You are on page 1of 28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ- TIN HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA NGOẠI NGỮ

BÀI TIỂU LUẬN


ĐỀ TÀI:
TẾT NGUYÊN ĐÁN

GVHD: Trần Long


SV thực hiện: Phan Thị Hồng Phương
Lớp: A42006 MS: 49
MSSV: 20DH710600

Năm 2020

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU...................……………………………………4

II. NỘI DUNG……………………………………………….………5

1.Lịch sử Tết Nguyên Đán………………………………………….……5


1.1. Từ nguyên……………………………….…….…………………5
1.2. Nguồn gốc ra đời…………………….………..…………...……5
1.3. Quan niệm ngày tết……………………….…………….………6
2. Các giai đoạn chính trong tết …………….….………..……………6
2.1. Những ngày cuối năm…………………….….…………………6
2.1.1.Trang trí – mua sắm tết…………………………..……….…6
2.1.1.1. Mâm ngũ quả…..………………………………………6
2.1.1.2. Tranh tết……….……………………………….………8
2.1.1.3. Câu đối……………………..…………..……..………10
2.1.1.4. Hoa tết…………………………..…………………….10
2.1.1.5. Bàn thờ tổ tiên ngày tết………………….................12
2.1.1.6. Treo quốc kỳ………………….…………….…………15
2.1.2.Ông Táo về trời……………………………………..………15
2.1.3.Thăm mộ tồ tiên…………………………………………….17
2.1.4.Tất niên………………………………………………………17
2.2. Giao thừa……………………..………………………………18
2.2.1.Cúng ngoài trời……………………………………………...19
2.2.2.Cúng trong nhà……………………………......……………20
2.3. Những ngày đầu năm………………………………………….20
2.3.1.Xông đất đầu năm………………………………………….20
2.3.2.Xuất hành – hái lộc – xin quẻ…………………..…………21
2.3.3.Chúc tết…….………………………………………………..23
2.3.4.Lì xì………………………………………………………..…23
2.3.5.thăm viếng…….…….…………………………........………24
3. Ẩm thực ngày tết…………………………………………….……..24
3.1. Bánh truyền thống……………………………….……….……24
3.2. Cổ tết……………………………………………………………25
3.3. Trái cây…………………………….…………………………25
3.4. Mứt……………………………………………………………25
3.5. Bánh kẹo…….……………………………….…………………25
3.6. Thức uống……..………………………………………………..26
3.7. Ẩm thực khác….………………………………..………………26

4. Lễ hội ngày tết………………………………………..……….………26


4.1. Lễ hội truyền thống………………………………….…………26
4.2. Lễ hội ngày nay ………………………………………..……27
4.3. Lễ hội đặc trưng riêng ở các vùng miền………………..……27
5. Tín ngưỡng ngày tết…………………………………………….28
5.1. Điềm lành………………………………….……………………28
5.2. Kiêng cữ……………………………………………………...…29
5.2.1.Miền Bắc…………………………….………………………29
5.2.2.Miền Trung…………………………………………………..30
5.2.3. Miền Nam……………………………………………………30

III. TỔNG KẾT………………………………..……………………

I. PHẦN MỞ ĐẦU

"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, 'Tục" là thói quen lâu đời. Nội
dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội Phong tục có thứ trở thành
luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả những
đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam, có nhiều thuần
phong mỹ tục cần cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt
Nam từ hàng nghìn đời nay, là thời điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới,
Tết từ ngày xưa đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ
giữa con người với thiên nhiên qua bốn mùa .
Tết còn là cơ hội để mọi người Việt tưởng nhớ về tổ tiên, cội nguồn, gặp
gỡ bà con họ hàng, thắt chặt mối quan hệ thân tình trong gia đình, bạn bè.
Ngoài ra nó còn là dịp để mọi người nghỉ ngơi, thư giãn, giải trí với các hoạt
động lễ hội, du xuân vui vẻ và hấp dẫn

II. NỘI DUNG


1. Lịch sử
1.1 Từ nguyên
Chữ "Tết" do chữ "Tiết" mà thành. Hai chữ "Nguyên đán" có gốc chữ
Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" có nghĩa là buổi
sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tết Nguyên Đán" Tết Nguyên
đán được người Trung Hoa hiện nay gọi là "Xuân Tiết" hoặc "Nông lịch tân
niên", và vẫn là tết cổ truyền của họ mặc dù từ năm 1949 (bắt đầu thời kỳ Đại
cách mạng văn hóa), Trung Quốc đã chính thức chuyển qua dùng dương lịch và
chuyển qua gọi Tết dương lịch là Tết Nguyên đán
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên
Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân
tiết của người Trung Quốc và các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung
Hoa và vòng Văn hóa chữ Hán khác, mà có thể chênh lệch 1 ngày (như vào
các năm 2007, 2030, 2053, Tết Việt Nam trước Tết Trung Quốc 1 ngày).
1.2 Nguồn gốc ra đời
Tết Nguyên Đán có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, nhà
Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng Giêng, nhằm tháng
Dần. Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu), tháng chạp là
tháng đầu năm. Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc đỏ, chọn
tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên,
theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì
có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến đời Đông
Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đối ngày tết vào một tháng nhất định: tháng Dần.
Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua
tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế
(140 trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như
đời nhà Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào
thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo
thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn,
ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ
bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết
thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng bảy.

1.3 Quan niệm ngày tết


Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ
ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường
sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong
dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp
để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi
người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi
chúc Tết người lớn còn được lì xì bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền
dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền Bắc, Trung, Nam ở Việt Nam
cũng có những điều khác nhau.
2. Các giai đoạn chính trong Tết
2.1 Những ngày cuối năm
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm
và mới. Do đó trước ngày Tết khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho
ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa, sắm thức ăn... thật
chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị
cho là đem lại điềm gở cũng bị
vứt bỏ.

2.1.1 Trang trí, sắm tết


2.1.1.1 Mâm ngũ quả:
Ngũ, con số 5 là con số chỉ trung tâm. Theo quan niệm cổ đại phổ biến
trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, thường cho rằng các quy
luật phổ biến đều gộp vào con số 5. Phổ biến, chúng ta có ngũ phương (Đông,
Tây, Nam, Bắc và Trung ương), ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan,
ngũ luân, ngũ cốc,… Như vậy, số 5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây
“ngũ quả” tự nó biểu trưng một tập thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật
dâng cúng là quả.
Quả (trái) - biểu tượng của sung túc. Trái cây nói chung là biểu tượng của sự
sung túc, dồi dào. Vì quả thường chứa nhiều hạt, biểu tượng cho mọi nguồn
gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên trong của nó) biểu thị cho
sự phồn thực, sinh sôi …Xuất phát từ quan niệm về chuộng số lẻ của văn hóa
phương Đông, về bộ ngũ hoàn hảo (ngũ hành, ngũ vị, ngũ sắc…), về sự đầy đủ
(như bàn tay 5 ngón)… 6
mà mâm trái cây dâng cúng tổ tiên và chưng ngày tết của người Việt được
gọi là mâm ngũ quả.
Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về ngũ hành: thuỷ - hoả -
mộc - kim - thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận hành của nó. Thông
thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như chuối xanh, bưởi
vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước: Phú (giàu có)
- quý (sang trọng) - thọ (sống lâu) - kháng (khỏe mạnh) - ninh (bình yên). Mỗi
một miền lại có một quan niệm riêng về ý nghĩa mâm ngũ quả.
Mâm ngũ quả miền Nam

Người Nam bộ có
cách đọc chại âm hay đơn
tiết hóa một số từ, ví dụ chỉ
tên trái mãng cầu thì gọi
đơn tiết hóa là Cầu (mãng
cầu: thỏa mãn trong sự
cầu xin) - Sung (sung: chỉ
sự sung túc, sung mãn) -
Vừa (đọc chệch âm là dừa:
quả dừa) - Đủ (đơn tiết hóa
của đu đủ và xài (là cách
đọc chệch của âm xoài).

Mâm ngũ quả miền Trung

Người miền Trung


do chịu sự giao thoa văn
hóa 2 miền Bắc - Nam
nên mâm ngũ quả vẫn
bày biện đủ: chuối, mãng
cầu, sung, dừa, đu đủ,
xoài… Rất phong phú!

Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý


nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật thủ
hay nải chuối như bàn tay che chở của đức
phật cho tất cả mọi người; quả bưởi, dưa
hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn
căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi của
quýt, hồng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh
cát tường. Ngày nay, mâm quả
Mâm ngũ quả miền Bắc

trên bàn thờ tết người Việt phong phú hơn về chủng loại bởi sự góp mặt của
những hoa quả ngoại nhập. . Với tính dung hợp trong văn hóa, người Việt
Nam luôn có thể tìm thấy tất cả những yếu tố thích hợp, . có giá trị ý nghĩa
đối với đời sống tâm linh của dân tộc mình. Cuối cùng, những sản vật đẹp mắt
nhất, tinh túy nhất, được dâng bày với những tình cảm hiếu kính, trang trọng và
thiết thân nhất. Bàn thờ tết không chỉ là nơi mà mọi người bày tỏ tình cảm gia
đình, huyết thống mà đó còn là nơi chúng ta gửi gắm những lời chúc may mắn
và một năm mới an khang, thịnh vượng hơn.

2.1.1.2 Tranh Tết

Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân Việt
Nam. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền
xưa kia. Tranh Tết là một phần hồn Việt trong lành, nhân hậu và đồng thời cũng
là nơi lưu giữ những giá trị tâm linh sâu sắc. Những màu sắc rực rỡ như khơi
gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người
Việt.
Những bức tranh Tết đều có hàm ẩn những nội dung cao xa, những ý
nghĩa thâm thúy, mang nặng tính chất đặc thù dân tộc, có tính cách giáo dục,
trào lộng, đôi khi còn lồng vào những nét châm biếm nhẹ nhàng. Có thể phân
loại tranh Tết như sau:

4
Tranh chúc tụng:
Tranh gà, tranh lợn, tướng quân, tiến sĩ,
Phúc-Lộc-Thọ(hình vẽ hoặc chữ) mỗi bức
tranh đều có ý nghĩa của
những lời chúc:an lành,giàu sang,tăng
phẩm hàm chức tước hoặc đông con

Tranh để thờ phượng:


như táo quân, Phật Bà, Thổ công, tứ bình (4 loại hoa hay quả), tứ linh (lân,
long, quy, phượng), tứ thời (xuân, hạ, thu, đông).
Tranh lịch sử: Vẽ các anh hùng liệt nữ như Lý thường Kiệt, Hai bà
Trưng, Bà Triệu, Trần hưng Đạo, Ngô Quyền v v
Tranh giáo dục: cóc đi học, Nhị thập tứ hiếu (24 người giữ đạo
hiếu), tranh ngụ ngôn.

Tranh trào lộng: Chuột


đỗ trạng nguyên, chuột vinh
qui, đám cưới chuột,
chuột mèo hóa giải, hái dừa,
thầy đồ cóc.v.v.

. Chuột đỗ trạng nguyên

Về phương diện nghệ thuật tạo hình là loại nghệ thuật phổ biến, đơn
giản. Đường nét giản dị và tùy tiện, tạo cho tranh một thể hiện mộc mạc dễ
cảm. Màu sắc rực rỡ và chú trọng nhất là đường nét đen chạy viền, bố cục
không gò bó theo luật tương xứng.
Tranh Tết VN là loại tranh mộc mạc chân chất đi thẳng vào lòng người những
cảm xúc khi thì tôn nghiêm thờ phượng, khi thì bình lặng suy tư, khi thì
khuyên bảo hoặc châm biếm nhẹ nhàng. Làm cho lòng người nồng ấm thêm
một niềm tin, một chút kiêu hãnh bởi dòng giống Tổ Tiên, hoặc thêm một tiếng
cười hồn nhiên giòn giã trong ba ngày Tết.

9
2.1.1.3 Câu đối bằng chữ Quốc ngữ, nhưng theo phong
cách thi pháp.
Câu đối tết thường viết trên
nền giấy đỏ, mực đen với ý nghĩa màu đỏ
tượng trưng cho sự đầm ấm, sum vầy,
hạnh phúc phù hợp với không khí thiêng
liêng của ngày Tết cổ truyền. Câu đối
thường được treo ở chỗ trang trọng, nhiều
người thấy như: cửa ra vào nhà, hai bên
bàn thờ Câu đối xưa được viết bằng chữ
Hán, Nôm bởi những người học hành, chữ
nghĩa giỏi mà dân gian thường gọi là Ông
Đồ ngày nay câu đối tết còn được viết
Câu đối được chia thành 2 loại: loại mang tính quy phạm loại mang tính thị
ứng. Câu đối mang tính quy phạm, thường làm ở trường thi, làm để giáo huấn,
thờ phụng… Câu đối mang tính chất thi ứng, thường làm trong các dịp hội hè,
vãn đàm, hý lộng…, lại chia thành các loại nhỏ như: Châm biếm - đả kích, thử
tài trí, ứng phó.
Câu đối ngày xuân là một thú chơi tao nhã cho mọi người, mọi nhà, từ
nông dân đến trí thức, từ kẻ nghèo hèn đến bậc đế vương, từ trẻ nhỏ đến người
già. Chính vì thế, ngày xuân, nếu thiếu một đôi câu đối đỏ treo trong nhà chắc
hẳn là ngày Tết chưa toàn vẹn. Đôi câu đối khiến người ta cảm thấy Tết cổ
truyền trở nên thiêng liêng hơn, trang trọng hơn, và đặc biệt hơn những ngày
bình thường khác.
Một số câu đối quen thuộc của dân gian ta:
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”
“ Năm mới hạnh phúc bình an đến
“ Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu
Ủa! Tết!
Sáng mồng một, lắng tai nghe lời chúc
Ồ! Xuân!”

2.1.1.4 Hoa Tết

Đã thành thông lệ, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về người người, nhà
nhà lại náo nức sắm sửa cho gia đình mình những chậu hoa, cây cảnh vừa ý để
đón năm mới thêm khí thế. Tết đến, xuân về cũng là dịp trăm hoa đua nở, khoe
sắc làm đẹp cho đời. Hoa là thứ không thể thiếu trong những ngày Tết cổ
truyền của dân tộc, thế nên chắc cũng chẳng phải "ngoa" khi nói rằng người
Việt còn ăn Tết bằng hoa. Trong không khí giao hòa của trời đất vào xuân, hoa
như đem đến cho con người sức sống mới và những gì tươi đẹp nhất của một
mùa xuân.
Hoa cho ngày Tết nhiều không kể xiết. Nếu chỉ dạo qua một vòng Chợ
hoa, bạn sẽ thấy vô vàn những loài hoa đang đua nhau khoe sắc rực rỡ như
đào, mai, lay ơn, lily, cúc, vạn thọ, phong lan, thược dược, xương rồng, quất
kiểng… Nhưng nói đến Tết, đào và mai vẫn chiếm được nhiều cảm tình nhất

Với miền Bắc, hoa đào


được coi là biểu tượng thiêng
liêng của ngày Tết. Nó
không chỉ làm cho nhà cửa
thêm phần đẹp đẽ, ấm cúng, mà
màu đỏ thắm của hoa theo quan
niệm dân gian còn đem lại sự
may mắn cho cả năm. Ðào ở
miền Bắc cũng có nhiều giống
khác nhau như: đào bích, đào
phai, đào bạch và đào thất thốn
hay còn gọi là đào thế.

Còn người miền Nam một cái Tết không


thể thiếu nhành mai. Khác với đào, mai
phương Nam dường như mang một phong
cách trẻ trung và năng động hơn, biểu
tượng cho cái đẹp bừng nở, sự hưng vượng
trong năm mới.

. Hoa Mai

11
Ngược lên Tây Bắc, mùa xuân về cũng là thời điểm hoa mai, hoa mận
đang nở trắng cả một vùng trời. Sau đào và mai, lay ơn và cúc là các loại hoa
được người dân ở cả 3 miền ưa thích
.
Còn đối với các bậc cao niên, nho nhã, mai trắng hay phong lan ta lại là
một trong số ít loại hoa được chọn làm tâm điểm cho "bữa tiệc hoa" ngày Tết.
Tuy nhiên, trong cái sung túc thời nay, người Sài Gòn và Hà Nội sành chơi đã
tìm đến các loài hoa "cao cấp" hơn như lily, tulip hay lan ngoại. Riêng với
người Huế, ngày Tết lại không thể thiếu một giò lan ta treo lủng lẳng trước hiên
nhà.
Một năm có 365 ngày, dù bận rộn đến đâu, người Việt Nam đều hướng về
những ngày Tết với ý nghĩa thiêng liêng, trang trọng nhất. Và tất nhiên, ai nấy
cũng đều mong muốn tìm chọn cho nhà mình một chậu hoa thật đẹp và rực rỡ
để trưng bày trong những ngày này. Đó dường như là một nét đẹp truyền thống
gắn với bản sắc văn hóa của dân tộc.

2.1.1.5 Bàn thờ tổ tiên ngày tết

Chăm chút bàn thờ


là cách để con cháu bày
tỏ lòng yêu kính và tưởng
nhớ đến ông bà tổ tiên, vì
thế, mỗi độ năm hết, Tết
đến công việc này được
mọi người chú ý trước
tiên.
Thờ phụng tổ tiên là
một trách nhiệm có tính
cách luân lý đối với người
Việt Nam, nó thể hiện cho
nhu cầu được phát lộ tình
cảm và niềm tin huyết
thống trong môi trường
gia đình.
Bàn thờ tổ tiên ngày tết

12
Giữ bàn thờ sạch bày tỏ lòng hiếu kính
Bàn thờ là nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó
thường được đặt ở vị trí trung tâm và cao nhất trong nhà. Điều này không chỉ
để tránh sự va chạm mà còn tránh gió, bụi bặm và côn trùng. Việc lau dọn sạch
sẽ bàn thờ là công việc trước tiên và được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ.
Công việc chăm chút bàn thờ là cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính
và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.
Chổi quét hoặc khăn lau bàn thờ thường được dùng riêng, và rất hạn
chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ thường được dùng từ nguồn nước sạch
sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau.
Trong tâm thức người Việt, người đã khuất và người còn sống luôn có
một mối quan hệ mật thiết với nhau. Không gian thờ tự là không gian thiêng
liêng trong gia đình, là nơi lưu giữ nhiều ẩn ức tình cảm giữa các thế hệ, chính
vì thế việc giữ gìn bàn thờ luôn sạch sẽ, mát mẻ không chỉ thể hiện sự chăm sóc
và tôn kính của con cháu đối với ông bà tổ tiên mà còn là sự chăm sóc đến cái
tôi tâm linh ở mỗi con người.
Không phải đợi lúc năm hết tết đến, nhân dịp giỗ chạp hay vào những ngày sóc
vọng, người ta mới dọn dẹp và chăm chút bàn thờ. Tuy nhiên, phải vào những
ngày cận Tết, chúng ta mới thấy hết được không khí bận bịu, tất bật của việc
dọn dẹp và chuẩn bị sắm sửa đồ thờ.
Từ việc đánh sáng lại bộ tư đồng, lau chùi khung ảnh, thay cát bát
hương (nhang)… đều thể hiện cho nhu cầu giao hòa, gắn kết mật thiết giữa thế
giới hữu tình và thế giới tâm linh thiêng liêng.
Công việc quét tước nhà cửa thường là việc của phụ nữ trong nhà vì nó
đòi tính cẩn thận, tỉ mỉ. Song việc bày bàn thờ ngày Tết lại được ưu ái dành cho
quý ông, đơn giản vì việc ấy nặng nhọc hơn. Hơn thế, người đàn ông là chủ gia
đình, phải đại diện chăm lo nơi cư ngụ của tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính.
Phụ nữ trong nhà thì lo việc bếp núc, nấu nướng và dọn dẹp gian bếp.
Đó là cách nhìn từ văn hóa truyền thống xưa kia. Ngày nay, nhất là nơi đô thị,
chúng ta không còn biệt rạch ròi việc này như trước.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ không phân biệt nam nữ,
tuổi tác như ở thôn quê. Tuy nhiên, để giữ nếp xưa, mọi nhà vẫn mời người lớn
tuổi nhất họ hay nhất nhà ra khấn và thắp hương

13
cho ông bà tổ tiên trong những ngày quan trọng như: tất niên, đêm giao thừa,
mừng năm mới, cúng tiễn…
Chu đáo bày biện, lễ cúng
Trong gia đình Việt Nam ngoài việc chọn lựa vị trí trung tâm và cao ráo
để đặt bàn thờ, người Việt còn chú ý xem hướng của ngôi nhà và tuổi của gia
chủ để thấy nên đặt bàn thờ quay mặt về hướng nào là tốt nhất.
Việc dọn dẹp hay bày biện bàn thờ vào ngày thường có thể qua loa, sơ sài vì
lý do bận bịu làm ăn, thu vén tiền bạc… Song vào những ngày Tết, công việc
này được yêu cầu có sự chu đáo nhất định.
Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tình tú)
và trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ),
hai bát hương khác đặt ở bên trái và bên phải tạo nên tư thế tam tài; ở hai góc
ngoài bao giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng trưng cho mặt trời bên
trái và mặt trăng ở bên phải.
Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối… người ta
thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng khói
hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã cho các
cụ, một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ở trung
tâm bàn thờ, một bình hoa lớn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày
thêm bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt.

Hoa để thờ cúng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng giấy
bạc (một bạc, một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm dương giao
hòa) để có thể dùng được lâu. Đối với hoa tươi, người Việt Nam thường sử
dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa lay ơn, hoa mai, hoa đào trong cúng gia tiên ngày
Tết…
Khoảng sáng 30 Tết, việc bày biện bàn thờ Tết phải được hoàn tất. Tùy
theo điều kiện kinh tế hay văn hóa từng miền mà trên bàn thờ có thêm cặp dưa
hấu xanh, gói thuốc lá, cặp bánh chưng hay bánh tét… Việc thắp sáng cho bàn
thờ ngày Tết cũng được bắt đầu từ ngày 30. Có nhà sử dụng loại hương vòng,
hay hương que loại lớn, cháy liên tục trong nhiều ngày với nhiều ý nghĩa biểu
trưng như các vì tinh tú đang tỏa sáng, sự chăm lo ân cần của con cháu…

14
Hương khói còn tạo nên một không khí ấm cúng nơi gian thờ, gắn kết tình cảm
và ước nguyện hạnh phúc của mọi người trong một gia đình. Hương dùng cho
những ngày Tết cũng thường là các loại hương có mùi thơm đặc biệt ví dụ như
hương bài, hương trầm,hương nhài… là những loại hương có mùi thơm hết sức
đặc trưng cho nhân dân ba miền.
2.1.1.6 Treo Quốc Kì

Những năm sau ngày


thống nhất đất nước, tại Việt
Nam, ngày tết cũng như các
ngày lễ trong năm, chính phủ
đều khuyến khích treo quốc kỳ.
Các công sở, công ty, trường
học, nơi sinh hoạt công cộng
thường treo quốc kỳ kèm bích
chương "Chúc mừng năm mới"
và các loại cờ ngũ sắc.
2.1.2 Ông Táo về trời

Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị
thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt
hóa thành huyền tích “2 ông 1 bà” - vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp núc.
Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là Táo Quân hoặc Ông Táo do
kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết Ba ngôi) khá phổ biến trong các tín
ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và
đều dựa trên nền móng là đất.
Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có
những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau:
Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên
sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ.
Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang.
Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi
đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị
Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận
vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó
giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn.
Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng
Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy
Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy
để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính
sao, luôn nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Ngọc Hoàng trên cao cảm động trước mối chân tình của cả ba người,
(2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho
phép họ được ở bên nhau mãi mãi bên cho ba người hóa thành “ba đầu rau”
hay “chiếc kiềng 3 chân” ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa.
Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho
mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh
của con người.
Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia
đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp.
Từ xa xưa, người dân Việt đã ngưỡng mộ lòng chung thủy của Ông
Táo và thờ cúng Ông Táo với hy vọng Táo Quân sẽ giúp họ giữ “bếp lửa”
trong gia đình luôn nồng ấm và hạnh phúc.
Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23
tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi
việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng.
Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công
việc coi sóc bếp lửa của mình.

16
Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt
xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho mình được nhiều điều
may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu
Ngọc Hoàng rất trọng thể.
Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ
dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá
chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò
bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời.
Ông Táo sẽ tâu với Ngọc
Hoàng về việc làm ăn, cư xử
của mỗi gia đình dưới hạ giới.
Lễ cúng thường diễn ra trước
12h trưa, sau khi cúng xong,
người ta sẽ hóa vàng đồ lễ,
nếu
có cá sống thì sẽ đem thả
xuống sông, hồ, biển hay
giếng
nước, tùy theo khu vực học sinh
sống.
2.1.3 Thăm mộ tổ tiên
Từ ngày 23 đến ngày
30 tháng chạp con cái trong gia đình tề tựu
đông đủ, tụ họp ở nghĩa địa đi thăm, sửa
sang quét dọn mồ mả tổ tiên và những thân
quyến quá cố, đem theo hương đèn, hoa

quả để cúng, mời vong linh, hương hồn tổ


tiên về ăn Tết cùng con cháu.

2.1.4 Lễ tất niên


Lễ tất niên được tiến hành vào chiều ngày 30 Tết. Trong ngày 30 Tết, nhà nhà
đều dọn dẹp nhà cửa để chuẩn bị đón Tết. Đầu tiên phải lau chùi, trang hoàng,
bày biện bàn thờ, với hương, hoa tươi, đèn nến đầy đủ. Sau đó, trang hoàng
nhà cửa với hoa, cành đào, chậu quất .

17
Sau khi công việc chuẩn bị cho gia đình một cái Tết đầm ấm, thiêng liêng, vui
vẻ xong thì gia chủ phải chuẩn bị mâm cỗ cúng Tất niên. Theo quan niệm của
người Việt, bữa cơm tất niên sẽ được tổ chức vào chiều ngày 30 tết, lúc đó mọi
công việc chuẩn bị cho ngày tết đã cơ bản xong, bánh chưng đã được vớt ra và
bày biện ngay ngắn trên bàn thờ, nhà cửa cũng đã gọn gàng, sạch sẽ. Ngoài ý
nghĩa tiễn biệt năm cũ, việc các gia đình sửa soạn bữa cơm tất niên còn để mời
ông Công, ông Táo trở về trần thế tiếp tục cai quản việc bếp núc tư gia. Đây
cũng là bữa cơm để con cháu thể hiện tấm lòng tôn kính, hiếu thảo với những
người đã khuất trong gia đình.
Ở một số nơi, chiều
ngày 30, trước lúc diễn ra
bữa cơm tất niên, các gia
đình thường ra mộ thắp
hương mời ông bà, tổ tiên
về ăn tết cùng con cháu,
nhưng cũng có nhiều
nơi không có phong tục
này mà chỉ thắp hương tại
nhà. Có thể nói, bữa cơm
tất niên là nét văn hoá, in
đậm trong tâm trí người
Việt và trở thành sợi dây
vô hình, liên kết chặt chẽ
giữa các thành viên trong
gia đình, cộng đồng mỗi khi tết đến, xuân về.
Bữa cơm tất niên kết thúc, cũng là lúc mọi người chuẩn bị cho lễ cúng
giao thừa.

2.2 Giao thừa


Thời khắc chuyển giao năm cũ sang năm mới là thời điểm quan trọng,
trời đất giao hoà, âm dương hòa quyện để vạn vật bừng lên sức sống mới. Theo
phong tục của người Việt Nam từ cổ xưa, giao thừa nhà nhà đều cúng lễ ngoài
trời và cúng lễ trong nhà chuẩn bị chu đáo để đón người đến xông đất, mang tài
thần vào nhà.

18
2.2.1 Cúng ngoài trời

Theo như câu chuyện truyền miệng của các cụ ta kể lại, tục cúng giao
thừa ngoài trời là thể hiện tấm lòng thành kính của người hạ giới với các vị thần
trên Thiên đình. Hàng năm sẽ có một vị thần được cử xuống hạ giới để cai quản
công việc và đến giờ phút cận kề năm mới vị thần ấy sẽ quay về trời để vị thần
khác xuống nhân gian tiếp quản. Vì thế, lễ cúng giao thừa chính là hình thức
“tiễn cũ, đón mới” các vị thần tôn kính ngự trị trên trời.
Để lý giải vì sao lễ cúng giao thừa lại được thực hiện ở ngoài trời, người
xưa đã có những quan niệm hết sức thú vị. Trên Thiên đình thường tập hợp rất
đông quan quân. Mỗi năm sau khi đã hoàn thành công việc dưới hạ giới, các
quan quân này sẽ quay về trời để bàn giao mọi việc. Và sang năm mới, Thiên
đình sẽ thay toàn bộ đội quan quân khác mà đứng đầu là một vị có chức quyền
và vị trí như quan toàn quyền.Việc bày biệnmâm cỗ cúng ngoài trời theo các
cụ hình dung là để quan quân “tiện đường” ghé vào thưởng thức chút đồ ăn
thức uống trong lúc quân đi, quân về tấp nập. Bàn giao việc cũ, tiếp quản việc
mới diễn ra nhanh chóng và gấp rút, chính vì vậy các quan không thể vào nhà
mỗi người dân để “nhâm nhi” và “thưởng thức” hương vị của các món ăn do
gia chủ chế biến. Thậm chí có
những vị chỉ đi ngang qua và chứng kiến tấm lòng thành của chủ nhà. Vào
những giờ phút giao thừa gần kề, mọi nhà chuẩn bị sắp lễ đưa ra ngoài trời để
cúng. Mâm cỗ đầy đặn và sinh động với rất nhiều màu sắc của đồ ăn thức uống
như đĩa xôi, con gà luộc, hoa quả, bánh kẹo… Và hơn lúc nào trong giờ phút ấy
để người dân bày tỏ lòng thành kính, sự biết ơn và ước nguyện về một năm mới
sẽ tốt đẹp, may mắn. Với mâm cỗ cúng giao thừa ngoài trời số lượng và chất
lượng cũng phụ thuộc vào từng vùng miền khác nhau, vào sự giàu có, sung túc
hay khó khăn của mỗi gia đình. Những nhà khá giả sẽ sắm sửa mâm cỗ cúng đầy
đủ với các lễ vật, món ngon, sơn hào hải vị… để tiếp đón các vị quan thần và
mong muốn sẽ có một cuộc sống giàu có hơn, phú quý hơn. các gia đình cơ hàn,
vất vả quanh năm ruộng vườn, đồng áng thì chút “lễ mọn” như cây nhà lá vườn
cũng là để gửi gắm cả tấm chân tình, sự tôn kính và ước nguyện cho năm mới
với những điều may mắn, sức khỏe đến với mọi thành viên trong gia đình.
Cuộc sống ngày nay có nhiều thay đổi nhưng lễ cúng giao thừa ngoài
trời từ thôn quê đến thành thị vẫn được lưu giữ. Không chỉ là vấn
đề tâm linh mà đó còn là nét đẹp trong văn hóa cội nguồn dântộc.

2.2.2 Cúng trong nhà

Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao
thừa vừa tới, nhằm cầu xin Tổ tiên phù hộ độ trì cho gia đình mình gặp những
điều tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn ngày
Tết được chế biến tinh khiết, trang nghiêm.
Cỗ mặn gồm: bánh chưng, giò- chả, xôi đậu xanh, thịt gà, các món mặn
khác tùy nhu cầu gia đình.
Cỗ ngọt gồm bánh kẹo, mứt tết, các loại đồ uống
Khi cúng Giao thừa trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình đứng
trang nghiêm trước bàn thờ, khấn tổ tiên để xin được các cụ phù hộ độ trì trong
nhà mới, cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để
mời tiền nhân về ăn Tết cùng với con cháu hậu thế, các gia chủ khấn Thổ Công,
tức là vị thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ
Công ở bên trái) để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. . Sau khi cúng xong, xem
như Tết thực sự đã đến với gia đình.

2.3 Những ngày đầu năm


2.3.1 Xông đất đầu năm
Xông đất: Miền Bắc gọi là “xông
đất”, nhưng miền Trung dùng đúng
tên cổ tục này là “đạp đất”. Người Việt
quan niệm ngày mồng Một Tết, nếu
mọi việc xảy ra suôn sẻ, may mắn thì
cả năm cũng sẽ được tốt lành thuận
lợi.
Theo truyền thống, chủ nhà sẽ
chọn một người làm “nghi lễ” bước
vào nhà mình đầu tiên trong năm mới,
vào đêm giao thừa hoặc sáng mùng 1
Tết. Đó phải là phải là tuổi “tam hợp” với xung”.
chủ nhà, đặc biệt tránh tuổi “tứ hành
20
Phong tục xem tuổi xông đất và hướng xuất hành đầu năm xuất phát từ
mong muốn của mọi người, trong năm mới gặp nhiều may mắn hạnh phúc,
tránh được những điều xui xẻo.

Điều quan trọng nhất khi chọn người xông nhà đầu năm là người vui
vẻ, rộng rãi, hạnh phúc thì gia đình được họ “xông” sẽ luôn may mắn, sung
túc trong năm mới.
Còn nếu không, kể cả có hợp tuổi, nhưng khó tính thì chưa chắc năm
mới đã gặp may. Chọn người thân nào trong nhà ngoan ngoãn, hiền lành, làm
ăn tốt cũng là giải pháp.

Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan
trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con
hay láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang
thăm.

Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút
chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi
chảy thông suốt.

Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người
được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong
suốt năm tới.

Thời xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt vía xông đất ngày đầu năm. Kẻ
làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.
Người xông đất phải là đàn ông trụ cột trong gia đình. Đối với người
dân lao động thì đơn giản hơn nhiều: Người được chọn xông đất phải khoẻ
mạnh, tốt tính, và gia cảnh khấm khá, hoà thuận.

2.3.2 Xuất hành- hái lộc- xin quẻ

Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực
hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia
đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo, giờ Hoàng đạo
và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỷ thần

21
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt
còn có tục bẻ lấy
một “cành lộc” để
mang về nhà lấy
may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”.Cành
lộc là một cành đa nhỏ hay càng đề,
cành si… là những loại cây quanh năm
tươi tốt và nảy lộc.

Tục hái lộc ở


các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút
lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới.
Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ.

. Đi chùa đầu năm

Rủ nhau đến chùa, miếu… xin lộc ngay sau thời khắc giao thừa là một
truyền thống đẹp của người Việt. Người xuất hành thường chọn hướng và giờ
cẩn thận.

Theo quan niệm của người xưa, giờ lúc ra đi phải được giờ Hoàng đạo, nếu
hợp với tuổi của người xuất hành thì càng tốt, không được kỵ, không được
khắc. Nếu chẳng may kỵ hay khắc, có thể còn gặp xui.

Mọi người sau khi xuất hành và hái lộc đầu năm để “triệu điềm may
mắn” đầu năm xong, mới thực hiện đến các việc khác như đi trực cơ quan, đi
thăm bà con họ hàng hai bên nội ngoại…

Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng v.v. Lời
chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước
muốn đều thành công…

22
Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi”
hay “của đi thay.

2.3.3 Chúc Tết

Sáng mồng Một Tết, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ tiên và
chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi
người tăng lên một tuổi, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu "chúc
thọ" ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày
tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là tăng thêm một tuổi), trong ba ngày Tết,
những thân bằng quyến thuộc hoặc những người phải chịu ơn người khác
thường phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ tiên
của gia chủ.

2.3.4 Lì xì

Ngoài những lời chúc Tết


thông thường, thì người Việt Nam
còn có phong tục đẹp xưa nay,
đó là mừng tuổi, mừng tuổi bằng
lời nói và mừng tuổi bằng hiện
vật, mà cụ thể là tiền gọi là tiền
mừng tuổi. Không ai mừng tuổi
bằng hiện vật cồng kềnh khó
mang như là mừng đám cưới, và
nếu chỉ mừng tuổi bằng lời nói
thôi cũng không hoàn toàn là
mừng tuổi. Trước hết mừng tuổi chủ yếu lànhững người thân nói với
nhau, trong gia đình thì con cháu mừng tuổi ông bà cao niên, rồi người cao
niên lại mừng tuổi người dưới, mà ưu tiên nhất là những người bé tức tuổi
thiếu niên và nhi đồng, với những lời tốt đẹp như hay ăn chóng lớn, học hành
tấn tới, khỏe mạnh…
Tiền mừng tuổi không bao giờ là số tiền lớn có mệnh giá quá to, mà
chỉ là những tờ bạc lẻ, mệnh giá thấp.
Tục lệ cho tiền vào phong bao đỏ là lì xì của người Trung Quốc, người Hoa
kiều lan truyền sang người Việt Nam. Các cụ già mừng tuổi cho các con cháu
thường là dùng những tờ giấy bạc thật mới, chưa có

23
nếp gấp nào, và gồm nhiều loại tiền có mệnh giá khác nhau để ngụ ý rằng sang
năm mới, tuổi mới sẽ có nhiều loại tiền như thế trong cuộc sống. Ông bà cao
niên được mời ngồi lên chỗ trang trọng nhất trong nhà để các con cháu quây
quần xung quanh mừng năm mới và mừng tuổi các cụ. Liền ngay sau đó là ông
bà mừng tuổi lại cho con cháu, vừa là lời chúc Tết vừa trao tiền mừng tuổi.
Khách đến xông nhà chúc Tết cũng thường chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi
cho con chủ nhà và chủ nhà cũng đáp lễ, mừng tuổi cho con nhỏ của khách đi
theo.

2.3.5 Thăm viếng


Tục thăm viếng: là lúc chủ nhà tiếp đón bạn bè quyến thuộc đến thăm,
và cũng đi thăm trả lễ. Thông thường ngày mùng một được dành để chúc thọ
những bậc trưởng thượng, họ hàng. Ngày mùng 2 dành cho thầy cô giáo, ngày
mùng 3 là để thăm hỏi vui chơi với bạn bè.
Thăm viếng họ hàng là để gắn kết tình cảm gia đình họ hàng. Lời chúc
tết thường là sức khỏe, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn
đều thành công Những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau tai qua nạn
khỏi hay của đi thay người nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc,
hướng về sự tốt lành.
Đến thăm những người hàng xóm của mình, những gia đình sống gần
với gia đình mình, chúc họ những câu tốt lành đầu năm mới. Những chuyến
thăm hỏi này giúp gắn kết mọi người với nhau, xóa hết những khúc mắc của
năm cũ, vui vẻ đón chào năm mới.
Đến thăm những người bạn bè, đồng nghiệp, những người thân thiết với mình
để chúc họ những câu tốt lành, giúp tình cảm bạn bè gần gũi hơn.
3. Ẩm thực ngày tết.
Thành ngữ Việt Nam có câu Đói giỗ cha, no ba ngày Tết. Tết đến, dù nghèo
khó đến đâu thì người ta cũng cố vay mượn, xoay xở để có đủ ăn trong ba ngày
Tết. Hơn thế nữa, dù có đói khát quanh năm thì đến Tết, mọi người mà nhất là
trẻ em thường được ăn uống no đủ. Bữa ăn ngày Tết thường có nhiều món, đủ
chất hơn và sang trọng hơn bữa ăn ngày thường. Vì vậy mà người ta cũng
thường gọi là "ăn Tết". Ngoài cơm, ngày Tết còn có nhiều món ngon khác.

3.1 Bánh truyền thống:

Bánh chưng, bánh dày, bánh tét Đây là các gấc,xôi đỗ, thịt gà, thịt đông, món xào, giò
loại bánh đặc trưng cho phong tục ăn uống lụa, giò mỡ, nộm, dưa hành muối...
ngày Tết ở Việt Nam. Bánh chưng và bánh
dày còn được gắn với các sự tích cổ của
các vua Hùng, tổ tiên của người Việt. 3.3 Trái Cây

3.2 Cỗ Tết:

Cỗ Tết: dịp Tết người Việt .


thường tổ chức ăn uống lớn, gọi là ăn cỗ.
Các món cỗ trong nhiều gia đình có thể có Bánh chưng
bóng bì, canh
măng, chân giò có nấm
hương, miến nấu lòng gà, nem rán, xôi
Cỗ tết

Trái cây, mâm ngũ quả, và đặc biệt là dưa hấu đỏ không thể thiếu trong
những gia đình miền Nam. Dưa hấu được chưng cúng nơi bàn thờ Tổ tiên, bên
cạnh các loại mứt, mâm ngũ quả, bánh kẹo..., và nhiều quả dưa còn được gắn
thêm chữ Phước - Lộc - Thọ. Sáng mồng một Tết,
người nhà của người bổ quả dưa để bói cầu may và lấy hên xui

3.4 Mứt:
Mứt Tết và các loại bánh kẹo
khác để thờ cúng, sau đó dọn ra để
đãi khách. Mứt có rất nhiều loại như:
mứt gừng, mứt bí, mứt cà chua, mứt
táo, mứt dừa, mứt quất, mứt
sầu riêng, mứt mít, mứt khoai, mứt
hạt sen, mứt chà-là, mứt lạc, mứt me

3.5 Bánh kẹo:

25
Kẹo bánh thì đa dạng hơn như: Kẹo bột, kẹo dồi, kẹo vừng (mè), kẹo
thèo lèo, kẹo dừa, kẹo cau, kẹo đậu phộng (kẹo cu-đơ), bánh chè lam Ngoài ra,
Tết còn có hạt dưa, hạt bí, hạt hướng dương, hạt điều, hạt dẻ rang.
3.6 Thức uống:
Phổ biến nhất vẫn là rượu. Các loại rượu truyền thống của dân tộc như
rượu nếp thơm,nếp cái hoa vàng (người Kinh), nếp nương (người Thái), nếp
cẩm (người Mường), rượu San lùng, rượu ngô (người H'Mông, người Dao),
rượu Mẫu sơn (người Tày, người Nùng), rượu Bàu đá (Trung bộ), rượu đế (Nam
Bộ) thường được dùng. Sau bữa ăn, người ta thường dùng trà xanh. Ngày nay
còn có thêm các loại rượu của phương Tây, bia và các loại nước ngọt.
3.7 Thực Phẩm Khác

Ngoài ra, các gia đình miền Nam thường có thêm nồi thịt kho nước dừa
(thịt kho rệu) nồi khổ qua hầm và nem bì, dưa giá miền Nam, củ kiệu ngâm, để
ăn mấy ngày tết. Ngày trước miền Bắc có chè kho ngày Tết, hiện nay ít được
biết đến, cơm rượu và thịt đông, dưa hành. Miền Trung có dưa món và món tré,
giống giò thủ của miền Bắc nhưng nhiều vị củ riềng, thịt chua và tai heo.
4. Lễ Hội Ngày Tết
4.1 Lễ Hội Truyền Thống

Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền đấu vật,
đánh còn, múa lân, múa rồng, thi thả chim bồ câu... tùy theo bản sắc văn hóa
của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những phần "lễ" và
phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.

Múa lân Đua thuyền

26
4.2 Lễ Hội Ngày Nay Hoàn Kiếm để trang
Từ năm 2004, hoàng hoa cho khách thưởng
tại Thành phố Hồ Chí
Minh có Đường hoa
Nguyễn Huệ và Đường sách
Tết tại phường Bến Nghé,
Quận 1 và Hội hoa Xuân
thường niên
tại công viên Tao Đàn và từ
năm 2009, tại Hà
Nội có Lễ hội phố hoa Hà Nội
tại phường Tràng
Tiền và Lý Thái Tổ thuộc quận

ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu.Từ năm 2007,
tại phường 7 thuộc địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa
Hùng Vương tổ chức hàng năm. Ngoài ra còn Đường hoa Bạch Đằng tại Đà
Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tại Biên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình
Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô
thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.3 Lễ Hội Đặc Trưng Riêng Ở Các Vùng Miền

Tại Hà Nội, vào ngày


mùng 5 Tết, lễ hội Quang
Trung được tổ chức ở gò
Đống Đa, thuộc địa phận
phường Quang Trung,
quận Đống Đa, và lễ
hội Cổ Loa tại xã Cổ
Loa thuộc huyện Đông
Anh, lễ hội chùa Hương tại
xã Hương Sơn, huyện Mỹ
Đức ngày mùng 4.

Lễ hội Quang Trung

27

Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt
Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ
năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm 2004 lễ
hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.

Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ
Chuộng tổ chức vào mùng 6 tết, người dân đến mua bán một số sản vật nông
nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.

5. Tín Ngưỡng Ngày Tết


5.1 Điềm lành

Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy
đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông
hoa 6 cánh.

Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.

Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa
và có hình dáng như bông hồng thì sẽ có nhiều phúc lộc
Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì nằm đó sẽ có nhiều lộc.
Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín, quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt
cả năm

28
5.2 Kiêng cữ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều
tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người,
có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành
trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
5.2.1 Miền Bắc

Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày
mở đầu cho vận hội hanh thông của cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia
đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy
có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết,
mừng tuổi bà con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết
và an ủi gia đình bất hạnh. Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30
tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong
ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Trường
hợp chết đúng ngày mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị
mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.

Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì
quan niệm lửa là đỏ là may mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một
Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không may như làm ăn thua lỗ,
trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió...

Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu
chúc tiền vô như nước, nếu cho nước thì coi như mất lộc.

Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung
Quốc, nếu quét nhà thì năm đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác
trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.

Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay
mượn hay trả nợ, cho vay. Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ
đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm chúng ta rơi vào cảnh
túng thiếu cả năm, không may mắn.

Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... Nếu ăn
những thứ này vào dịp đầu năm hay đầu tháng sẽ "xúi quẩy".
29
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được
đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui
xảy ra với gia đình.

Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc
xấu xa trong dịp Tết.

Kiêng mặc quần áo màu trắng và đen: Theo quan niệm của người xưa,
màu trắng và đen là màu của tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì
phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ và thu hút sự chú ý, tạo nên sự
phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...

Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác.

Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời
vì sợ sẽ mang đến điều không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong
tục xông đất, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày mùng một Tết chính là
người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả
năm.

Ngày mùng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt
thường tin rằng ngày này không thích hợp cho xuất hành.

5.2.2 Miền Trung

Kiêng ăn các món chế biến từ tôm vì sợ năm mới đi giật lùi như tôm.

Kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt bởi đầu năm mà ăn món này thì sẽ xúi
quẩy.

Một số vùng kiêng mặc đồ trắng suốt tháng Giêng vì đó là biểu


tượng của tang tóc.

5.2.3 Miền Nam

Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm vì đó là tượng trưng cho
việc thất bát, mất mùa năm tới. Người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ
ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.

Cũng như trên, kiêng kỵ để thùng gạo, hũ đường muối,... thiếu hụt vì sợ
cả năm đều bị thiếu thốn.

30
Gia chủ hễ có khách đến là dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không
được từ chối bữa ăn, dù no cũng phải nhấm nháp chút ít.

Kiêng các việc làm đổ bể hư hỏng, hoặc tranh cãi to tiếng lẫn nhau.

Thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa
trong dịp Tết.

Kiêng cữ quét nhà ngày đầu năm vì quan niệm quét tiền tài tốt đẹp ra
ngoài. Ngoài ra người dân sẽ tắm gội cơ thể trước ngày đầu năm để tránh phải
gột rửa may mắn trong năm mới.

III. TỔNG KẾT

Tết là phong tục được truyền từ đời này sang đời khác, trải qua thời
gian Tết càng khẳng định vai trò không thể thiếu đối với người Việt, với
những đặc trưng những phong tục phong phú và đa dạng, phù hợp với nước ta,
Tết mang một ý nghĩa to lớn đối với đời sống cộng đồng, góp phần phong phú
thêm phong tục tập quán quê hương.

You might also like