Professional Documents
Culture Documents
KHOA: LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN
KHOA: LỊCH SỬ
TIỂU LUẬN
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................1
4. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................1
Chương 1
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ LÝ (THẾ KỈ XI - XIII)
1.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lý............................................................2
1.2. Phân loại sở hữu ruộng đất..............................................................................2
1.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước...........................................................2
1.2.2. Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân..............................................................4
1.2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa (ruộng tam bảo).................................5
1.3. Tiểu kết...........................................................................................................5
Chương 2
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ TRẦN (THẾ KỈ XIII - XIV)
2.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Trần..................................................6
2.2. Phân loại sở hữu ruộng đất..............................................................................6
2.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước (ruộng công)......................................6
2.2.2. Ruộng tư nhân.........................................................................................7
2.2.3. Ruộng nhà chùa.......................................................................................8
2.3. Tiểu kết...........................................................................................................8
Chương 3
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ HỒ (CUỐI THẾ KỈ XIV - ĐẦU THẾ KỈ XV)
3.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Hồ....................................................9
3.2. Cải cách về ruộng đất của Hồ Quý Ly..............................................................9
3.3. Tiểu kết.............................................................................................................9
Chương 4
RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ SƠ (THẾ KỈ XV)
4.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lê Sơ......................................................10
4.2. Phân loại sở hữu ruộng đất.............................................................................10
4.2.1.Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước..........................................................10
4.2.2. Ruộng đất công làng xã.........................................................................11
4.2.3. Ruộng đất tư hữu...................................................................................11
4.3. Tiểu kết...........................................................................................................11
KẾT LUẬN................................................................................................................. 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các nước phương Đông - bao gồm cả Việt Nam - đều khởi nguồn từ nông nghiệp,
có thể nói dân tộc ta từ xưa đã chuyên về canh tác nông nghiệp. Và đối với một nước
nông nghiệp như nước ta thì vấn đề về ruộng đất luôn được quan tâm hàng đầu.
Từ cổ chí kim, từ khi con người biết trồng trọt và chăn nuôi thì đời sống của con
người cũng có những bước tiến quan trọng. Và nghề trồng lúa chính là nghề đã nuôi
sống bao nhiêu thế hệ con dân nước Việt.
Nước ta cũng là một trong những nước có điều kiện khí hậu và địa hình phù hợp
nhất cho việc trồng lúa nước và canh tác nông nghiệp. Những cánh đồng phù sa màu
mỡ, những dòng sông bạt ngàn, khí hậu ấm áp chan hóa... tất cả đã làm cho nền kinh tế
nông nghiệp của nước ta từ xưa đến nay luôn có những phát triển tuyệt vời.
Tuy nhiên, vì ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta là ngành quan trọng cho nên chế
độ ruộng đất cũng đặc biệt được chú trọng.
Vào khoảng thế kỉ XI - XV, thời Lý - Trần, Hồ và Lê Sơ chính là thời đại huy
hoàng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, tuy nhiên vào giai đoạn này, nền kinh
tế hàng hóa ở Việt Nam chưa được phát triển, thương nghiệp và các hoạt động phi
nông nghiệp khác cũng không được phát triển như phương Tây, các hoạt động kinh tế
chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Và chế độ ruộng đất vào giai đoạn này luôn được triều
đình quan tâm đặc biệt.
Các công trình nghiên cứu về ruộng đất thời phong kiến nước ta đã có rất nhiều.
Hàng loạt các tập sách, báo điện tử cũng đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, mỗi một
nguồn đều có những quan điểm không giống nhau về vấn đề này. Và vì thế, ta có thể
nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm tòi và nghiên cứu về vấn đề này.
Từ những lý do trên, em chọn đề tài “Vấn đề về ruộng đất Đại Việt từ thế kỉ XI -
XV” để nghiên cứu cho bài tiểu luận này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu và làm rõ những vấn đề về ruộng đất thời Lý - Trần - Hồ và Lê sơ, góp
phần nào đó để hiểu thêm về lịch sử dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận bao gồm những bộ phận ruộng đất của thời
nhà Lý, thời nhà Trần, thời nhà Hồ, thời Lê Sơ và những chính sách về ruộng đất ở
bốn triều đại này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, từ thế kỉ XI - XV, đây là giai đoạn của hai triều Lý, triều Trần, triều
Hồ và Lê Sơ.
Về không gian, toàn bộ lãnh thổ Đại Việt nơi có ruộng đất dưới thời Lý - Trần -
Hồ - Lê Sơ.
2
Chương 1
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ LÝ (THẾ KỈ XI - XIII)
1
Theo Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 1, GS. Trần Quốc Vượng, GS. Hà Văn Tấn, NXB Giáo Dục, 1960, Tr.8
2
Còn gọi là Hương Cổ Pháp, thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, ở Bắc Ninh hiện nay, được biết đến là quê hương của
nhà Lý.
3
Việt sử thông giám cương mục, bản dịch của NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957, Tr.41
2
3
mộ của vua. Bên cạnh đó, theo ghi chép thì ruộng sơn lăng có diện tích không lớn, cây
củ mọc um tùm và giống như các loại ruộng thờ ở địa phương.
Dần dần, qua nhiều thế hệ và những yếu tố lịch sử thì ruộng thờ đã xuống cấp trầm
trọng, không còn được trưng dụng nhiều như trước. Rồi cho đến cuối thế kỉ XV, toàn
- Ruộng tịch điền:
Cũng là một trong những khu ruộng do nhà nước trực tiếp bên cạnh ruộng sơ lăng,
ta có ruộng tịch điền.
Theo ghi chép lịch sử thì ruộng tịch điền đã tồn tại từ thời Lê Sơ. Cho đến thời nhà
Lý thì ruộng tịch điền vẫn còn được duy trì và phát triển. Ruộng này được quan lại
triều đình trực tiếp canh tác và hình thức này được cho là nghi lễ chịu ảnh hưởng của
các nước Trung Quốc cổ xưa.
Định nghĩa ruộng tịch điền theo nhà sử học Trung Quốc, Dương Khoan là “một
loại ruộng lấy hoa lợi chi vào việc tế tự, còn nữa thì chẩn cấp cho dân nghèo hoặc để
tiếp khách. Đây cũng là loại ruộng nghi lễ nông nghiệp, tàn dư của mạt kỳ chế độ công
xã nguyên thủy”. Có thể nói, hình thức ruộng tịch điền này rất phù hợp với nước ta,
đất nước nông nghiệp và trọng nông nghiệp.
Qua đó, ta có thể thấy rằng hình thức cày ruộng tịch điền của triều đình chính là
hoạt động góp phần khuyên khích nhân dân làm nông nghiệp. Nghi lễ này cũng cho
thấy triều đình nhà Lý cũng có quan tâm đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của
người dân.
Sự kiện quan trọng phải kể đến khi nhắc đến nghi lễ cày ruộng tịch điền đó là năm
1038 “Mùa xuân, tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sau Hữu ty dọn
cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả
hữu có người can rằng: ‘Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?’Vua nói:
‘Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?’ Nói xong
đẩy cày ba lần rồi thôi.”(1)3
Ruộng tịch điền của nhà Lý được đặt ở khá nhiều nơi, từ xung quanh thành Thăng
Long cho đến những nơi đông dân. Ruộng tịch điền có ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình),
Ứng Phong (Nam Định) và Lý Nhân (Hà Nam).
Tuy nhiên, theo tìm hiểu thì số lượng của ruộng tịch điền không được sử sách ghi
lại một cách cụ thể, nhưng ta cũng có thể đoán được là số lượng ruộng tịch điền cũng
không phải là nhiều vì đây cũng chỉ là hình thức ruộng nghi lễ, không được canh tác
triệt để.
- Ruộng đồn điền:
Vào thời nhà Lý, việc khai hoang và lập các đồn điền đã được tiến hành. Và các
khu vực được tiến hành khai hoang là các vùng ven sông, ven biển thuộc đồng bằng
sông Hồng, sông Mã, sông Lam.
Lực lượng chủ yếu của các tổ chức khai hoang theo các nguồn tư liệu lịch sử phần
lớn là các tù binh Chiêm Thành, tù khổ sai và nô tì. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại:
“Bầy tôi dâng tù binh hơn 5000 người; xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận
người cùng bộ thuộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu nay là Quy Hóa đặt
hương ấp phỏng theo tên gọi cũ của Chiêm Thành”. Qua điều này, ta có thể thấy là vào
thời Lý, chính sách đồn điền vẫn chưa được đặt ra cho nên các tù binh mới có thể đặt
tên cho các đồn điền mà họ khai hoang bằng tên phỏng theo tên cũ của họ.
Còn về những người cày và canh tác ở ruộng đồn điền là ai thì vẫn chưa tìm thấy
tài liệu nào ghi chép lại. Tuy nhiên, ta cũng có thể biết được thân phận của họ chắc
31
Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tập 1, trang 267
4
chắn rất thấp kém, từ đời này sang đời khác đều phải làm ruộng để nộp thuế cho triều
đình.
- Ruộng quốc khố (hay còn gọi là quan điền):
Xét về mặt nghĩa đen, ruộng quốc khố là ruộng thuộc quyền sở hữu và quản lý của
nhà nước mà hoa lợi từ việc canh tác ruộng quốc khố sẽ được đưa vào ngân sách nhà
nước, dự trữ trong kho triều đình và được nhà vua, hoàng cung sử dụng.
Lực lượng canh tác ở đây thường là các nô tì (gọi là cảo điền nhi và cảo điền hành
tức là những người có tội và phải làm công nông cho nhà vua, theo Đại Việt sử ký tòan
thư, bản dịch đã dẫn, tập 1, Tr. 318), họ sử dụng các nông cụ của triều đình, trâu cày.
1.2.1.2. Ruộng công làng xã hay ruộng đất cho làng xã quản lý
Đây là một bộ phận quan trọng nhất trong hình thức ruộng thuộc sở hữu của nhà
nước, có diện tích lớn nhất trong cả nước.
- Ruộng thác đao:
Ruộng thác đao là loại ruộng ở thời Lý, các vua Lý phong cấp và ban thưởng cho
các tầng lớp quý tộc, quan lại. Theo ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư thì ruộng thác
đao lần đầu tiên được ban thưởng cho Lê Trọng Hiếu.
Tuy nhiên, suy cho cùng thì ruộng thác đao cũng vẫn là ruộng công, tức là người
sở hữu ruộng thác đao không thể bán lại ruộng thác đao cho người khác mà chỉ có thể
truyền cho con cháu đời sau nhưng vẫn ở trong thời của nhà Lý.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì toàn bộ thuế của ruộng thác đao đều được miễn.
Đây chính là chế độ đánh giá công lao của những người có tài ở thời Lý, càng có tài
thì chức tước càng cao và càng được nhiều bổng lộc.
- Chế độ ban cấp hộ nông dân (thực ấp, thật phong):
Đây là chế độ chỉ có ở thời nhà Lý và cũng là đặc trưng của thời Lý, được áp dụng
rộng rãi.
Theo “Lịch sử Việt Nam giản yếu” của GS. Lương Ninh, “thực ấp” nghĩa là người
được cấp thực cấp chỉ được hưởng tô thuế do người cày trong loại ruộng này nộp,
ruộng đất và con người vẫn thuộc quyền chiếm hữu của công xã. Tuy nhiên, có thể
thấy số lượng đất được phong vốn chỉ ở trên danh nghĩa và số lượng “thực ấp” thực tế
sẽ có sự chênh lệch lớn do không đủ đất. Và số đất được phong trên danh nghĩa này
cũng nhằm để ban thưởng cho công lao của người được thưởng.
Mặt khác, “thật phong” là số lượng thực tế vì đây chính là quy định nhà Lý ban ra
để chỉ số hộ thật sự mà người có công trạng được ban cho.
Tuy nhiên, việc ban cấp hộ nông dân “thực ấp - thật phong” không tạo điều kiện
cho sự sở hữu hay chiếm hữu ruộng đất mà tất cả hình thức ruộng đất này về căn bản
thì vẫn thuộc sở hữu của nhà nước chứ không phải của một cá nhân nào. Và phần lớn
bộ phận của ruộng này đều được chia cho các làng, các xã ở đó quản lý và cày cấy, rồi
nộp thuế cho nhà nước. Còn việc thu tô thuế ở đây thì được triều đình phân công cho
những quan lại ở địa phương đó.
1.2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa (ruộng tam bảo)
Dưới thời nhà Lý, Phật giáo phát triển khá mạnh và số lượng chùa được xây lên
ngày một nhiều. Trích Đại Việt Sử ký toàn thư, sử gia Lê Văn Hưu đã viết: “Lý Thái
Tổ lên ngôi mới được 2 năm, miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đó đã
dựng chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quan ở các bộ và độ làm tăng cho hàng
nghìn người ở kinh sư... dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa
chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy”. Cũng vì Phật giáo ngày một phát triển và nhà
Lý lại ưa chuộng Phật giáo cho nên số lượng ruộng chùa cũng chiếm một bộ phận khá
lớn trong nước Đại Việt bấy giờ.
Ruộng chùa là loại ruộng có hình thức rất đa dạng, có thể là ruộng được vua ban
tặng, ruộng công làng xã và ruộng thuộc sở hữu tư của chùa (có thể do chùa mua hoặc
được cúng bái).
Ruộng chùa cũng đánh dấu sự phát triển của Phật giáo đi chung với chính quyền
thời nhà Lý.
51
Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.12
62, 3
Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.19
7
8
Các vùng điền trang của thời Trần phải kể đến như An Lạc - điền trang đầu tiên ở
thời Trần (Bình Lục, Hà Nam), Vũ Lâm (Ninh Bình), Cổ Nhuế (Hà Nội), Tô Xuyên
(Quỳnh Phụ, Thái Bình), Phất Lộc (Thái Thụy, Thái Bình).
- Ruộng đất tư hữu của địa chủ:
Năm 1254, triều đình nhà Trần ban hành lệnh bán ruộng công. Việc này đã thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ruộng đất tư hữu ở thời đại này và vào đầu thời Trần,
diện tích ruộng đất tư nhân đã mở rộng rất nhiều.
Dù ruộng đất tư nhân phát triển, nhưng những địa chủ sỡ hữu nhiều ruộng đất ở
thời Trần vẫn không được coi là quý tộc, địa vị của họ vẫn là dân thường như các tầng
lớp lao động khác mà thôi.
Tuy có số lượng ngày một tăng, nhưng ruộng đất của địa chủ lại có phần phân tán
ở nhiều nơi chứ không tập trung ở một chỗ và sự sở hữu này không được ổn định như
thái ấp, điền trang; mà luôn dao động (có lẽ là do chính sách được mua bán đất đang
rất phổ biến ở thời Trần).
- Ruộng đất tiểu nông:
Việc mua bán đất công khai dưới sự cho phép của nhà nước đã góp phần tạo ra
nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và đấy cũng chính là một trong những nguyên nhân cơ
bản để hình thành bộ phận ruộng đất tiểu nông tư hữu. Vì có lệnh bán đất công của nhà
nước, nên các hộ gia đình tiểu nông đã có cơ hội mua thêm đất để canh tác và họ cũng
có quyền sở hữu những mảnh đất công mà họ đã mua.
Theo nhiều tìm hiểu và ghi chép thì sử cũ không ghi lại quá nhiều về hình thức
ruộng đất này, tuy nhiên theo “Đại Cương Lịch sử Việt Nam Toàn tập” của GS. TS.
Trương Hữu Quýnh thì các nông nô, nô tì và nông dân càng ruộng làng xã ít nhiều
cũng đã sở hữu được ruộng đất, tuy nhiên việc sở hữu này là không ổn định. Nếu như
năm nào mùa vụ thất thu hay dịch bệnh thì họ phải bán đi đất cho các địa chủ đương
thời và trường hợp tệ nhất là không ít người phải làm nô tì cho địa chủ, quý tộc.