You are on page 1of 28

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA NGỮ VĂN ANH

TIỂU LUẬN
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

TÊN ĐỀ TÀI:

Văn hóa vật chất của vùng văn hóa Việt Bắc

Giảng viên: TS LÊ THỊ NGỌC ĐIỆP


Nhóm sinh viên số 3:
1. Nguyễn Đăng Khoa - 2057011010
2. Chế Lan Ngọc Mi – 2057011014
3. Lê Thái Quyên – 2057011021
4. Bành Nguyệt Minh Thư – 2057011027
5. Lê Huỳnh Minh Thư – 2057011028
6. Trần Thị Tuyết Trinh – 2057011031
7. Cao Minh Hạnh – 2057011040
8. Nguyễn Thị Hải Hậu – 2057011041

TP. HỒ CHÍ MINH 2021

1
--------------

2
BẢN THUYẾT TRÌNH

3
4
5
6
7
8
9
10
11
TIỂU LUẬN
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

TÊN ĐỀ TÀI:

Văn hóa vật chất của vùng văn hóa Việt Bắc

12
MỤC LỤC

VĂN HÓA VẬT CHẤT VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC


TIỂU LUẬN .........................................................................................................................11

LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................................14

CHƯƠNG 1: VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC……..........15

1.1.Văn hóa ẩm thực Cao Bằng.………………………………………………...…15

1.2.Văn hóa ẩm thực Bắc Kạn.…………………………………………………….16

1.3.Văn hóa ẩm thực Thái Nguyên...…………………………...……………..…..16

CHƯƠNG 2: VĂN HÓA NHÀ Ở………………………………………………………...17

2.1. Nhà sàn……………………………………………………………………...….17

2.1.1. Vị trí………………………………………………………………...…..17

2.1.2. Phân loại………………………………………………………………..17

2.1.3. Kết cấu…………………………………………………………...……..17

2.1.4. Đặc điểm: ………………………………………………………………18

2.2. Nhà đất (nhà trình tường) ……………………………………………………19

2.2.1. Kết cấu………………………………………………………………….19

2.2.2. Đặc điểm………………………………………………………………..19

2.2.3. Ưu điểm………………………………………………………………...19

2.3.Nhà nửa sàn, nửa đất…………………………………………………………..19

2.3.1. Vị trí…………………………………………………………………….20

2.3.2. Kết cấu………………………………………………………………….20

2.3.3. Đặc điểm………………………………………………………………..20

CHƯƠNG 3: VĂN HÓA MẶC…………………………………………………………...21

3.1. Trang phục người Tày……………………………………………………………...21

3.1.2. Trang phục nam giới ………………………………………………….21

3.1.3. Trang phục nữ giới…………………………………………………….21

13
3.2. Trang phục người Nùng……………………………………………………………...22

3.2.1. Trang phục nam giới………………………………………………..…22

3.2.2 Trang phục nữ giới…………………………………………………..…22

3.2.3. Vài nét ý nghĩa………………………………………………………....23

3.3.Trang phục người H’Mông…………………………………………………………...23

3.3.1. H’mông Trắng……………………………………………………....…23

3.3.2. H’mông Hoa……………………………………………………………24

3.3.3. H’mông Đen …………………………………………………………...24

3.3.4. H’mông Xanh ………………………………………………………….24

3.3.5. Vài nét ý nghĩa…………………………………………………………24

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………...26

BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC NHÓM………………………………………………………...27

BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC……………………………………………………...29

14
LỜI MỞ DẦU

Cứ mỗi độ thu về, nắng ngả vàng như mật ong trải khắp núi rừng, trong lòng người Việt
Bắc lại rộn ràng nhớ mùa thu lịch sử năm xưa. Những khi nói về Viêt Bắc, là khi đó
người Việt nhớ về vùng đất của Cái nôi Cách Mạng, Thủ đô gió ngàn. Đó là vùng đất anh
hùng đã “ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” (Tố Hữu) trong suốt những tháng ngày
kháng chiến.

Hiện nay, nói tới Việt Bắc là nói tới địa bàn của sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang. Tuy nhiên, ranh giới vùng văn hóa Việt
Bắc sẽ rộng hơn địa bàn này. Nghĩa là, nó bao gồm cả phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ,
Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Trên bản đồ, vùng đất này nằm ở những vĩ độ
cao nhất, trong các vĩ tuyến từ 21 độ đến 23 độ vĩ bắc.

Chủ thể văn hóa chủ yếu của vùng văn hóa Việt Bắc là người Tày, người Nùng; Ngoài ra
còn có một số dân tộc ít người khác như Dao, H’mông, LôLô, Sán chay.

Văn hóa vật chất tại đây đã bị ảnh hưởng ít nhiều bởi vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và
dân cư xã hội. Có thể thấy văn hóa vật chất được thể hiện rõ nét ở ba phương diện:
- Ẩm thực
- Nhà ở
- Trang phục

15
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA VÙNG VĂN HÓA VIỆT BẮC
Khi nói về Việt Bắc chắc có lẽ ai chúng ta cũng sẽ nhớ ngay đến bài thơ của Tố
Hữu :
"...Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay..."
Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị
của cư dân Việt Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của cư dân Tày - Nùng,
một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kỹ thuật chế biến của các tộc lân cận như
Hoa, Việt v.v.... Họ chế biến ngô một cách tinh tế, ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với
cơm, làm các loại bánh. Thức ăn chính là gạo tẻ, Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp
dẫn. Các loại xôi màu hấp dẫn thường có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày - Nùng.
Thịt lợn, thịt vịt quay thường được làm cầu kỳ như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất
Khê.
Có thể nói bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái. Tất cả các
thành viên trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được ưu ái, nể trọng.
1.1. Văn hóa ẩm thực Cao Bằng:
Bánh gai Cao Bằng gắn liền với một truyền thuyết. Người dân nơi đây vẫn kể rằng
vào thời vua Lý Thái Tông giặc Tống sang xâm lược nước ta. Đồng bào làm bánh gai cho
các chiến binh đem theo làm lương khô ra trận. Bánh được xâu thành từng cặp để đeo bên
người cho tiện cho nên người Tày, Nùng gọi là pẻng tải (bánh đeo).
Gạo để làm bánh phải là loại nếp ngon, không lẫn tẻ, có vậy bánh mới mềm và dai.
Lá gai đã được hái về từ trước, tước bỏ gân lá, phơi khô. Lá khô đem ninh, khi đun
bỏ thêm chút vôi tôi cho mau nhừ. Xong, rửa sạch, vắt khô, thái mịn. Đường phên đun
cho sôi chảy rồi trộn với lá gai thành một thứ mật sền sệt. Người ta nhào mật này với bột
cho đều rồi đem giã trong cối đá cho thật nhuyễn.
Bột giã xong có màu xanh đen, mịn màng, dẻo quanh Bánh gai gói bằng lá chuối,
hình dẹt. Nhân bánh gai được làm bằng lạc rang giã nhỏ hoặc đỗ xanh trộn đường. Bánh
hấp trong chõ như đồ xôi. Từ lúc nước sôi cho đến khi bánh chín, chừng tàn một tuần
hương là được.

16
Khi ăn, không thể lột bỏ lá bánh một cách vội vàng được. Phải thong thả tước lá
thành từng sợi để bánh khỏi dính theo lá. Chiếc bánh bóc ra đen nhánh, mịn màng. Bánh
có vị ngọt sắc của đường, vị dẻo thơm của nếp và lá gai, vị bùi của nhân đậu. Ăn không
ngấy.
1.2. Văn hóa ẩm thực Bắc Kạn:
Cơm lam – Nét văn hoá ẩm thực Bắc Kạn. Cơm lam là đặc trưng của các dân tộc
vùng Tây Bắc Việt Nam, Tây Nguyên và một số dân tộc tại Lào. Và ở Bắc Kạn, c ơm lam
tượng trưng cho một nét văn hoá ẩm thực tinh tế của người dân tại đây.
Nguyên liệu làm cơm lam bao gồm gạo, ống tre, lá chuối. Ngoài ra có thể còn có
dừa nạo, nước cốt dừa, vừng trộn lẫn gạo trước khi nướng. . Ống tre dùng nấu cơm lam
phải còn tươi để khi cơm chín, hạt cơm quyện thêm một chút vị ngọt và mùi đặc trưng
của tre.
Cơm lam được dọn ra ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn rừng nướng . Tuy nhiên,
cơm lam ngon nhất khi ăn với muối vừng (mè).
Cái ngon của cơm lam là giữ được hầu như trọn vẹn hương vị tự nhiên không chỉ
làm ngon miệng lúc đói mà còn thắm đượm tình nghĩa anh em
1.3. Văn hóa ẩm thực Thái Nguyên
Xôi ngũ sắc Định Hóa. Năm màu của xôi là tượng trưng cho ngũ hành. Màu vàng
là màu của Thổ, màu xanh là màu của Mộc, đỏ là màu của Hỏa, trắng là màu của Kim,
tím thẫm là màu của Thủy.
Nguyên liệu để nấu xôi phải là gạo nếp Định Hóa, trong, hạt mẩy, tròn một loại
nếp thơm ngon và nổi tiếng nhất vùng.
Xôi chín được đơm vào đĩa hoặc trình bày theo từng ý tưởng khác nhau với 5 màu
xanh - đỏ - tím - vàng - trắng. Năm màu được ghép trên một mâm xôi hình cánh hoa ban
thì tượng trưng cho thuyết âm dương Ngũ hành, đồng thời thể hiện khát vọng yêu
thương, tình yêu son sắt thuỷ chung, lòng yêu mẹ kính cha của đồng bào dân tộc Tày.

CHƯƠNG 2: VĂN HÓA NHÀ Ở

17
Người dân Việt Bắc, mà chủ yếu là người Tày và người Nùng có hai loại nhà
chính: nhà sàn và nhà đất. Trong đó nhà sàn phổ biến hơn hẳn. Ngoài ra, ở một số vùng
còn có loại nhà nửa sàn nửa đất, đây là một loại nhà đặc biệt, mang tính kế thừa của cả
nhà sàn lẫn nhà đất.
2.1 Nhà sàn:
Nhà sàn và không gian văn hóa nhà sàn không chỉ đơn thuần là nơi để ở với mục
đích che mưa che nắng, phòng chống thú dữ mà còn phản ánh khá toàn diện về đời sống
vật chất, tinh thần và văn hóa tâm linh của cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng nói riêng và
cư dân Việt Bắc nói chung, cùng những quan niệm nhân sinh của họ. Đây cũng chính là
loại hình nhà ở phổ biến nhất ở vùng văn hóa Việt Bắc.
2.1.1. Vị trí:
Nhà sàn thường được dựng: ở sườn đồi, ở khu vực có nhiều cây cối, vì theo kinh
nghiệm của đồng bào, nơi có nhiều cây cối thường không bị sạt lở đất.
Theo phong thuỷ của người Nùng, nhà ở phải hướng về hướng Nam, nơi có cảnh
trí thiên nhiên thoáng đãng, rộng rãi và nhà không nên có cửa trông ra núi non, sông ngòi
hay những bụi cây có hình thù kỳ lạ. Người Nùng cho rằng mỏm núi như hình mũi tên
hướng vào nhà thì mọi người hay gặp tai nạn, còn những bụi cây có hình thù của thú dữ
sẽ làm cho gia cầm chăn nuôi bị dịch bệnh, mất mát.
Người Nùng sống gần gũi với thiên nhiên và thích ở nơi rộng rãi, nên nhà sàn
được làm hoàn toàn bằng gỗ, tre nứa và xung quanh nhà thường có hàng rào, vườn rau.
2.1.2. Phân loại:
Có hai loại nhà sàn chính:
-Nhà sàn hai mái.
-Nhà sàn bốn mái. Đối với nhà bốn mái thì hai mái đầu luôn luôn thấp hơn hai mái
sau.
Mái nhà trước thường được lợp bằng lá cọ, sau này theo sự phát triển của thời đại
những lớp lá cọ dần được thay bằng mái ngói âm dương.
2.1.3. Kết cấu:
Nhà gồm: cửa chính và cửa phụ, cửa chính được đặt ở gian giữa nhà, cửa phụ là
cửa ra phía sau hoặc bên cạnh phía sau hông nhà. Đầu hồi trước hoặc sau ngôi nhà đều có
mặt sàn được làm bằng thân cây tre với chức năng chính dùng để phơi thóc, ngô…

18
Bên trong ngôi nhà sàn được thiết kế rất chặt chẽ, thường được chia làm 3 gian.
Trong đó, gian chính giữa là gian trang trọng nhất dùng để đặt bàn thờ cúng tổ tiên và
tiếp khách; hai bên là phòng ngủ của gia đình. Bếp được đặt ở phần cuối gian giữa của
ngôi nhà, đây là nơi để nấu ăn và mọi người sum họp bên bếp lửa. Phía trên bếp lửa là
gác bếp, thường dùng làm kho chứa đồ cũng như tận dụng sức nóng của lửa để bảo quản
ngô, lạc, khoai… Còn bên dưới sàn nhà, người dân thường để nông cụ
Kết cấu chính của ngôi nhà gồm có 36 cột, trong đó, 28 cột chính và 8 cột phụ,
đây là bộ khung quyết định sự vững chãi và tạo nên hình dáng của ngôi nhà, cột có trụ
vững trên mặt đất làm điểm tựa cho ngôi nhà, xuyên và kèo đều được gắn vào các lỗ đục
trên cột.
Kèo tạo nên phần chóp nhọn và sườn của mái nhà; xuyên có tác dụng liên kết các
cây cột với nhau, góp phần tạo nên bộ khung nhà. Đặc biệt, mỗi ngôi nhà đều có góc
khóa khung nhà để ngôi nhà không bị xê dịch. Ngoài ra, mặt trước ngôi nhà thường được
bưng bằng ván, còn hai bên đầu hồi và mặt đằng sau trát vách đất trộn rơm, sàn ngôi nhà
thường làm bằng gỗ.
2.1.4. Đặc điểm:
Đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy là chiếc cầu thang được đặt ở đầu hồi bên trái,
được làm bằng gỗ, rộng trên 70cm, dài trên 2m. Bậc thang lên xuống bao giờ cũng có số
lẻ 5 hoặc 7.
Sở dĩ có quy luật chẵn lẻ như thế bởi vì theo ông Lương Văn Thiết, nhà nghiên
cứu văn hóa dân tộc, công tác tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam, cho biết: "Nhà sàn của
người Nùng khá to, rộng, thường có 6-8 cột, nhà có nhiều gian thường được chia theo số
lẻ có thể là 5, 7 gian hay 9 gian, tùy theo quy mô gia đình. Nhưng số gian bao giờ cũng
là số lẻ vì người Nùng cho rằng nhà có số gian lẻ là nhà cho người sống, còn số chẵn chỉ
khi xây nhà mồ cho người chết và số bậc cầu thang lên nhà sàn cũng phải là số lẻ 7-9
hay 11 bậc".
Ngoài ra, với kỹ thuật của những người thợ tài hoa, ngôi nhà sàn truyền thống của
người Việt Bắc ít dùng đến đinh sắt mà chỉ dùng mộc gỗ nối kèo cột tạo thành ngôi nhà.

2.2 Nhà đất (nhà trình tường):

19
Mát mẻ vào mùa hạ và ấm áp vào mùa đông là những ưu điểm nổi bật mà nhà
trình tường mang lại. Đây là một kiến trúc nhà ở rất đỗi quen thuộc với đồng bào miền
núi. Nhà trình tường là công trình kiến trúc rất phổ biến ở miền núi phía Bắc Việt Nam.
Những ngôi nhà này không những là nơi trú ngụ của một gia đình mà còn tạo nét
độc đáo cho đồng bào dân tộc.
2.2.1. Kết cấu:
Nhà trình tường thường có thiết kế 3 gian: Một cửa chính giữa nhà, một cửa phụ
đầu hồi bên trái, hoặc bên phải để ra chuồng trâu, chuồng lợn ở đằng sau.
Gian chính để bàn uống nước và sinh hoạt chung cho gia đinh. Hai gian bên cạnh
bố trí giường ngủ cho các thành viên. Mỗi nhà dựng một cầu thang bằng gỗ đặt ở góc
tường dẫn lên tầng trên.
Chính giữa gác nhìn ra cửa sổ là bàn thờ tổ tiên và chỉ những người đàn ông mới
ngủ lại ở đây. Ngoài ra, còn có thêm 2 cửa sổ bên trái, bên phải lối ra vào, 1 cửa sổ ở gian
bếp.
Kề ngay tường rào, trước cửa nhà là lối vào với cánh cổng gỗ trên có mái che.
2.2.2. Đặc điểm:
Đây là những ngôi nhà được xây dựng bằng đất. Trong đất phải có sỏi nhỏ để tạo
độ cứng với mục đích chịu các tác động từ bên ngoài. Và loại đất này có độ dẻo dai nhất
định để tạo sự kết dính lớn.
Ngoài cửa chính lúc nào cũng treo một tấm vải đỏ, nhà còn có thêm cửa phụ và
cửa sổ thoáng khí làm bằng gỗ hoặc thân trúc, mai già. Cửa bao giờ cũng mở vào trong
chứ không mở ra ngoài. Chếch với cửa chính và tuỳ thuộc vào hướng gió đặt làm chuồng
gia súc. Tất cả đều được gói gọn trong phạm vị hàng rào đá.
Điều tài tình là chẳng gọt giũa hay cần một chất kết dính nào mà viên nào viên ấy
lèn lên nhau khít đều chằn chặn, tạo nên bức tường kiên cố, vững chãi. Tường rào đá
dựng chỉ cao nửa người, chủ yếu là để phân tách đất nhà với vùng đất đồi nương phía bên
ngoài.
2.2.3. Ưu điểm:
Tiết kiệm phần lớn chi phí.
Kiên cố, vững chắc, giúp người dân Việt Bắc chống chọi với điều kiện khắc nghiệt
của tự nhiên như: thú dữ, thiên tai.
2.3. Nhà nửa sàn, nửa đất:

20
2.3.1. Vị trí:
Nhà thường được làm trên nền đất dốc.
2.3.2. Kết cấu:
Thuộc dạng nhà cột ngoãm, 3 gian nhưng cũng đạt tới trình độ vì ngoãm hay còn
gọi là vì kèo. Nhà có 12 cột, 4 vì ngoãm, 2 mái. Mỗi vì ngoãm có 3 cột (1 cột cái ở giữa,
2 cột quân ở 2 bên), 1 quá giang và 1 bộ kèo đơn. Loại nhà cột ngoãm có đặc điểm là tất
cả các cột đều chôn sâu xuống đất.
Trong mỗi vì ngoãm 2 đầu quá giang được gác lên ngoãm ở đầu của 2 cột quân rồi
buộc chắc chắn bằng dây rừng, tiếp theo tại chỗ ngoãm của cột quân người ta buộc kèo.
Riêng cột nóc còn được buộc chặt với quá giang tại điểm giao giữa cột đó với quá giang.
Nhà nửa sàn, nửa đất chia theo chiều dọc nửa sau là nền đất, nửa trước là sàn. Nền
đất: gian bên phải có chạn bát, đặt bếp, cối xay, cối giã và bàn thờ. Kề với gian này ở
phía ngoài còn có chuồng gà, gian bên trái đặt bàn thờ nhìn ra cửa giữa. Mùa rét gian này
còn có bếp khách. Nửa nhà trước là nền sàn, phần này dùng làm nơi ngủ của các thành
viên trong gia đình nó được chia thành các buồng nhỏ.
Có gian bên phải là buồng ngủ, kề với gian này là máng nước và cũng là buồng
tắm, gian bên trái là buồng ngủ của khách và có vách ngăn với lối xuống sàn. Phần sàn có
một cửa lớn đối diện với bàn thờ đặt ở phần nền đất, cửa này gọi là cửa ma. Lợn để cúng
Bàn vương được nuôi ở gầm sàn dưới cửa này
2.3.3. Đặc điểm:
Nhà nửa sàn nửa đất do cấu tạo của sàn thấp nên gầm sàn chỉ nhốt lợn, gà, còn
trâu, bò có chuồng riêng. Trong ngôi nhà có một gian đặc biệt, gian này có vách ngăn đôi
theo chiều dọc và một đoạn vách ngăn ngắn với gian bên hai đoạn vách này được ráp vào
nhau tạo thành một góc nhỏ.
Góc này chính là nơi đặt bàn thờ. Người ở đây đã biết lợi dụng nền đất làm nền
bếp bảo đảm an toàn hơn, sử dụng phần sàn để nằm khỏi phải làm giường. Vì cuộc sống
du canh du cư mỗi lần di chuyển người ta không mang giường phản theo.

CHƯƠNG 3: VĂN HÓA MẶC

21
Càng nghiên cứu về Văn hóa trang phục tại Việt Bắc, càng thấy được tinh hoa của
cả một miền dân tộc. Được kết tinh bằng hơi thở của thời đại, mỗi nét áo là một ngăn tủ
chứa đựng văn hóa, linh hồn qua từng thời kỳ lẫn trong sự giao thoa với những nền văn
hóa khác của các dân tộc tại Việt Bắc.
3.1. Trang phục người Tày:
Đến với Trang phục của người Tày có tính thống nhất, được phân biệt theo giới
tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương.
3.1.2. Trang phục nam giới
Trang phục nam giới người Tày có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn
cũng may năm thân, cổ đứng. Quần (khóa) làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo,
cắt theo kiểu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng
không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài
Ngoài ra, họ còn có thêm áo 4 thân, đây là loại áo xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu
vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía trước. Đàn ông Tày còn mặc thêm loại áo
dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng.
Vào những ngày hội hè người ta mặc áo cánh trắng ở trong có lẽ vì vậy mà người
Tày còn được gọi là người áo trắng để phân biệt với người Nùng thường chỉ mặc áo
chàm.
Khăn đội đầu màu chàm quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
3.1.3. Trang phục nữ giới:
Trang phục nữ giới gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội
đầu, hài vải.
Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng những tấm vải chàm hay đũi dài khoảng hai sải tay
làm tăng thêm vẻ duyên dáng nhất là với thanh nữ. Cũng như nam giới, phụ nữ Tày
thường mặc thêm chiếc áo trắng ở bên trong vào những ngày lễ tết. Trước đây phụ nữ
Tày mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; nguyên tắc cắt may giống nam giới
nhưng kích thước có phần hẹp hơn
Khăn phụ nữ Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu
mỏ quạ của người Kinh.
Tôn lên vẻ đẹp của váy, áo của phụ nữ Tày còn nhờ vào sự độc đáo của những bộ
trang sức. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ bản như vòng cổ,
vòng tay, vòng chân, xà tích... Có nơi còn đeo túi vải, túi đựng trầu bên hông. Quan trọng

22
nhất là vòng cổ của người phụ nữ. Đó là một chiếc vòng bạc trắng to được đeo ở cổ, vòng
rộng xuống 1/4 ngực làm cho cơ thể cân đối.
3.2 Trang phục người Nùng:
Trang phục truyền thống của dân tộc Nùng rất đơn giản, đơn giản về cách may, về
thể loại, về màu sắc và cả về cách trang trí thêu thùa nhưng trong đó có sự hài hòa và đặc
sắc riêng biệt.
Thông thường, bộ trang phục của người Nùng gồm khăn đội đầu, quần áo, dây
lưng, tất cả được cắt khâu bằng sợi vải bông. Chính sự giống nhau về nguyên vật liệu,
công cụ và kỹ thuật dệt, kỹ thuật nhuộm màu chủ đạo trước kia là những thành tố quan
trọng tạo nên sự thống nhất về trang phục của người Nùng.
Về cơ bản trang phục truyền thống của người Nùng chỉ có sự khác nhau đôi chút
về tuổi tác, giới tính. Đồng bào không có quần áo riêng để mặc vào những dịp đặc biệt
như lễ tết, hội hè mà chỉ có một loại quần áo chung.
3.2.1. Trang phục nam giới:
Y phục nam giới tương đối giản dị về màu sắc, kiểu cách và không dùng hoa văn
trang trí /bao gồm áo cánh 4 thân và quần.
Áo cánh 4 thân được cắt may theo kiểu xẻ ngực, cổ tròn, không cầu vai nhưng có
một mảnh cải đệm quanh cổ hình lá sen rộng. Tà áo xẻ cao có hàng cúc vải kép; bên dưới
gần gấu áo có hai túi nhỏ, hình chữ nhật, không có nắp. Áo được khâu hơi bó vào người,
chiều dài áo chỉ qua cạp quần một chút.
Quần thường dài tới mắt cá chân được cắt theo kiểu quần đũng chéo hay còn được
gọi là kiểu quần chân què.
3.2.2 Trang phục nữ giới:
Về trang phục nữ giới bao gồm áo cánh tứ thân, áo năm thân, quần, thắt lưng và
khăn đội đầu. Màu sắc chủ đạo trên trang phục vẫn là màu chàm nhưng sắc độ đậm nhạt
và sự phối màu có khác nhau.
Áo của phụ nữ Nùng có cổ tròn, xẻ ngực, nẹp và gấu áo rộng, hai túi nhỏ ở vạt
trước, cài một hàng cúc vải ở nẹp áo. Hoa văn trên cổ áo là những họa tiết hình vuông,
hình quả trám, xếp thành hình tam giác liền kề nhau. Cổ áo trang trí bằng những mảnh
vải nhiều màu sáng nhưng màu chính vẫn là màu chàm, cài một hàng cúc bằng nút vải
bên nách phải. Áo nữ cũng được may xẻ tà ở hai bên sườn giống như áo nam.
Quần của phụ nữ Nùng phổ biến là quần lá tọa dài chấm gót chân.

23
Cùng với áo quần, phụ nữ Nùng thường hay đội khăn. Chiếc khăn đội đầu được
làm từ vải màu chàm có hình vuông rất cầu kỳ, tỉ mỉ. Khi dệt xong vải, người ta dùng
kim chỉ khéo léo đính kín từng đốm vải thành những hình tròn nhỏ như đầu đũa, đính
xong mới cho vào nhuộm chàm.
Nhuộm xong, các đụm chỉ được cắt bỏ, bên trong vẫn giữ nguyên màu trắng tạo
thành những đốm trắng điểm xuyết trên nền màu chàm trông rất sinh động, đẹp mắt.
3.2.3. Vài nét ý nghĩa:
Với người Nùng từ xa xưa, bạc trắng là một trang sức quan trọng trong đời sống.
Họ quan niệm những món đồ từ bạc đều mang lại bình an và may mắn cho người đeo.
Với họ, trang sức bạc là hồn cốt, là cội nguồn của dân tộc.
Trang sức bạc ở đây được chế tác theo cách thức truyền thống mà hiện nay chỉ còn
một số ít người còn giữ được cách thức chế tác đó.
Phụ nữ Nùng ưa chuộng đồ bạc hơn nam giới, nhìn số bạc đeo trên người thì cũng
có thể đoán điều kiện kinh tế cũng như sự khéo léo của một cô gái.
Khi muốn hỏi cưới một cô gái Nùng, nhà trai phải sắm một bộ trang sức bạc rất
cầu kỳ làm lễ vật, nhiều khi lên đến 2kg bạc sính lễ thì mới hỏi cưới được.
Trang sức cưới của cô dâu thể hiện mức độ giàu có và sung túc của nhà chồng. Cô
gái nào càng xinh đẹp, đảm đang thì lễ vật bằng bạc càng nhiều.
3.3. Trang phục người H’Mông:
H’mông là tộc người thiểu số tại Việt Nam có địa bàn cư trú khá rộng lớn, để nhận
biết người H’mông người ta thường nhìn vào trang phục mà họ sử dụng. Trang phục của
người H’mông không những đặc biệt so với những dân tộc khác mà chính trong nhóm
người của họ cũng có nhiều sự khác biệt.
Sự khác biệt trong tranh phục của người H’mông
Có bốn nhóm người dân tộc H'mông: H’mông trắng, H’mông Hoa, H’mông đen,
H’mông xanh. Dù là mang đặc trưng trang phục cổ truyền nhưng giữa các nhóm người
mông sẽ có sự khác nhau, họ làm như thế để dễ dàng nhận biết hơn:
3.3.1. H’mông Trắng:
Họ thường mang trang phục với váy trắng, vẫn là kiểu áo xẻ ngực và yếm lưng,
áo trắng có thêu thêm nhiều hoa văn khác nhau.
Đặc biệt là họ sẽ cạo tóc ở xung quanh chỉ để một phần tóc ở đỉnh đầu sau đó
dùng khăn vành rộng để quấn xung quanh.

24
3.3.2. H’mông Hoa:
Với người H’mông Hoa thì trang phục có phần đặc sắc mà nhiều màu hơn, váy
thường là váy màu chàm và ở gấu váy thường sẽ được thêu rất nhiều họa tiết. Họ mặc áo
xẻ nách, trên vai, ngực được cạp thêm một tấm vải màu và có thêu hình hoa văn ốc.
Họ sẽ không cạo tóc như người H’mông Trắng mà để tóc dài sau đó quấn quanh
đầu, thậm chí nhiều người còn quấn thêm cả tóc giả.
3.3.3. H’mông Đen
Họ không có nhiều đặc điểm riêng biệt nào, chủ yếu là sử dụng váy màu chàm và
mặc đúng như truyền thống của dân tộc.
3.3.4. H’mông Xanh
Nữ H’mông mặc váy hình ống , dưới gấu sẽ được thêu hoa văn hình chữ thập nhỏ
trong các hình vuông. Áo xẻ ngực thì sẽ xẻ thẳng về phía bên trái và cài một cúc lại, cảnh
tay được đắp thêm các mảnh vải màu đỏ và được thêu hoa văn.
Người H’mông Xanh trước khi lấy chồng họ được xõa tóc ngang vai còn khi lấy
chồng thì phải búi tóc lên đỉnh đầu.
3.3.5. Vài nét ý nghĩa:
Họ coi những màu sắc sặc sỡ (xanh, đỏ, tím, vàng) này sẽ mang đến may mắn, ấm
no, hạnh phúc. Qua đó, cũng thể hiện những khát vọng về một cuộc sống ngày càng tốt
đẹp hơn.
Họa tiết trong trang phục của người Mông chủ yếu là hoa văn hình xoắn ốc, trái
tim, hình vuông, chữ nhật, zích zắc và một số biểu tượng gắn liền với cuộc sống như:
Sấm chớp, dụng cụ lao động, con vật, các loài hoa… được thể hiện qua từng đường nét
uốn lượn trên thân áo, váy nhằm thể hiện sùng bái vạn vật bao quanh, mùa màng thuận
lợi, sung túc, ấm no, hạnh phúc.
Trước đây, đi trẩy hội, chơi Tết, người Mông thường nhìn các họa tiết trên trang
phục để biết được cuộc sống, cảm xúc hiện tại.
Nếu trên trang phục của phụ nữ đang mặc có thêu hình xoắn ốc là đang cô đơn cần
tìm bạn; nếu hình trái tim là đang có người yêu, còn 2 hình trái tim là họ đã lập gia đình,
4 trái tim là phụ nữ có đại gia đình sống hạnh phúc.
Ngoài ra có giải thích cho rằng, sở dĩ trang phục của người H’mông sặc sỡ và
được thêu hoa văn đẹp mắt như thế vì nam H’mông có quan niệm cưới vợ phải chọn

25
người khéo tay. Nên nữ giới ở đây thường tự thêu trang phục của họ một cách bắt mắt
nhất, để thể hiện hoa tay của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

26
 Hoàng Anh (22/06/2020). Cầu thang trong văn hóa truyền thống của người
Tày - Nùng, 10/04/2021 từ https://baotuyenquang.com.vn//dan-toc-mien-nui/cau-
thang-trong-van-hoa-truyen-thong-cua-nguoi-tay-nung-133635.htm
 Học 24. Bài 2: Vùng văn hóa Việt Bắc, 11/04/2021 từ https://hoc247.net/co-
so-van-hoa-vn/bai-2-vung-van-hoa-viet-bac-l8239.html#2
 https://backan.gov.vn/Pages/dac-sac-net-am-thuc-viet-bac.aspx
 Kim Khánh (2020). Khám phá kiến trúc độc đáo của các đồng bào dân tộc
vùng núi phía Bắc, 10/04/2021 từ https://www.tripnow.vn/kham-pha-kien-truc-
doc-dao-cua-cac-dong-bao-dan-toc-vung-nui-phia-bac/
 Thu Hằng (2019). Trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Nùng,
10/04/2020 từ https://vovworld.vn/vi-VN/sac-mau-cac-dan-toc-viet-nam/trang-
phuc-truyen-thong-cua-dong-bao-dan-toc-nung-792663.vov
 Thu Hiền (2017). Đặc sắc nét ẩm thực Việt Bắc, 10/04/2021 từ
 Văn Hóa.vn. Người H'Mông Với Trang Phục Truyền Thống, 11/04/2021 từ
http://www.vanhoa.vn/2017/09/nguoi-hmong-voi-trang-phuc-truyen-thong.html?
m=1
 Zo.com.vn (2019) Trang phục người dân tộc Tày, 11/04/2021 từ
https://zo.com.vn/vi/trang-phuc-nguoi-dan-toc-tay-71864

27
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

Họ và tên Công việc Mức độ làm việc


Nguyễn Đăng Khoa Tổng hợp, tóm tắt tư liệu 100%
ẩm thực
Chế Lan Ngọc Mi Thuyết trình ẩm thực 100%
Lê Huỳnh Minh Thư Tìm tư liệu nhà ở 100%
Bành Nguyệt Minh Thư Tìm tư liệu+ thuyết trình 100%
trang phục
Trần Thị Tuyết Trinh Tìm tư liệu ẩm thực 100%
Cao Minh Hạnh Tìm tư liệu ẩm thực 100%
Nguyễn Thị Hải Hậu Thuyết trình nhà ở 100%
Lê Thái Quyên Powerpoint 100%

28

You might also like