You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA: LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN

VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT ĐẠI VIỆT TỪ THẾ KỈ XI - XV

HỌC PHẦN: HIST130101 - LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI 1

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA: LỊCH SỬ

TIỂU LUẬN

VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT ĐẠI VIỆT TỪ THẾ KỈ XI - XV

HỌC PHẦN: HIST130101 - LỊCH SỬ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI 1

Họ và tên: Phạm Nguyệt Đông Ngân


Mã số sinh viên: 47.01.602.051
Lớp học phần: Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại 1

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hương

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.................................................................................1
3. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................1
4. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................1
Chương 1
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ LÝ (THẾ KỈ XI - XIII)
1.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lý............................................................2
1.2. Phân loại sở hữu ruộng đất..............................................................................2
1.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước...........................................................2
1.2.2. Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân..............................................................4
1.2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa (ruộng tam bảo).................................5
1.3. Tiểu kết...........................................................................................................5
Chương 2
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ TRẦN (THẾ KỈ XIII - XIV)
2.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Trần..................................................6
2.2. Phân loại sở hữu ruộng đất..............................................................................6
2.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước (ruộng công)......................................6
2.2.2. Ruộng tư nhân.........................................................................................7
2.2.3. Ruộng nhà chùa.......................................................................................8
2.3. Tiểu kết...........................................................................................................8
Chương 3
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ HỒ (CUỐI THẾ KỈ XIV - ĐẦU THẾ KỈ XV)
3.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Hồ....................................................9
3.2. Cải cách về ruộng đất của Hồ Quý Ly..............................................................9
3.3. Tiểu kết.............................................................................................................9
Chương 4
RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ SƠ (THẾ KỈ XV)
4.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lê Sơ......................................................10
4.2. Phân loại sở hữu ruộng đất.............................................................................10
4.2.1.Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước..........................................................10
4.2.2. Ruộng đất công làng xã.........................................................................11
4.2.3. Ruộng đất tư hữu...................................................................................11
4.3. Tiểu kết...........................................................................................................11
KẾT LUẬN................................................................................................................. 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các nước phương Đông - bao gồm cả Việt Nam - đều khởi nguồn từ nông nghiệp,
có thể nói dân tộc ta từ xưa đã chuyên về canh tác nông nghiệp. Và đối với một nước
nông nghiệp như nước ta thì vấn đề về ruộng đất luôn được quan tâm hàng đầu.
Từ cổ chí kim, từ khi con người biết trồng trọt và chăn nuôi thì đời sống của con
người cũng có những bước tiến quan trọng. Và nghề trồng lúa chính là nghề đã nuôi
sống bao nhiêu thế hệ con dân nước Việt.
Nước ta cũng là một trong những nước có điều kiện khí hậu và địa hình phù hợp
nhất cho việc trồng lúa nước và canh tác nông nghiệp. Những cánh đồng phù sa màu
mỡ, những dòng sông bạt ngàn, khí hậu ấm áp chan hóa... tất cả đã làm cho nền kinh tế
nông nghiệp của nước ta từ xưa đến nay luôn có những phát triển tuyệt vời.
Tuy nhiên, vì ngành kinh tế nông nghiệp của nước ta là ngành quan trọng cho nên chế
độ ruộng đất cũng đặc biệt được chú trọng.
Vào khoảng thế kỉ XI - XV, thời Lý - Trần, Hồ và Lê Sơ chính là thời đại huy
hoàng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, tuy nhiên vào giai đoạn này, nền kinh
tế hàng hóa ở Việt Nam chưa được phát triển, thương nghiệp và các hoạt động phi
nông nghiệp khác cũng không được phát triển như phương Tây, các hoạt động kinh tế
chủ yếu là kinh tế nông nghiệp. Và chế độ ruộng đất vào giai đoạn này luôn được triều
đình quan tâm đặc biệt.
Các công trình nghiên cứu về ruộng đất thời phong kiến nước ta đã có rất nhiều.
Hàng loạt các tập sách, báo điện tử cũng đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, mỗi một
nguồn đều có những quan điểm không giống nhau về vấn đề này. Và vì thế, ta có thể
nhận thấy tầm quan trọng của việc tìm tòi và nghiên cứu về vấn đề này.
Từ những lý do trên, em chọn đề tài “Vấn đề về ruộng đất Đại Việt từ thế kỉ XI -
XV” để nghiên cứu cho bài tiểu luận này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu và làm rõ những vấn đề về ruộng đất thời Lý - Trần - Hồ và Lê sơ, góp
phần nào đó để hiểu thêm về lịch sử dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận bao gồm những bộ phận ruộng đất của thời
nhà Lý, thời nhà Trần, thời nhà Hồ, thời Lê Sơ và những chính sách về ruộng đất ở
bốn triều đại này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian, từ thế kỉ XI - XV, đây là giai đoạn của hai triều Lý, triều Trần, triều
Hồ và Lê Sơ.
Về không gian, toàn bộ lãnh thổ Đại Việt nơi có ruộng đất dưới thời Lý - Trần -
Hồ - Lê Sơ.
2
Chương 1
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ LÝ (THẾ KỈ XI - XIII)

Phần 1: Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lý


Nhà Lý ngay từ khi được thành lập đã thừa hưởng được ruộng đất của triều đại
Đinh - Lê Sơ. Kinh tế phong kiến cũng tương đối được chú trọng phát triển đặc biệt là
nông nghiệp.
Dưới thời đại nhà Lý toàn bộ đất đai đều thuộc về nhà vua trên danh nghĩa. Tuy
nhiên, thực tế thì triều đình không hoàn toàn quản lý số đất này. Nhà vua sẽ chia toàn
bộ phần đất ra nhiều phần và triều đình chỉ quản lý một bộ phận trong số đất đó, còn
lại thì đất sẽ được phân cho các quan lại, quý tộc và phần lớn số đất đó thuộc về các
làng xã, người dân sẽ được dùng phần đất này để canh tác nông nghiệp.
Bên cạnh đó, xét vào cuối thời Lý thì bắt đầu xuất hiện ruộng đất tư hữu và dần
chiếm vai trò quan trọng(1).

1.2. Phân loại sở hữu ruộng đất


Do ruộng đất được triều đình chia ra nhiều phần và có nhiều bộ phận đất đai khác
nhau, nên quá trình tìm hiểu về việc phân loại ruộng đất dưới thời nhà Lý sẽ có những
vấn đề khá phức tạp.
Tuy nhiên, ruộng đất thời nhà Lý có thể chia thành ba bộ phận lớn, đó là: ruộng
đất thuộc sở hữu nhà nước, ruộng đất tư nhân và ruộng đất nhà chùa.

1.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước


Như đã trình bày thì ta đã biết rằng nhà Lý đã thừa hưởng được di sản ruộng đất
của nhà Đinh - Lê Sơ, do đó quyền lực về đất đai của nhà vua là tuyệt đối. Và từ đó đã
hình thành nên một bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước.
Bên cạnh đó, bộ phận này còn có thể chia thành hai hình thức là: ruộng đất do nhà
nước trung ương trực tiếp quản lý và ruộng đất do làng xã quản lý (hay còn gọi là
ruộng công làng xã)
1.2.1.1. Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý
- Ruộng sơn lăng:
Các vua của triều đại nhà Lý đã sử dụng quyền lực để chia chế độ ruộng đất sao
cho phù hợp với triều đại phong kiến.
Cũng vì thế, các vua cũng đã để qua vài phần đất để chính tay triều đình trực tiếp
quản lý, một trong số đó là ruộng sơn lăng.
Sử cũ vào năm 1010 đã có ghi chép lại rằng: “xa giá nhà vua đến châu Cổ Pháp (2),
sai các quan đo đất vài mươi dặm, đặt làm cấm địa sơn lăng” (3). Ruộng sơn lăng là loại
ruộng dùng để thờ phụng tổ tiên nhà vua.
Theo tìm hiểu, thì ruộng sơn lăng có thể được chia làm hai khu: khu ruộng mộ và
khu ruộng thờ. 12
Tuy nhiên, mặc dù ruộng sơn lăng là nơi để thờ phụng tổ tiên thời Lý, nhưng
ruộng sơn lăng vẫn được chia cho người dân cày cấy và nộp thuế để trùng tu các lăng

1
Theo Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 1, GS. Trần Quốc Vượng, GS. Hà Văn Tấn, NXB Giáo Dục, 1960, Tr.8
2
Còn gọi là Hương Cổ Pháp, thuộc huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, ở Bắc Ninh hiện nay, được biết đến là quê hương của
nhà Lý.
3
Việt sử thông giám cương mục, bản dịch của NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957, Tr.41
2
3
mộ của vua. Bên cạnh đó, theo ghi chép thì ruộng sơn lăng có diện tích không lớn, cây
củ mọc um tùm và giống như các loại ruộng thờ ở địa phương.
Dần dần, qua nhiều thế hệ và những yếu tố lịch sử thì ruộng thờ đã xuống cấp trầm
trọng, không còn được trưng dụng nhiều như trước. Rồi cho đến cuối thế kỉ XV, toàn
- Ruộng tịch điền:
Cũng là một trong những khu ruộng do nhà nước trực tiếp bên cạnh ruộng sơ lăng,
ta có ruộng tịch điền.
Theo ghi chép lịch sử thì ruộng tịch điền đã tồn tại từ thời Lê Sơ. Cho đến thời nhà
Lý thì ruộng tịch điền vẫn còn được duy trì và phát triển. Ruộng này được quan lại
triều đình trực tiếp canh tác và hình thức này được cho là nghi lễ chịu ảnh hưởng của
các nước Trung Quốc cổ xưa.
Định nghĩa ruộng tịch điền theo nhà sử học Trung Quốc, Dương Khoan là “một
loại ruộng lấy hoa lợi chi vào việc tế tự, còn nữa thì chẩn cấp cho dân nghèo hoặc để
tiếp khách. Đây cũng là loại ruộng nghi lễ nông nghiệp, tàn dư của mạt kỳ chế độ công
xã nguyên thủy”. Có thể nói, hình thức ruộng tịch điền này rất phù hợp với nước ta,
đất nước nông nghiệp và trọng nông nghiệp.
Qua đó, ta có thể thấy rằng hình thức cày ruộng tịch điền của triều đình chính là
hoạt động góp phần khuyên khích nhân dân làm nông nghiệp. Nghi lễ này cũng cho
thấy triều đình nhà Lý cũng có quan tâm đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của
người dân.
Sự kiện quan trọng phải kể đến khi nhắc đến nghi lễ cày ruộng tịch điền đó là năm
1038 “Mùa xuân, tháng 2, vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Sau Hữu ty dọn
cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả
hữu có người can rằng: ‘Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?’Vua nói:
‘Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?’ Nói xong
đẩy cày ba lần rồi thôi.”(1)3
Ruộng tịch điền của nhà Lý được đặt ở khá nhiều nơi, từ xung quanh thành Thăng
Long cho đến những nơi đông dân. Ruộng tịch điền có ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình),
Ứng Phong (Nam Định) và Lý Nhân (Hà Nam).
Tuy nhiên, theo tìm hiểu thì số lượng của ruộng tịch điền không được sử sách ghi
lại một cách cụ thể, nhưng ta cũng có thể đoán được là số lượng ruộng tịch điền cũng
không phải là nhiều vì đây cũng chỉ là hình thức ruộng nghi lễ, không được canh tác
triệt để.
- Ruộng đồn điền:
Vào thời nhà Lý, việc khai hoang và lập các đồn điền đã được tiến hành. Và các
khu vực được tiến hành khai hoang là các vùng ven sông, ven biển thuộc đồng bằng
sông Hồng, sông Mã, sông Lam.
Lực lượng chủ yếu của các tổ chức khai hoang theo các nguồn tư liệu lịch sử phần
lớn là các tù binh Chiêm Thành, tù khổ sai và nô tì. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại:
“Bầy tôi dâng tù binh hơn 5000 người; xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận
người cùng bộ thuộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu nay là Quy Hóa đặt
hương ấp phỏng theo tên gọi cũ của Chiêm Thành”. Qua điều này, ta có thể thấy là vào
thời Lý, chính sách đồn điền vẫn chưa được đặt ra cho nên các tù binh mới có thể đặt
tên cho các đồn điền mà họ khai hoang bằng tên phỏng theo tên cũ của họ.
Còn về những người cày và canh tác ở ruộng đồn điền là ai thì vẫn chưa tìm thấy
tài liệu nào ghi chép lại. Tuy nhiên, ta cũng có thể biết được thân phận của họ chắc

31
Đại Việt sử kí toàn thư, Sđd, tập 1, trang 267
4
chắn rất thấp kém, từ đời này sang đời khác đều phải làm ruộng để nộp thuế cho triều
đình.
- Ruộng quốc khố (hay còn gọi là quan điền):
Xét về mặt nghĩa đen, ruộng quốc khố là ruộng thuộc quyền sở hữu và quản lý của
nhà nước mà hoa lợi từ việc canh tác ruộng quốc khố sẽ được đưa vào ngân sách nhà
nước, dự trữ trong kho triều đình và được nhà vua, hoàng cung sử dụng.
Lực lượng canh tác ở đây thường là các nô tì (gọi là cảo điền nhi và cảo điền hành
tức là những người có tội và phải làm công nông cho nhà vua, theo Đại Việt sử ký tòan
thư, bản dịch đã dẫn, tập 1, Tr. 318), họ sử dụng các nông cụ của triều đình, trâu cày.
1.2.1.2. Ruộng công làng xã hay ruộng đất cho làng xã quản lý
Đây là một bộ phận quan trọng nhất trong hình thức ruộng thuộc sở hữu của nhà
nước, có diện tích lớn nhất trong cả nước.
- Ruộng thác đao:
Ruộng thác đao là loại ruộng ở thời Lý, các vua Lý phong cấp và ban thưởng cho
các tầng lớp quý tộc, quan lại. Theo ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư thì ruộng thác
đao lần đầu tiên được ban thưởng cho Lê Trọng Hiếu.
Tuy nhiên, suy cho cùng thì ruộng thác đao cũng vẫn là ruộng công, tức là người
sở hữu ruộng thác đao không thể bán lại ruộng thác đao cho người khác mà chỉ có thể
truyền cho con cháu đời sau nhưng vẫn ở trong thời của nhà Lý.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì toàn bộ thuế của ruộng thác đao đều được miễn.
Đây chính là chế độ đánh giá công lao của những người có tài ở thời Lý, càng có tài
thì chức tước càng cao và càng được nhiều bổng lộc.
- Chế độ ban cấp hộ nông dân (thực ấp, thật phong):
Đây là chế độ chỉ có ở thời nhà Lý và cũng là đặc trưng của thời Lý, được áp dụng
rộng rãi.
Theo “Lịch sử Việt Nam giản yếu” của GS. Lương Ninh, “thực ấp” nghĩa là người
được cấp thực cấp chỉ được hưởng tô thuế do người cày trong loại ruộng này nộp,
ruộng đất và con người vẫn thuộc quyền chiếm hữu của công xã. Tuy nhiên, có thể
thấy số lượng đất được phong vốn chỉ ở trên danh nghĩa và số lượng “thực ấp” thực tế
sẽ có sự chênh lệch lớn do không đủ đất. Và số đất được phong trên danh nghĩa này
cũng nhằm để ban thưởng cho công lao của người được thưởng.
Mặt khác, “thật phong” là số lượng thực tế vì đây chính là quy định nhà Lý ban ra
để chỉ số hộ thật sự mà người có công trạng được ban cho.
Tuy nhiên, việc ban cấp hộ nông dân “thực ấp - thật phong” không tạo điều kiện
cho sự sở hữu hay chiếm hữu ruộng đất mà tất cả hình thức ruộng đất này về căn bản
thì vẫn thuộc sở hữu của nhà nước chứ không phải của một cá nhân nào. Và phần lớn
bộ phận của ruộng này đều được chia cho các làng, các xã ở đó quản lý và cày cấy, rồi
nộp thuế cho nhà nước. Còn việc thu tô thuế ở đây thì được triều đình phân công cho
những quan lại ở địa phương đó.

1.2.2. Ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân


Vào thời nhà Lý, việc tư nhân sở hữu ruộng đất cũng rất phát triển và phổ biến.
Nhà Lý cũng đã ban hành nhiều điều luật cho phép sở hữu ruộng đất như: buôn bán
ruộng đất, chuộc đất,... Do việc buôn bán đất đai đã phát triển và được nhà nước cho
phép, nên dưới thời Lý đã xuất hiện các đơn vị đo lường đất, tuy nhiên, các đơn vị này
vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn ở các vùng.
5
Mặt khác, dù đây là ruộng thuộc sở hữu tư nhân và người chủ của mảnh đất ấy có
quyền quyết định bán hay chuộc đất nhưng vẫn phải nộp tô thuế cho nhà nước theo
quy định.

1.2.3. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa (ruộng tam bảo)
Dưới thời nhà Lý, Phật giáo phát triển khá mạnh và số lượng chùa được xây lên
ngày một nhiều. Trích Đại Việt Sử ký toàn thư, sử gia Lê Văn Hưu đã viết: “Lý Thái
Tổ lên ngôi mới được 2 năm, miếu chưa dựng, đàn xã tắc chưa lập mà trước đó đã
dựng chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quan ở các bộ và độ làm tăng cho hàng
nghìn người ở kinh sư... dân chúng quá nửa làm sư sãi, trong nước chỗ nào cũng chùa
chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đấy”. Cũng vì Phật giáo ngày một phát triển và nhà
Lý lại ưa chuộng Phật giáo cho nên số lượng ruộng chùa cũng chiếm một bộ phận khá
lớn trong nước Đại Việt bấy giờ.
Ruộng chùa là loại ruộng có hình thức rất đa dạng, có thể là ruộng được vua ban
tặng, ruộng công làng xã và ruộng thuộc sở hữu tư của chùa (có thể do chùa mua hoặc
được cúng bái).
Ruộng chùa cũng đánh dấu sự phát triển của Phật giáo đi chung với chính quyền
thời nhà Lý.

1.3. Tiểu kết


Qua tìm hiểu về các bộ phận ruộng đất của thời nhà Lý, ta đã có thể hiểu thêm
phần nào về lịch sử kinh tế nông nghiệp và các hình thức sở hữu tài sản ruộng đất của
nhà vua và tư nhân.
6
Chương 2
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ TRẦN (THẾ KỈ XIII - XIV)

2.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Trần


Sau khi Trần Cảnh được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi thì thời đại thống trị của nhà
Trần được mở ra. Nhà Trần đã cai trị đất nước theo uy quyền của hoàng đế cho nên
ruộng đất cũng hình thành quan niệm “đất của vua, chùa của bụt”.
Về cơ bản, thì ruộng đất thời Trần cũng có vài bộ phận tương tự như thời Lý, cũng
có sự chia ruộng đất và ruộng đất tự hữu cũng trên đà phát triển.

2.2. Phân loại sở hữu ruộng đất


Như đã trình bày ở trên thì phân loại ruộng đất ở thời Trần cũng có vài bộ phận
tương tự như thời Lý. Vì thế, ta cũng chia thành 3 phần nhỏ để tìm hiểu về vấn đề này:
ruộng công, ruộng tư và ruộng nhà chùa.

2.2.1. Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước (ruộng công)


Cũng như nhà Lý, ở thời Trần cũng có hai bộ phận hợp thành ruộng đất thuộc sở
hữu nhà nước, đó là: ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và ruộng đất công làng
xã.

2.2.1.1. Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý


Hình thức ruộng này là tài sản của vua, chỉ thuộc sở hữu của nhà vua và triều đình.
- Ruộng sơn lăng:
Ruộng sơn lăng đã có từ thời Lý, tập trung ở Cổ Pháp (Bắc Ninh).
Tuy nhiên, dưới thời Trần thì các vua đã được chôn cất ở nhiều nơi và vì thế ruộng
sơn lăng cũng rải rác hơn, không tập trung phần lớn ở một chỗ như thời Lý. Ruộng sơn
lăng thời Trần rải rác ở các làng Thái Đường, Thâm Động (Thái Bình), Tức Mặc (Nam
Định), Yên Sinh (Quảng Ninh) (1)4
Vào thời Trần, không chỉ có các vua chúa mới có ruộng sơn lăng mà các quý tộc
cũng có hình thức ruộng này. Lấy ví dụ Thái sư Trần Thủ Độ cũng có ruộng sơn lăng
ở xã Phù Ngự (Thái Bình) và vẫn duy trì 20 mẫu đến thế kỉ XVIII.
Diện tích ruộng sơn lăng khá nhỏ và không canh tác được nên không có tác dụng
quan trọng trong chế độ ruộng đất. Và dần dần ruộng sơn lăng cũng sẽ mai một.
- Ruộng tịch điền:
Tịch điền là loại ruộng đã có từ các triều đại trước, tồn tại từ thời Lê Sơ đến thời
Lý. Đây là ruộng do chính triều đình quản lý và hoa lợi cũng được dùng cho triều đình.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu thì vào thời Trần, có rất ít sử sách ghi lại về ruộng tịch
điền. Trong “Đại Việt Sử ký toàn thư” cũng chỉ ghi những dòng hết sức ngắn gọn về
loại ruộng này: “Mùa đông tháng 11 năm Bính Thìn (1316) sai tế thần, tôn thất cùng
các quan gặt ruộng tịch điền”. Do đó, nơi đặt, số lượng hay thân phận người cày của
ruộng tịch điền vẫn chưa thể được khẳng định chính xác.
Dù vậy, diện tích của ruộng tịch điền có thể cũng giống như thời Lý, diện tích
không lớn và không có ý nghĩa canh tác vì từ xưa loại ruộng này vốn chỉ là loại ruộng
dành cho các nghi lễ.
- Ruộng quốc khố:
Đây là một loại ruộng công của triều đình và hoa lợi sẽ được bổ sung vào kho của
triều đình, chi cho cả hoàng cung.
41
Lê Quý Đôn Toàn tập, Sđd, tập 2, Tr.439
7
Cũng giống như ở thời Lý, lực lượng cày cấy chính ở ruộng quốc khố chính là
những người có tội hoặc có địa vị thấp (gọi là Cảo điền nhi và Cảo điền hoành). Theo
sử cũ có ghi lại: “Năm 1230, những người bị tội đồ làm Cảo điền hoành bị thích vào
mặt sáu chữ, cho ở Cảo Xã cày ruộng công, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm thu 300 thăng
thóc”(1)5
Điều này đã cho thấy, các Cảo điền bị bóc lột sức lao động rất nặng nề để làm ra
thêm nguồn thu nhập cho triều đình.

2.2.1.2. Ruộng đất công làng xã


Hương xã đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền và ở các hương cũng có
rất nhiều ruộng công. Rồi vào năm 1254, triều đình nhà Trần ban hành bán ruộng
công. Và ruộng công cũng đã trở thành cơ sở kinh tế dưới thời nhà Trần.
Vào thời Trần, ruộng đất công làng xã không được chia đồng đều, có những người
không có ruộng để cày cấy. Năm 1242, nhà Trần đã có quy định “nhân đinh có ruộng
thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn tất cả” (2). Như vậy, vào thời Trần
có một bộ phận nông dân không có ruộng công để cày cấy, có lẽ họ sẽ đi cày cho các
địa chủ có ruộng tư hữu.6
Chế độ tô thuế ở ruộng công làng xã ở thời Trần có thể nói là khá nặng và chủ yếu
được đánh vào ruộng công. Năm 1242, phép định tô thuế đầu tiên được ban hành: “Có
1 - 2 mẫu thì nộp tiền 1 quan, có 3 - 4 mẫu thì nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3
quan tiền. Tô thuế mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc”(3)7

2.2.2. Ruộng tư nhân


- Thái ấp:
Đây là chính sách ban cấp bổng lộc dưới thời Trần. So với thời Lý quan lại chưa
được cấp bổng thì ở thời Trần đã có sự ban cấp bổng cho các quan văn, quan võ. Có
thể thấy, đây là khác biệt cơ bản của bộ máy nhà nước hai triều đại Lý - Trần.
Ban đầu, thái ấp là thuộc quyền sở hữu của nhà nước, sau khi được ban cho các
quan lại, quý tộc thì thái ấp đã trở thành đất tư nhân của họ và họ có quyền thu tô thuế,
xây phủ... ở trên mảnh đất này. Tuy nhiên, ở nước ta thì thái ấp không quá nhiều, quy
mô cũng tương đối nhỏ và rất thưa thớt.
Những thái ấp ở thời Trần có thể kể đến như Trần Liễu (Quảng Ninh), Trần Thủ
Độ (Hà Nam), Nguyễn Khoái (Hưng Yên), Trần Quang Khải (Hà Nam), Trần Khát
Chân (Hà Nội).
- Điền trang:
Về định nghĩa, điền trang là những trang trại của quý tộc thời Trần, do quý tộc trực
tiếp quản lý. Lực lượng canh tác chủ yếu là nô tì và gia nô. Điền trang cũng là một
thước đo cho thế lực của quý tộc đương thời.
Mặc dù điền trang đã được hình thành khá lâu nhưng mà vẫn rất rời rạc, không thể
thành một hình thái kinh tế chủ lực được.
Điền trang được thành lập là điểm dân cư tiêu biểu cho kinh tế - xã hội thời Trần.
Ở đây tồn tại nhiều tầng lớp xã hội khác nhau từ quý tộc đến nông nô, nô tì. Các nông
nô và nô tì này phải phục vụ cho điền trang từ đời này sang đời khác theo hình thức
cha truyền con nối, tức một đời làm nông nô cho điền trang thì chắc chắn các đời sau
cũng phải làm việc ở đây.

51
Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.12
62, 3
Đại Việt Sử ký toàn thư, Sđd, tập 2, tr.19
7
8
Các vùng điền trang của thời Trần phải kể đến như An Lạc - điền trang đầu tiên ở
thời Trần (Bình Lục, Hà Nam), Vũ Lâm (Ninh Bình), Cổ Nhuế (Hà Nội), Tô Xuyên
(Quỳnh Phụ, Thái Bình), Phất Lộc (Thái Thụy, Thái Bình).
- Ruộng đất tư hữu của địa chủ:
Năm 1254, triều đình nhà Trần ban hành lệnh bán ruộng công. Việc này đã thúc
đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ruộng đất tư hữu ở thời đại này và vào đầu thời Trần,
diện tích ruộng đất tư nhân đã mở rộng rất nhiều.
Dù ruộng đất tư nhân phát triển, nhưng những địa chủ sỡ hữu nhiều ruộng đất ở
thời Trần vẫn không được coi là quý tộc, địa vị của họ vẫn là dân thường như các tầng
lớp lao động khác mà thôi.
Tuy có số lượng ngày một tăng, nhưng ruộng đất của địa chủ lại có phần phân tán
ở nhiều nơi chứ không tập trung ở một chỗ và sự sở hữu này không được ổn định như
thái ấp, điền trang; mà luôn dao động (có lẽ là do chính sách được mua bán đất đang
rất phổ biến ở thời Trần).
- Ruộng đất tiểu nông:
Việc mua bán đất công khai dưới sự cho phép của nhà nước đã góp phần tạo ra
nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và đấy cũng chính là một trong những nguyên nhân cơ
bản để hình thành bộ phận ruộng đất tiểu nông tư hữu. Vì có lệnh bán đất công của nhà
nước, nên các hộ gia đình tiểu nông đã có cơ hội mua thêm đất để canh tác và họ cũng
có quyền sở hữu những mảnh đất công mà họ đã mua.
Theo nhiều tìm hiểu và ghi chép thì sử cũ không ghi lại quá nhiều về hình thức
ruộng đất này, tuy nhiên theo “Đại Cương Lịch sử Việt Nam Toàn tập” của GS. TS.
Trương Hữu Quýnh thì các nông nô, nô tì và nông dân càng ruộng làng xã ít nhiều
cũng đã sở hữu được ruộng đất, tuy nhiên việc sở hữu này là không ổn định. Nếu như
năm nào mùa vụ thất thu hay dịch bệnh thì họ phải bán đi đất cho các địa chủ đương
thời và trường hợp tệ nhất là không ít người phải làm nô tì cho địa chủ, quý tộc.

2.2.3. Ruộng nhà chùa


Ruộng nhà chùa vào thời Trần không có nhiều ghi chép, tuy nhiên vào đầu thời
Trần thì Phật giáo vẫn rât hưng thịnh và được vua ưa chuộng. Các nhà sư vào thời
điểm này được xã hội tôn trọng và do đó thì làng xã sẽ cấp cho các chùa những mẩu
ruộng đất, rồi hoa lợi từ ruộng đất sẽ đem cho nhà chùa.
Mặc dù vậy, sang thế kỉ XIV, Phật giáo có dấu hiệu dần suy thoái. Ruộng đất nhà
chùa vào thời điểm này cũng không được ghi chép lại, nhưng do Phật giáo suy thoái
nên có lẽ ruộng nhà chùa cũng không được trọng dụng nhiều như trước nữa.

2.3. Tiểu kết


So với thời Lý, về mặt cơ bản ruộng đất nhà Trần vẫn còn giữ các hình thức cũ, ta
cũng hiểu thêm được nhiều hình thức sở hữu ruộng đât mới như điền trang, thái ấp...
và sự phát triển mạnh mẽ của ruộng tư nhân.
9
Chương 3
RUỘNG ĐẤT THỜI NHÀ HỒ (CUỐI THẾ KỈ XIV - ĐẦU THẾ KỈ XV)

3.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời nhà Hồ


Từ cuối thế kỉ XIV, nhà Trần dần lâm vào khủng hoảng, suy thoái. Nhà nước
không còn lo cho dân, ngừng các công trình đê điều, các chính sách khuyến nông
không còn được thực hiện. Thay vào đó, nhà Trần lại vơ vét tiền thuế, lúa thóc và công
sức người dân, làm cho nền kinh tế bị kìm hãm trầm trọng.
Những hành động bỏ bê việc nước của nhà Trần dẫn đền việc người dân nổi dậy
khắp nơi, sĩ phu cùng cách quý tộc thì chọn con đường cải cách, trong đó có Quý Ly.
Cho đến năm 1400, Quý Ly truất ngôi họ Trần, đổi họ thành họ Hồ, đặt tên nước
là Đại Ngu. Nhà Hồ thành lập.
Về cơ bản, do nhà Hồ chỉ tồn tại được 7 năm, vì thế tình hình ruộng đất vào thời
nhà Hồ vẫn theo cải cách về ruộng đất của Hồ Quý Ly từ năm 1397, nên để rõ hơn về
vấn đề này, ta sẽ tìm hiểu về cải cách về ruộng đất của Hồ Quý Ly.

3.2. Cải cách về ruộng đất của Hồ Quý Ly


Từ năm 1387, Hồ Quý Ly đã nắm giữ chức tể tướng trong bộ máy nhà nước thời
Trần, lúc ấy, ông cũng đã có trong tay nhiều quyền hành, nên ông đã thi hành một số
cải cách.
Vào năm 1397, Hồ Quý Ly ban hành chính sách “hạn điền”, hay có thể gọi là
“chiếu hạn định số ruộng tư”.
Nội dung của chính sách hạn điền được ghi chép lại là: “Đại vương, trưởng công
chúa không có hạn định, dưới đến thứ dân không được có quá 10 mẫu. Người nào
nhiều ruộng được phép lấy ruộng chuộc tội, số ruộng thừa ra thì sung công”. Tức là,
trừ những người thuộc hoàng tộc, thì từ quý tộc cho đến thứ dân đều bị hạn chế số
lượng ruộng tư (không được có nhiều hơn 10 mẫu ruộng) và nếu có tội thì được phép
lấy ruộng ra để chuộc tội.
Năm 1398, Hồ Quý Ly tiến hành đo lại toàn bộ ruộng đất, từ ruộng công đến
ruộng tư. Người có ruộng tư phải kê khai chính xác số ruộng, nếu như có thừa đất thì
sung công.
Phép hạn điền đã đánh vào xu thế tăng mạnh của ruộng tư thời bấy giờ của giới
qúy tộc, tăng thu nhập thuế cho nhà nước. Đồng thời, phép hạn điền cũng phần nào hỗ
trợ cho người dân nghèo ít ruộng.

3.3. Tiểu kết


Tuy chỉ tồn tại trong vòng 7 năm ngắn ngủi, nhưng qua khoảng thời gian này ta có
thể thấy rằng Hồ Quý Ly là một người rất coi trọng cải cách, ông có hành động, chiến
lược và tầm nhìn xa. Các cải cách về ruộng đất này của Hồ Quý Ly đã một phần chứng
minh năng lực của ông.
10
Chương 4
RUỘNG ĐẤT THỜI LÊ SƠ (THẾ KỈ XV)

4.1. Sơ lược về tình hình ruộng đất thời Lê Sơ


Sau khủng hoảng trầm trọng vào thế kỉ XIV và cuộc xâm lược của nhà Minh, đầu
thế kỉ XV, nền kinh tế Đại Việt bị tàn phá khủng khiếp.
Tuy nhiên, sau khi đất nước đã hoàn toàn được giải phóng sau hơn 20 năm đô hộ
của nhà Minh, nhà Lê sơ đã tập trung phục hồi lại nền kinh tế. Trong đó, nhà nước đã
nhận ra tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề về ruộng đất cũng như các chính
sách khuyến nông.
Nhà nước cho quân đội quay về làm ruộng, lấy lại đất đai, khôi phục nền kinh tế
nông nghiệp, đồng thời cũng kêu gọi nông dân xây dựng lại làng xã, đồn điền.

4.2. Phân loại sở hữu ruộng đất


Để đảm bảo cho viễc sản xuất nông nghiệp, nhà nước đã phân ruộng đất thành 3
bộ phận chính, các bộ phận ruộng đất này cũng khá giống với các triều đại trước:
ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước, ruộng đất công làng xã và ruộng đất tư hữu.

4.2.1.Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước


Ở thời Lê sơ, các ruộng đất của chính quyền đô hộ hay ruộng đất không chủ được
tịch thu đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Số lượng ruộng công vào giai đoạn này
ta có thể thấy là khá nhiều và được nhà nước sử dụng với các mục đích khác nhau.
- Bộ phận do triều đình trực tiếp quản lý:
Loại ruộng này có thể gọi là ruộng quốc khố, cũng giống như các triều đại trước
thì ruộng quốc khố ở triều Lê sơ được giao cho các tội đồ cày cấy và hoa lợi thu được
từ loại ruộng này sẽ được đưa vào ngân khố của nhà nước.
- Bộ phận ruộng được cấp cho công thần, quan lại:
Ngay từ buổi đầu khôi phục lại nền kinh tế, triều đình Lê sơ đã thực hiện chính
sách “lộc điền”, tức là đem ruộng thuộc sở hữu nhà nước ban cho các quan lại có công
trạng. Đến thời vua Lê Thánh Tông mới chính thức được ban hành và thống nhất vào
cả nước vào năm 1477.
Ruộng được ban cấp đa phần là bộ phận ruộng công làng xã, gồm có ruộng thừa kế
và ruộng ban cấp tạm thời (khi mất 3 năm thì phải trả ruộng về cho nhà nước hay có
thể gọi là ruộng ân tử). Người được cấp ruộng có thể hưởng toàn bộ hoa lợi và tô thuế
nhưng không được có nông nô hay nô tì.
Chế độ lộc điền được cho là thay thế cho điền trang ở thời Trần. Một số bộ phận
của ruộng thế nghiệp có thể trở thành ruộng tư và người sở hữu sẽ trở thành địa chủ.
- Bộ phận ruộng đồn điền:
Loại ruộng này do nhà nước tổ chức khai hoang, các quân sĩ, tù binh, tội đồ và dân
lưu tán được chiêu mộ để đi khai hoang. Ruộng đất đồn điền thường là những ruộng đã
được khai hoang từ trước hoặc các vùng ruộng ở biên ải xa xôi.
Lần đầu nhà Lê sơ tổ chức khai hoang ruộng đất là vào thời Lê Thái Tổ, nhưng
đến thời Lê Thánh Tông thì được mở rộng hơn. Theo “Thiên nam dư hạ tập” tính tất cả
số lượng đồn điền trong cả nước thì đã có 43 sở đồn điền (Bắc Bộ 30 sở và Trung Bộ
13 sở).
Chính sách đồn điền của thời Lê sơ đã tạo nên nhiều chuyển biến tích cực cho nền
kinh tế nông nghiệp như: mở rộng diện tích sản xuất, vận dụng có hiệu quả nguồn
nhân lực.
11
4.2.2. Ruộng đất công làng xã
Đây là loại ruộng đã có từ lâu và ở thời Lê sơ ruộng này được chia cho người dân
nghèo không có ruộng đất hoặc quân lính cày cấy. Đến thời Lê Thánh Tông, phép
“quân điền” được ban hành để quản lý, thống nhất việc phân chia ruộng đất trên cả
nước.
Theo chính sách quân điền, cứ 6 năm thì ruộng đất sẽ được chia lại một lần dưới
sự quản lý và chỉ đạo của nhà nước, các quan phải phối hợp với người đứng đầu các xã
để đo đạc đất và tính số người được chia theo chính sách quan điền. Tất cả người cày
cấy ruộng công đều phải nộp tô thuế cho nhà nước.
Chính sách quân điền là một biện pháp tích cực trong việc giải quyết các vấn đề
của ruộng làng xã thời Lê sơ bấy giờ: giúp người dân có đất cày cấy, sinh sống và giúp
cho nhà nước thu thuế, có thêm thu nhập.
Dù có nhiều chuyển biến khá tích cực nhờ chính sách này, tuy nhiên thì quân điền
dần dần bị mất tác dụng cho nạn chiếm dụng ruộng đất.

4.2.3. Ruộng đất tư hữu


Ngay từ thời nhà Trần thì ruộng tư hữu đã phát triển mạnh mẽ, đến thời Lê sơ thì
lại càng có điều kiện để phát triển.
Ruộng tư hữu có 3 loại chính: ruộng tư hữu của nông dân, ruộng của địa chủ và
điền trang (còn rất ít, do sự phát triển của ruộng địa chủ). Chủ sở hữu ruộng tư không
cần phải nộp tô thuế cho nhà nước. Thời Lê sơ chấp nhận ruộng tư nhưng triều đình
không khuyến khích ủng hộ loại ruộng này.
Ruộng tư ở thời Lê sơ phát triển đã phản ánh xu thế phát triển ruộng đất của lịch
sử, tuy nhiên do không được nhà nước khuyến khích nên tỉ lệ chiếm dụng ruộng đất,
chiếm công vi tư... ngày càng tăng, từ đó dẫn đến tình trạng khủng hoảng về ruộng đất.

4.3. Tiểu kết


Nhà nước Lê sơ là một nhà nước trọng nông, trong thời kì phải phục hồi lại nền
kinh tế sau chiến tranh, nhà nước Lê sơ đã ban hành các chính sách có hiệu quả cho
vấn đề ruộng đất của đất nước.
12
KẾT LUẬN
Thời đại Lý - Trần đã mang lại cho dân tộc ta bao nhiêu niềm tự hào về lịch sử Đại
Việt, từ văn hóa, chính trị, quân sự cho đến kinh tế. Từ thời Lý cho đến thời Trần thì
vấn đề ruộng đất vẫn luôn được nhà nước quan tâm và có nhiều chính sách phù hợp.
Vào thời Lý, ruộng đất được chia thành nhiều bộ phận khác nhau từ ruộng công
cho đến ruộng tư và được quản lý khá tốt. Qua tìm hiểu về vấn đề này, ta thấy vào thời
Lý ruộng công vẫn chiếm phần nhiều, dù có sự xuất hiện của ruộng tư hữu nhưng vẫn
chưa quá nổi bật. Triều đình nhà Lý cũng đã ban hành nhiều chính sách cho việc quản
lý ruộng đất của nước ta và cả tô thuế. Và chế độ ban cấp ở thời Lý cũng là một vấn đề
đặc biệt vì đây chính là chế độ đặc trưng nhất ở thời đại này.
Cho đến thời Trần, thì các bộ phận ruộng đất vẫn giống nhau về cơ bản nhưng đã
xuất hiện sự khác biệt. Từ điền trang, thái ấp - hai hình thức ruộng đất mới không có ở
thời Lý, cho đến sự phát triển vượt bậc của ruộng thuộc sở hữu tư nhân thì ta có thể
thấy, ngoài việc giữ những hình thức của thời Lý, vào thời Trần vẫn có sự phát triển.
Có thể nói đây chính là quy luật phát triển của xã hội, không có gì tồn tại mãi mãi,
phải có sự thay đổi thì xã hội mới phát triển được. Đặc biệt phải kể đến sự kiện làm
phát triển mạnh mẽ bộ phận tư hữu ruộng đất của nhà Trần, vào năm 1254 thì nhà Trần
ban hành chính sách bán ruộng công. Điều này là hoàn toàn mới so với thời Lý, vì so
với thời Lý thì nhà Trần lại có những chính sách khác biệt. Dấy lên làn sóng tư hữu
ruộng đất, địa chủ ngày càng nhiều, người dân có ruộng ngày càng đông, kinh tế tiền tệ
cũng dần phát triển.
Về đặc trưng cơ bản ruộng đất của thời Lý - Trần, ta dễ dàng nhận thấy có sự kế
thừa từ các thời đại, nhưng một phần nào đó, càng qua các thời đại khác nhau chắc
chắn sẽ có sự khác biệt và phát triển.
Còn ở thời nhà Hồ, tuy chỉ tồn tại 7 năm, nhưng ta có thể thấy được sự tài năng và
tầm nhìn chiến lược của Hồ Quý Ly.
Vào thời Lê sơ, các chính sách về ruộng đất được tiến hành một cách triệt để, nhà
nước đã ban hành những chính sách ấy để một phần khôi phục lại nền kinh tế nông
nghiệp. Với tư cách là một nhà nước trọng nông, nhà Lê sơ đã hoàn thành công cuộc
giải quyết các vấn đề về ruộng đất một cách khá tích cực. Tuy nhiên, với xu thế phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư hữu, mà nhà Lê sơ lại không trọng ruộng công nên
dần dần sự khủng hoảng về ruộng đất đã xảy ra.
Ngày nay, nhờ vào sự tìm hiểu của các nhà khoa học, các giáo sư - những người đã
cống hiến cuộc đời cho lịch sử nước nhà - mà chúng ta đã có thể dễ dàng hiểu thêm về
lịch sử dân tộc và một trong số đó là vấn đề về ruộng đất Đại Việt vào thế kỉ XI - XV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang Ngọc (2007), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
2. GS. Trương Hữu Quýnh, GS. Đinh Xuân Lâm, PGS. Lê Mậu Hãn (2008), Đại
cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
3. GS. Lương Ninh (2000), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội
4. Lê Văn Hưu, Phan Thu Tiên, Ngô Sĩ Liên... (1272 - 1697), Đại Việt Sử Ký Toàn
thư, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 - 1992), NXB Khoa Học Xã Hội ấn
hành (1993), Hà Nội.
5. Trương Hữu Quýnh (1977), Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất ở thời Lý-Trần,
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 168 (tháng 3), NXB Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
6. Phạm Thị Tâm, Hà Văn Tấn (1963), Vài nhận xét về ruộng đất tư hữu ở Việt Nam
thời Lý Trần, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 52 (tháng 7), NXB Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam.
7. Trương Hữu Quýnh (2001), Tình hình ruộng đất thời Lý, Việt Nam học – Kỷ yếu
hội thảo quốc tế lần thứ nhất, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Trần Thái Bình (2001), Lịch sử Việt Nam tập 3, NXB Trẻ.
9. Đoàn Thị Thu Vân (2014), Từ những thành tựu của thời đại Lý–Trần nghĩ về những
nét bản sắc của văn hóa Đại Việt, Tạp chí Khoa học số 60.
10. Trương Hữu Quýnh (1988), Mấy vấn đề ruộng đất thời Trần trước chiến thắng
Bạch Đằng lịch sử, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 240+241 (Tháng 3+4), NXB Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam.

You might also like