Professional Documents
Culture Documents
Trình Đơn Chính
Trình Đơn Chính
Tìm kiếm
Tạo tài khoản
Đăng nhập
Công cụ cá nhân
Biểu quyết xóa Xóa bài: Trần Minh Tiến • Nam vương Thế giới Việt Nam 2024 • Công ty VTC Công nghệ và Nội
dung số • Dickson • Praewa Suthamphong • Yotsawat Tawapee • Top Model of the World 2013 • Watson Amelia (lần
2) • Nhà thờ họ Trương Việt Nam • SBOOKS • Xóa thể loại, bản mẫu và mô đun
Nội dung
ẩn
Đầu
Từ nguyên
Lịch sử
Hiện/ẩn mục Lịch sử
Địa lý
Hiện/ẩn mục Địa lý
Phân cấp hành chính
Chính trị
Kinh tế
Hiện/ẩn mục Kinh tế
Khoa học và công nghệ
Giáo dục
Y tế
Quốc phòng
Nhân khẩu
Hiện/ẩn mục Nhân khẩu
Văn hóa
Di sản văn hóa UNESCO
Văn học
Ẩm thực
Ngày lễ
Hình ảnh các danh lam thắng cảnh
Thể thao
Đối ngoại và quốc phòng
Xem thêm
Ghi chú
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Nhật Bản
315 ngôn ngữ
Bài viết
Thảo luận
Đọc
Sửa đổi
Sửa mã nguồn
Xem lịch sử
Công cụ
36°B 138°Đ
Quốc kỳ
Quốc ca:
"Kimigayo"
君が代
"Quân Chi Đại"[1][2]
Duration: 59 seconds.0:59
Chính phủ Quân chủ lập hiến đơn nhất kết hợp với dân
chủ đại nghị
Thiên hoàng Naruhito
Thủ tướng Kishida Fumio
Lập pháp Quốc hội
Thượng viện Tham Nghị viện
Hạ viện Chúng Nghị viện
Lịch sử
Hình thành
Ngày Kiến quốc 11 tháng 2 năm 660 TCN[8]
Hiến pháp Minh Trị 29 tháng 11 năm 1890
Hiến pháp hiện hành 3 tháng 5 năm 1947
Hiệp ước hòa bình 28 tháng 4 năm 1952
San Francisco
Địa lý
Diện tích
Tổng cộng 379,987 km2[11] (hạng 62)
145.936 mi2
Mặt nước (%) 3,55
Dân số
Ước lượng 2021 125,440,000[9] (hạng 11)
trung bình
?
FSI (2019) 34,3[14]
Từ thế kỉ III trước Công Nguyên đến thế kỉ III Công nguyên là văn hóa Yayoi. Thời kì
nay cư dân biết rèn sắt do tiếp nhận kĩ thuật từ Triều Tiên, Trung Hoa. Biết cày cuốc
bằng cày gỗ, rìu đá. Họ sống quần cư, lập hào nước bao quanh làng (kango), có tục tái
táng người chết (saisobo); làm mộ hình gò (funkyuubo), sắp xếp người chết theo thế
nằm ngửa tay chân duỗi thẳng. Mỗi tộc người có thủ lĩnh công xã đứng đầu, liên minh
nhiều công xã gây chiến tranh xâm chiếm các vùng đất khác. Xây dựng thần xã
(Yashiro).
Từ thế kỷ thứ III đến giữa thế kỷ thứ VI, những nhà nước đầu tiên xuất hiện. Thần
đạo phát triển khắp cả nước. Nước Nhật bắt đầu có tên gọi là Yamato.[cần dẫn nguồn]
Thời phong kiến[sửa | sửa mã nguồn]
Từ thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ VIII, một nhà nước tập quyền được thành lập và
đóng đô ở Asuka (gần thành phố Nara ngày nay). Tên nước từ Yamato đổi thành Nhật
Bản. Cũng trong khoảng thời gian này, thành lập nhà nước phong kiến Nhật, với
cuộc cải cách Đại Hóa do Thiên hoàng Hiếu Đức đề xướng.[cần dẫn nguồn]
Giữa thế kỷ thứ VIII, Phật giáo đã thiết lập cơ sở vững chắc ở Nhật Bản.[37]
Từ thế kỷ thứ IX đến cuối thế kỷ XII, các dòng họ quý tộc hùng mạnh ở Heian thay
nhau nắm sức mạnh chính trị của đất nước, lấn át quyền lực của Thiên hoàng. Cuối
thời này, tầng lớp võ sĩ (samurai) bắt đầu hình thành và tranh giành quyền lực với các
dòng tộc quý tộc.
Cuối thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIV, quyền lực thực sự nằm trong tay tầng lớp võ sĩ
ở Kamakura. Vào các năm 1271 và 1281, các võ sĩ Nhật Bản với sự trợ giúp
của bão và sóng thần đã đánh bại hải quân Nguyên – Mông định xâm lược nước mình.
Từ thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XVI, nước Nhật trong tình trạng mất ổn định do nội chiến
và chia rẽ, gọi là Thời kỳ Chiến Quốc. Nhật Bản cũng từng tấn công bán đảo Triều
Tiên và nhà Minh (Trung Quốc) trong thời kỳ này, nhưng thất bại.[cần dẫn nguồn]
Thời hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]
Sau đó, nước Nhật có một thời kỳ thực hiện chính sách đóng cửa ổn định kéo dài ba
thế kỷ dưới sự cai trị của Mạc phủ Tokugawa. Kinh tế, văn hóa và kỹ thuật có điều kiện
phát triển mạnh mẽ. Người phương Tây, khởi đầu là người Hà Lan, được phép giao
thương với Nhật Bản thông qua một thương cảng nhỏ.
1. Hokkaido
2. Aomori 8. Ibaraki 15. Niigata
23. Aichi
Kansai Chūgoku Shikoku Kyūshū
47. Okinawa
Nhật Bản là một nước theo hệ thống quân chủ lập hiến, quyền lực của Thiên hoàng (天
皇 Tennō?) vì vậy rất hạn chế. Theo hiến pháp, Thiên hoàng được quy định là một "biểu
tượng của Quốc gia và của sự hòa hợp dân tộc" mang tính hình thức lễ nghi. Quyền
điều hành đất nước chủ yếu được trao cho Thủ tướng và những nghị sĩ do dân bầu ra.
[77]
Đương kim Thiên hoàng Đức Nhân đứng đầu Hoàng gia Nhật Bản; cháu trai ông, Du
Nhân Thân vương, là người trong danh sách tiếp theo kế vị triều đại Ngai vàng Hoa
cúc.
Cơ quan lập pháp dân cử của Nhật Bản là Quốc hội (国会 Kokkai?), đặt trụ sở
tại Chiyoda, Tokyo. Quốc hội hoạt động theo cơ chế lưỡng viện, trong đó Hạ viện (衆議
院 (Chúng Nghị viện) Shūgiin?) có 465 ghế, được cử tri bầu chọn sau mỗi bốn năm hoặc sau khi
giải tán, và Thượng viện (参議院 (Tham Nghị viện) Sangiin?) có 245 ghế, được cử tri bầu chọn
cho nhiệm kỳ sáu năm và cứ mỗi ba năm được bầu lại một nửa số thành viên. Quyền
bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thuộc về mọi công dân Nhật Bản trên 18
tuổi không phân biệt nam-nữ, trong đó áp dụng phương thức bỏ phiếu kín tại tất cả đơn
vị bầu cử. Các nghị sĩ quốc hội chủ yếu là người của Đảng Dân chủ Tự do có khuynh
hướng bảo thủ. Đảng Dân chủ Tự do đã liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc tổng
tuyển cử kể từ năm 1955, ngoại trừ hai giai đoạn từ năm 1993–1994 và từ năm 2009–
2012. Đảng này chiếm 262 ghế trong Chúng Nghị viện và 113 ghế trong Tham Nghị
viện.
Thủ tướng Nhật Bản (内閣総理大臣 (Nội các Tổng lý Đại thần) Naikaku sōri daijin?) là người đứng
đầu chính phủ do Quốc hội chọn ra từ các nghị sĩ thành viên và được Thiên hoàng sắc
phong. Thông thường người đứng đầu một đảng chính trị chiếm đa số ghế trong Quốc
hội sẽ được giới thiệu giữ chức Thủ tướng. Thủ tướng lãnh đạo nội các và có thể chỉ
định hay bãi nhiệm Bộ trưởng Quốc vụ. Mặc dù việc bổ nhiệm Thủ tướng được tiến
hành một cách chính thức bởi Thiên hoàng, Hiến pháp Nhật Bản quy định những người
được Thiên hoàng bổ nhiệm vào vị trí này đều phải theo sự chỉ định của Quốc hội. [77]Thủ
tướng Nhật Bản đương nhiệm từ năm 2021 là cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Kishida
Fumio.
Mặc dù trong lịch sử đã từng chịu ảnh hưởng bởi luật pháp Trung Quốc, luật pháp Nhật
Bản đã phát triển một cách độc lập trong thời Edo qua các thư liệu như Kujikata
Osadamegaki.[78] Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX, hệ thống tư pháp đã dựa sâu rộng
vào luật châu Âu lục địa, nổi bật là Đức. Ví dụ: vào năm 1896, chính phủ Nhật Bản đã
ban hành một bộ luật dân sự dựa theo bản thảo Bürgerliches Gesetzbuch Đức; bộ luật
này vẫn còn hiệu lực đến ngày nay qua những sửa đổi thời hậu Chiến tranh thế giới
thứ hai.[79] Luật thành văn do Quốc hội soạn và được sự phê chuẩn của Thiên hoàng.
Hiến pháp quy định Thiên hoàng ban hành những điều luật đã được Quốc hội thông
qua, mà không trao cho vị vua quyền hạn cụ thể nào để bác bỏ dự luật.[77] Hệ thống cơ
quan tư pháp Nhật Bản chia thành bốn cấp bậc: Tòa án Tối cao (最高裁判所 (Tối cao Tài phán
Sở)
Saikō-Saibansho?) và ba cấp tòa án thấp hơn.[80] Chánh án Tòa án Tối cao do Thiên
hoàng sắc phong theo chỉ định của Quốc hội, trong khi các Thẩm phán Tòa án Tối cao
do nội các bổ nhiệm. Trụ cột của pháp luật Nhật Bản gọi là Lục pháp (六法 Roppō?, Sáu
bộ luật).[81]
Nhân tố lịch sử: Kể từ Minh Trị duy tân đến trước Thế Chiến thứ 2, Nhật Bản
đã có 70 năm phát triển đất nước theo mô hình hiện đại và đã trở thành
cường quốc số 1 châu Á trong thập niên 1930. Dù bị tàn phá nặng nề trong
Thế Chiến, nhưng những nhân tố và kinh nghiệm quý báu của Nhật Bản vẫn
còn nguyên vẹn, họ có thể tận dụng kinh nghiệm này để nhanh chóng xây
dựng lại nền kinh tế.
Nhân tố con người: trước Thế Chiến thứ 2, Nhật Bản đã có đội ngũ chuyên
gia khoa học và quản lý khá đông đảo, có chất lượng cao. Dù bại trận trong
Thế Chiến 2 nhưng lực lượng nhân sự chất lượng cao của Nhật vẫn còn khá
nguyên vẹn, họ đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ
thuật và công nghệ của đất nước. Người Nhật được giáo dục với những đức
tính cần kiệm, kiên trì, lòng trung thành, tính phục tùng… vẫn được đề cao.
Nhờ đó, giới quản lý Nhật Bản đã đặc biệt thành công trong việc củng cố kỷ
luật lao động, khai thác sự tận tụy và trung thành của người lao động.
Mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao: những
năm 1950, 1960, tiền lương nhân công ở Nhật rất thấp so với các nước phát
triển khác (chỉ bằng 1/3 tiền lương của công nhân Anh và 1/7 tiền lương công
nhân Mỹ), đó là nhân tố quan trọng nhất để đạt mức tích lũy vốn cao và hạ
giá thành sản phẩm. Ngoài ra, Nhật Bản đã chú ý khai thác và sử dụng tốt
nguồn tiết kiệm cá nhân. Từ 1961–1967, tỷ lệ gửi tiết kiệm trong thu nhập
quốc dân là 18,6% cao gấp hơn hai lần của Mỹ (6,2%) và Anh (7,7%)
Nhật Bản không có quân đội nên có thể giảm chi phí quân sự xuống mức
dưới 1% tổng sản phẩm quốc dân, nguồn lực đó có thể chuyển sang phát
triển kinh tế.
Tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học-kỹ thuật:
trước Thế Chiến thứ 2, Nhật Bản đã là một cường quốc về khoa học, công
nghệ, có thể chế tạo các thiết bị công nghiệp chất lượng cao. Sau chiến
tranh, nhân tố này tiếp tục được phát huy.
Tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi: Trong các cuộc chiến tranh ở Triều
Tiên và Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã có hàng loạt đơn đặt hàng với các công
ty của Nhật Bản về trang bị, khí tài và các đồ quân dụng khác. Từ năm 1950
đến 1969, Nhật Bản đã thu được 10,2 tỷ USD các đơn đặt hàng của Mỹ
(tương đương 70 tỷ USD theo thời giá 2015). Trong giai đoạn này, 34% tổng
giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ và 30% giá trị hàng nhập của Nhật là từ thị
trường Mỹ. Có thể nói nhu cầu về hàng hóa của Mỹ cho các cuộc chiến tranh
ở Triều Tiên và Việt Nam là hai "ngọn gió thần" đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Tuy nhiên, nền kinh tế Nhật Bản cũng đã phải đối mặt với những mâu thuẫn gay gắt:
Sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng kinh tế: Phần lớn công nghiệp
tập trung ở các đô thị phía Đông nước Nhật, trong khi đó các vùng phía Tây
và các vùng nông nghiệp vẫn còn trong tình trạng lạc hậu. Nhiều nhà kinh tế
phương Tây nhận xét rằng có hai nước Nhật: một nước Nhật rất hiện đại ở
các đô thị và một nước Nhật cũ kỹ ở các vùng nông thôn.
Sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản phụ thuộc nhiều vào bên ngoài cả về
thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguồn cung cấp nguyên liệu. Khi giá nguyên
liệu tăng, kinh tế bị tác động mạnh.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt do các công ty vì chạy theo lợi nhuận
nên đã hạn chế những chi phí cho phúc lợi xã hội, duy trì lề lối làm việc khắc
nghiệt khiến người làm công bị áp lực nặng nề, dẫn tới nạn tự sát và thanh
niên ngại kết hôn và sinh con. Sau 1 thế hệ (tức là khoảng 30 năm), vấn đề
thanh niên ngại kết hôn và sinh con sẽ phát tác hậu quả, dẫn tới thiếu hụt
dân số trẻ và làm kinh tế dần trì trệ đi (tới cuối thế kỷ XX, tình trạng lão hóa
dân số đã thực sự trở thành vấn đề nghiêm trọng tại Nhật Bản).
Dấu hiệu tăng trưởng có phần chững lại vào thập niên 1980, và đến những năm 1990
thì lâm vào trì trệ. Đó được gọi là Thập niên mất mát. Bình quân hàng năm trong suốt
thập niên 1990, tăng trưởng trung bình chỉ đạt 0,5% mỗi năm, chủ yếu do những tác
động của việc đầu tư không hiệu quả và do dư chấn của bong bóng bất động sản vào
những năm 1980 đã làm cho các cơ sở sản xuất và kinh doanh mất một thời gian dài
tái cơ cấu về nợ quá hạn, vốn tư bản và lực lượng lao động. Tháng 11/2007, nền kinh
tế Nhật tiếp tục lâm vào suy thoái, năm 2008 khi GDP giảm 3%, mức lãi suất ngân hàng
trung ương hạ đến mức 0% vào đầu năm 2009.
Nhật Bản phải xúc tiến 6 chương trình cải cách lớn trong đó có cải cách cơ cấu kinh tế,
giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và sắp xếp lại cơ cấu chính phủ...
Cải cách hành chính của Nhật được thực hiện từ tháng 1 năm 2001. Chương trình tư
nhân hóa 10 năm ngành bưu điện Nhật vốn không chỉ nhắm đến các hoạt động của hệ
thống bưu chính quốc gia mà còn với các cơ sở ngân hàng và bảo hiểm trực thuộc đã
hoàn tất vào tháng 10/2007, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tái cấu trúc
ngành này của chính phủ. Dù diễn ra chậm chạp nhưng cải cách đang đi dần vào quỹ
đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngược ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại kết quả
đáng khích lệ. Tuy nhiên trong giai đoạn 2001–2015, kinh tế Nhật vẫn chỉ đạt được tốc
độ tăng trưởng rất chậm, trung bình chỉ dưới 1% mỗi năm. Tính chung giai đoạn 1988-
2018, trong suốt 30 năm, kinh tế Nhật Bản chỉ tăng bình quân 1,2% mỗi năm, là nền
kinh tế trì trệ gần nhất trong các nước G7 (chỉ hơn Italia)
Năm 2017, nợ công của Nhật Bản đã đạt mức gần 10.000 tỉ USD, gấp 2,4 lần GDP
hàng năm, mỗi người dân Nhật Bản phải gánh khoản nợ xấp xỉ 8,45 triệu yên (~78.000
USD). Hơn 1/3 ngân sách của Nhật Bản có từ nợ công, trong khi giới chức tài chính
đang gặp khó khăn trong việc cắt giảm chi tiêu. Kể từ năm 2015 đến 2018, nợ công của
chính phủ Nhật Bản vẫn tăng, phản ánh việc chi tiêu cho an sinh xã hội ngày càng tăng
lên trong bối cảnh nạn lão hóa dân số tại nước Nhật đang ngày càng nghiêm trọng [83].
Lưu Ngọc Trịnh (2004) cho rằng chính mô hình từng đem lại sự phát triển nhanh thần
kỳ cho Nhật Bản trong thập niên 1960-1970 thì nay đã hết thời, và sự chậm trễ đổi mới
cũng như cải cách nửa vời đã khiến Nhật Bản rơi vào trì trệ kinh tế lâu đến như vậy. [84]
Không giống như tình hình ở các nước phương Tây, khu vực tài chính Nhật không chịu
ảnh hưởng mạnh từ cuộc Khủng hoảng cho vay thế chấp nhưng do đối mặt với sự sụt
giảm mạnh về khối lượng đầu tư cũng như nhu cầu trước các mặt hàng xuất khẩu chủ
chốt của Nhật ở nước ngoài vào cuối năm 2008, đã đẩy nước này vào vòng suy thoái
nhanh hơn. Tình trạng nợ công quá lớn (chiếm 229% GDP theo số liệu của năm 2015)
và tỉ lệ dân số có tuổi quá cao là hai vấn đề đầy thách thức với Nhật Bản về dài hạn.
Hiện tại những tranh cãi xung quanh vai trò và hiệu quả của các chính sách vực dậy
nền kinh tế là mối quan tâm lớn của người dân lẫn chính phủ nước này.[85] Nhìn chung,
trong giai đoạn 2005–2020, kinh tế Nhật chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng rất chậm,
trung bình 1% mỗi năm. Kinh tế Nhật đã bị Trung Quốc vượt qua trong giai đoạn này,
và nếu tiếp tục tăng trưởng chậm như vậy thì tới năm 2025, Indonesia và Nga sẽ vượt
qua Nhật về tổng GDP theo sức mua tương đương, còn các nền kinh tế mới nổi trên
thế giới khác như Hàn Quốc, Malaysia cũng sẽ sớm vượt qua Nhật về thu nhập bình
quân đầu người.
Các lĩnh vực then chốt[sửa | sửa mã nguồn]
Nhật Bản hiện là một trong các nước có chỉ số lạm phát thấp nhất thế giới [86]
Chỉ số thất
nghiệp của Nhật Bản từ 1998 đến 2008 [87]
Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có
nền kinh tế lớn đứng thứ ba trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Trung Quốc). Trong
20 năm (từ 1990 tới 2010), Nhật Bản luôn giành vị trí thứ hai về kinh tế nhưng đã bị
Trung Quốc vượt qua từ đầu năm 2010.[88] Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tính đến năm
2021 là 4.941 tỷ USD, GDP trên đầu người là 41,637 USD (2020), đứng thứ 3 thế giới
và đứng thứ hai châu Á (sau Trung Quốc). Cán cân thương mại thặng dư và dự trữ
ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư của Nhật Bản ra nước ngoài rất
nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có
nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới[89]. Đơn vị tiền tệ là:
đồng yên Nhật.
Toyota Prius, ô tô sử dụng hỗn hợp xăng-điện, xe tiết kiệm nhiên liệu bán chạy nhất ở Mỹ năm
2008[103]
Bên cạnh đó việc chăm sóc cho học sinh tàn tật cũng được Chính phủ quan tâm, Nhật
Bản có riêng Cục phụ trách các vấn đề Tiểu học và Trung học chịu trách nhiệm chính
về công tác chăm sóc giúp đỡ các học sinh tàn tật, ngoài ra Cục này còn phụ trách cả
vấn đề giáo dục cho trẻ em Nhật Bản sống ở nước ngoài cũng như góp phần giám sát
một hệ thống kiểm định và phân phối miễn phí sách giáo khoa cho các đối tượng trên.
Gần đây cơ quan này còn kiêm nhiệm thêm một số chương trình thuộc mạng lưới giáo
dục địa phương như các chính sách về việc quyết định đội ngũ công tác giáo dục, các
tiêu chuẩn về diện tích trường lớp, số lượng giáo viên cho mỗi trường, và các vấn đề
tài chánh liên quan.[110]
Ngân sách dành riêng cho công tác giáo dục năm 2005 là 5.733,3 tỉ yên (59 tỷ đô-la),
chiếm 7% ngân sách quốc gia (82.182,9 tỉ yên) và chiếm 11.8% ngân sách cho các
mục đích công. Hệ thống chiếu sáng cũng chiếm một phần đáng kể trong công tác phát
triển cơ sở vật chất (161.3 tỉ yên). Ngân sách dành cho MEXT chủ yếu được chi dùng
cho đổi mới công tác giáo dục, trợ giúp kinh phí cho các trường tư, cho vay học bổng
và mở rộng các khóa giảng dạy về khoa học-công nghệ, các môn học về thể thao và
văn hóa-mỹ thuật cũng được chú ý phát triển. Ngoài ra còn có các kế hoạch tăng lương
cho giáo viên tiểu học công lập.[111]
Sinh viên Nhật Bản luôn xếp hạng cao trong số các sinh viên giữa các sinh
viên OECD về chất lượng và hiệu quả trong các việc đọc sách văn, toán và Khoa học.
Học sinh trung bình đạt 540 điểm trong phần thi đọc hiểu văn, toán và khoa học trong
Chương trình đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA) của OECD và Nhật Bản có một trong
những lực lượng lao động được đào tạo tốt nhất trong khối nước OECD. Những người
trưởng thành tốt nghiệp đại học, đặc biệt về ngành khoa học và kĩ thuật được hưởng lợi
kinh tế và xã hội từ việc giáo dục và kĩ năng của họ trong nền kinh tế công nghệ cao
của Nhật Bản.[112] Mặc dù chi tiêu của mỗi sinh viên khá cao tại Nhật Bản, tổng chi tiêu
so với GDP vẫn còn nhỏ. Năm 2015, chi tiêu công của Nhật Bản cho giáo dục chỉ
chiếm 3,5% GDP, thấp hơn mức trung bình của OECD là 4,7%.[113]
Tuy vậy, nền giáo dục Nhật cũng gặp phải một số chỉ trích từ phương Tây. Học sinh
Nhật Bản phải đối mặt với áp lực to lớn phải thành công trong học tập từ cha mẹ, giáo
viên, đồng nghiệp và xã hội. Điều này phần lớn là kết quả của một xã hội từ lâu đã đề
cao tầm quan trọng to lớn của giáo dục và một hệ thống giáo dục đặt toàn bộ trọng tâm
của nó vào một bài kiểm tra có ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc đời của mỗi con người. Áp
lực này đã dẫn đến gia tăng đáng kể các hành vi như bạo lực học đường, gian lận, tự
tử và tổn thương tâm lý. [114].
Một người lính của JGSDF-Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản với thiết bị ngắm PDF-
14 dùng cho ban đêm
Tiêm kích cơ F-15J của Không quân Nhật Bản trong một buổi tập trận chung với Hoa Kỳ
Tên lửa đánh chặn RIM-161 thế hệ 3 thuộc hệ thống phòng thủ Aegis BMD đang được phóng đi
từ Khu trục hạm JDS Kongō
Đến tháng 7 năm 2010, dân số Nhật Bản hiện nay lên tới gần 127 triệu người, xếp
hàng thứ 10 trên thế giới[121], phần lớn là đồng nhất về ngôn ngữ và văn hóa ngoại trừ
thiểu số những công nhân nước ngoài, Zainichi Hàn Quốc, Zainichi Trung Quốc, người
Philippines, người Nhật gốc Brasil.
Dân cư Nhật Bản phân bố không đồng đều trong cả nước. Dân cư tập trung đông nhất
ở vành đai Thái Bình Dương. Có một số lý do giải thích tại sao mật độ dân cư ở Nhật
Bản lại quá chênh lệch như vậy. Chỉ có 15% đất đai phù hợp cho việc xây dựng, vì vậy
các khu dân cư chỉ giới hạn trong những khu vực tương đối nhỏ hẹp. Đất nông nghiệp
cũng thiếu, do đó việc canh tác tập trung ở một vài đồng bằng ven biển. Ngoài ra, khí
hậu là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến phân bố dân cư, vì miền Đông và miền
Nam ấm áp và thích hợp cho việc định cư. Các miền này còn tiện lợi cho quan hệ
thương mại với các nước khác trong vùng Thái Bình Dương và vì vậy cũng là các
vùng công nghiệp nổi tiếng.
Nhật Bản là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới, trung bình là
81,25 tuổi cho năm 2006[122]. Tuy nhiên, dân số nước này đang lão hóa do hậu quả của
sự bùng nổ dân số sau chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 2004, 19,5% dân số Nhật trên
65 tuổi[123].
Biểu đồ tuổi thọ dân số Nhật Bản
Thống kê hiện tại (2004)
Đơn vị: nghìn người
Tuổi Số lượng
0 - 4t 5735
5-9 5938
10 - 14 6060
15 - 19 6761
20 - 24 7725
25 - 29 8755
30 - 34 9819
35 - 39 8662
40 - 44 7909
45 - 49 7854
50 - 54 9300
55 - 59 9640
60 - 64 8652
65 - 69 7343
70 - 74 6466
75 - 79 5098
trên 80 5969
Biểu đồ tuổi thọ dân số Nhật Bản
Thống kê hiện tại (2004)
Theo giới tính (Đơn vị: nghìn người)
Nam Tuổi Nữ
2943 0 - 4t 2792
3040 5-9 2898
3105 10 - 14 2955
3466 15 - 19 3295
3955 20 - 24 3770
4461 25 - 29 4294
4960 30 - 34 4859
4359 35 - 39 4303
3976 40 - 44 3933
3936 45 - 49 3918
4633 50 - 54 4667
4762 55 - 59 4878
4193 60 - 64 4459
3484 65 - 69 3859
2951 70 - 74 3515
2168 75 - 79 2930
1902 trên 80 4067
Thay đổi dân số đã tạo ra các vấn đề xã hội, đặc biệt là sự suy giảm lực lượng lao động
đồng thời gia tăng chi phí cho phúc lợi xã hội như vấn đề lương hưu. Do các vấn đề
kinh tế và xã hội, nhiều người trẻ Nhật Bản hiện có xu hướng không kết hôn hoặc sinh
con khi trưởng thành, khiến tỉ suất sinh đẻ đang giảm mạnh. Dân số nước Nhật Bản dự
tính sẽ giảm xuống còn 100 triệu người vào năm 2050 và 64 triệu người vào năm
2100[123]. Chính quyền và các nhà hoạch định dân số đang đau đầu để giải quyết vấn đề
này.[21]
Nhập cư và gia tăng khuyến khích sinh đẻ đang được xem là giải pháp để cung cấp lực
lượng lao động cho sự lão hóa của dân số nhằm duy trì sự phát triển của nền kinh tế
khổng lồ lớn thứ hai trên thế giới.[124][125]
x
t
s
Thành thị lớn nhất của Nhật Bản
Điều tra dân số 2010
Hạng Tên Tỉnh Dân số Hạng Tên Tỉnh Dâ
1 Tokyo Tokyo 13.843.403 11 Hiroshima Hiroshima 1
2 Yokohama Kanagawa 3.740.172 12 Sendai Miyagi 1
3 Osaka Osaka 2.725.006 13 Chiba Chiba
4 Nagoya Aichi 2.320.361 14 Kitakyushu Fukuoka
Tokyo 5 Sapporo Hokkaido 1.966.416 15 Sakai Osaka
6 Fukuoka Fukuoka 1.579.450 16 Niigata Niigata
7 Kobe Hyōgo 1.527.407 17 Hamamatsu Shizuoka
8 Kawasaki Kanagawa 1.516.483 18 Kumamoto Kumamoto
9 Kyoto Kyoto 1.468.980 19 Sagamihara Kanagawa
Hanami dango là một loại bánh gạo làm từ bột gạo giống
như mochi (một loại bánh khác cũng làm từ gạo). Thường được dùng với trà trong
những buổi thưởng ngoạn hoa anh đào của người Nhật.
Các tác phẩm đầu tiên của văn học Nhật Bản bao gồm hai cuốn sách lịch
sử Kojiki và Nihon Shoki cũng như tập thơ từ thế kỷ thứ VIII Man'yōshū, tất cả đều
được viết bằng Hán tự[148]. Vào giai đoạn đầu của thời kỳ Heian, hệ thống ký
tự kana (Hiragana và Katakana) ra đời. Cuốn tiểu thuyết The Tale of the Bamboo
Cutter được coi là tác phẩm ký sự lâu đời nhất của Nhật[149]. Một hồi ký về cuộc đời trong
cung cấm được ghi trong cuốn The Pillow Book, viết bởi Sei Shōnagon, trong
khi Truyện kể Genji của Murasaki Shikibu thường được coi là tiểu thuyết đầu tiên trên
thế giới. Trong thời kỳ Edo, văn học không thực sự phát triển trong giới Samurai như
trong tầng lớp người chōnin. Yomihon, là một ví dụ, đã trở nên nổi tiếng và tiết lộ sự
thay đổi sâu kín này trong giới độc giả cũng như tác giả thời kỳ này[150]. Thời kỳ Minh
Trị chứng kiến một giai đoạn đi xuống trong các thể loại văn học truyền thống của Nhật,
trong thời kỳ này thì văn học Nhật chịu nhiều ảnh hưởng từ văn học phương
Tây. Natsume Sōseki và Mori Ōgai được coi là những văn hào tiểu thuyết "hiện đại"
đầu tiên của Nhật, tiếp đó có thể kể đến Akutagawa Ryūnosuke, Tanizaki
Jun'ichirō, Yasunari Kawabata, Yukio Mishima và gần đây hơn là Haruki Murakami.
Nhật Bản có hai nhà văn từng đoạt giải Nobel là Yasunari Kawabata(1968)
và Kenzaburo Oe (1994).
Cá chép Koi - biểu tượng của sự bản lĩnh, tính kiên định và hoài bão của đàn ông Nhật.
Thường được treo vào ngày lễ Koinobori 5 tháng năm dành cho các bé trai hàng năm
Omamori - một loại bùa may mắn thường được người Nhật đem theo bên mình để cầu xin sức
khỏe, tình yêu hay học tập
Giếng thanh tẩy Chōzuya thường được đặt ở lối vào Điện Haiden, là nơi khách viếng rửa tay
trước khi hành lễ
Hai Geisha đang trò chuyện gần Kinkaku-ji (Kim các tự), Kyōto
Địa điểm các di sản văn hóa thế giới của Nhật Bản
Chùa Hōryū (法隆寺 Hōryū-ji, Pháp Long tự) là một ngôi chùa
ở Ikaruga, huyện Nara. Tên đầy đủ là Pháp Long Học Vấn Tự (法隆学問
寺 Hōryū Gakumonj), được biết đến với tên như vậy do đây là nơi vừa như
một trường dòng, vừa là một tu viện. Ngôi chùa được biết đến như một trong
các kiến trúc bằng gỗ có tuổi thọ cao nhất thế giới và là một nơi linh thiêng
nổi tiếng ở Nhật Bản[151][152]. Vào năm 1993, được ghi tên vào "Các thắng cảnh
di sản thế giới được UNESCO công nhận" và được chính phủ xếp loại di sản
quốc gia.
Gusuku là từ của người Okinawa nghĩa là "lâu đài" hay "pháo đài". Viết bằng
Kanji theo nghĩa "lâu đài", 城, phát âm là shiro[153]. Có nhiều Gusuku và các di
sản văn hóa ở Ryukyu đã được UNESCO tặng danh hiệu Di sản văn hóa thế
giới.
Thành Himeji (姫路城 Himeji-jō?) là một khu phức hợp gồm 83 tòa nhà bằng
gỗ tọa lạc trên một khu vực đồi núi bằng phẳng ở huyện Hyogo[154]. Thường
được biết đến với tên Hakurojo hay Shirasagijo (Lâu đài hạc trắng) do được
sơn phủ một lớp màu trắng tinh xảo bên ngoài. Được vinh dự là kì quan đầu
tiên được UNESCO công nhận và là Di sản văn hóa Nhật Bản đầu tiên
(tháng 12/1993). Một trong ba lâu đài đón khách viếng đông nhất ở Nhật
cùng với tòa lâu đài Matsumoto và Kumamoto.
Khu tưởng niệm Hòa bình Hiroshima thường được gọi là Mái vòm nguyên từ
(原爆ドーム Genbaku Dome)[155], ở Hiroshima, là một phần của Công viên
tưởng niệm hòa bình Hiroshima. Vào năm 1996 được UNESCO công nhận di
sản thế giới.
Các công trình kiến trúc lịch sử cố đô Kyoto nằm rải rác 17 địa điểm trong đó
ba công trình ở Kyoto, Ujin thuộc phủ Kyoto và Otsu ở huyện Shiga[156]. Gồm
có 3 chùa phật giáo, 3 đền Thần đạo và một lâu đài. Riêng 38 cơ sở kiến trúc
được chính phủ liệt vào danh sách Di sản quốc gia, 160 kiến trúc khác vào
danh sách Các công trình văn hóa quan trọng. Tám khu vườn thắng cảnh
đặc biệt và bốn với Thắng cảnh đẹp. Công nhận năm 1994.
Các công trình lịch sử Nara cổ.
Làng lịch sử Shirakawa-go và Gokayama trên thung lũng sông Shogawa trải
dài từ ranh giới huyện Gifu và Toyama phía bắc Nhật Bản[157]. Shirakawa-
go (白川郷, "Sông ánh bạc") tọa lạc ở khu làng Shirakawa huyện Gifu. Năm
ngọn núi Gokayama (五箇山) bị chia cắt giữa khu làng
cũ Kamitaira và Taira ở Nanto, tỉnh Toyama.
Thần xã Itsukushima (厳島神社, Itsukushima Jinja) là một ngôi đền
Shinto trên đảo Itsukushima (tên cũ là Miyajima) ở thành
phố Hatsukaichi, huyện Hiroshima[158]. Một vài công trình tại đây cũng được
chính phủ cho vào danh sách "Di sản quốc gia".
Mỏ bạc Iwami Ginzan (石見銀山 Iwami Ginzan (?)) là một khu vực khoáng
sản tại thành phố Oda, huyện Shimane, thuộc đảo Honshu[159]. Được
UNESCO ghi tên năm 2007.
Dãy núi Kii hay bán đảo Kii (紀伊半島 Kii Hantō?)[160] – một trong các bán đảo
lớn nhất ở Honshu.
Vùng núi Shirakami (白神山地 Shirakami-Sanchi (?)) (Địa hạt của thần) nằm
ở bắc Honshu. Các ngọn núi này trải dài vững chắc theo các khu rừng
nguyên thủy từ huyện Akita đến Aomori[161]. Tổng cộng 1. 300 km² trong đó
169,7 km² được vào danh sách UNESCO.
Vườn quốc gia Shiretoko (知床国立公園 Shiretoko Kokuritsu Kōen (?)) chiếm
phần lớn bán đảo Shiretoko ở tận cùng đông bắc đảo Hokkaido[162],
theo người Ainu nghĩa là "Nơi tận cùng Trái Đất". Một trong các cơ sở tôn
giáo hẻo lánh nhất của Nhật. Công viên cũng là nơi cư ngụ của loài gấu lớn
nhất Nhật Bản, có thể trông thấy khu đảo tranh chấp Kunashiri từ đây. Ngoài
ra công viên còn có thác nước nóng Kamuiwakka-no-taki. Theo người Ainu
đây là dòng nước của các vị thần. Được công nhận vào năm 2005 cùng với
một phần đảo Kuril do Nga kiểm soát.
Nikko (日光市 Nikkō-shi (?), "ánh nắng") là một thành phố nằm trên vùng đồi
núi thuộc huyện Tochigi. Cách Tokyo 140 km về phía bắc và gần 35 km về
phía tây của Utsunomiya, thủ phủ của Tochigi, nơi quàng lăng tẩm của
Tướng quân Tokugawa Ieyasu (Nikko Tosho-gu) và người cháu trai Iemitsu
(Iemitsu-byo Taiyu-in) cùng khu đền Futarasan. Shodo Shonin lập đền Rinno
vào 782, theo sau không lâu là Đền Chuzen-ji năm 784, bao quanh là
làng Đền chùa Nikkō. Đền của Nikko Tosho-gu được hoàn tất vào 1617 là
một trong các nơi đón khách hành lễ đông nhất thời Edo. Nikko Tosho-gu,
Đền Futarasan và Rinno-ji hiện cũng là Di sản được UNESCO công nhận.[163]
Yakushima (屋久島 Yakushima (?)) là một đảo diện tích 500 km² và gần
15.000 cư dân, nằm về phía nam của Kyushu ở huyện Kagoshima[164], bị chia
cắt khỏi Tanegashima bởi eo biển Vincennes với ngọn núi cao nhất của đảo
Myanoura 1.935 m. Được vây quanh bởi rừng rậm dày đặc, đặc trưng với
cây thông liễu (ở Nhật gọi là Sugi) và nhiều họ cây đỗ quyên.
Hōryū-ji (法隆寺)
Gusuku
Chùa Kinkakuji
Đền Itsukushima
Akasaka Palace
Tokyo DisneySea
Từ điển từ Wiktionary
Wikimedia Commons có
thêm hình ảnh và phương
tiện truyền tải về Nhật Bản.
s
Nhật Bản
hiện
Địa lý Nhật Bản
hiện
Thành viên các tổ chức quốc tế
BIBSYS: 90706615
BNE: XX450954
CiNii: DA04877014
GND: 4028495-5
HDS: 003412
LCCN: n78089021
MBAREA: 2db42837-c832-3c27-b4a3-08198f75693c
NARA: 10035705
êu đề NDL: 00568158
ẩn NKC: ge129425
NLA: 35242950
NLI: 000973886
SELIBR: 149361
SUDOC: 02648918X
TDVİA: japonya
Trove: 879221
VIAF: 159367111
Thống kê
Tuyên bố về cookie