của thành
La Mã. "Nền hòa bình lâu dài, và chính phủ thống nhất của người La Mã, đưa một
chất độc chậm và bí mật vào các yếu tố quan trọng của đế chế. Làm cho trí óc của con
người dần bị suy giảm đến cùng, thiên tài hỏa hoạn bị dập tắt, và ngay cả tinh thần
quân đội cũng bốc hơi".
Về mặt kinh tế: Thu thuế cao, tình trạng lạm phát xảy ra tràn lan. Ngoài ra, mất
mát do chiến tranh cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Giảm sản lượng sản xuất
và suy giảm nông nghiệp cũng là một nguyên nhân quan trọng.
Về mặt quân sự: Không thể không kể đến các cuộc xâm lược của quân Đức. Chi
phí quốc phòng cao và phụ thuộc nhiều vào quân đội Đức khiến cho binh lính dần mất
lòng tin đối với La Mã. Bên cạnh đó quân đội can thiệp vào chính phủ khiến nhiều vẫn
đề xảy ra.
Về xã hội: Tình trạng phân chia gia cấp giàu nghèo ngày càng tăng. Giá cả thì
ngày càng mất đi giá trị của nó. Lòng yêu nước của người dân mất dần.
Về chính trị: Hệ thống nhà nước kém hiệu quả, phân chia đế chế • Quyền lực
ngày càng lớn mạnh của Đế chế phương Đông, tình trạng tham nhũng và sự lãnh đạo
không ổn định và gánh nặng từ dịch vụ công.
Các tướng lĩnh đầy tham vọng thường giành quyền kiểm soát, ám sát hoàng đế để
lên ngôi. Những người lính dần đánh mất đi lòng trung thành đối với La Mã. Thay
vào đó, họ sẽ phục vụ bất kỳ nơi nào có thể cho họ nhiều lợi hơn. Đối mặt với sự lãnh
đạo kém, kỷ luật sụp đổ. Ngoài ra, một số nhà lãnh đạo La Mã đã tuyển mộ toàn bộ
binh lính của quân Đức, cấp cho họ tiền và hàng hóa để phục vụ. Kết quả là, người La
Mã trở nên quá phụ thuộc vào quân đội Đức để phòng thủ.
Các vấn đề căng thẳng đối với nền kinh tế gây tổn hại nhiều hơn. Việc bảo vệ và
duy trì đế chế rất tốn kém. Thuế nặng đè bẹp dân chúng. Nhưng ngay cả thuế nặng
cũng không thể cung cấp đủ tiền để duy trì đế chế. Vấn đề càng trở nên phức tạp khi
đế chế ngừng mở rộng. Chính phủ không còn phụ thuộc vào vàng và hàng hóa mà họ
cướp được trong các cuộc chiến tranh ngoại bang. Khi sản xuất và nông nghiệp suy
giảm, nền kinh tế La Mã ngày càng suy yếu.
34
• Thay đổi xã hội
Sự giàu có của người La Mã chỉ nằm trong tay của một bộ phận nhỏ dân chúng.
Khi đế chế phát triển, số lượng công dân nghèo ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu
nghèo góp phần làm suy thoái xã hội. Hầu hết những người La Mã thời kỳ đầu là
những người nghiêm khắc, trung thực, chăm chỉ và yêu nước, họ tin rằng nhiệm vụ
của họ là phục vụ chính phủ. Người La Mã của đế chế sau này đã đánh mất lòng yêu
nước này, họ hầu hết không quan tâm đến chính phủ và thiếu trung thực trong chính
trị.
35
KẾT LUẬN
Mỗi đất nước đều phải trải qua bề dày lịch sử để có được nền văn minh tiên tiến
hiện đại như hôm nay.Có thể nói đế quốc La Mã với đại diện là Tây La Mã đã sụp đổ
vì nhiều lí do khác nhau, từ vấn đề chính trị, chiến tranh, thuế, khủng hoảng kinh tế,
thiên tai. Nhưng không hẳn là sụp đổ vào năm 476 vì phần Đông La Mã vẫn tồn tại
thêm khoảng 1000 năm nữa. Vì vậy không thể khẳng định chính xác La Mã chính thức
sụp đổ vào năm nào. Tuy vậy nhưng nền văn minh La Mã cổ đại đã để lại cho nhân
loại những giá trị lịch sử quý báu, đã góp phần tạo nên chính quyền, luật pháp, chính
trị, kỹ nghệ, nghệ thuật, văn chương, kiến trúc, công nghệ, chiến tranh, tôn giáo, ngôn
ngữ, và xã hội hiện đại.
36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] https://www.history.com/author/history. (2009, 10 14). Ancient Rome. Được truy
lục từ HISTORY: https://www.history.com/topics/ancient-rome/ancient-rome
[4] TNL. (2020, 8 13). thanhnien.vn. Được truy lục từ La Mã - Từ thành bang nô lệ trở
thành đế chế không có điểm kết thúc: https://thanhnien.vn/la-ma-tu-thanh-bang-
no-le-tro-thanh-de-che-khong-co-diem-ket-thuc-post984057.html
[5] WORLD HISTORY TEXTBOOK. (không ngày tháng). Được truy lục từ
file:///C:/L%E1%BB%8ACH%20S%E1%BB%AC%20CT%C4%90/WORLD
%20HISTORY%20TEXTBOOK.pdf
37