You are on page 1of 86

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC...................................................................9
1.1. Quan niệm về chất lượng giáo dục đại học........................................................9
1.2. Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học...........................................18
1.3. Các điều kiện bảo đảm quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học......25
Kết luận chương 1………………………………………………………………...30
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................32
2.1. Khái quát chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh...............32
2.2. Tình hình quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ
Chí Minh từ 2010 đến nay........................................................................................41
2.3. Nhận xét hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................................53
Kết luận chương 2………………………………………………………………...61
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC ................................................................62
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại học.......................................................................................................................62
3.2. Giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh...........................................................73
Kết luận chương 3………………………………………………………………...75
KẾT LUẬN…………………………………………………………………..

........77

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..78


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Hình 1.1: Sơ đồ quản lý nhà nước của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam….…...21
Bảng 1.3: Năng lực thể chế quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học …...26
Bảng 2.1: Dân số và Lao động Thành phố Hồ Chí Minh………………………… 33
Bảng 2.2: Nhu cầu nhân lực theo trình độ nghề tại Thành phố Hồ Chí Minh…...….34
Bảng 2.3: Xu hướng chọn nghề của học sinh trung học phổ thông trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014................................................................................34
Bảng 2.4: Xu hướng chọn bậc học của học sinh trường trung học phổ thông trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014....................................................................35
Bảng 2.5: Thống kê số lượng sinh viên cao đẳng, đại học tại Thành phố…………36
Bảng 2.6: Điểm sàn các khối thi đại học theo qui định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo …..……………………………………………………………………………………...39
Hình 2.1: Biểu đồ mô tả nhân viên mới đi làm phải đào tạo lại…….…………..…...40
Hình 2.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố…….....……….49
Bảng 3.1: So sánh mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học…………..…….….67
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực
và trên thế giới ngày càng quyết liệt, nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành lợi
thế quyết định đối với mỗi quốc gia. Đổi mới giáo dục đại học trong xu thế hội nhập
vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung và
Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, mỗi cấp học,
bậc học có vị trí, vai trò khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực, trong đó, giáo dục đại học có một vị trí quan trọng đặc biệt. Giáo dục đại
học có tác động trực tiếp nhất đến nguồn nhân lực, gắn liền với việc xây dựng
nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được các yêu cầu của thị trường lao
động trong nước và khu vực, là yếu tố then chốt thúc đẩy nền kinh tế, giữ vững an
ninh, chính trị trong nước nhanh chóng hội nhập với thế giới.

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn
hóa, chính trị, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập
quốc tế, là đầu tàu, động lực có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng
điểm phía nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước [9]. Mỗi năm các trường
đại học trong Thành phố cung cấp cho xã hội một nguồn lực lao động phong phú,
dồi dào thuộc nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Dưới sự quan tâm của Đảng bộ
Thành phố, các cơ quan quản lý giáo dục đóng tại Thành phố đã có những cơ chế
phù hợp với điều kiện và khả năng của mình đã góp phần đưa giáo dục đại học
không ngừng phát triển cả về qui mô, chất lượng, tạo cơ hội cho thị trường lao động
có chất lượng cao hơn, bắt kịp xu thế của thị trường lao động trong nước và khu
vực. Tuy nhiên, một thực tế là chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí
Minh cũng như tình trạng chung trong cả nước còn ở mặt bằng thấp so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chưa hoàn toàn đáp ứng được những kỳ vọng
của xã hội, của tầng lớp nhân dân Thành phố cũng như cả nước. Những hạn chế,

1
yếu kém của chất lượng giáo dục đại học là thông điệp mạnh mẽ từ thực tiễn đòi hỏi
Nhà nước cần thể hiện được vai trò, trách nhiệm đối với chất lượng giáo dục đại học.

Có thể khẳng định, chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc vào nhiều nhân tố.
Trong đó, một nhân tố quan trọng là quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học. Trong nhiều năm qua, chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
chưa được quản lý hiệu quả. Điều đó dẫn đến đã xảy ra rất nhiều sai phạm trong
quản lý nhà nước về: chỉ tiêu tuyển sinh, quản lý tài chính, tuyển dụng giảng viên,
các chế độ chính sách, về chứng chỉ, văn bằng, bổ nhiệm cán bộ quản lý, chất lượng
đầu vào, chất lượng đầu ra, chương trình, nội dung dạy học…Và hệ lụy tất yếu là
chất lượng giáo dục đại học chưa đáp ứng được những yêu cầu về nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.

Cùng với quá trình hội nhập đổi mới quản lý giáo dục, mở rộng quyền tự chủ
của các cơ sở giáo dục, công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh cần phải đổi mới tập trung hướng tới quản lý chất lượng,
quản lý theo kết quả đầu ra (vấn đề quản trị đại học). Đó một xu thế lớn của quản lý
nhà nước trong thời đại ngày nay. Trước thực trạng về chất lượng giáo dục đại học
cả nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, để tìm ra các giải pháp đổi
mới quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, tác giả chọn đề tài: “Quản lý
nhà nước về chất lượng giáo dục đại học từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm
định hướng nghiên cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học là một trong những vấn đề
được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý về giáo dục quan tâm nghiên cứu, đặc
biệt là trong bối cảnh đổi mới giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng đang
diễn ra mạnh mẽ trong và ngoài nước. Trong quá trình học tập và tìm kiếm tài liệu
tham khảo phục vụ cho việc viết luận văn tốt nghiệp, tác giả cũng đã được tiếp cận

2
và nghiên cứu một số công trình nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học điển hình như sau:

- “Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học”, Luận án tiến sĩ quản lý
hành chính công của Đoàn Văn Dũng, Học viện Hành chính quốc gia, năm 2015
nghiên cứu, phân tích các nội dung quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
và đề xuất các giải pháp theo hướng tăng cường công tác quản lý chất lượng.

- “Giáo dục đại học Việt Nam và Thế giới”, Giáo trình dùng cho các khóa bồi
dưỡng giảng viên cao đẳng/đại học về nghiệp vụ theo chương trình của Bộ GDĐT,
năm 2013 của tác giả Trần Khánh Đức, trình bày một số cách tiếp cận trong nghiên
cứu giáo dục đại học Việt nam và Thế giới; những đặc trưng và xu hướng phát triển
cơ bản của nền giáo dục đại học hiện đại; cơ cấu hệ thống và đặc điểm về loại hình,
tổ chức nhà trường và cung cấp một số văn bản pháp luật chủ đạo về giáo dục đại
học hiện hành.

- “Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục đại học”, Luận án tiến sĩ
Luật học của Nguyễn Thị Thu Hà, năm 2012, phân tích thực trạng quản lý nhà nước
về giáo dục đại học, về xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, về tổ chức bộ máy,
về tổ chức thực hiện văn bản pháp luật, về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp
luật. Các giải pháp được tác giả đề cập đến bao gồm: Đổi mới tư duy quản lý nhà
nước về giáo dục đại học, kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao năng lực tổ chức thực
hiện chính sách nhằm thúc đẩy phát triển giáo dục đại học.

- “Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay”, Luận án
tiến sĩ Luật học của Lê Thị Kim Dung, năm 2012, nghiên cứu về các yếu tố cơ chế
chính sách từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học với
trọng tâm chính là xây dựng Luật Giáo dục đại học.

- “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 14, số 01-2011 của Nguyễn Tiến
Dũng, Trường Đại học Kinh tế Luật và Nguyễn Phan Thu Hằng, Trường Đại học
Sài Gòn, nghiên cứu về những đặc trưng và tiêu chí nguồn nhân lực chất lượng cao,

3
những yêu cầu trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh, mục tiêu hướng đến là xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu lao động trong nước và xuất khẩu lao động.

- “Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI”, năm 2010 của
tác giả Trần Khánh Đức, trình bày, phân tích một cách tổng quát về các vấn đề: Cơ
sở lý thuyết hệ thống giáo dục hiện đại; các kịch bản nhà trường trong tương lai; sư
phạm kỹ thuật và công nghệ dạy học; phát triển chương trình giáo dục hiện đại;
quản lý giáo dục và chất lượng giáo dục; quản lý nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực; khoa học luận và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.

- “Đổi mới quản lý, đòn bẩy để phát triển giáo dục đại học Việt nam”, Báo
cáo Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và
cao đẳng Việt nam” năm 2010 của Dương Minh Quang, chỉ ra hạn chế, yếu kém và
các giải pháp khắc phục 03 vấn đề liên quan lĩnh vực sư phạm, quản lý hệ thống
giáo dục và tiếp thu, ứng dụng công nghệ trong quản lý giáo dục đại học ở nước ta.

- “Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong các trường đại học ở Việt Nam
hiện nay”, Báo cáo hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo
dục đại học và cao đẳng Việt nam” năm 2010, phân tích, luận giải về sự cần thiết
phải xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong các trường đại học đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng và hội nhập giáo dục quốc tế.

- “Những việc cần đổi mới để đưa giáo dục Việt Nam đi lên”, Báo cáo hội
thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng
Việt nam” năm 2010 của tác giả Đỗ Diên, trường đại học Khoa học Huế bàn về
những vấn đề cần đổi mới ở các khâu đầu vào: Chương trình đào tạo, cơ sở vật chất,
đội ngũ giảng viên, phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá và các yêu cầu đối
với yếu tố chuẩn đầu ra nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học.

- “Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay”,
Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Bá Cần, Trường đại học Kinh tế quốc dân năm
2009, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chính sách phát triển giáo dục đại học

4
trong nền kinh tế thị trường, từ đó chỉ ra yêu cầu muốn nâng cao chất lượng giáo
dục đại học cần phải hoàn thiện trước tiên về mặt chính sách.

- “Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học của
Nguyễn Đức Cường, Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009. Nghiên cứu hệ thống
thể chế về giáo dục đại học và đề xuất chuyển vai trò của nhà nước từ quản lý sang
giám sát đối với giáo dục đại học.

- “Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo - Thực trạng và giải pháp”, Luận
văn thạc sĩ ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, năm 2007 của Hoàng
Thị Tú Oanh liên quan nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo trong Luật
giáo dục 2005 trên cơ sở nghiên cứu những nguyên tắc xây dựng nền giáo dục của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2001-2020.

Ngoài các công trình điển hình đã liệt kê trên, tác giả còn tham khảo nhiều
công trình, bài báo, các báo cáo tổng kết của Chính phủ, Thành phố và một số văn
bản pháp luật của Nhà nước liên quan lĩnh vực giáo dục đại học khác.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về chất lượng giáo
dục đại học được tiến hành trên bình diện rộng, xuất phát từ những góc độ khác
nhau và thông qua việc phân tích cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, các tác giả đã đề
xuất nhiều giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu
vấn đề quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh ở cấp độ thạc sĩ luật, chuyên ngành luật Hiến pháp và luật Hành chính.
Đây là công trình nghiên cứu mới nhằm đánh giá thực trạng và đề xuất các giải
pháp có tính ứng dụng vào thực tiễn quản lý nhà nước đối với chất lượng giáo dục
đại học từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3.1 Mục đích nghiên cứu

5
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản
lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước
về chất lượng giáo dục đại học từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để đưa ra một
số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại học ở nước ta hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Phù hợp với mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:

Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, từ đó xác định được các yếu tố ảnh
hưởng làm cơ sở đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, bao gồm cả những mặt làm
được, những mặt chưa làm được, xác định nguyên nhân của những kết quả đạt được
và những hạn chế thiếu sót.

Ba là, trên cơ sở những vấn đề lý luận đã được xây dựng, những hạn chế, thiếu
sót của công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học trong các trường
đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh đã được chỉ ra, đề xuất các quan điểm, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo
dục đại học.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

-Nội dung nghiên cứu: Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học là
vấn đề rộng liên quan đến một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước đối với
giáo dục đại học; bậc đại học theo Luật Giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung một số
điều năm 2009), Luật Giáo dục đại học 2012 bao gồm trình độ cao đẳng, trình độ

6
đại học và sau đại học. Trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục hệ đại học chính quy
với các hoạt động chính: Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển chất lượng giáo dục đại học; ban hành và tổ chức
thực hiện văn bản qui phạm pháp luật quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học; thanh tra,
kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật về chất lượng giáo
dục đại học.

-Không gian: Các cơ sở giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.

-Thời gian: Luận văn chủ yếu đề cập đến thực trạng quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ 2010 đến
nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về giáo dục - đào tạo.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: nghiên cứu các tài liệu phục vụ
quá trình xây dựng chương tổng quan nghiên cứu, nghiên cứu các vấn đề lý luận ở
chương 1, nghiên cứu các tài liệu đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học ở chương 2.

- Phương pháp so sánh: So sánh tư duy, quan niệm về chất lượng giáo dục;
mục tiêu của các văn bản quy phạm pháp luật với kết quả thực tiễn áp dụng ở Thành
phố Hồ Chí Minh và cả nước nói chung, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tiếp tục
hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học.

7
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, thông
tin thu thập được, tác giả sẽ phân tích, đánh giá, xem xét trên các khía cạnh khoa
học pháp lý. Qua đó, tổng hợp lại để có những kết luận, những đề xuất mang tính
khoa học, phù hợp với lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận, Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và pháp lý của quản
lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Về ý nghĩa thực tiễn, Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các nhà quản
lý, hoạch định chính sách phát triển giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng, cả nước nói chung và cho những người làm nghiên cứu về giáo dục đại
học trong cả nước.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 03 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của quản lý nhà nước về chất lượng giáo
dục đại học.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo
dục đại học.

8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

1.1. Quan niệm về chất lượng giáo dục đại học


1.1.1. Quan niệm về giáo dục đại học
Giáo dục đại học được hiểu là “Bậc học đào tạo trình độ học vấn chuyên môn
cao có mục tiêu đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục
vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương ứng với trình
độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [37, tr.122].
Trên cơ sở Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học năm 2012, có thể hiểu: Giáo
dục đại học là việc tổ chức giáo dục đào tạo đối với bậc học bao gồm trình độ cao
đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ theo hai hình thức là giáo
dục chính quy và giáo dục thường xuyên nhằm mục tiêu đào tạo người học có phẩm
chất chính trị, đạo đức, sức khỏe, kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng
lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học công nghệ tương xứng với trình độ
đào tạo.

Trên thế giới, có 4 khái niệm được xem là thông dụng nhất về giáo dục đại
học [62]: (i) giáo dục đại học là một dây chuyền sản xuất mà đầu ra là nguồn nhân
lực đạt chuẩn. Theo quan điểm này, giáo dục đại học là một quá trình trong đó
người học được quan niệm như những sản phẩm chất lượng được cung ứng cho thị
trường lao động, giáo dục đại học góp phần tạo nên sự phát triển và tăng trưởng của
thương mại và công nghiệp; (ii) giáo dục đại học là đào tạo để trở thành nhà
nghiên cứu: Qua cách tiếp cận này, giáo dục đại học được xem là quá trình chuẩn bị
nhằm tạo ra các nhà khoa học và nhà nghiên cứu, những người có khả năng tìm tòi,
sáng tạo ra những kiến thức mới; (iii), giáo dục đại học là quản lý việc tổ chức
giảng dạy một cách hiệu quả: Nhiều ý kiến cho rằng giảng dạy là hoạt động cốt lõi
nhất của một cơ sở giáo dục, vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học thường chú trọng
quản lý một cách hiệu quả các hoạt động dạy và học bằng cách nâng cao chất lượng
giảng dạy và nâng cao tỷ lệ tốt nghiệp của sinh viên; (iv) giáo dục đại học là mở
rộng cơ hội trong cuộc sống cho người họ. Theo góc nhìn này, giáo dục đại học

9
được xem như một cơ hội để người học được tham gia vào quá trình phát triển bản
thân bằng các thể thức học tập thường xuyên và linh hoạt. Có thể nói, bốn khái niệm
này có tính liên hoàn với nhau, tích hợp với nhau để tạo ra bức tranh toàn cảnh về
tính chất riêng biệt của giáo dục đại học

1.1.2. Quan niệm về chất lượng giáo dục đại học


1.1.2.1. Quan niệm về chất lượng giáo dục
Chất lượng là mục tiêu tìm tòi liên tục của con người trong suốt tiến trình lịch
sử của nhân loại bởi nó là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn
xã hội. Tuy nhiên rất khó để đưa ra một định nghĩa chính xác về chất lượng, do đó
khái niệm này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau.

Thuật ngữ “Chất lượng” được hiểu là “Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của sự
vật” hoặc “Cái tạo nên bản chất sự vật. làm cho sự vật này khác sự vật kia” [34,
tr.102]. Như vậy, khái niệm “Chất lượng” phản ánh thuộc tính, đặc trưng, giá trị,
bản chất của sự vật và tạo nên sự khác biệt về chất giữa sự vật này với sự vật khác.
Theo quan điểm triết học, chất lượng hay sự biến đổi về chất là kết quả của quá
trình tích lũy về lượng tạo nên những bước nhảy vọt về chất của sự vật, hiện tượng.
Có quan niệm lại cho rằng “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một
người, một sự vật, một sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính cơ bản khẳng định
sự tồn tại của một sự vật và phân biệt chúng với những vật khác” [37, tr.19].

Một khái niệm có tính tổng quát và được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên
cứu là: “Chất lượng là một khái niệm rộng và được thể hiện ở các khía cạnh khác
nhau: sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú, xuất sắc; sự hoàn hảo; sự phù hợp, thích hợp;
sự thể hiện giá trị; sự biến đổi về chất” [61, tr 44-50].

Chất lượng trong lĩnh vực giáo dục là một khái niệm rộng, đa chiều. Do đó
cách nhìn nhận và đánh giá về chất lượng giáo dục cũng các nhà nghiên cứu cũng
không đồng nhất với nhau. Có tác giả cho rằng “Chất lượng giáo dục là kết quả của
quá trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách
và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với

10
mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể” [34, tr. 31]; có quan
niệm lại mang tính khái quát “Chất lượng giáo dục là tổng hòa những phẩm chất và
năng lực được tạo nên trong quá trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho người học
so với thang chuẩn giá trị của nhà nước hoặc xã hội nhất định” [37, tr. 44].

Chất lượng giáo dục với đặc trưng sản phẩm là con người, do đó có thể hiểu
một cách đầy đủ “Là kết quả (đầu ra) của toàn bộ quá trình đào tạo và được thể
hiện cụ thể ở phẩm chất, giá trị nhân cách hay năng lực sống và hòa nhập đời sống
xã hội, giá trị sức lao động, năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương ứng với
mục tiêu đào tạo của từng bậc học, ngành đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc
dân” [33, tr. 52]

1.1.2.2. Quan niệm về chất lượng giáo dục đại học


Trên thế giới có sáu quan điểm về chất lượng giáo dục đại học như sau [62]:

Thứ nhất, chất lượng được đánh giá đầu vào: Theo cách tiếp cận này, chất
lượng một trường đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của
trường đó, một trường đại học tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng
dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị cơ sở vật chất tốt được xem là
trường có chất lượng cao. Tuy nhiên cách nhìn nhận này chủ yếu chỉ dựa trên cơ sở
đầu vào để phỏng đoán về chất lượng đầu ra. Trên thực tế không ít trường đại học
có đầu vào tốt nhưng lại rất hạn chế trong hoạt động đào tạo. Ngược lại, nhiều
trường có nguồn lực đầu vào khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho sinh viên một
chương trình đào tạo cực kỳ hiệu quả.

Thứ hai, chất lượng được đánh giá đầu các tiêu chí như chất lượng và số lượng
sinh viên tốt nghiệp, số lượng công trình nghiên cứu khoa học có giá trị...Cách tiếp
cận này chưa thực sự phù hợp bởi trên thực tế mỗi trường có cách đánh giá rất khác
nhau về đầu ra. Mặt khác một trường có khả năng tiếp nhận các sinh viên giỏi,
không có nghĩa là sinh viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc.

Thứ ba, chất lượng được đánh giá bằng giá trị gia tăng: Trường đại học có chất
lượng cao nếu tạo được sự khác biệt lớn trong sự phát triển về trí tuệ và cá nhân

11
sinh viên sau quá trình đào tạo tại trường. Tuy nhiên, trên thực tế khó có thể thiết kế
một thước đo thống nhất để đo lường chất lượng đầu vào và đầu ra nhằm đánh giá
chất lượng của trường đó.

Thứ tư, chất lượng được đánh giá bằng giá trị học thuật: Theo cách tiếp cận
này, trường đại học có chất lượng cao nếu có được đội ngũ cán bộ giảng dạy, các
nhà khoa học có uy tín lớn. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó để có thể đánh giá được
năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi có xu hướng
chuyên ngành hóa ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng phong phú.

Thứ năm, chất lượng được đánh giá bằng văn hoá tổ chức riêng: Trường đại
học có chất lượng cao nếu có được một truyền thống tốt đẹp về hoạt động không
ngừng nâng cao chất lượng đào tạo. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực công
nghiệp và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục đại học.

Thứ sáu, chất lượng được đánh giá bằng kiểm toán: Quan điểm này cho rằng
trường đại học có chất lượng cao khi kết quả kiểm toán chất lượng cho thấy nhà
trường có thu thập đầy đủ thông tin cần thiết và những người ra các quyết định về
có đủ thông tin cần thiết, sự hợp lý và hiệu quả của quá trình thực hiện các quyết
định về chất lượng. Điểm yếu của quan điểm này là sẽ khó lý giải những trường hợp
khi một cơ sở đại học có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có
những quyết định chưa phải là tối ưu.

Trên cơ sở đã phân tích trên, chất lượng được hiểu như là một khái niệm tương
đối, động, đa chiều và chất lượng là sự phù hợp với mục đích hay đạt được các mục
đích đề ra trước đó.

Ở một góc độ tương đối toàn diện và có tính hệ thống, chất lượng giáo dục đại
học trên thế giới được hệ thống hóa thông qua sáu quan niệm [61]: (i) Chất lượng là
sự vượt trội (quality as perfection): Quan niệm này cho rằng chất lượng được xem
như điều tạo nên sự đặc biệt của một trường nào đó và điểm khác nhau ở chỗ chúng
chỉ ra cái gì làm nên sự khác biệt ấy. Ở một mức độ nào đó, quan niệm này quá
nhấn mạnh đến tầm quan trọng về việc học của người học dẫn đến hạn chế là xem

12
nhẹ vai trò của trường đại học trong việc làm tăng thêm giá trị của đầu vào. Tuy
nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của nó trong việc tạo ra những
trường đại học danh tiếng như Cambridge hay Oxford. (ii) Chất lượng là sự hoàn
hảo (quality as perfection): Quan niệm này nhìn nhận chất lượng tương đương với
việc tạo ra những sản phẩm không "tì vết" và chất lượng đầu ra được xem là kết quả
của tiến trình đào tạo. Vì thế, để duy trì chất lượng, người ta cố gắng không để cho
bất kỳ sai sót nào xảy ra, hay phải đạt tất cả những chuẩn mực do bên ngoài yêu
cầu. Tuy nhiên, rất khó để áp dụng trong trường đại học bởi tính khuôn mẫu mang
nặng tính công nghiệp của nó. (iii) Chất lượng là phù hợp với mục tiêu (quality as
fitness for/ of purpose): Thể hiện rõ nét tính thực tế bởi nó xem xét chất lượng trong
mối tương quan với mục tiêu của một trường đại học và chất lượng được xem là
một thuộc tính của chức năng hoạt động. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là mục tiêu của
trường đại học có tương thích với mục tiêu của các đối tượng khác hay không và
một trường có đáng được xem là có chất lượng hay không nếu nó đặt ra những mục
tiêu ít tham vọng để có thể đạt được. (iv) Chất lượng là đáng giá tiền đầu tư
(quality as value for money): Quan niệm này xem xét chất lượng trên cơ sở hiệu quả
kinh tế đào tạo và sự tự chịu trách nhiệm. Nó đánh giá sự hoạt động mang tính thị
trường của một trường đại học bằng giả định cho rằng trong môi trường cạnh tranh
có ít tài nguyên, chính thị trường sẽ chọn lọc và nuôi dưỡng những ngôi trường xuất
sắc nhất. Sự gia tăng cạnh tranh giữa các trường để thu hút sinh viên và nguồn tài
chính được xem là chìa khóa trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính. Quan
điểm này nhấn mạnh rằng nếu một trường đại học có chính sách và cách thực hiện
đúng đắn để khai thác các nguồn lực sẵn có ở mức ít tốn kém nhất, nó vẫn có thể
đảm bảo tiến trình đào tạo đạt hiệu quả và thỏa mãn những chuẩn mực được đặt ra.
Tuy nhiên, quan niệm chất lượng giáo dục này chỉ được đảm bảo khi có sự giám sát
chặt chẽ mối quan hệ giữa chất lượng và giá thành hạ. (v) Chất lượng là vượt
ngưỡng (quality as threshold): Theo quan điểm này, một trường phải vượt qua một
ngưỡng đặt ra với những mức chuẩn cụ thể. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tính
hiệu quả của quan điểm này phụ thuộc vào tính khách quan và khả thi của những

13
chuẩn mực. Hơn nữa, đôi khi ngưỡng được đặt ra có thể bị lạc hậu theo thời gian
trước khi một trường đại học đạt tới chúng, do môi trường và hoàn cảnh thay đổi
nhanh hơn so với chuẩn đặt ra (Parri 2006), quan điểm này đề cao sự quản lý trong
quá trình tiến đến ngưỡng đặt ra. (vi) Chất lượng là sự biến đổi (quality as
transformation): Được hình thành trên nền tảng cho rằng giáo dục mang lại những
thay đổi quan trọng cho người học và tạo ra giá trị gia tăng. Tuy nhiên, vấn đề ở đây
là làm thế nào để chúng ta xác định sinh viên biến đổi và biến đổi đến mức độ nào,
thông qua việc học ở một trường nào đó bởi vì việc học xảy ra trong tất cả các tình
huống xã hội để tích lũy kinh nghiệm và kinh nghiệm này sẽ chuyển hóa ở chiều
kích nhận thức, tình cảm, hay thực hành và hình thành nên bản chất của mỗi cá
nhân. Do đó, một trường đại học sẽ không biết đích xác sinh viên mình biến đổi ra
sao từ việc học của họ để từ đó điều chỉnh các dịch vụ trong trường, quá trình đào
tạo hay những yếu tố khác trong trường cần điều chỉnh.

Nghiên cứu về chất lượng giáo dục đại học dưới góc độ lý thuyết, trên thế giới
có ba trường phái lý luận nổi bật [34, Tr. 523]:

Một là, Lý thuyết về sự khan hiếm của chất lượng; Lý thuyết gia tăng giá trị và
lý thuyết về chất lượng xác định theo sứ mệnh và mục tiêu. Lý thuyết về sự khan
hiếm cho rằng chất lượng đồng nghĩa với sự khan hiếm, tinh hoa và tuân theo quy
luật hình chóp, chất lượng đào tạo chỉ có ở một số ít các cơ sở đào tạo có uy tín,
tuyển chọn khắt khe, có nguồn lực dồi dào còn phần lớn là không có chất lượng
thực sự.

Hai là, Lý thuyết gia tăng giá trị của Astin (1985) nhìn nhận chất lượng dưới
góc độ phản ánh qua sự gia tăng ở người học kiến thức, kỹ năng và thái độ sau một
quá trình đào tạo. Các trường đại học có chất lượng tập trung vào thực hiện sự gia
tăng này thông qua người học và được xã hội thừa nhận. Tác giả quan niệm các tiêu
chí xác định sản phẩm đào tạo (đầu ra) là những dấu hiệu quan trọng của chất lượng
giáo dục.

14
Ba là, Lý thuyết về sự phù hợp với sứ mệnh và mục tiêu do Bogue và Saunder
(1992) khởi xướng đánh giá chất lượng là sự phù hợp với những tuyên bố sứ mệnh
và kết quả đạt được của mục tiêu trong phạm vi các chuẩn mực được chấp nhận
công khai. Lý thuyết này cho thấy chất lượng không phải là sự khan hiếm mà có
một phổ chất lượng rộng rãi tương ứng với bối cảnh và điều kiện cụ thể của từng
trường đại học cụ thể. Chất lượng hiện hữu trong quá trình xác định và tổ chức thực
hiện sứ mệnh và mục tiêu của từng trường.

Từ những phân tích, luận giải ở trên, có thể quan niệm: Chất lượng giáo dục
đại học là tổng thể những kiến thức, kỹ năng, thái độ được tạo nên thông qua đào
tạo đại học, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương và của quốc gia ở mỗi thời kỳ, đảm bảo và đáp ứng được sự
kỳ vọng, mong đợi của đối tượng liên quan, cộng đồng xã hội về tâm lực, trí lực, thể
lực của nguồn nhân lực đại học [26, tr. 50].

1.1.3. Các yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục


đại học
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, chất lượng giáo dục đào tạo với đặc trưng sản
phẩm là con người lao động, có thể hiểu là kết quả (đầu ra) của quá trình đào tạo và
được thể hiện cụ thể ở phẩm chất, giá trị nhân cách và năng lực hành nghề của
người tốt nghiệp tương ứng với mục tiêu giáo dục đào tạo. Với yêu cầu đáp ứng nhu
cầu nhân lực của thị trường lao động, quan niệm về chất lượng đào tạo đại học
không dừng ở kết quả quá trình đào tạo trong nhà trường với những điều kiện đảm
bảo nhất định nhu cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên…mà còn phải tính đến sự phù
hợp và thích ứng của người tốt nghiệp với thị trường lao động như tỷ lệ có việc làm
sau khi tốt nghiệp, năng lực hành nghề tại các vị trí việc làm cụ thể, khả năng phát
triển nghề nghiệp của người học…Khi nghiên cứu về chất lượng giáo dục, có rất
nhiều mô hình và cách tiếp cận khác nhau về những yếu tố cấu thành chất lượng
giáo dục đại học của các tác giả trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, cho dù góc
độ tiếp cận không giống nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh
đến những yếu tố cơ bản cấu thành nên chất lượng giáo dục đại học [26, Tr. 55].

15
Một là, tổ chức, quản lý đào tạo: Để sản phẩm đầu ra đảm bảo chất lượng
tương ứng với đầu vào đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội về nguồn nhân lực chất lượng
cao, phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả công tác tổ chức, quản lý đào tạo. Đây là sự
gắn kết các yếu tố người dạy, người học, nội dung chương trình, phương pháp đào
tạo với nhau. Tổ chức đào tạo bao gồm nhiều nội dung như hình thức đào tạo linh
hoạt, phù hợp với yêu cầu của người học; đào tạo theo học chế niên chế hay tín chỉ,
tính linh hoạt trong hoạt động đào tạo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người học;
kế hoạch và phương pháp đánh giá hợp lý các hoạt động giảng dạy của giảng viên;
chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá
kết quả học tập của người học theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu
và làm việc theo nhóm của người học; phương pháp và quy trình kiểm tra đánh giá
được đa dạng hoá, đảm bảo nghiêm túc, khách quan, chính xác, công bằng và phù
hợp với hình thức đào tạo, hình thức học tập, mục tiêu môn học và đảm bảo mặt
bằng chất lượng giữa các hình thức đào tạo; đánh giá được mức độ tích luỹ của
người học về kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và năng lực phát hiện, giải
quyết vấn đề, có cơ sở dữ liệu về hoạt động đào tạo của nhà trường, tình hình sinh
viên tốt nghiệp, tình hình việc làm và thu nhập sau khi tốt nghiệp, có kế hoạch đánh
giá chất lượng đào tạo đối với người học sau khi ra trường và kế hoạch điều chỉnh
hoạt động đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Hai là, yếu tố giảng viên: Đội ngũ giảng viên đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, là yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và có chất lượng là
nhân tố quan trọng quyết định chất lượng đào tạo của một trường đại học. Do đó
việc tuyển chọn, đánh giá và bố trí giảng viên một cách có hiệu quả là điều cần thiết
Ở nước ta, những năm vừa qua do số lượng các trường đại học thành lập quá nhiều,
chỉ tiêu tuyển sinh tăng hàng năm, trong khi đội ngũ giảng viên có trình độ và năng
lực đáp ứng công tác giảng dạy và nghiên cứu thiếu đã dẫn đến hậu quả tất yếu là
chất lượng giáo dục đại học tụt hậu khá nhiều so với một số nước trong khu vực và
trên thế giới.

16
Ba là, yếu tố người học: Một trong những thành tố quyết định chất lượng giáo
dục đại học. Chương trình đào tạo tốt, cơ sở vật chất hiện đại, thầy giỏi nhưng chất
lượng đầu vào thấp, thái độ học không nghiêm túc sẽ rất khó để tạo ra sản phẩm có
chất lượng.

Bốn là, nội dung chương trình, phương pháp đào tạo là môṭ trong những yếu
tố cốt lõi, quyết định chất lượng của quá trình đào tạo, nhất là đối với đào tạo đại
học. Hiện taị, chương trình đào tạo hệ đại học của nước ta kéo dài từ 4 hoặc 5 năm
(một số nước trên thế giới chỉ có 3 năm), nhưng chất lượng sinh viên tốt nghiệp
không cao. Nguyên nhân cơ bản là trong chương trình có nhiều môn học không sát
với thực tiễn, không thật sự cần thiết đối với ngành đào tạo và đăc̣ biệt là tỷ lê ̣giữa
các môn lý thuyết và thực hành chưa cân đối, phù hợp. Mặc dù thời gian học kéo
dài nhưng các môn hoc̣ cần thiết cho ngành nghề đào tạo chưa được cung cấp đầy
đủ nên sinh viên tốt nghiêp̣ đi làm phần lớn phải đào tạo lại. Vì vậy, để nâng cao
chất lượng giáo dục đại học thì trước hết phải điều chỉnh chương trình đào tạo cho
phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó, phương pháp đào tạo cũng góp phần quan trọng
trong việc hình thành chất lượng đào tạo, bởi nó gắn liền với phương thức truyền tải
nội dung, chương trình tới đối tượng tiếp nhận. Phương pháp giảng dạy tốt sẽ cho ra
đời những sản phẩm chất lượng, năng động, có kiến thức thực tế, có các kỹ năng
mềm cần thiết đáp ứng được yêu cầu công việc trong tương lai. Phương pháp đào
tạo phù hợp với nội dung, chương trình, sự vận động của xã hội là một trong những
điều kiện quan trọng để chất lượng giáo dục đại học được đảm bảo.

Năm là, yếu tố cơ sở vật chất và đầu tư tài chính. Cơ sở vật chất phục vụ đào
tạo đại học rất đa dạng và mỗi cơ sở giáo dục, mỗi ngành đào tạo có những yêu cầu
riêng. Yếu tố cơ sở vật chất ở đây rất đa dạng, trong đó cần chú ý đến yếu tố mặt
bằng, diện tích cơ sở giáo dục đại học trên một sinh viên, hệ thống thư viện, phòng
học, phòng thí nghiệm, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc dạy và học được
thực hiện và thực hiện có hiệu quả. Mức độ hợp lý trong đầu tư tài chính cho giáo
dục đại học là yếu quan trọng trong bảo đảm chất lượng. Với đầu tư tài chính quá
thấp thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học.

17
Định mức phân bổ tài chính theo đầu sinh viên hay theo chất lượng, kết quả đào tạo
cũng sẽ tác động đến định hướng quản lý chất lượng ở mỗi cơ sở giáo dục đại học.

Sáu là, yếu tố nghiên cứu khoa học và công nghệ: Nghiên cứu khoa học được
xem là chìa khoá để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Sự gắn kết giữa nghiên
cứu và đào tạo, một mặt, sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, mặt
khác, kết quả nghiên cứu tạo ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới chương
trình, nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo, những nhân tố để đảm bảo chất lượng
giáo dục đại học.

1.2. Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học
1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học nói riêng đã và đang là những vấn đề được sự quan tâm đặc biệt của các nhà
khoa học, các nhà quản lý và chuyên gia trong nhiều lĩnh vực về nhà nước và pháp
quyền, luật học, khoa học quản lý, giáo dục học, xã hội học v.v...Với tính phức tạp
và đa diện của vấn đề, việc nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận về quản lý nhà nước
cần dựa trên phương pháp tiếp cận hệ thống và liên ngành.

Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục được quan niệm là việc thực hiện
công quyền để quản lý các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội [37]. Có
thể hiểu quản lý nhà nước về giáo dục là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để
điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của quốc gia.

Trong khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục nổi lên 3 bộ phận chính, đó là
chủ thể của quản lý nhà nước về giáo dục; đối tượng của quản lý nhà nước về giáo
dục; mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục. Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục
là các cơ quan quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chủ thể trực tiếp là bộ máy quản lý
giáo dục từ trung ương đến cơ sở được cụ thể hoá ở điều 99 của Luật Giáo dục năm
2009. Đối tượng của quản lý nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, là

18
mọi hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội. Mục tiêu quản lý nhà nước về
giáo dục về tổng thể đó là việc bảo đảm tuân thủ các qui định pháp luật trong các
hoạt động giáo dục để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài cho xã hội, hoàn thiện và phát triển nhân cách của công dân. Ở
mỗi cấp, bậc học và trình độ đào tạo mục tiêu này được cụ thể hoá trong Luật Giáo
dục và Điều lệ nhà trường. Khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục có thể hiểu đầy
đủ như sau: Quản lý nhà nước về giáo dục là sự quản lí của các cơ quan quyền lực
nhà nước, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến địa phương đối với các
thành tố của hệ thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội
nhằm đạt được các mục tiêu giáo dục đã xác định [34, tr. 127]. Từ cách tiếp cận
này, quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học có thể quan niệm là việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước qui định, nhằm định hướng,
điều tiết, tạo điều kiện, nâng cao chất lượng giáo dục đại học đáp ứng mục tiêu xây
dựng nguồn nhân lực chất lương cao phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong từng thời kỳ. Đảm bảo hiệu quả chất lượng giáo dục đại học là
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý nhà nước. Chính vì vậy, quá
trình quản lý phải bảo đảm việc đánh giá chất lượng được thực hiện khách quan,
đúng quy trình, chuẩn mực của pháp luật quy định. Kết quả đánh giá chất lượng
phải tạo ra được những tác động tích cực cho quá trình nâng cao chất lượng và đồng
thời giúp cho cơ sở giáo dục đại học nhận thức đúng mặt mạnh, mặt hạn chế của
mình đối với chất lượng đào tạo.

1.2.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học có các đặc điểm sau:

Một là, kết hợp quản lý hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt
động quản lý chất lượng giáo dục đại học. Đây là đặc điểm vừa theo nguyên tắc
quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động quản lý giáo dục đại học, vừa theo
nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục đại học. Hành chính -
giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ quyền hạn do nhà nước qui
định (phân cấp, phân công hoặc uỷ quyền). Các cơ quan, tổ chức thay mặt Nhà

19
nước triển khai và điều hành, điều chỉnh các hoạt động về giáo dục đại học và quản
lý hành chính thực chất là việc xây dựng các văn bản pháp quy và chấp hành các
văn bản. Kết hợp với quản lý giáo dục là đưa việc xây dựng các văn bản cho các
hoạt động chuyên môn của giáo dục và làm cho một người hiểu, biết được các qui
định của văn bản để thực hiện cho đúng. Do vậy, đây là đặc điểm được xem là quan
trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về chất lượng giáo dục đại học nhằm
bảo đảm môi trường sư phạm thuận lợi cho việc thực hiện được mục tiêu giáo dục
mà Nhà nước quy định.

Hai là, tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý đối với chất lượng
giáo dục đại học cũng là đặc điểm nổi bật của quản lí nhà nước và quản lý hành
chính nhà nước nói chung ở mọi lĩnh vực. Đặc điểm này biểu hiện qua ba vấn đề cơ
bản là “Điều kiện để triển khai quản lý nhà nước”, “Phương tiện quản lý nhà nước”
và “Thứ bậc chặt chẽ trong hoạt động quản lý”.

Ba là, kết hợp Nhà nước và xã hội trong quá trình triển khai quản lý nhà nước
về chất lượng giáo dục đại học. Do giáo dục đại học là một hoạt động mang tính xã
hội cao nên việc dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có
tính chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục đại
học nói chung và quản lý nhà nước về giáo dục nói riêng; sẽ rất khó nâng cao chất
lượng giáo dục đại học nếu không có sự tham gia của đông đảo lực trong xã hội.
Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong công tác quản lý nhà
nước về chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục đại học nói riêng.

1.2.2. Chủ thể, đối tượng quản lý nhà nước về chất


lượng giáo dục đại học
1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Ở nước ta hiện nay, chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà nước về giáo dục đại
học được quy định như sau:

- Chính phủ: Thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục đại học; trực tiếp
quản lý Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

20
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm quản lý nhà nước tất cả các
trường đại học và quản lý trực tiếp một số cơ sở đào tạo đại học. Bộ Giáo dục và
Đào tạo cung cấp ngân sách và quyết định trực tiếp đến nhân sự và chức năng
nhiệm vụ của các trường này.
- Những Bộ khác (có mối liên hệ đặc biệt như là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính,…) thực hiện công tác quản lý giáo dục đào tạo theo thẩm quyền.
- Chính quyền các tỉnh/thành phố quản lý các cơ sở đào tạo cao đẳng/đại học
trên địa bàn.
Hình 1.2: Sơ đồ quản lý nhà nước của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

1.2.2.2. Đối tượng của quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Xét về mặt tổng thể, hệ thống giáo dục quốc dân và mọi hoạt động giáo dục
trong phạm vi toàn xã hội là đối tượng của quản lý nhà nước, chịu sự tác động và
chi phối của chủ thể quản lý thông qua các công cụ chính sách, công cụ pháp luật
công cụ tổ chức và các công cụ về kinh tế.

Đối tượng của quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học ở nước ta
được nêu trong điều 2 và cụ thể hóa trong điều 7 Luật Giáo dục đại học năm 2012,
bao gồm các trường cao đẳng, trường đại học, học viện, đại học vùng, đại học quốc
gia; viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ; tổ chức và cá nhân
có liên quan đến hoạt động giáo dục đại học. Bên cạnh đó, trong tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về giáo dục đại học, có sự phân cấp, phân công trên cơ sở các
định chế nhà nước và các cơ chế quản lý giáo dục đã được thiết lập. Bản thân bộ

21
máy ở mỗi cấp vừa là chủ thể quản lý của cấp đó cũng vừa là đối tượng quản lý của
cấp cao hơn.

1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với chất
lượng giáo dục đại học
Vai trò được hiểu là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Tiếp cận từ góc độ xã hội học, vai trò được hiểu là những chuẩn
mực, những hành vi của một chủ thể gắn với một vị thế xã hội nhất định. Vai trò
của một yếu tố, một chủ thể bao giờ cũng được đặt trong mối tương quan với các
yếu tố, chủ thể khác. Từ quan niệm về vai trò, vai trò của Nhà nước đối với chất
lượng giáo dục đại học có thể hiểu là “Tổng thể những hoạt động, những nội dung
quản lý của nhà nước nhằm bảo đảm các mục tiêu, sứ mệnh, trách nhiệm của nền giáo
dục đại học thực hiện đầy đủ được thực hiện đúng hướng, hiệu quả, bảo đảm đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực trình độ đại học phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội” [26, tr. 65]

Chất lượng giáo dục đại học luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của toàn xã hội
bởi tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia. Vai trò quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học ở mỗi quốc gia có thể được
thể hiện ở những phương diện, những mặt hoạt động khác nhau nhưng nổi bật là vai
trò chủ thể quản lý nhà nước đối với chất lượng giáo dục đại học. Với tư cách là chủ
thể quản lý đối với giáo dục, Nhà nước định hướng toàn bộ các hoạt động giáo dục;
xây dựng hệ thống văn bản qui phạm pháp luật có giá trị bắt buộc đối với mọi tổ
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động giáo dục; sử dụng các công cụ về kinh tế
thu hút, cân đối nguồn lực, điều chỉnh nhịp độ phát triển giáo dục; xây dựng hệ
thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng và đặt ra các biện pháp bảo đảm, kết hợp với việc
tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm thúc đẩy các cơ sở giáo dục đại học
nâng cao chất lượng đào tạo, hướng tới mục tiêu sản phẩm đào tạo phải đáp ứng
được nhu cầu đặt ra từ thị trường lao động theo từng giai đoạn nhất định.

1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước về chất lượng


giáo dục đại học

22
1.2.4.1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển chất lượng giáo dục đại học

Chất lượng giáo dục là vấn đề quan tâm của cộng đồng xã hội, của Nhà nước
và của các cơ sở giáo dục. Chính vì vậy, trong định hướng quản lý của mình, nhà
nước luôn quan tâm đến vấn đề bảo đảm chất lượng giáo dục. Vai trò của Nhà nước
đối với chất lượng giáo dục đại học ở mỗi quốc gia có thể được thể hiện ở những
phương diện, những mặt hoạt động khác nhau nhưng điểm mấu chốt trong vai trò
của nhà nước đối với chất lượng giáo dục thể hiện ở vai trò chủ thể quản lý nhà
nước đối với chất lượng giáo dục đại học [26, Tr. 99]. Việc xây dựng chiến lược
phát triển giáo dục đại học nhằm xác định rõ mục tiêu cần đạt, lựa chọn phương
thức thực hiện và định hướng phân bổ nguồn lực để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Từ
đó, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy mô dân số, vị trí
địa lý, vùng lãnh thổ trên toàn quốc và từng địa phương để, cơ cấu ngành nghề,
trình độ và cơ cấu vùng miền đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
chính sách phát triển chất lượng giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
của đất nước. Bên cạnh đó, Nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại
học, có chế độ đãi ngộ và ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo đội ngũ giảng
viên để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học nâng cao chất lượng đào tạo. Xây
dựng cơ chế phối hợp giữa cơ sở giáo dục đại học với các cơ quan, tổ chức doanh
nghiệp tạo điều kiện để người học, giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng
được đòi hỏi của thị trường lao động về nguồn nhân lực chất lượng cao.

1.2.4.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật quản lý
nhà nước về chất lượng giáo dục đại học

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là đặc điểm quan trọng của Nhà nước.
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, văn bản quy phạm pháp luật vừa tạo ra hành lang
pháp lý cho sự vận động của các đối tượng, các chủ thể liên quan vừa là công cụ pháp

23
luật để Nhà nước thực hiện điều tiết, điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động giáo dục
đại học, xác định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với chất lượng
giáo dục đại học. Đồng thời, xác định trách nhiệm của các cơ sở giáo dục đại học
trong việc tuân thủ các quy định nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo đảm chất lượng
như yêu cầu về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, chỉ tiêu tuyển sinh, nội dung
chương trình, đội ngũ giảng viên, chế độ tài chính, kiểm định và bảo đảm chất lượng,
các điều kiện mở ngành…để làm cơ sở thực hiện việc cho phép, sáp nhập, chia tách,
đình chỉ, giải thể các cơ sở giáo dục đại học có liên quan. Đối với các cơ sở giáo dục
đại học, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ để các cơ sở tự soi rọi, kiểm
tra, hoàn thiện hoạt động của tổ chức mình, hướng đến mục tiêu đào tạo nâng cao
chất lượng sản phẩm, đáp ứng đòi hỏi từ thị trường lao động và yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Quá trình áp dụng, thực hiện cũng sẽ làm bộc lộ các quy phạm pháp
luật không phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, trách nhiệm của Nhà nước là phải thường
xuyên tổ chức rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực
quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học để sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc
bãi bỏ khi phát hiện các nội dung không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế -
xã hội. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học càng đầy đủ và
hoàn thiện bao nhiêu thì công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
càng có những điều kiện thuận lợi bấy nhiêu.

1.2.4.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học là hệ thống
các cơ quan công quyền từ trung ương đến các địa phương do Nhà nước thành lập để
thực thi công việc quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học. Bộ máy này
được phân cấp, phân công trên cơ sở các định chế nhà nước và các cơ chế quản lý
giáo dục đại học đã được thiết lập. Bộ máy ở cấp này vừa là chủ thể quản lý của cấp
đó, vừa là đối tượng quản lý của các cấp cao hơn. Mỗi kiểu tổ chức bộ máy quản lý
đều ứng với một kiểu thể chế nhà nước và cơ chế vận hành; thể chế nhà nước và cơ
chế quản lý nào thì có tổ chức bộ máy tương ứng. Với thể chế và cơ chế tập trung,
Nhà nước thiết lập các cơ quan quản lý để bao quát toàn diện các hoạt động của các

24
cơ sở giáo dục đại học. Với thể chế và cơ chế phi tập trung (phân cấp, trao quyền tự
chủ) Nhà nước sẽ có những điều chỉnh trong việc tổ chức, tạo lập bộ máy để quản lý
những nội dung thiết yếu liên quan đến chất lượng giáo dục đại học.

1.2.4.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp
luật về chất lượng giáo dục đại học

Trong quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại học nói riêng không thể thiếu nội dung thanh tra, đây được xem là một khâu làm
hoàn chỉnh quá trình quản lý của Nhà nước. Thông qua việc thanh tra, kiểm tra để
phát hiện các vi phạm, các bất hợp lý trong quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại học để kịp thời xử lý và điều chỉnh. Cùng với việc phát hiện và xử lý các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục đại học, thanh tra còn đóng vai trò như một
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Thanh tra cùng với các
phương thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật; công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát dù được thực hiện dưới bất cứ hình thức nào, cũng luôn
có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng
quản lý. Mặt khác, các giải pháp được đưa ra từ hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám
sát không chỉ hướng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nước về chất lượng giá dục đại học mà còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của
chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm pháp
luật, tạo tiền đề cho việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học.

1.3. Các điều kiện bảo đảm quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
1.3.1. Điều kiện về pháp luật
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất trong quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cầm quyền và
nhà nước đều được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật.. Thông qua
hệ thống các qui phạm chính sách, nguyên tắc, quy chế, chế độ...quy định các mối
quan hệ, cách thức vận hảnh các hoạt động quản lý ở các cấp, giữa chủ thể quản lý
và khách thể quản lý trong hoạt động giáo dục đại học, Nhà nước điều tiết, điều

25
chỉnh các quan hệ trong hoạt động giáo dục đại học và hướng các đối tượng quản lý
vào mục tiêu quản lý, thiếu các văn bản quy phạm pháp luật này thì hệ thống giáo
dục không vận hành được.

1.3.2. Điều kiện về năng lực quản lý nhà nước


Năng lực quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học được thể hiện qua
năng lực thể chế và năng lực công chức. Năng lực thể chế có thể được hiểu là năng
lực của các cơ quan nhà nước hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ đặt ra với mình.
Năng lực thể chế được thể hiện trên nhiều phương diện trong đó đó nhấn mạnh đến
năng lực xây dựng và thực hiện thành công thể chế quản lý. Quá trình này đồng thời
gắn liền với việc tổ chức hợp lý bộ máy và bảo đảm hiệu quả hoạt động của bộ máy
quản lý nhà nước [26, Tr. 61].

Bảng 1.3: Năng lực thể chế quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
Nhóm Yếu tố Dấu hiệu để đo lường năng lực thể chế
Quy trình ra quyết định nói chung, bao gồm
Hệ thống và quy trình ra
cả thông qua đề án, xử lý công việc, bổ nhiệm,
Quan quyết định
xử lý khiếu nại...
hệ dọc
Cách thức và kết quả giám sát tài chính, giám
Hệ thống giám sát nội bộ
sát nhân sự nói chung và, giám sát trong Đảng
Hệ thống khuyến khích Khuyến khích vật chất hoặc tinh thần
Cơ sở và công cụ pháp lý,
Quan Công cụ pháp lý, chế tài, cơ sở giải quyết và
quy định và ràng buộc
hệ bên thực hiện nhiệm vụ
trách nhiệm
trong
Các quy định về phân công, phân nhiệm và
Phân công và tổ chức thực
chế tài liên quan, các quy chế gắn bó trách
hiện
nhiệm vật chất và chất lượng công việc
Các yêu cầu và quy định về phối hợp với đồng
Quan hệ Khả năng phối hợp nghiệp, cơ quan và tổ chức khác
Ngang và
Trách nhiệm giải trình đại diện cho tổ chức
bên
n Ngoài Trách nhiệm giải trình hoặcngười chịu trách nhiệm đối với cấp trên
hoặc Nhà nước, khách hàng
Phát Tổ chức bộ máy theo Điều chỉnh bộ máy và nhân sự, bổ nhiệm và
triển và nhiệm vụ quy hoạch cán bộ
thích Đào tạo bồi dưỡng thường xuyên và khi có
ứng Đào tạo và phát triển
thay đổi lớn phát sinh
Nguồn: [26]

26
Tuy nhiên, trong các hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học nói riêng, yếu tố con người vẫn là quan trọng nhất.
Năng lực và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của đội ngũ công chức, bởi đây là chủ thể xây
dựng và tổ chức thực thi các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Năng lực của đội
ngũ công chức yếu kém sẽ dẫn đến việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
qui phạm pháp luật hạn chế tầm nhìn, không phù hợp với thực tiễn. Ngược lại đội
ngũ công chức chất lượng cao sẽ giúp hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học đảm bảo hiệu quả.

1.3.3. Điều kiện về năng lực đào tạo của các cơ


sở đào tạo đại học
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học phải được
bắt đầu từ các cơ sở giáo dục đại học, đây chính là mấu chốt của vấn đề. Đối với
mỗi cơ sở giáo dục đại học, việc xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, đạt
chuẩn về trình độ, cân đối về cơ cấu; xây dựng chương trình, giáo trình và đề ra các
biện pháp đảm bảo chất lượng đào tạo; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học là các điều kiện
đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học.

Đội ngũ giảng viên đảm bảo về chất lượng và số lượng là một trong những
nhân tố quan trọng cấu thành chất lượng giáo dục đại học. Năng lực đào tạo của các
cơ sở giáo dục đại học được phản ánh thông qua cơ cấu thành phần giảng viên như
số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ; tỷ lệ giảng viên trên sinh viên...Một
trong những điều kiện quan trọng để thành lập trường và cho phép hoạt động giáo
dục đại học ở nước ta, theo Luật Giáo dục 2009 là: “Có đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý đạt tiêu chuẩn, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu bảo đảm thực hiện
chương trình giáo dục và tổ chức các hoạt động giáo dục” và cụ thể hơn trong Luật
Giáo dục đại học năm 2012: “Có đội ngũ giảng viên cơ hữu và cán bộ quản lý đạt
tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu”. Để đảm

27
bảo hiệu quả của quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học đòi hỏi các cơ sở
giáo dục đại học phải tuân thủ các tiêu chuẩn về trình độ, cơ cấu, tỷ lệ giảng viên
theo luật định, đồng thời có chính sách xây dựng và phát triển nâng cao trình độ đội
ngũ giảng viên; thực hiện cơ chế tuyển dụng, kiểm tra đánh giá đảm bảo khách
quan, công bằng và có chính sách tiền lương phù hợp để người giảng viên có thể
yên tâm làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học; quy hoạch, bố trí đúng
năng lực, sở trường của từng cá nhân nhằm phát huy tối đa hiệu quả công tác của
đội ngũ giảng viên, nhiều trường hợp giáo sư, phó giáo sư giáo sư uyên bác về khoa
học, không đam mê về quản lý nhưng được bổ nhiệm làm công tác quản lý sẽ rất
khó để phát huy năng lực và được những kết quả mong muốn.

Chương trình, giáo trình là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục và chất lượng giáo dục đại học. Do đó, việc thiết kế xây dựng chương
trình đòi hỏi tổ chức, cá nhân thực hiện phải đảm bảo trình độ, năng lực, tầm nhìn
và tư duy khoa học. Ở nước ta, theo Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học và các
quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc tổ chức xây dựng, thẩm định, ban hành
và cập nhật, bổ sung chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học do các cơ sở
giáo dục đại học chịu trách nhiệm thực hiện. Riêng đối với công tác thẩm định
chương trình, Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định các cơ sở giáo dục đại học chỉ được
phép tự thẩm định chương trình đào tạo khi có đủ các điều kiện: (1) Có ít nhất 5
giảng viên cơ hữu có bằng tiến sĩ, trong đó có ít nhất 1 giáo sư hoặc phó giáo sư
hoặc tiến sĩ khoa học đúng ngành đăng ký đào tạo trình độ đại học; (2) Trường đã
thành lập trên 5 năm và có ít nhất 1 khóa sinh viên chính quy đã tốt nghiệp. Nếu các
trường không đủ điều kiện tổ chức tự thẩm định, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ chỉ
định một cơ sở giáo dục đại học có uy tín, đủ năng lực để giúp trường thẩm định
chương trình. Mặt khác, yêu cầu các nhà trường xây dựng và công bố chuẩn đầu ra
của từng ngành, chương trình đào tạo để người dạy, người học và xã hội cùng giám
sát việc thực hiện chương trình đào tạo. Đối với giáo trình sử dụng trong các trường
đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-BGDĐT về
việc biên soạn và sử dụng giáo trình giáo dục đại học, trong đó quy định: Chủ biên

28
hoặc đồng chủ biên giáo trình các môn học của chương trình đào tạo trình độ cao
đẳng, đại học phải có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc trình độ tiến sĩ thuộc
chuyên ngành của giáo trình đó; các thành viên tham gia ban biên soạn giáo trình
phải có chuyên môn phù hợp với nội dung giáo trình và đang trực tiếp giảng dạy
trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ hoặc các nhà khoa học có uy tín đang tham gia
thỉnh giảng tại trường; mời các đơn vị sử dụng lao động tham gia quá trình biên
soạn, thẩm định giáo trình giáo dục đại học. Các quy định, yêu cầu trên là cơ sở
pháp lý để các trường hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng giáo dục và giúp
công tác quản lý nhà nước về chất lượng đạt hiệu quả cao.

Đối với cơ sở vật chất, thực tiễn giáo dục của các nước trên thế giới và nước ta
đã chỉ ra rằng để đào tạo con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, ngày càng đa
dạng nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tất yếu phải có những cơ sở vật chất - kỹ thuật tương
ứng. Để đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, các trường phải đáp ứng được các
yêu cầu về diện tích đất sử dụng trong học tập và sinh hoạt cho sinh viên; hệ thống
phòng học, phòng thí nghiệm, thực hành được kết nối internet rộng rãi, thông
thoáng, đầy đủ trang thiết bị hỗ trợ giảng dạy, học tập, nghiên cứu; hệ thống thư
viện hiện đại, tài liệu phong phú; ký túc xá đáp ứng nhu cầu nội trú của sinh viên;
các điều kiện về y tế, hoạt động thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ… đảm bảo trí
lực và thể lực cho người học.

Công tác nghiên cứu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng trong giáo dục
nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Nghiên cứu khoa học được xem là một
trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, tạo ra nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Nghiên cứu khoa học có tầm
quan trọng đặc biệt trong giáo dục đại học vì không những góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo mà còn tạo ra những tri thức mới, sản phẩm mới phục vụ cho sự phát
triển của nhân loại. Nghị quyết Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa 8 đã nêu:
“Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển
giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống”. Có thể nói, hoạt động

29
nghiên cứu khoa học gắn liền với hiệu quả của giáo dục và đào tạo, đây là điều kiện
hình thành cơ chế chính sách quản lý thích hợp đối với trường đại học, tạo tiền đề
để nhà trường phát huy hơn nữa tính sáng tạo trong việc tham gia một cách tích cực
vào việc gắn kết chương trình giảng dạy với nghiên cứu khoa học.

1.3.4. Điều kiện về năng lực của người học


Năng lực của người học được thể hiện thông qua khả năng học tập và làm
việc, giá trị nhân cách, khả năng thích ứng với đời sống xã hội và đáp ứng nhu cầu
của thị trường lao động. Để việc đánh giá năng lực người học đảm bảo tính trung
thực, khách quan, các cơ sở giáo dục đại học phải tuân thủ các qui định trong công
tác tuyển sinh đầu vào, quy chế tổ chức thi cử, quản lý quy trình nhập điểm, quản lý
điểm, quy trình đánh giá quá trình rèn luyện của người học…Xây dựng và đảm bảo
thực hiện các yêu cầu về chuẩn đầu ra; lắng nghe ý kiến phản hồi từ các tổ chức,
người sử dụng lao động để điều chỉnh nội dung chương trình nhằm đảm bảo chất
lượng giáo dục và hoàn thiện năng lực của người học. Ngày 16 tháng 4 năm 2015,
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT
quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt
được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy
trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ. Văn bản này đã xác định yêu cầu về năng lực của trình độ đại học trên các
phương diện về kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm. Những yêu cầu
về năng lực trong văn bản này chính là các cơ sở pháp lý quan trọng để các trường
đại học hoàn thiện xây dựng chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo, chuẩn đầu
ra thực sự là công cụ cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chất lượng giáo dục đại học là tổng thể những kiến thức, kỹ năng, thái độ
được tạo nên thông qua đào tạo đại học, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của quốc gia ở mỗi thời kỳ,
đảm bảo và đáp ứng được sự kỳ vọng, mong đợi của đối tượng liên quan, cộng đồng

30
xã hội về tâm lực, trí lực, thể lực của nguồn nhân lực đại học. Quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học là sự quản lí của các cơ quan quyền lực nhà nước, của
bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến địa phương đối với các thành tố của hệ
thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm đạt được các
mục tiêu giáo dục đã xác định. Nội dung quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại học gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển chất lượng giáo dục đại học, công tác ban hành và tổ chức
thực hiện văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật về chất
lượng giáo dục đại học. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học là: Pháp luật, năng lực quản lý của Nhà nước, năng lực đào
tạo của các cơ sở giáo dục đại học và năng lực của người học.

31
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Những thành tựu của giáo dục đại học
Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1.1. Giới thiệu sơ lược về Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh có tổng diện tích 2.056 km², trong đó đô thị chiếm
140 km2 và vùng nông thôn 1.916km². Mạng lưới sông ngòi dày đặc với hệ thống
kênh rạch trải dài hơn 2.900 ha rất thuận lợi cho việc tưới tiêu và tàu bè đi lại. Khí
hậu ôn hòa với nhiệt độ trung bình khoảng 27oC - 29oC, rất thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế - xã hội [3]. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, là
trung tâm kinh tế, văn hóa của cả nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Thành
phố Hồ Chí Minh là nơi hoạt động kinh tế năng động nhất, đi đầu trong cả nước
về tốc độ tăng trưởng kinh tế; tỷ trọng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Thành
phố chiếm 1/3 GDP của cả nước mặc dù trong bối cảnh chịu ảnh hưởng chung
bởi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng GDP Thành phố
bình quân giai đoạn 2011-2015 ước đạt 9,6%, cao hơn 1,66 lần tốc độ tăng
trưởng chung của cả nước. [60, Tr. 2].

Trên địa bàn Thành phố có nhiều khu công nghiệp lớn luôn tập trung một số
lượng doanh nghiệp lớn hoạt động trong tất cả các ngành nghề và thu hút nhiều
nguồn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy thu hút nhiều lao động, tạo nguồn lao động
dồi dào và đa dạng. Các doanh nghiệp luôn tích cực phát triển năng động, quan tâm
các chính sách thu hút nguồn nhân lực đặc biệt nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn kỹ thuật. Sự đa dạng ngành nghề và phát triển nhanh quy mô của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là môi trường phù hợp thu hút lao động là sinh viên, học sinh
còn thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nghề. Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh
cũng là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, dẫn đầu cả nước về số
lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng. Đồng thời, là trung tâm
thương mại, dịch vụ, xuất nhập khẩu lớn nhất nước. Kim ngạch xuất nhập

32
khẩu của thành phố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của cả nước. Cơ sở vật chất ngành thương mại được tăng cường với
khoảng 400 chợ bán lẻ, 81 siêu thị, 18 trung tâm thương mại, 3 chợ đầu mối.
Khu vực dịch vụ tăng trưởng vượt kế hoạch, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu sản xuất - kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư [58].

Lực lượng lao động tại Thành phố khá dồi dào; số dân gần 8,1 triệu
người nhưng số nằm trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ trên 70% so với tổng
số dân Thành phố; số lượng lao động nam, nữ tương đối cân bằng và có chiều
hướng ngày càng trẻ hóa.

Bảng 2.1: Dân số và Lao động Thành phố Hồ Chí Minh


Chỉ tiêu 2010 2011 2012 2013 2014
Dân số
7.396.446 7.590.138 7.791.789 7.939.752 8.090.750
(đơn vị tính: Người)
Nam 3.576.350 3.646.963 3.757.569 3.805.287 3.875.469

Nữ 3.820.096 3.943.175 4.034.220 4.134.465 4.215.281


Tổng số dân trong
5.489.918 5.563.540 5.649.519 5.734.206 5.810.565
độ tuổi lao động
Lực lượng lao động 3.909.100 4.000.900 4.086.400 4.122.300 4.190.525
Tổng số lao động có
3.830.900 3.921.500 3.982.300 4.024.000 4.048.000
việc làm
Lao động cần giải
291.561 292.075 289.351 293.228 290.500
quyết việc làm

Nguồn: [55]
Trước bối cảnh hội nhập và đòi hỏi từ thị trường lao động trong nước, nhu cầu
nhân lực Thành phố phát triển theo hướng đòi hỏi ngày càng cao về tay nghề và
trình độ có xu hướng tăng qua các năm (bảng 2.2), Đảng bộ Thành phố Hồ Chí
Minh nhiệm kỳ 2010-2015 đã xác định nâng cao chất lượng giáo dục đại học là một
trong 5 chương trình đột phá để xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và của Thành phố.

33
Đây là điều kiện quan trọng để Thành phố phát triển giáo dục các bậc học, đặc
biệt là giáo dục đại học.

Bảng 2.2: Nhu cầu nhân lực theo trình độ nghề tại Thành phố Hồ Chí Minh
STT Trình Độ 2010 2011 2012 2013 2014
1 Lao động chưa qua đào tạo 56,41% 45,81% 40,98% 38,10% 32,64%
2 Sơ cấp nghề 7,39 % 8,67% 5,51% 2,50% 6,30%
Công nhân kỹ thuật lành
3 2,07% 4,03% 4,04% 4,77% 5,47%
nghề
Trung cấp (công nhân,
15,04% 17,91% 25,18% 25,70% 23,48%
4 trung cấp nghề)
5 Cao đẳng (cao đẳng nghề). 7,69% 11,69% 10,76% 14,05% 15,81%
6 Đại học 11,09% 11,47% 13,18% 14,02% 15,40%
7 Trên đại học 0,30% 0,42% 0,35% 0,85% 0,90%
Tổng (đơn vị tính: Người) 231.764 279.209 271.063 192.398 163.688

Nguồn: [55]
Để cơ cấu ngành nghề, bậc học phù hợp với định hướng Nghị quyết đã đề ra,
Thành phố đặc biệt chú trọng đến công tác tư vấn và truyền thông về định hướng
nghề nghiệp cho học sinh phổ thông cuối cấp nhằm phân luồng lực lượng lao động
phù hợp với thực tiễn. Từng bước tác động làm thay đổi được phần nào suy nghĩ
trong việc chọn nghề của học sinh.

Bảng 2.3: Xu hướng chọn nghề của học sinh Trung học phổ
thông trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2013- 2014
STT Ngành nghề 2013 2014
1 Kỹ thuật công nghệ 31,24% 31,33%
2 Khoa học tự nhiên 3,10% 2,17%
3 Khoa học xã hội - Nhân văn 4,75% 5,50%
4 Sư phạm - Quản lý giáo dục 10,80% 16,59%
5 Nông - Lâm - Ngư 0,25% 0,09%
6 Kinh tế - Tài chính 30,43% 25,77%
7 Y - Dược 7,15% 7,83%
8 Nghệ thuật - Thể dục - Thể thao 12,28% 10,72%
Nguồn: [55]

34
Theo số liệu khảo sát (47 trường trung học phổ thông tại Thành phố) trên, năm
2014 đa số học sinh trung học phổ thông có xu hướng quan tâm tìm hiểu về các
khối ngành Kỹ thuật Công nghệ và Kinh tế - Tài chính. Tuy nhiên, so sánh năm
2013 và năm 2014, tỷ lệ học sinh có nhu cầu chọn nhóm ngành Kinh tế - Tài chính
giảm; nhu cầu học sinh chọn nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ có xu hướng tăng;
đáng chú ý là nhóm ngành Sư phạm - Quản lý giáo dục nhu cầu học sinh tăng từ
10,80 năm lên 16,59 vào năm 2014… cho thấy, tình trạng học sinh chủ yếu thích
đăng ký theo học các khối ngành kinh tế đã giảm hẳn so với mọi năm, thay vào đó
là nhu cầu tăng trong các nhóm ngành Kỹ thuật công nghệ, Sư phạm - Quản lý giáo
dục, Y - Dược, Khoa học xã hội - Nhân văn. Về cơ cấu tuyển sinh, hệ cao đẳng
nghề, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề tăng so với năm 2014 [55].

Đối việc chọn bậc học, nhìn chung mặc dù số lượng học sinh có nhu cầu học
đại học vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất nhưng giảm so với năm 2014 năm trong khi đó nhu
cầu học bậc cao đẳng và trung cấp tuy chiếm tỷ lệ thấp nhưng tăng về tỷ lệ học sinh
có nhu cầu học cao đẳng so và trung cấp.

Bảng 2.4: Xu hướng chọn bậc học của học sinh trường trung học phổ thông
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2014
Bậc học 2013 2014
Đại học 80,74% 75,40%
Cao đẳng 12,57% 13,54%
Trung cấp 6,69% 11,05%
Nguồn:[55]
Số liệu trên cho thấy tâm lý của phụ huynh và học sinh đã một phần thay đổi,
học sinh có thể tự đánh giá được lực học của mình; công tác hướng nghiệp, phân
luồng của Thành phố đã có những thành công bước đầu và hiện đang tiếp tục được
đẩy mạnh nhằm đạt được hiệu quả tối đa.

35
Hiện nay, để chủ động thu hút, đón đầu làn sóng đầu tư mới, những cơ hội lớn
khi hàng loạt hiệp định thương mại giữa Việt Nam và quốc tế được ký kết, có hiệu
lực như: Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP)… Thành phố đặc biệt chú trọng đến công tác nâng cao chất lượng
giáo dục đại học, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát
triển Thành phố, phục vụ đất nước.

2.1.1.2. Những thành tựu của giáo dục đại học Thành phố Hồ Chí Minh
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, số lượng trường đại học và cao đẳng trên địa
bàn cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường
từng bước được nâng cấp, cải thiện theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Tính đến
năm 2015, trên địa bàn Thành phố có 56 trường đại học và 29 trường cao đẳng [58].

Là Thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm
giáo dục bậc đại học lớn của Việt Nam. Số lượng sinh viên đang theo học và tốt
nghiệp cao đẳng, đại học năm sau cao hơn năm trước; gần 80% sinh viên tốt nghiệp
ra trường có việc làm [55, Tr. 11]. Trung bình mỗi năm giáo dục đại học cung cấp
gần 65.000 nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học cho đất nước, đặc biệt góp phần
bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển Thành phố và
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Bảng 2.5: Thống kê số lượng sinh viên cao đẳng, đại học tại Thành phố

Năm
Chỉ tiêu thống kê
(Đơn vị tính: Người) 2010 2011 2012 2013

Số sinh viên theo học 72.987 76.842 79.515 83.443

Số sinh viên tốt nghiệp 56.714 59.109 61.165 64.187

Nguồn: [55]
Hệ thống quản lý chất lượng giáo dục đại học trong cả nước nói chung và
Thành phố nói riêng đã được hình thành cùng với cơ chế nhà nước, nhà trường và
người dân giám sát chất lượng giáo dục và tham gia đầu tư cho giáo dục. Chất

36
lượng giáo dục đại học của các trường tại Thành phố đã có chuyển biến tích cực;
trình độ, năng lực tiếp cận tri thức mới của người học được nâng cao; chương trình
đào tạo từng bước tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến của thế giới, gắn với nhu cầu
xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên luôn được quan tâm, bồi dưỡng nâng cao
trình độ về phương pháp giảng dạy, cập nhật chương trình đào tạo tiên tiến gắn lý
thuyết với thực tiễn và tích cực tham gia nghiên cứu khoa học. Trong những năm
qua, giáo dục đại học Thành phố đã từng bước vươn lên, đào tạo được một đội ngũ
đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật từ cử nhân, thạc sĩ cho đến tiến sĩ, đã và đang
công tác và có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

2.1.2. Những hạn chế của giáo dục đại học


Thành phố Hồ Chí Minh
Cũng như tình trạng chung trong giáo dục đại học cả nước, chất lượng giáo
dục đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh đang tụt hậu so với thế giới. Nguyên nhân
chủ yếu là do nhiều trường đại học và cao đẳng tăng quá nhanh số lượng sinh viên,
trong khi các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên chưa đảm bảo.

Cơ cấu, quy mô đào tạo các bậc học chưa phát triển đồng bộ dẫn đến mất sự
cân đối trên thị trường lao động, trong những năm gần đây, số lượng người lao động
có trình độ đại học trên địa bàn Thành phố luôn gia tăng, tỷ lệ thất nghiệp nhiều
nhưng lao động trình độ cao đẳng nghề hoặc trung cấp nghề không đủ đáp ứng nhu
cầu của các doanh nghiệp.

Công tác đào tạo ngành nghề chưa thực sự gắn nhu cầu xã hội; quá nhiều
trường đào tạo các ngành về kinh tế, tài chính, kế toán, ngân hàng nhưng rất ít
trường về công nghệ, kỹ thuật, khoa học dẫn đến chỗ làm mất cân đối về cơ cấu
ngành nghề, không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Với số lượng 85 trường đại học, cao đẳng đóng trên địa bàn và gần 65.000 sinh viên
tốt nghiệp mỗi năm nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn luôn kêu thiếu nhân sự và gặp
nhiều khó khăn khi tuyển nhân lực cần thiết vì trình độ, năng lực thực tế của sinh
viên do các trường đào tạo ra quá thấp không đáp ứng được yêu cầu công việc.
Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này là chất lượng các yếu tố đầu vào của giáo

37
dục đại học chậm được cải thiện và phương pháp quản lý chất lượng chưa hoàn
thiện, phương thức đào tạo còn nhiều điểm lạc hậu, chưa tương thích với sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội.

Đội ngũ giảng viên thiếu và yếu, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
tỷ lệ để xác định chỉ tiêu tuyển sinh đại học là 25 sinh viên/giảng viên nhưng một số
trường tại Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ lên tới gần 100 sinh viên/giảng viên nếu
tính cả số sinh viên hệ vừa làm vừa học, học sinh trung cấp chuyên nghiệp thì tỷ lệ
này còn cao hơn nữa. Đồng thời, nhiều ngành không có tiến sĩ, tiến sĩ chuyên ngành
và thạc sĩ, chưa có giảng viên cơ hữu nhưng vẫn được Bộ duyệt mở ngành và tuyển
sinh. Năm 2010, có 17/49 trường cao đẳng, đại học Thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ
quy đổi sinh viên/giảng viên không đạt yêu cầu [20]; năm 2014, Bộ Giáo dục và
Đào tạo tiến hành kiểm tra 18 trường đại học, cao đẳng về việc tự xác định và đăng
ký chỉ tiêu tuyển sinh đã phát hiện có 8/18 trường vượt định mức quy định số học
sinh, sinh viên chính quy/giảng viên quy đổi. 11/18 trường báo cáo sai về đội ngũ
giáo viên như xác định đội ngũ giảng viên đang làm nghiên cứu sinh, thạc sĩ nhưng
chưa tốt nghiệp vào danh sách giảng viên có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ; đưa toàn bộ đội
ngũ cán bộ phòng, ban vào danh sách giảng dạy và đăng ký cả số giảng viên dự báo
sẽ được tuyển dụng (trong đó Thành phố Hồ Chí Minh có các trường: Đại học Nông
Lâm, Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) mục đích để
xin tăng chỉ tiêu tuyển sinh [40].

Chương trình, giáo trình giảng dạy chậm chuyển đổi, chậm hiện đại hóa, nặng
thi cử; thiếu tính liên thông giữa các cấp học, bậc học, các loại hình đào tạo, chương
trình nhiều môn học không sát, không thực sự cần thiết đối với ngành đào tạo và
đặc biệt là tỷ lệ giữa lý thuyết và thực hành chưa cân đối, thiên về lý thuyết nhiều
hơn. Phương pháp dạy và học còn lạc hậu chưa phát huy được năng lực tự học của
sinh viên. Trong nhiều năm qua, hàng loạt kỹ sư, cử nhân tốt nghiệp thất nghiệp do
thiếu sự năng động, ý thức kỷ luật kém, không có kiến thức thực tế, thiếu các kỹ
năng mềm cần thiết nên không đáp ứng tốt được đòi hỏi từ thị trường lao động.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém của

38
chương trình đào tạo của các bậc học, trong đó có bậc đại học “Nội dung chương
trình, phương pháp dạy và học, công tác thi, kiểm tra, đánh giá chậm được đổi mới.
Nội dung chương trình còn nặng về lý thuyết, phương pháp dạy học lạc hậu, chưa
phù hợp với đặc thù khác nhau của các loại hình cơ sở giáo dục, vùng miền và các
đối tượng người học; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống kinh tế, xã hội; chưa
chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội; chưa chú trọng giáo dục kỹ năng
sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên”.

Đầu tư tài chính, cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo chưa tương xứng
với quy mô sinh viên, hệ thống thư viện, phòng thí nghiệm lạc hậu, nghèo nàn;
chuẩn tối thiểu theo quy định là 2m² sàn xây dựng/sinh viên nhưng nhiều trường
vẫn không đáp ứng được. Nhiều trường cao đẳng, đại học tại Thành phố diện tích
sàn thấp hơn chuẩn tối thiểu, một số trường chỉ đạt từ 0.7m² đến 0.9m² (Đại học
Mở, Đại học Sư phạm Thể dục thể thao, Cao đẳng Công nghệ thông tin…), thậm
chí một số trường ngoài công lập không có đất để xây dựng (Đại học Văn Hiến,
Đại học Hồng Bàng, Đại học Hùng Vương…) nhiều năm liền phải thuê mướn cơ
sở để đào tạo [20].

Chất lượng tuyển sinh đầu vào vẫn còn khá thấp, ngoại trừ một số trường
thuộc tốp trên có điểm đầu vào tương đối cao, số còn lại thì trên điểm sàn một hai
điểm hoặc chỉ vừa bằng với mức sàn tối thiểu của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định,
trung bình mỗi môn đạt từ 4,2 điểm là có thể trở thành sinh viên đại học.

Bảng 2.6: Điểm sàn các khối thi đại học theo qui định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo
Năm Khối A Khối B Khối C Khối D
2011 13 14 14 13
2012 13 14 14.5 13.5
2013 13 14 14 13.5
2014 13 14 13 13
2015 15 15 15 15
Nguồn:[Tác giả tự thu thập]

39
Những trường mới được nâng cấp, thành lập, đặc biệt là các trường ngoài công
lập thì tuyển sinh “xé rào” của Bộ, hạ điểm chuẩn, xét học bạ không theo tổ hợp
môn mà xét theo điểm trung bình của các môn học (Đại học Nguyễn Tất Thành,
năm 2015), thậm chí nhiều người không thi vẫn có giấy báo trúng tuyển, từ đó, tạo
ra sự khác biệt rõ rệt giữa chất lượng đào tạo đại học các hệ chính quy và không
chính quy, giữa các trường công lập và các trường ngoài công lập, đây là một trong
những điểm yếu về chất lượng đào tạo hiện nay.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX,
nhiệm kỳ 2010-2015 khẳng định “Chất lượng giáo dục - đào tạo và nguồn
nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu phát triển và hội nhập; khoa học - công
nghệ chưa thật sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” . Theo kết
quả khảo sát 500 doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12/2010
của Công ty Nhân Việt Management Group (tư vấn đào tạo nguồn nhân lực), có
đến 94% trường hợp nhân viên mới (sinh viên mới ra trường đi làm) cần được
đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp. Trong đó, các nội dung
cần đào tạo lại có 92% về nghiệp vụ chuyên môn, 61% về kỹ năng mềm cơ bản,
53% về kỹ năng quản lý và lãnh đạo [1]. Điều đáng nói ở số liệu này là không
chỉ kỹ năng mềm, mà sinh viên phải được đào tạo thêm nhiều nhất về nghiệp vụ
chuyên môn. Thực tế là có không ít sinh viên tốt nghiệp loại giỏi nhưng không
nắm được các kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn cơ bản để bắt tay ngay vào
công việc.

Hình 2.1. Biểu đồ mô tả nhân viên mới đi làm phải đào tạo lại

40
Qua khảo sát của Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường
lao động Thành phố năm 2013, có khoảng 80% sinh viên sau khi tốt nghiệp tìm
được việc làm, còn 20% tìm việc rất khó khăn hoặc không tìm được việc làm phải
chuyển đổi ngành học hoặc làm những công việc thấp hơn trình độ đào tạo. Trong
tổng số sinh viên tìm việc làm có 50% là có việc làm phù hợp với năng lực và phát
triển tốt; 50% còn lại làm việc trái ngành nghề thu nhập thấp, việc làm chưa thực sự
ổn định và có thể chuyển việc khác [55, Tr. 11].

Báo cáo tại Diễn đàn Kinh tế thế giới về năng lực cạnh tranh công bố đầu
tháng 9/2013, Việt Nam xếp thứ 95/148 nước về giáo dục đại học với điểm số là
3,69 (điểm cao nhất là 7); báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2013-2014, khi so sánh thứ
hạng về chỉ số cạnh tranh và 12 trụ cột để tính chỉ số đó của các nước ASEAN, về
trụ cột thứ 5 là giáo dục đại học và đào tạo thì thứ hạng của 10 nước ASEAN trong
148 nước lần lượt là: Singapore 2, Malaysia 46, Brunei 55, Indonesia 64, Thái lan
66, Philipines 67, Việt nam 95, Lào 111, Cam Pu Chia 116, Myanmar 139 [32].
Qua đó cho thấy chất lượng giáo dục đại học Việt Nam nói chung, Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng đang có sự tụt hậu khá xa so với nhiều nước trong khu vực và
thế giới.

41
Theo thống kê mới nhất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến
tháng 12/2015, cả nước có 225.500 người có trình độ đại học trở lên đang thất
nghiệp [26]. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng trên, tuy nhiên
trong đó nguyên nhân lớn nhất là sự kết nối thiếu hiệu quả giữa các bên trong việc
xác định cung, cầu và phần lớn các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta hiện nay đào
tạo theo nhu cầu người học hơn là nhu cầu thực tế.

2.2. Tình hình quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh từ 2010 đến nay
2.2.1. Chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học
Nghị quyết đại hội Đảng bộ Thành phố khóa IX đã xác định nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa giai đoạn
2011-2015 là một trong năm chương trình đột phá để phát triển Thành phố. Giải
pháp cụ thể là chủ động nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng trên địa bàn
Thành phố, nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong đó, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý các ngành, lĩnh vực theo
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Thành
phố; từng bước tham gia thị trường lao động kỹ thuật cao trong khu vực ASEAN và
quốc tế. Ưu tiên phát triển bốn ngành có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia
tăng cao: cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến lương
thực, thực phẩm. Và chín ngành dịch vụ: tài chính - tín dụng; ngân hàng - bảo hiểm;
thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu
chính viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông; kinh doanh tài sản, bất
động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học công nghệ; du lịch khách sạn nhà
hàng; y tế, giáo dục đào tạo.

Để phát triển giáo dục đại học, Thành phố đã quy hoạch và ban hành nhiều
chính sách nhằm mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, đồng thời thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ
thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, thực hiện
đào tạo theo nhu cầu xã hội, xác định cụ thể quỹ đất và địa điểm để di dời và xây

42
dựng mới các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố; từng bước giải
quyết những khó khăn, bất cập về điều kiện cơ sở vật chất của các trường đại học,
cao đẳng hiện hữu và giảm áp lực về giao thông trong nội thành; khuyến khích đào
tạo những ngành, nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp, cân đối hợp lý cơ cấu giữa các
ngành nghề, giữa khoa học cơ bản và khoa học công nghệ; mở rộng và phát triển hệ
thống các trường tư thục nhằm huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục trên
cơ sở phải bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu thực tiễn của Thành phố; nâng cao
chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn kiểm định trong khu vực và thế giới đối với các
ngành nghề có nhu cầu nhân lực trình độ cao. Đồng thời bổ sung cơ chế, chính sách
để các trường huy động nguồn vốn đầu tư, phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị
đáp ứng yêu cầu dạy và học theo hướng hiện đại, đón đầu sự phát triển của xã hội,
xu hướng hội nhập thế giới.

Thực hiện Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND, giai đoạn 2011-2015, Thành


phố đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình kích cầu phát triển giáo dục đại học,
đầu tư cho giáo dục đại học trên 36 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 15,77% tổng chi
ngân sách thường xuyên; hỗ trợ 100% lãi suất vay vốn đầu tư xây dựng mới cơ sở
vật chất, ký túc xá cho các trường. Tính từ tháng 11/2011 đến nay, đã có 14 dự án
đầu tư xây dựng của các trường được ngân sách Thành phố hỗ trợ toàn bộ lãi suất
vay trong thời gian 7 năm với tổng mức đầu tư trên 1.427,3 tỷ đồng, tổng số vốn
vay được ngân sách hỗ trợ lãi vay trên 608,2 tỷ đồng. Do đó, nhiều trường đại học
và cao đẳng đã tận dụng tốt chủ trương trên để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học và hệ thống giáo dục đại học ở
Thành phố [4]

Ngày 22 tháng 10 năm 2014, Thành phố ban hành Quyết định số 5209/QĐ-
UBND về việc qui hoạch xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn đến năm 2025; xác định cụ thể quỹ đất và địa điểm xây dựng mới các trường
đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằm giải quyết những khó
khăn, bất cập về điều kiện cơ sở vật chất của các trường đại học, cao đẳng hiện hữu,
đồng thời mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học, từng bước nâng cao chất lượng

43
và hiệu quả đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội cũng như gắn công tác
đào tạo với nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội.

Tuy nhiên, việc thực hiện chiến lược, việc quy hoạch các cơ sở giáo dục đại
học ở Thành phố còn không ít những hạn chế, trong Quyết định số 121/2007/QĐ-
TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy hoạch mạng lưới các
trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020 đã xác định ưu tiên thành lập các
cơ sở mới có đủ tiềm lực và điều kiện; hạn chế việc nâng cấp các cơ sở hiện có,
song trên thực tế một số trường được thành lập mới và nâng cấp tại Thành phố từ
năm 2010 đến nay chưa đảm bảo các yêu cầu về đội ngũ giảng viên, nội dung
chương trình đào tạo và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác dẫn đến chất lượng
giáo dục đại học ngày càng thấp so với mặt bằng chung thế giới. Bên cạnh đó, khó
khăn chung cho đại học Thành phố cũng như trong cả nước là chính sách tài chính
cho giáo dục đại học chậm được đổi mới. Việc phân bổ ngân sách nhà nước chưa
gắn với nhu cầu kinh phí cần thiết cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo, chưa
khuyến khích việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo. Định mức phân bổ ngân
sách cho các cơ sở giáo dục đại học công lập về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp,
bình quân và chủ yếu dựa vào các yếu tố đầu vào nên chưa gắn kết giữa kết quả sử
dụng nguồn lực ngân sách nhà nước với kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Theo
đó, phần nào hạn chế tính năng động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục đại học công
lập trong việc huy động thêm các nguồn lực xã hội mà còn trông chờ vào sự bao cấp
của nhà nước. Cơ chế sử dụng nguồn thu chưa thật hiệu quả vì thiếu hệ thống
khuyến khích về lợi ích. Các quy định về cấp phát và kiểm tra sử dụng ngân sách
nhà nước đối với các trường đại học và cao đẳng còn quá chi tiết, nhấn mạnh vào
yếu tố đầu vào mà chưa coi trọng hiệu quả đào tạo, chất lượng sản phẩm đào tạo.

2.2.2. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong quản
lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Để thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu
xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới, những năm

44
gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là Luật Giáo dục
năm 2012 nhằm tạo lập nên khung thể chế phù hợp với nhiệm vụ của giai đoạn mới
và điều chỉnh các hoạt động liên quan trực tiếp đến chất lượng giáo dục đại học,
như: Tổ chức quản lý đào tạo; đội ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy; tuyển sinh; tài
chính; đảm bảo chất lượng; năng lực người học. Đây cũng chính là cơ sở đảm bảo
hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học để xây
dựng và phát triển giáo dục đại học.

Với vai trò thống nhất quản lý về lĩnh vực giáo dục đại học trong cả nước,
Chính phủ đã ban hành một số nghị định, văn bản chỉ đạo thực hiện tinh thần của
luật giáo dục đại học: Quyết định số 64/2013/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013
của Thủ tướng Chính phủ, ban hành điều kiện và thủ tục thành lập hoặc cho phép
thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo, sáp nhập, chia,
tách, giải thể trường đại học, học viện đã quy định rõ 05 điều kiện thành lập trường
đại học và 06 điều kiện để trường đại học đi vào hoạt động trong đó chú trọng
những điều kiện có ý nghĩa trọng tâm của bảo đảm chất lượng giáo dục đại học như
yếu tố cơ sở vật chất, chương trình, giáo trình, đội ngũ giảng viên, nguồn lực tài
chính và tổ chức quản lý; Nghị định số 73/2015/NĐ-CP, ngày 08 tháng 9 năm 2015,
quy định cụ thể về tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ
sở giáo dục đại học, theo đó các cơ sở giáo dục đại học muốn được công nhận phân
tầng thì điều kiện đầu tiên là phải được kiểm định chất lượng đạt yêu cầu và còn giá
trị hiệu lực bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; Nghị quyết số 77/NQ-CP,
ngày 24 tháng 10 năm 2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở
giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017 với xu hướng từng bước nâng cao
vai trò tự chủ, trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học nhằm hướng đến
mục tiêu là giúp các cơ sở giáo dục đại học có đủ điều kiện, nguồn lực để cung cấp
sản phẩm giáo dục đại học thực sự có chất lượng, mặc dù vẫn còn khống chế trần
học phí nhưng có thể nói, đây chính là cơ chế có tính đột phá cho các cơ sở giáo dục
đại học trong việc chủ động thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, bộ
máy, nhân sự, tài chính nhằm tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng đào tạo.

45
Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành một loạt thông tư hướng dẫn,
quy định về các điều kiện, quy trình phối hợp thực hiện nhằm quản lý, nâng cao
chất lượng giáo dục đại học như: Thông tư số 38/2013/TT-BGDĐT, ngày 29 tháng
11 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ban hành quy định về quy
trình và chu kỳ kiểm định chất lượng chương trình đào tạo của các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp; văn bản hợp nhất số 06/VBHN-BGDĐT ngày
04 tháng 3 năm 2014, ban hành quy định về tiêu chuẩn tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học làm công cụ giúp trường đại học tự đánh giá nhằm
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và là động tác giải trình với các cơ quan
chức năng, xã hội về thực trạng chất lượng đào tạo. Đồng thời làm cơ sở để cơ quan
chức năng đánh giá và công nhận trường đại học đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục,
giúp người học có cơ sở lựa chọn trường và nhà tuyển dụng lao động tuyển chọn
nhân lực dựa trên 10 tiêu chí: Sứ mạng và mục tiêu của trường đại học, tổ chức và
quản lý, chương trình đào tạo, hoạt động đào tạo, đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên
và nhân viên, người học, nghiên cứu khoa học, ứng dụng, phát triển và chuyển giao
công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, cơ sở vật chất, tài chính và quản lý tài chính;
Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT, ngày 16 tháng 4 năm 2015 quy định về khối
lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt
nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng,
thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Văn bản
này đã xác định yêu cầu về năng lực của trình độ đại học trên các phương diện về
kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm. Những yêu cầu về năng lực
trong văn bản này có tính cụ thể, là cơ sở pháp lý quan trọng để các trường điều
chỉnh, hoàn thiện chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo, bảo đảm chuẩn đầu ra
thực sự là công cụ cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo; Thông tư 32/2015/TT-
BGDĐT, ngày 16 tháng 12 năm 2015, quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh
đối với các cơ sở giáo dục đại học theo hướng hạ thấp tỷ lệ sinh viên/giảng viên,
giảm dần quy mô đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học.

46
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng nhu cầu phát triển và hội nhập trong thời kỳ mới, Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ban hành Quyết định số 22/2011/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2011, về ban
hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần
thứ IX về chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố Hồ Chí
Minh giai đoạn 2011- 2015; Quyết định số 1443/QĐ-UBND ngày 26 tháng 03 năm
2014, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng giáo dục đại
học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015, hướng tới
mục tiêu chủ động nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng theo tiêu chuẩn
kiểm định trong khu vực ASEAN đối với các ngành nghề có nhu cầu nhân lực trình
độ cao trên địa bàn Thành phố; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục đại
học, cao đẳng trên địa bàn, cụ thể là củng cố tổ chức, hoàn thiện quy chế hoạt động
của Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học và xây dựng quy chế quản lý thống
nhất các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Thành phố. Thực hiện việc sáp
nhập và giải thể các trường chưa đảm bảo điều kiện hoạt động, giám sát việc thực
hiện ba công khai và chuẩn đầu ra nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo đáp
ứng nhu cầu xã hội.

Sau khi Luật Giáo dục đại học và hệ thống văn bản hướng dẫn được ban hành,
Thành phố đã tích cực tổ chức, thực hiện công tác phổ biến pháp luật về giáo dục
đại học. Việc tuyên truyền, phổ biến Luật Giáo dục đại học được đơn vị có trách
nhiệm liên quan triển khai thông qua các hình thức tuyên truyền miệng, biên soạn
phát hành tài liệu tuyên truyền; kết hợp các hình thức như tổ chức hội nghị triển
khai, quán triệt Luật Giáo dục đại học, tổ chức thảo luận, lồng ghép nội dung giới
thiệu Luật trong các buổi sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chuyên môn, các hội nghị,
chương trình tập huấn, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; biên soạn, phát tài liệu phù
hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức, viên chức, người học; tuyên truyền trên
phương tiện thông tin đại chúng, bản tin, đài truyền thanh nội bộ. Đồng thời yêu cầu

47
các cơ sở giáo dục đại học tổ chức phổ biến, quán triệt Luật Giáo dục đại học theo
các khối cán bộ quản lý, nhà giáo và người học, đăng tải toàn văn Luật Giáo dục đại
học và các văn bản hướng dẫn trên Website của trường và các đơn vị trực thuộc.
Việc chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp phổ biến pháp luật về giáo dục đại
học của Ủy ban nhân dân Thành phố đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức và
chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan và các cơ
sở giáo dục đại học, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học trên địa bàn Thành phố nói chung.

Trong tổ chức thực hiện, căn cứ vào các văn bản pháp luật liên quan, đặc biệt
là công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học và các hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, nhiều cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố đã chú
trọng triển khai thông qua việc tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục đại
học theo tiêu chuẩn quốc tế.

Thông qua thực tiễn vận hành cho thấy nhìn chung, hệ thống văn bản quy

phạm pháp luật của nhà nước về giáo dục đại học nói chung và Thành phố nói riêng
được ban hành, đặc biệt từ 2010 đến nay, làm cơ sở đảm bảo hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, thể hiện rõ quyết tâm đổi mới giáo
dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xây dựng
đất nước trong thời kỳ mới, thông qua việc chỉ rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng
chủ thể quản lý nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học đối với
việc bảo đảm chất lượng giáo dục đại học; trao quyền tự chủ nhiều hơn cho cơ sở
giáo dục đại học trong các hoạt động chủ yếu, thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân
sự, tài chính, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, tuyển sinh, xây dựng,
thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ,
chất lượng đào tạo và đặc biệt là các quy định về điều kiện bảo đảm chất lượng, coi
kiểm định chất lượng là nghĩa vụ bắt buộc của các cơ sở giáo dục đại học đã tác
động tích cực đến hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Thời gian qua, nhiều
cơ sở giáo dục đại học tại Thành phố như Đại học Quốc gia, Đại học Kinh tế, Đại

48
học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh…đang tích cực đổi mới, thực hiện đầy
đủ ba công khai trên trang thông tin điện tử trường, nâng cấp cơ sở vật chất, có
chính sách thu hút nhân tài bổ sung đội ngũ giảng dạy, chú trọng công tác tự đánh
giá và chủ động đánh giá ngoài nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, hội
nhập giáo dục quốc tế. Tuy nhiên trong quá trình vận hành, một số hạn chế đã được
bộc lộ, cụ thể như công tác tuyển sinh vẫn chưa thực sự giảm nhiều tình trạng căng
thẳng, tốn kém, các trường chưa hoàn toàn tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc
tuyển sinh do khâu thi và khâu tuyển chưa hoàn toàn tách bạch với nhau; các điều
chỉnh về tiền lương, phụ cấp thâm niên, phụ cấp giảng viên chưa đủ đảm bảo cho
đội ngũ giảng viên toàn tâm toàn ý làm nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học; cơ chế hoạt động trong kiểm định chất lượng chưa rõ ràng; phân cấp quản lý
còn phân tán, chồng chéo; giảm quy mô đào tạo đồng loạt mà không xét đến năng lực
đào tạo của nhiều trường…cần tiếp tục được xem xét, khắc phục trong thời gian tới.

2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học và chất lượng
giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục đại học là Sở Giáo
dục và Đào tạo Thành phố. Sở Giáo dục và Đào tạo là cơ quan chuyên môn của Ủy
ban nhân dân Thành phố, có chức năng tham mưu và giúp Ủy ban nhân dân quản lý
nhà nước về giáo dục đại học ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo
phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân Thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Thành phố; chịu sự quản lý toàn diện của Ủy ban nhân dân Thành phố, đồng
thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.

Hình 2.2: Sơ đồ tổ chức bộ máy Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố

49
Bộ phận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đại học và
chất lượng giáo dục đại học là Phòng Giáo dục chuyên nghiệp và Đại học (12 thành
viên gồm: 01 Trưởng phòng, 02 Phó trưởng phòng, 09 chuyên viên); Bộ phận thực
hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát là Phòng Thanh tra (10 thành viên, trong
đó: 01 Trưởng phòng, 03 Phó trưởng phòng, 04 thanh tra viên và 02 chuyên viên).

Sở giáo dục và đào tạo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước
về giáo dục đại học được quy định tại Thông tư liên tịch số: 47/2011/TTLT-
BGDĐT-BNV ngày 19 tháng 10 năm 2011, được thay thế bằng thông tư số
11/2015/TTLT-BGDĐT-BNV, ngày 29 tháng 05 năm 2015 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Bộ Nội vụ, hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

50
trung ương. Bên cạnh đó, còn có cơ quan Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng một số cơ
quan chủ quản của các cơ sở giáo dục khác trú đóng trên địa bàn.

Đối với các hoạt động đảm bảo chất lượng giáo dục hiện nay tại các cơ sở giáo
dục đại học ở Thành phố, cơ quan quản lý cấp Quốc gia là Cục Khảo thí và Kiểm
định chất lượng giáo dục thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; trong nội bộ các cơ sở giáo
dục đại học là các bộ phận đảm bảo chất lượng bên trong đã và đang được thiết lập
tại các trường. Hiện nay, Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục là cơ quan
tham mưu ở cấp cao nhất được quyền tham gia quá trình ra quyết định trong những
vấn đề ở tầm chính sách như xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng và quy định cơ chế
vận hành đối với quá trình đảm bảo chất lượng của hệ thống giáo dục quốc gia [34].

Tuy nhiên, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
vẫn còn nhiều bất cập, có sự chồng chéo, phân tán về chức năng nhiệm vụ, tác động
không thuận lợi đến công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học tại Thành phố.
Luật Giáo dục đại học năm 2012 quy định: (i) Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về giáo dục đại học; (ii) Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học; (iii) Bộ, cơ quan ngang bộ phối
hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học
theo thẩm quyền; (iiii) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo phân cấp của
Chính phủ; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục của các cơ sở giáo dục
đại học trên địa bàn; thực hiện xã hội hoá giáo dục đại học; bảo đảm đáp ứng yêu
cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học tại địa
phương. Việc tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo quy định
hiện nay đã làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của Thành phố trong nâng cao
chất lượng giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp xây dựng, phát triển Thành phố và tính năng động, sáng tạo của các cơ sở
giáo dục đại học trên địa bàn.

51
Về công tác quản lý chất lượng giáo dục đại học, ngoài chức năng quản lý
chuyên môn về khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, Cục Khảo thí và Kiểm
định chất lượng còn cung cấp dịch vụ công về kiểm định chất lượng giáo dục (Nghị
định 85/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003). Từ thực tế các cơ sở giáo dục đại
học trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua cho thấy, Cục Khảo thí và
Kiểm định chất lượng giáo dục mới thực hiện tương đối hiệu quả các nội dung khảo
thí, còn công tác kiểm định chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Do đó dẫn đến
việc chất lượng giáo dục đại học trong nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và mong đợi của toàn xã hội.

2.2.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong quản lý nhà nước về giáo dục đại
học và chất lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục
đại được Thành phố triển khai thực hiện theo phân cấp của Chính phủ và theo
hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm phát hiện những hạn chế để đề xuất,
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp khắc phục, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học.

Từ năm 2010 đến nay, Thành phố đã tiến hành kiểm tra 103 lượt đối với các
trường đại học, cao đẳng (với 231 ngành, trong đó 52 ngành cao đẳng, 117 ngành
đại học, 49 ngành thạc sĩ và tiến sĩ 13 ngành), trên cơ sở kiểm tra năng lực đội ngũ
giảng viên cơ hữu và cơ sở vật chất, thiết bị, thư viện, giáo trình...nhằm quyết định
cho phép mở ngành. Đồng thời tham mưu công nhận, không công nhận Hội đồng
quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng đối với các trường đại học, cao
đẳng tư thục và kiểm tra kết quả thực hiện kết quả thực hiện các cam kết thành lập
của 08 trường trên địa bàn Thành phố; kiểm tra, giám sát các hoạt động liên kết đào
tạo trong và ngoài nước của các trường cao đẳng, đại học và các cơ sở liên kết đào
tạo cao đẳng, đại học với nước ngoài tại địa phương [58].

Riêng về công tác thanh tra trong quản lý nhà nước về đại học theo Thông tư
số: 39/2013/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 04/12/2013,

52
thẩm quyền thanh tra chuyên ngành (bao gồm cả các điều kiện để bảo đảm chất
lượng giáo dục, kiểm định chất lượng giáo dục, đội ngũ giảng dạy, cơ sở vật chất,
chương trình, giáo trình, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế…) của Thành phố
chỉ giới hạn trong phạm vi các trường do Thành phố quản lý theo phân cấp của Bộ
Bộ Giáo dục và Đào tạo, còn các cơ sở giáo dục đại học của các Bộ, cơ quan ngang
bộ đóng trên địa bàn Thành phố do Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo phụ trách.

Đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về chất lượng giáo dục đại học,
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cho thấy, cơ chế kiểm tra, giám sát
chưa rõ ràng khi chưa xác định rõ chủ thể kiểm tra, giám sát. Bản thân các quy
định có liên quan đến quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục cũng chưa hình
thành được một cơ chế kiểm tra, giám sát rõ ràng, minh bạch và cụ thể chủ thể
kiểm tra, giám sát về chất lượng các quy định có liên quan đến quản lý nhà nước
về chất lượng giáo dục cũng chưa hình thành được một cơ chế kiểm tra, giám sát
rõ ràng, minh bạch và cụ thể. Điều đó đã tạo điều kiện cho các báo cáo chất lượng
ảo, mâu thuẫn với thực tế tiếp tục tồn tại.

Xuất phát từ những bất cập trên, có thể khẳng định hoạt động thanh tra, kiểm
tra, giám sát của cấp nhà nước và Thành phố đối với hoạt động quản lý nhà nước
về giáo dục đại học và chất lượng giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố chưa
thực sự hiệu quả. Trong các năm qua, nhiều sai phạm của cơ sở giáo dục đại học
diễn ra trên địa bàn Thành phố nhưng không được phát hiện và xử lý kịp thời dẫn
đến việc chất lượng giáo dục đại học ngày càng thấp kém.

Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ và chương trình hành động của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới quản lý
giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012 đã chỉ rõ những hạn chế công tác thanh tra,
kiểm tra hiện nay. Đó là đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục còn nhiều sai sót,
vi phạm quy chế chậm được phát triển và xử lý, các kết luận thanh tra, kiểm tra
chưa đủ mạnh hoặc xử lý sau thanh tra chưa kiên quyết và không đủ tính răn đe để
chấm dứt các sai phạm. Nhiều trường hợp liên kết đào tạo sai quy định, bất chấp

53
các quy định quản lý nhà nước Điều này dẫn đến một thực tế, việc chấp hành kỷ
cương pháp luật trong giáo dục đại học ở nhiều cơ sở giáo dục đại học chưa
nghiêm dẫn tới nhiều sai phạm như: xác định chỉ tiêu không đúng với thực tế; liên
tục tuyển sinh vượt chỉ tiêu …[34].

2.3. Nhận xét hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học
tại Thành phố Hồ Chí Minh

2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân


2.3.1.1. Kết quả đạt được
Để thực hiện hiệu quả việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, trong 5 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đúng
mức đến công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.

Kết quả quan trọng đạt được trước hết là sự thay đổi trong nhận thức về quản
lý nhà nước đối với giáo dục đại học theo hướng quản lý chất lượng với những bước
đi cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Từ đó, triển khai tổ chức thực hiện
tương đối hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan cấp trên trong
quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục trên địa bàn Thành phố, đặc biệt là từ chủ
trương nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2010-2015, Thành phố đã ban
hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển giáo dục đại học theo hướng tập
trung nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục
đại học của thành phố từng bước được nâng cấp, hoàn thiện. Trong giai đoạn từ
2011 đến nay, xác định rõ tầm quan trọng của đội ngũ thực thi công tác quản lý nhà
nước về chất lượng giáo dục đại học, Thành phố đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý giáo dục, tập huấn, phổ biến các văn
bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học, trình độ ngoại ngữ, tin học cho hàng
ngàn lượt cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục, nhất là
giáo dục đại học. Nhờ tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, trình độ, chuyên
môn của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về giáo dục đại học ngày càng

54
được nâng cao. Chất lượng tham mưu, triển khai thực hiện chủ trương, chính sách,
chương trình kế hoạch phát triển giáo dục đại học có nhiều chuyển biến tích cực.

Để phục vụ cho công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội, ngày 11 tháng 4 năm
2009, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ký Quyết định số 1518/QĐ-UBND thành lập
Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố
Hồ Chí Minh thuộc Sở Lao Động – Thương binh và Xã hội, thực nhiệm vụ dự báo
nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh; tổ chức nghiên cứu, khảo sát, thu thập, phân tích, đánh giá, cung cấp các
thông tin về nguồn nhân lực, lao động, việc làm và dạy nghề; thu thập thông tin thị
trường lao động trong nước và ngoài nước, nhu cầu lao động và đào tạo nghề để dự
báo và phục vụ công tác quản lý nhà nước về lao động - việc làm, định hướng đào
tạo trên địa bàn Thành phố.

Chất lượng đào tạo đại học tại Thành phố trong những năm vừa qua cũng đã
có nhiều chuyển biến tích cực, tính đến đầu năm 2015, có 33 ngành trong 06 trường
đại học công lập (Đại học Sài Gòn, Đại học Kiến trúc, Đại học Bách khoa, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc tế đăng ký
kiểm định chất lượng giáo dục đại học theo chuẩn khu vực ASEAN (AUN-QA).
Trong đó các trường thuộc nhóm Đại học Quốc gia đã hoàn thành 100% công tác
kiểm định cho 13 ngành và có 07 ngành đạt chuẩn kiểm định khu vực AUN-QA
gồm: Trường Đại học Bách Khoa (ngành điện tử viễn thông và kỹ thuật cơ khí); Đại
học Khoa học tự nhiên (ngành công nghệ thông tin); Đại học Quốc tế (ngành khoa
học máy tính, công nghệ sinh học, quản trị kinh doanh); Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn (ngành Việt Nam học). Đặc biệt hai chương trình Kỹ thuật Máy tính
và Khoa học Máy tính của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được công
nhận đạt chuẩn mức 3, đây là mức công nhận cao nhất của ABET (Accreditation
Board of Engineering and Technology) [58]. Đây là một tổ chức kiểm định có uy
tín trong cộng đồng quốc tế, được công nhận bởi Ủy ban Kiểm định đại học
(Council for Higher Education Accreditation – CHEA) của Mỹ và các tổ chức kiểm
định khác. Sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình có kiểm định của ABET sẽ

55
được công nhận đạt chuẩn về kiến thức, kỹ năng, thái độ nghề nghiệp trên phạm vi
quốc tế. Một số trường như Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học
Công nghiệp Thực phẩm mới được Chính phủ cho phép hoạt động theo cơ chế tự
chủ cũng rất nỗ lực thực hiện công tác tự đánh giá, mời tổ chức ngoài đánh giá
ngoài để chuẩn bị cho việc đăng ký theo chuẩn kiểm định khu vực AUN-QA và
chuẩn kiểm định ABET.

2.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả


Trong nhiều năm qua, Thành phố luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của
Đảng, Nhà nước và sự hỗ trợ tích cực của các Bộ ngành Trung ương trong lĩnh vực
giáo dục đại học, được Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị
xác định là đô thị đặc biệt, trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ của cả nước.

Bên cạnh đó, sự đoàn kết, nhất trí cao trong công tác lãnh đạo, điều hành của
Đảng bộ và chính quyền Thành phố đối với định hướng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển Thành phố trong thời kỳ mới; triển
khai nhiều giải pháp chủ động, sáng tạo thực hiện Nghị quyết, chủ trương, chính
sách của Trung ương trong lĩnh vực giáo dục đại học phù hợp tình hình thực tiễn tại
địa phương là yếu tố quan trọng đạt góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo
cao đẳng, đại học trên địa bàn. Đồng thời, các chủ trương, định hướng về nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực được các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố
ủng hộ và tích cực triển khai thực hiện. Ngoài ra, công tác xã hội hóa giáo dục từng
bước có sự chuyển biến, nhận được sự đồng tình và hưởng ứng của xã hội.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân


2.3.2.1. Mặt hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học ở Thành phố vẫn còn không ít những hạn chế, biểu hiện qua một
số mặt nổi bật sau:

56
Một là, công tác quy hoạch và chính sách phát triển giáo dục đại học tại địa
bàn Thành phố chưa thực hiện hiệu quả; việc di dời các trường về khu vực tập trung
gặp nhiều khó khăn; thủ tục giao đất, cấp đất còn chậm; sự hỗ trợ của chính quyền
đối với các cơ sở giáo dục đại học trong việc đền bù, giải tỏa và thực hiện các giải
pháp tái định cư đối với các hộ dân còn hạn chế nên nhiều cơ sở vẫn tiếp tục thuê
mướn địa điểm để đào tạo, không đảm bảo các điều kiện để nâng cao chất lượng
giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
Thành phố đã đề ra.

Cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề không đảm bảo sự cân đối về phát triển
quy mô giữa trình độ đại học với các trình độ đào tạo khác (giáo dục nghề nghiệp).
Đồng thời chưa có cơ chế gắn kết giữa công tác đào tạo của các cơ sở giáo dục đại
học với thị trường lao động, nhu cầu nhân lực thực tế; sản phẩm giáo dục đại học
chưa hội nhập được với thị trường lao động cả trong và ngoài nước.

Chính sách tài chính chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường, chưa đảm bảo
cho các trường tự chủ trong điều kiện kinh tế còn khó khăn; một số cơ sở giáo dục
đại học trên địa bàn Thành phố đã được Chính phủ cho phép hoạt động theo hướng
tự chủ, tuy nhiên việc khống chế mức trần học phí ở mức thấp vẫn chưa thực sự tạo
điều kiện thuận lợi để các trường nâng cao chất lượng đào tạo và chịu trách nhiệm
trước xã hội đối với sản phẩm đào tạo của mình. Thực tế cho thấy quy định trần
mức học phí mặc dù giúp hạn chế sự tùy tiện thu học phí cao nhưng lại hạn chế
quyền quyết định mức học phí phù hợp của một trường. Mặt khác, do mức trần học
phí còn chưa được quy định sát với chi phí thực tế nên làm cho quyền quyết định
mức học phí của các trường không có nhiều ý nghĩa thực tiễn.

Quy trình ban hành chính sách và giám sát thực hiện chính sách phát triển giáo
dục đại học ở tầm vĩ mô mang nặng tính chủ quan của nhà quản lý hơn là phân tích,
đánh giá nhu cầu và mục đích, bối cảnh kinh tế xã hội. Theo luật giáo dục đại học
năm 2012 thì Hội đồng trường trong cơ sở giáo dục đại học công lập là tổ chức
quản trị, đại diện quyền sở hữu của nhà trường, có quyền quyết nghị chiến lược, quy

57
hoạch, kế hoạch phát triển và quy chế về tổ chức và hoạt động của nhà trường. Tuy
nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng sẽ rất khó để thành lập được Hội đồng trường theo đúng nghĩa vì thành
viên của hội đồng trường vừa là Hiệu trưởng, vừa là bí thư đảng ủy. Đồng thời, cơ
chế hoạt động của Hội đồng trường và Đảng ủy trường có nhiều điểm trùng lặp
nhau. Trong khi Đảng ủy không chịu trách nhiệm chính đối với những quyết
định/định hướng của mình mà người chịu trách nhiệm chính sẽ là Hiệu trưởng và
Hội đồng trường.

Hai là, Thành phố chưa có các văn bản hướng dẫn, phối hợp đối với các cơ sở
giáo dục đại học trên địa bàn của Thành phố và các bộ chủ quản liên quan trong
triển khai công quản lý nhà nước đối với chất lượng giáo dục đại học. Đồng thời, cơ
chế đồng quản lý các cơ sở đào tạo giữa chính quyền Thành phố với các bộ chủ
quản chưa được quy định rõ trong các văn bản pháp luật của nhà nước, gây trở ngại
không ít tới việc thực hiện nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo tại Thành phố.

Công tác tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về giáo dục đại học chưa
thực sự hiệu quả. Điều này một mặt thể hiện sự thiếu nghiêm minh trong chấp hành
luật pháp, mặt khác không đảm bảo được cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh để thực hiện
quyền tự chủ đi liền với cơ chế giám sát và trách nhiệm giải trình của nhà trường.
Trong thực tế vận hành những năm gần đây, một số trường được thí điểm giao
quyền tự chủ cao nhưng thiếu sự giám sát của Hội đồng trường đã xảy ra những vi
phạm quy chế đào tạo, vi phạm dân chủ cơ sở dẫn đến mất đoàn kết, khiếu kiện kéo
dài. Ngoài ra, việc thực hiện ba công khai của các cơ sở giáo dục đại học trên địa
bàn Thành phố còn mang tính đối phó, hình thức, rất ít trường công bố rõ các thông
tin công khai về chất lượng giáo dục thực tế, về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo
dục và về thu chi tài chính để người học, các thành viên của cơ sở giáo dục và xã
hội tham gia giám sát và đánh giá cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật.

Trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục đại học Ủy ban nhân dân Thành
phố thường giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo, trong khi Sở Sở Giáo dục và Đào tạo

58
chỉ quen quản lý bậc phổ thông nên gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân khách
quan là các văn bản cấp trên chưa xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước về giáo dục đại học và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các
bộ, ngành, địa phương. Chưa phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của
cơ sở giáo dục và đào tạo và chưa thực hiện tốt việc phân cấp, nâng cao trách
nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.

Ba là, bộ máy quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học chưa có sự thống
nhất và tập trung; trong số 85 trường cao đẳng và đại học trú đóng trên địa bàn, chia
làm bốn nhóm: (i) 09 trường đại học, cao đẳng công lập trực thuộc Thành phố,
trong đó 02 trường đại học, 06 trường cao đẳng và 01 học viện cán bộ Thành phố.
(ii) 23 trường đại học, cao đẳng tư thục: bao gồm 14 trường đại học và 09 trường
cao đẳng. (iii) 46 trường đại học, cao đẳng công lập thuộc Bộ, ngành Trung ương
quản lý. (iv) 07 trường và 01 khoa trực thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh. Như vậy, thực tế Thành phố chỉ quản lý 15 trường cao đẳng và 17 trường đại
học, các trường còn lại trực thuộc các Bộ, ngành, Sở khác lại không thuộc sự quản
lý của Sở Giáo dục và Đào tạo [58]. Sự phân công trách nhiệm giữa các chủ thể
quản lý chưa rõ ràng đã dẫn đến việc hạn chế khá nhiều hoạt động quản lý của địa
phương trong việc chủ động mở rộng quy mô đào tạo và giám sát các điều kiện bảo
đảm chất lượng đối với các cơ sở giáo dục đại học trú đóng trên địa bàn. Quy trình
quản lý không cụ thể dẫn đến hệ quả tất yếu là hoạt động không thông suốt, khi có
thiếu sót xảy ra thì khó phân định trách nhiệm.

Bốn là, công tác chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật
trong bảo đảm các điều kiện về thành lập trường, mở ngành đào tạo công khai các
điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục đối với các trường cao đẳng, đại học trên địa
bàn Thành phố chưa được thực hiện thường xuyên và phát hiện kịp thời, dẫn đến
tình trạng rất nhiều trường trên địa bàn Thành phố vi phạm quy chế tuyển sinh; đào
tạo kém chất lượng, không đủ yêu cầu về nguồn nhân lực và cơ sở vật chất vẫn
được cấp phép mở ngành...Năm học 2010, cả nước có 32 trường đại học, cao đẳng
bị Bộ Giáo dục và Đào tạo xử phạt do tuyển sinh vượt chỉ tiêu sai quy định, riêng

59
Thành phố Hồ Chí Minh có tới 17 trường hợp, chiếm 53% tổng số vi phạm so với
cả nước [20]; năm 2014 có 41 ngành trong 18 trường đại học và 18 ngành đào tạo
cao đẳng của 16 trường đại học trên địa bàn Thành phố bị dừng tuyển sinh do cơ
cấu trình độ giảng viên không đạt yêu cầu [41]; cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý
vi phạm pháp luật về quản lý chất lượng chưa được thực hiện hiệu quả. Việc phát
hiện và xử lý các sai phạm trong các cơ sở giáo dục đại học đặc biệt là những vấn
đề liên quan đến chất lượng giáo dục còn chậm. Thông tin về các sai phạm còn
chưa được công khai đầy đủ, làm dư luận nghi ngờ về tính minh bạch, tính trách
nhiệm trong hoạt động quản lý chất lượng giáo dục đại học.

Quy định về thẩm quyền thanh tra chuyên ngành của Thành phố chỉ giới hạn
trong phạm vi các trường do Thành phố quản lý, còn các cơ sở giáo dục đại học
của các Bộ, cơ quan ngang bộ đóng trên địa bàn Thành phố do Bộ Giáo dục và
Đào tạo thực hiện. Do đó, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với các cơ sở
giáo dục không thuộc Thành phố quản lý, chủ yếu chỉ dừng ở mức kiểm tra “cưỡi
ngựa xem hoa” các điều kiện cho phép mở ngành đào tạo dẫn đến việc trong thời
gian vừa qua, nhiều sai phạm của cơ sở giáo dục đại học diễn ra trên địa bàn
Thành phố nhưng không được phát hiện và xử lý kịp thời. Theo thẩm quyền quản
lý của các chủ thể hiện nay cho thấy, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang ôm khá nhiều
việc mang tính sự vụ nên không đủ thời gian để thực hiện trách nhiệm quản lý vĩ
mô đối với hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Đồng thời công tác thanh tra
chủ yếu tập trung nhiều vào tuyển sinh, tài chính hay các biểu hiện tiêu cực, khiếu
nại, tố cáo mà ít khi quan tâm tới việc các trường có chấp hành hay không các quy
định về công khai, minh bạch hay quy chế dân chủ cho nên chưa thể tác động
mạnh tới trách nhiệm xã hội của trường đại học. Do vậy, hoạt động thanh tra cũng
chưa thực sự đóng vai trò quan trọng khác của mình là nhà tư vấn về đảm bảo
trách nhiệm xã hội.

2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế


Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp lý của nhà nước có sửa đổi, bổ sung, dự thảo
mới nhưng trong thực tế vẫn còn nhiều vấn đề chưa đầy đủ, phù hợp và còn nhiều

60
điểm bất cập so với thực tiễn; cơ cấu tổ chức và thẩm quyền quản lý trong giáo dục
đại học hạn chế quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của trường đại học, nhiều Bộ,
ngành vừa quản lý nhà nước về trong giáo dục đại học, vừa quản lý chủ quản trong
vai trò chủ sở hữu nhà nước đối với trường đại học, làm nhiệm vụ quản lý dễ bị lẫn
lộn, chồng lấn, phân tán và bị kém hiệu quả và nhất là khó xác định trách nhiệm gây
ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước về trong giáo dục đại học.

Thứ hai, giáo dục dục đại học còn thiếu sự gắn kết với các hoạt động sản xuất
và nghiên cứu khoa học nên vẫn còn thiên nhiều về lý thuyết; chưa tạo ra được sự
phối hợp mạnh mẽ, đồng bộ giữa các ngành, các cấp và các lực lượng xã hội và
ngành giáo dục để đánh giá, định hướng nâng cao chất lượng, phát triển giáo dục
đại học.

Thứ ba, năng lực quản lý giáo dục đại học thành phố còn hạn chế, thiếu đội
ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ chuyên môn để tư vấn, xây dựng chính sách
quản lý nhà nước về quản lý chất lượng giáo dục đại học.

Thứ tư, hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát hiệu quả chưa cao, các biện
pháp chế tài đối với sai phạm của các cơ sở giáo dục chưa đủ mạnh nên các hạn chế
trong công tác tổ chức đào tạo, tuyển sinh, các điều kiện đảm bảo chất lượng...tiếp
tục còn tồn tại trong nhiều năm qua dẫn đến tình trạng nền giáo dục nước ta chậm
phát triển so nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Thông qua việc phân tích, đánh giá về công tác quản lý nhà nước về giáo dục
đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua cho thấy, quản lý nhà
nước về chất lượng giáo dục đại học đã từng bước có sự chuyển biến. Từ định
hướng tập trung nâng cao chất lượng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
xây dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, Nhà nước và
Thành phố đã điều chỉnh một số thể chế về giáo dục đại học nhằm thúc đẩy giáo
dục đại học phát triển theo hướng đảm bảo chất lượng; ban hành các chính sách

61
kích cầu đối với giáo dục đại học, tổ chức bộ máy quản lý chất lượng, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giảng dạy, từng bước giao quyền tự chủ cho các cơ
sở giáo dục đại học, đổi mới công tác tuyển sinh...

Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, tiếp tục còn có những hạn chế, bất cập
như phân cấp quản lý giáo dục đại học còn phân tán, chồng chéo; công tác thanh
tra, kiểm tra giám sát chưa được thực hiện tốt, mức độ chế tài không đủ mạnh
dẫn đến tình trạng nhiều cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố không
chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về giáo dục, hậu quả là chất lượng
giáo dục đại học tụt hậu khá xa so với mặt bằng chung của thế giới, làm xói mòn
niềm tin của nhân dân, sự kỳ vọng của xã hội vào chất lượng giáo dục đại học;
công tác tuyển sinh vẫn còn căng thẳng, tốn kém và đặc biệt là những mâu thuẫn
vể tư duy trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Giáo dục và Đào
tạo đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học cần tiếp tục
được xem xét, đổi mới.

62
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học

3.1.1 Tiếp tục hoàn thiện chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học
Sau gần 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, nền giáo
dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định,
nhưng bên cạnh đó cũng còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng được những đòi hỏi
trong thời kỳ mới, đặc biệt xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Để bảo đảm chất lượng
giáo dục đại học, Nhà nước cần có chiến lược bảo đảm chất lượng giáo dục đại học,
xác định rõ lộ trình hướng đến về chất lượng giáo dục đại học ở tầm mức quốc gia,
khu vực và quốc tế. Việc xây dựng định hướng chiến lược này xác lập tầm nhìn cho
nền giáo dục đại học, tạo những tiền đề cần thiết cho việc huy động nguồn lực của
Nhà nước và toàn xã hội cho phá triển giáo dục đại học.

Chiến lược bảo đảm chất lượng giáo dục đại học cần phải có sự đồng bộ với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc
gia nhằm tạo ra phối hợp hiệu quả trong quá trình thực hiện. Quy hoạch mạng lưới
các cơ sở giáo dục đại học phải chú trọng tới việc đảm bảo sự cân đối về số lượng
cơ sở giáo dục đại học với nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong hiện tại và tương
lai. Việc quy hoạch mạng lưới giáo dục phải bám vào nhu cầu thực tiễn để xây dựng
quy hoạch; dựa trên kết quả quá trình tổ chức nghiên cứu, khảo sát, đánh giá nhu
cầu nguồn nhân lực ở các lĩnh vực, các trình độ theo từng giai đoạn nhất định làm
cơ sở cho việc thực hiện công tác quy hoạch mạng lưới. Đồng thời, các cơ sở giáo
dục đại học cũng cần được sắp xếp lại theo hướng đào tạo đa ngành, đa nghề.

Đối với chính sách phát triển giáo dục đại học nên đổi mới tập trung vào một
số mặt sau đây:

63
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản
lý trường đại học, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có chất lượng. Cần
đổi mới công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các
quy định về tuyển dụng giảng viên; nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách nhằm
thu hút đội ngũ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, sinh viên các lớp tài năng, kỹ sư chất
lượng cao phẩm chất đạo đức tốt làm giảng viên; xây dựng chính sách thu hút cán
bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao trong và ngoài nước tham gia giảng dạy.

Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ trong tuyển dụng; môi trường
công tác và các điều kiện bảo đảm chất lượng, hiệu quả làm việc của đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý giáo dục (nhất là đối với các chức danh giáo sư, phó giáo sư,
chuyên gia, giáo viên/giảng viên cao cấp/có học vị tiến sĩ...); chế độ tiền lương và
thang, bảng lương của giảng viên,…

Đảm bảo quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế,
xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật và các chế độ đãi ngộ khác đối
với giảng viên. Bên cạnh đó, chú trọng nâng cao đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước
về chất lượng giáo dục đại học; bổ sung, thay thế những cán bộ không đáp ứng
được yêu cầu công việc; có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại một cách bài bản cho
đội ngũ này, mặt khác phải chú trọng năng lực thực tế của họ để bố trí công việc
phù hợp. Đồng thời, thực hiện các quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm, khiếu tố
và giải quyết khiếu tố liên quan đến đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục phải
đảm bảo sự công bằng, minh bạch.

Thứ hai, từng bước hướng tới việc giao quyền tự chủ tài chính toàn diện cho
các cơ sở giáo dục đại học, giảm một phần gánh nặng cho Nhà nước, đồng thời phát
huy sự năng động, sáng tạo của các trường trong việc vận động các thành phần
trong xã hội, người học chia sẻ chi phí đào tạo. Đổi mới cơ chế tài chính theo
hướng: Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong cung cấp dịch vụ gắn với nhu
cầu của xã hội. Cụ thể là được quyết định thu giá dịch vụ trên cơ sở khung giá tính

64
đủ các chi phí cần thiết do cấp có thẩm quyền ban hành; được hạch toán đầy đủ chi
phí; được Nhà nước giao vốn và bảo toàn, phát triển vốn; được quyền quyết định
việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với nhiệm vụ được giao theo quy định; được huy
động vốn, góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác, để
mở rộng việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công và tự quyết định biên chế và trả
lương trên cơ sở thang bảng lương của Nhà nước và hiệu quả, chất lượng công việc.
điều chỉnh cơ chế phân bổ ngân sách cho giáo dục đại học. Thay vì đầu tư, phân bổ
dàn trải theo số sinh viên, Nhà nước nên chọn một số chương trình, ngành đào tạo
thực sự cần mà thị trường không điều tiết được, những ngành thuần túy lý thuyết,
hoặc lĩnh vực nông nghiệp và chế biến sản phẩm nông nghiệp, những ngành rất cơ
bản, cần cho xã hội Việt Nam trong tương lai xa. Điều này cho phép nâng cao hiệu
quả sử dụng ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học, bảo đảm tập trung nguồn
lực cho đầu tư giáo dục đại học, tạo cơ cở nâng cao chất lượng đào tạo.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện thể chế về kiểm định và đánh giá các cơ sở giáo
dục đại học để phục vụ công tác phân tầng, xếp hạng các trường đại học; nên có tổ
chức kiểm định độc lập nằm ngoài Bộ Giáo dục và Đào tạo, có tư cách pháp nhân
và chuyên môn sâu về đo lường, đánh giá, kiểm định chất lượng các trường đại học
nhằm đảm bảo tính khoa học, khách quan, trung thực và tạo sự cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường giáo dục. Các kết quả kiểm định cần phải được công khai kịp
thời và là điều kiện quan trọng để chính phủ triển khai công tác phân tầng cơ sở
giáo dục đại học theo Nghị định số 73/2015/NĐ-CP nhằm tạo động lực thúc đẩy
nâng cao chất lượng toàn diện, phù hợp với xu thế của thế giới. Trên cơ sở phân
tầng Nhà nước sẽ có chính sách đầu tư phù hợp đối với sự phát triển của từng nhóm
trường khác nhau, hạn chế được sự đầu tư dàn trải về mặt tài chính. Tuy nhiên, để
phân tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục được chính xác, Bộ Giáo dục và Đào tạo
cần xác định cách tính điểm cho mỗi chỉ số của các tiêu chí theo tiêu chuẩn phân
tầng và xếp hạng khoa học, phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Đơn vị thực
hiện phải có năng lực, kinh nghiệm, uy tín và thực sự khách quan, tránh tình trạng

65
phân loại không chính xác, không khách quan và khoa học làm ảnh hưởng đến
thương hiệu của các trường.

Thứ tư, xây dựng chính sách để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây
dựng và thực hiện chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy giúp sinh viên ra trường
hòa nhập tốt với thị trường lao động và người sử dụng lao động cũng không phải
mất thời gian và chi phí đào tạo lại. Bên cạnh đó, có các quy định ràng buộc trách
nhiệm đối với các doanh nghiệp trong việc tạo điều kiện cho sinh viên thực tập theo
đúng chuyên ngành học để sinh viên tiếp xúc với môi trường làm việc ngay trong
thời gian còn đang học tập tại trường. Nhà nước cũng cần quy định trách nhiệm và
cơ chế phù hợp để mở rộng các hình thức hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp
trong đào tạo, sử dụng nhân lực và nghiên cứu chuyển giao công nghệ, khuyến
khích mở các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là đối với các trường đào tạo theo
hướng ứng dụng trong các doanh nghiệp lớn. Đồng thời, chú trọng việc xây dựng,
phát triển các trung tâm phân tích, dự báo nhu cầu nhân lực theo từng giai đoạn ở
cấp quốc gia và các tỉnh, thành phố nhằm cung cấp số liệu và cơ sở khoa học cho
việc hướng nghiệp, xây dựng chương trình, lập kế hoạch đào tạo và phục vụ công
tác nghiên cứu khoa học.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà
nước đối với chất lượng giáo dục đại học, trong đó đặc biệt lưu ý đến các văn bản
quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước, tránh sự trùng lắp, bao trùm quyền và
trách nhiệm của các ban ngành quản lý khác.

Pháp lý hóa trách nhiệm lãnh đạo và chịu trách nhiệm về lãnh đạo của tổ chức
Đảng ở từng cấp quản lý trường đại học. Hướng dẫn và quy định cụ thể thẩm quyền
và cơ chế phối hợp trách nhiệm giữa tổ chức Đảng và Hội đồng trường, đặc biệt là
trách nhiệm của người đại diện cho tổ chức Đảng tham gia vào Hội đồng trường
nhằm đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong khi Hội đồng trường có thể thực hiện
chức năng quản trị cao nhất. Biện pháp mang tính kỹ thuật hơn là định vị lại cơ cấu
thành viên trong việc ra quyết định của Hội đồng trường.

66
Tạo cơ chế và động lực trong quản lý nhà nước và quản lý của các cơ sở giáo
dục đại học tạo để bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo. Cụ thể là phân công,
phân cấp quản lý theo hướng chỉ rõ trách nhiệm quản lý nhà nước giữa Bộ Giáo
dục và Đào tạo và các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Thực
hiện dần việc thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục, tiến tới xóa bỏ cơ
chế bộ chủ quản. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu ban hành Nghị định mới thay thế
Nghị định số 115/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010 qui định trách nhiệm
quản lý của Nhà nước về giáo dục theo hướng phân cấp rõ hơn, giao quyền nhiều
hơn cho chính quyền địa phương trong thực hiện công tác quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học.

3.1.1. Nâng cao vai trò quản lý nhà nước kết hợp với mở rộng quyền tự
chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở trong giáo dục đại học

Đổi mới quản lý nhà nước đối với trong giáo dục đại học theo hướng tăng
quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở trong giáo dục đại học
là xu thế tất yếu thúc đẩy giáo dục đại học phát triển, đồng thời cũng xác định lại
vai trò của Nhà nước trong hoạt động quản lý chất lượng giáo dục đại học.

Trong nhiều năm qua, việc kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của các trường
đại học đã làm hạn chế sự phát triển lành mạnh, tính năng động sáng tạo của các
nhà trường. Điều đó cho thấy Nhà nước không phải là chủ thể tốt nhất nắm toàn
quyền vận hành của từng trường đại học. Việc quản lý một cộng đồng học thuật
không thể được thực hiện hiệu quả bởi những công chức quản lý gián tiếp, nhiệm
vụ này nên để cho nhà trường tự lo liệu. Nhà nước thay vì thực hiện vai trò kiểm
soát mang tính tập trung và cứng nhắc từ các vấn đề chuyên môn học thuật cho
đến công tác tổ chức và tài chính, ôm đồm nhiều phần việc mang tính tác nghiệp
sự vụ của trường đại học sẽ chuyển qua giữ vai trò định hướng ở tầm vĩ mô, tạo
môi trường chính sách và thực hiện vai trò giám sát, quản lý các trường đại học từ
xa hơn, tách biệt với việc thực hiện chính sách giáo dục đại học. Nhiệm vụ của
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là tạo ra khung pháp lý, định ra quy tắc tự chủ;

67
bảo đảm trách nhiệm xã hội của các trường đi vào cuộc sống, duy trì trật tự hoạt
động cung cấp dịch vụ giáo dục đại học và hạn chế sự vụ lợi quá mức làm xao lãng
lợi ích dài hạn của giáo dục đại học. Tuy nhiên, thực hiện vai trò giám sát không có
nghĩa là Nhà nước thoát ly hay buông lỏng sự điều khiển vĩ mô của mình mà là sự
điều chỉnh, hoàn thiện vai trò để phù hợp với bối cảnh mới, bối cảnh mà trong đó hệ
thống giáo dục đại học đã trưởng thành hơn và cơ chế thị trường đã thâm nhập và
phát huy tác dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bảng 3.1: So sánh mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học

So sánh mô hình quản lý chất lượng giáo dục đại học


Đặc điểm chính
Kiểm soát tập trung Giám sát phát triển
Trao quyền hạn trách nhiệm
Nguyên lý Quản lý tập trung cho trường đại học; tự điều
chỉnh
Định hướng, xác định tầm nhìn,
tạo lập khung pháp lý, giám sát,
Kiểm soát chặt chẽ hệ
Vai trò Nhà nước điều chỉnh, điều tiết, tạo môi
thống giáo dục đại học
trường cho giáo dục đại học
phát triển lạnh mạnh
Chi tiết, mang tính bắt Quản lý bằng định hướng
Sự điều chỉnh của Nhà buộc đối với các cơ sở giáo chiến lược, quy hoạch, kế
nước dục đại học hoạch, tiêu chuẩn chất lượng,
chuẩn đầu ra
Xem như cơ chế phối hợp, cơ
Chưa chú ý đúng mức đến
Yếu tố thị trường chế để đo lường, đánh giá chất
vai trò của thị trường
lượng giáo dục đại học
Là cơ quan Nhà nước, Là thực thể pháp lý tự chủ tham
Địa vị pháp lý trường
công cụ thực hiện chính gia thực hiện các mục tiêu được
đại học
sách đặt ra đối với giáo dục đại học
Chỉ do Nhà nước thực hiện Do Nhà nước và thực thể khác
Tài trợ công và phân bổ theo định mức thực hiện, phân bổ theo thành
ngân sách tích và mang tính cạnh tranh
Nhà nước đưa ra tiêu chuẩn Nhà nước tổ chức xây dựng
Đảm bảo chất lượng và trực tiếp tổ chứcquản lý tiêu chuẩn với sự tham gia của
chất lượng các lực lượng xã hội khác nhau

Nguồn: [26]

68
Bên cạnh đó, Nhà nước đó là cần phải bảo đảm sự công bằng trong giáo dục,
bảo đảm trách nhiệm xã hội của trường đại học đi vào cuộc sống. Vai trò của Nhà
nước không chỉ bó hẹp ở việc đảm bảo giáo dục đại học được cung cấp mà còn mở
rộng bảo đảm cho hàng hóa công đặc biệt này được cung cấp một cách trung thực và
có chất lượng, không chỉ buộc các trường phải chịu trách nhiệm trước mình mà còn
phải thúc ép các trường thực hiện trách nhiệm giải trình với các bên liên quan khác.
Trên cơ sở đó, một mặt, giúp xác lập đầy đủ hơn vai trò cân bằng nhu cầu tự chủ với
trách nhiệm giải trình mà Nhà nước yêu cầu đối với các trường; một mặt, nó mở rộng
vai trò của Nhà nước đối với phạm vi bảo đảm trách nhiệm rộng hơn của trường đại
học. Điều này còn có ý nghĩa là cùng với sự nới lỏng kiểm soát trực tiếp, Nhà nước
tăng cường các biện pháp giám sát và chế độ báo cáo, đảm bảo kết quả hoạt động
cũng như các chỉ số đầu vào được theo dõi còn sự giải trình được khuyến khích. Vai
trò bảo đảm trách nhiệm xã hội được thực thi thể hiện qua sự can thiệp kịp thời của
Nhà nước nhằm đảm bảo nguồn lực công được sử dụng hiệu quả và trung thực trong
khi duy trì vai trò tài trợ chính cho trường đại học. Sự thể hiện khác là đảm bảo chất
lượng, các trường và các chương trình đào tạo được kiểm định và kết quả kiểm định
được công khai, thông qua các quy định và cơ chế giám sát chặt chẽ.

Đổi mới vai trò quản lý, giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học là
điều kiện quan trọng để phát triển giáo dục đại học và hội nhập quốc tế. Vấn đề
quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học đã được thể chế hóa từ Luật Giáo dục
năm 1998, tiếp tục được nêu ở Luật giáo dục 2005 và khẳng định trong Luật Giáo
dục đại học 2012. Tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học được thể hiện thông qua
quyền quản lý, ra quyết định của các cơ sở giáo dục đại học trên các phương diện:
tổ chức, nhân sự, tài chính, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, học
thuật, trong đó tự chủ học thuật và tự chủ tài chính và là hai nội dung quan trọng
góp phần thúc đẩy mọi hoạt động hiệu quả. Tự chủ học thuật là linh hồn của giáo
dục đại học, nếu không có tự chủ học thuật thì khó có thể thực hiện được vai trò của
một cơ sở giáo dục đại học. Bên cạnh đó, nếu không có nguồn lực tài chính thì các
lĩnh vực tự chủ sẽ khó thực hiện có hiệu quả. Do đó, chỉ có quyền tự chủ, nhà

69
trường mới huy động đầy đủ được các nguồn lực của mình, mới có thể đáp ứng với
yêu cầu phát triển nhà trường trong xu thế hội nhập quốc tế. Quyền tự chủ không
thể tách rời trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Chất lượng giáo dục
đại học được tạo lập trực tiếp bởi các cơ sở giáo dục đại học, xã hội là chủ thể cuối
cùng có thẩm quyền đánh giá về chất lượng giáo dục đại học. Vì vậy, các cơ sở giáo
dục đại học không chỉ có trách nhiệm đối với Nhà nước, đối với phần ngân sách nhà
nước đã được cấp mà cần có trách nhiệm giải trình, trách nhiệm xã hội đối với
người học và cộng đồng xã hội. Trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục đại học
càng cần được đề cao trong bối cảnh mà giáo dục đại học mang trong mình những
yếu tố của thị trường dịch vụ, vấn đề lợi nhuận và trách nhiệm xã hội cần phải được
giám sát để bảo đảm sự phát triển lành mạnh của giáo dục đại học.

Để đảm bảo tính tự chủ và trách nhiệm xã hội của trường đại học, vấn đề đặt
ra cấp bách hiện nay là thành lập Hội đồng trường. Cả hai điều lệ trường đại học
năm 2003 và năm 2010 đều đề cập đến việc này, nhưng cho đến nay chỉ có rất ít
trường thành lập được Hội đồng trường một cách đúng nghĩa. Sự chậm trễ này có lý
do; một là Nhà nước chưa kiên quyết xử lý; hai là phần lớn Hiệu trưởng các trường
đại học đều không muốn thành lập Hội đồng trường. Trong đó nguyên nhân sâu xa
nhất vẫn là cơ chế hoạt động của Hội đồng trường và Đảng ủy có nhiều điểm trùng
lắp nhau. Một số ý kiến lo ngại rằng với cơ chế hiện nay, nếu làm không khéo thì
Hội đồng trường sẽ trở nên thừa vì Hiệu trưởng không thể chịu sự chỉ đạo từ hai
cấp. Điều này đúng nhưng chưa đủ, bởi Hội đồng trường chính là nhân tố tạo nên
sự thay đổi chứ không phải là Ban Giám hiệu hay Đảng ủy (do tính khách quan, độc
lập, số thành viên bên ngoài nhiều hơn bên trong). Bên cạnh đó, chính việc thành
lập Hội đồng trường đúng nghĩa sẽ giúp chuyển dần quyền lực từ bộ, ngành chủ
quản về các trường. Bỏ cơ chế bộ chủ quản chính là tư duy tiến bộ về quản lý nhà
nước đối với giáo dục đại học, tạo ra một không gian và môi trường rộng lớn thúc
đẩy giáo dục đại học phát triển, nhà trường hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật, dưới sự giám sát của Hội đồng trường .

70
Tuy nhiên, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là hai mặt của một vấn đề
không thể tách rời của cơ sở giáo dục đại học; tăng cường quá quyền tự chủ mà
không đặt yêu cầu về tự chịu trách nhiệm sẽ có nguy cơ dẫn đến vô chính phủ, giảm
sút chất lượng, chạy theo lợi ích trước mắt. Ngược lại, tăng cường sự chịu trách
nhiệm mà hạn chế quyền tự chủ sẽ trói buộc các cơ sở đại học, không tạo ra động
lực và cơ chế cho sự vận hành tự nhiên, hạn chế sự mềm dẻo, linh hoạt, khả năng
đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Duy trì sự can thiệp đúng mức của Nhà nước
thông qua các công cụ pháp lý, quy chế, tài chính để rồi từ bỏ dần sự can thiệp trực
tiếp vào quản lý vi mô, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở đại học là cần thiết. Mặt
khác, để có thể sử dụng các lực lượng thị trường, tạo động lực cho giáo dục đại học
một cách đúng mức, cần có sự tham gia của các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà
trường vào việc điều chỉnh và nâng cao sự chịu trách nhiệm của các cơ sở đại học.

3.1.2.Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý
nhà nước về chất lượng giáo dục đại học

Đội ngũ cán bộ, công chức là nhân tố cơ bản và quan trọng có tác động trực
tiếp đến chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
Do đó, để tạo bước chuyển mới trong quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có trình độ tương xứng.

Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học gắn liền với việc
xây dựng các chính sách, các tiêu chuẩn, thẩm định, đánh giá, công bố các kết quả
kiểm định và xây dựng các chính sách liên quan đến công tác kiểm định. Chính vì
vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ liên
quan lĩnh vực này là vấn đề hết sức quan trọng, có tính quyết định đối với hiệu quả
quản lý nhà nước. Do đó, cần tăng cường công tác rà soát, quy hoạch đội ngũ cán
bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Hàng năm các
cơ quan thực hiện chức năng liên quan phải thường xuyên rà soát, thống kê trình độ,
số lượng đội ngũ cán bộ, công chức một cách chính, xác khách quan để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng nhằm sử dụng cán bộ, công chức hiệu quả , bố trí công việc hợp

71
lý, phát huy năng lực của mỗi cá nhân. Thực hiện công tác quy hoạch đội ngũ cán
bộ, công chức để bồi dưỡng, tạo nguồn đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài, đảm
bảo cho hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học luôn giữ được

sự ổn định, bền vững.

Để công tác đào tạo bồi dưỡng có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao năng
lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học cần phải đa dạng hóa các hình thức đào tạo bồi dưỡng bao gồm cả
chính quy, không chính quy, đào tạo tập trung, đào tạo không tập trung, đào tạo dài
hạn, đào tạo ngắn hạn để cán bộ, công chức vừa thực thi nhiệm vụ vừa có cơ hội
nâng cao trình độ. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải vừa rộng, vừa
sâu, phù hợp với đặc thù quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học. Bên
cạnh đó, chú trọng đổi mới công tác tuyển dụng và sử dụng cán bộ, công chức. Đây
là khâu quan trọng, là sự sàng lọc đầu tiên để lựa chọn đội ngũ công chức có năng
lực vào làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học.
Tuyển dụng đúng đối tượng, bảo đảm tiêu chuẩn đối với từng chức danh chuyên
môn sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức. Cần tuyển dụng công
chức trẻ đã qua đào tạo cơ bản ở các trường trong và ngoài nước, đáp ứng được yêu
cầu công việc, hạn chế tối đa việc tuyển dụng người rồi mới đưa đi đào tạo. Mặt
khác, việc thi tuyển cần được tổ chức tập trung nhằm đảm bảo tính dân chủ, công
khai minh bạch. Trong sử dụng cán bộ, công chức cần có chính sách ưu tiên thu hút
người có năng lực thật sự và có chuyên ngành phù hợp; có kế hoạch luân chuyển từ
03 đến 05 năm một lần để tránh độc quyền và dẫn đến các tiêu cực khác trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ. Đối với công tác đánh giá cán bộ, công chức, cần thực
hiện thường xuyên hàng năm nhằm làm rõ ưu, khuyết điểm về phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống, năng lực, hiệu quả công tác và triển vọng phát triển của cán bộ,
công chức để làm căn cứ tuyển chọn quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển…
Và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức. Việc đánh giá phải thực
hiện công khai, minh bạch; đối với những vấn đề quan trọng cần tiến hành thanh tra,
kiểm tra làm rõ không nên chỉ căn cứ vào dư luận vì thực tế, nhiều dư luận xuất

72
phát từ động cơ không trong sáng. Ngoài ra, người có thẩm quyền đánh giá cán bộ,
công chức phải đề cao bản lĩnh và trách nhiệm chính trị trong việc nhận xét, đánh
giá, kiên quyết đấu tranh, loại trừ những biểu hiện lệch lạc như độc đoán, chuyên
quyền, nể nang hoặc thiên vị, cục bộ, định kiến hẹp hòi…Trong trường hợp có
nhiều ý kiến trái chiều nhau nên tiến hành bỏ phiếu kín. Công tác đánh giá vừa làm
cơ sở để quy hoạch, đề bạt, luân chuyển, vừa giúp cho bản thân người cán bộ, công
chức hiểu đúng mình hơn nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục những vấn đề còn hạn
chế góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học trong thời kỳ mới.

3.1.3.Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý nhà
nước về chất lượng giáo dục đại học

Trong thời gian qua, chất lượng giáo dục đại học thấp kém, tiêu cực trong dạy
và học tràn lan đã làm sói mòn niềm tin của nhân dân đối với nền giáo dục đại học
nước nhà. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chính là công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát trong hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục đại học
chưa thực sự hiệu quả. Để giữ gìn kỷ cương, đảm bảo nguyên tắc trong quản lý nhà
nước về giáo dục đại học, Nhà nước phải đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra,
giám sát nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật, phòng ngừa hữu hiệu
các vi phạm pháp luật.

Thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của
kỷ cương pháp luật; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát dù được thực hiện dưới
bất cứ hình thức nào, cũng luôn có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm
pháp luật của các đối tượng quản lý. Mặt khác, các giải pháp được đưa ra từ hoạt
động thanh tra không chỉ hướng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mà
còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc
mầm mống phát sinh những vi phạm pháp luật.

Đối với hoạt động giáo dục đại học, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đang
từng bước trao quyền tự chủ về nhiều mặt cho các trường và đã được thể chế hóa

73
trong Luật Giáo dục đại học. Do đó, công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước cần
tập trung thanh tra vào các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học cũng như
công tác tuyển sinh; chế độ tài chính, học phí, cấp phát văn bằng chứng chỉ và đảm
bảo chất lượng đào tạo. Tăng cường công tác kiểm tra việc tự thanh tra, kiểm tra
của các cơ sở giáo dục đại học, biến quá trình thanh tra, kiểm tra của Nhà nước
thành quá trình tự thanh tra, kiểm tra trong các cơ sở giáo dục đại học.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra của Nhà nước cần có sự đổi mới về hình thức
cũng như phương pháp tiến hành, đảm bảo chất lượng nhưng trên nguyên tắc tôn
trọng họat động thanh tra, kiểm tra của các cơ sở giáo dục, cần tiến hành thực hiện
công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ sở như vai trò một nhà tư vấn để các cơ sở
nhận diện rõ hơn các thiếu sót trong quá trình tổ chức thực hiện. Bên cạnh đó,
Chính phủ cần mạnh dạn phân cấp nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra chuyên môn cũng
như công tác quản lý nhiều hơn cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố đối với các cơ
sở giáo dục trên địa bàn; chú trọng xây dựng đội ngũ làm công tác thanh tra, kiểm
tra có đủ năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, trung thực, không ngại va
chạm và có phẩm chất đạo đức tốt thông qua việc thi tuyển công khai, minh bạch; tổ
chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, các kỹ
năng hỗ trợ và cập nhật những kiến thức mới tạo điều kiện cho đội ngũ thanh tra
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh

Để đảm bảo hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển Thành phố cũng như khu vực kinh tế
trọng điểm phía nam, cần quan tâm hoàn thiện một số vấn đề sau:

- Cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai nhằm đẩy
mạnh tiến độ giao, cấp đất phục vụ công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển tổng thể
các trường đại học, cao đẳng (Khu Tây Bắc, Đông Bắc và Khu Nam Thành phố)
xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố đạt chuẩn

74
cơ bản theo quy định. Mặt khác, Thành phố cần có các biện pháp hỗ trợ nhà trường
trong việc thực hiện công tác giải tỏa, đền bù đảm bảo hoàn thành đề án “Quy
hoạch, di dời các trường đại học, cao đẳng ra ngoại thành và xây dựng quy hoạch
các trường trung cấp chuyên nghiệp trên địa bàn Thành phố” trong giai đoạn 2016-
2020 đúng tiến độ, mục tiêu đã đặt ra.

- Ban hành các văn bản và tạo cơ chế phối hợp với các Bộ, ngành và các cơ
sở giáo dục đại học trên địa bàn Thành phố triển khai, hướng dẫn, phối hợp, định
hướng đào tạo và tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng; có chính sách
khuyến khích, ưu tiên đối với các trường đào tạo các ngành nghề phục vụ định
hướng phát triển Thành phố. Tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trên địa bàn, kể
cả các trường do các Bộ, ngành khác quản lý được tiếp cận nguồn vốn vay kích cầu
của Thành phố phục vụ công tác xây dựng, sửa chữa, nâng cấp cơ sở đào tạo.

- Xây dựng cơ chế kết hợp đồng bộ các nhóm đối tượng trên địa bàn Thành
phố: Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp, trung hoc các doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động, các cơ quan
nghiên cứu nhân lực dự báo nhu cầu, thông tin thị trường lao động, cung ứng việc
làm, các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở và các cơ quan truyền thông
tích cực tham gia công tác định hướng nghề nghiệp cho học sinh.

- Tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn chủ động đặt hàng
đào tạo đối với các cơ sở giáo dục đại học, cùng với cơ sở giáo dục tham gia xây
dựng chương trình đào tạo vừa đảm bảo yêu cầu về chất lượng chung, vừa phù hợp
với hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp. Đồng thời, tổ chức các chương trình phổ
biến nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội đối với giáo dục đại học của các
doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố, yêu cầu các doanh nghiệp tạo điều kiện thuận
lợi cho sinh viên thực tập, làm quen với môi trường liên quan lĩnh vực ngành học.
Doanh nghiệp có trách nhiệm đánh giá chính xác khi kết thúc thời gian thực tập của
sinh viên.

75
- Chú trọng nâng cao năng lực của Trung tâm dự báo nhân lực và Thông tin
thị trường lao động Thành phố; bổ sung cán bộ, công chức đủ số lượng và chất
lượng, ưu tiên tuyển những người được đào tạo bài bản, trình độ cao, có khả năng tổ
chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo nhu cầu nhân lực và thị trường lao
động, nhằm kết nối cung - cầu lao động trên thị trường với công tác đào tạo của các
cơ sở giáo dục đại học tại Thành phố, giúp các cơ sở giáo dục đại học điều tiết quy
mô, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng của nền kinh
tế xã hội Thành phố. Tuy nhiên, với vai trò đầu tàu tại khu vực kinh tế trọng điểm
phía nam, cần quan tâm nghiên cứu nhu cầu của các địa phương các vùng liên quan.

- Có kế hoạch tuyển dụng, thu hút nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức thực sự chất lượng, tuổi trẻ, có năng lực, đạo đức tốt, trình độ cao làm
công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học, đặc biệt là trong các khâu hiện nay
đang yếu đó là thanh tra, giám sát. Nghiên cứu nội dung thi tuyển sát với các vị trí
việc làm để lựa đúng đối tượng. Quá trình tổ chức thi tuyển phải đảm bảo tính công
khai minh bạch, tránh tình trạng nhận người vì các mối quan hệ, chất lượng thấp
kém làm mất lòng tin của người dân đối với chính quyền.

- Phát triển quy mô giáo dục đại học Thành phố phải gắn với việc bảo đảm và
nâng cao chất lượng đào tạo. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo chức
năng, nhiệm vụ đã được phân cấp, kiên quyết xử lý, đề nghị xử lý đối với các cơ sở
giáo dục đại học tại địa phương không chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật
về các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo trên địa bàn, hướng các cơ giáo dục đại
học thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, thực hiện quy định 03 công khai một cách
nghiêm túc và cam kết đảm bảo tính trung thực của thông tin.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Chất lượng giáo dục đại học thấp, tụt hậu so với thế giới bắt nguồn từ sự yếu
kém của quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Nhiệm vụ quan trọng hiện nay là tập
trung nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học. Trên tinh
thần đó, chương 3 đã đưa ra một số giải pháp và chung và nhóm giải pháp riêng đối

76
với Thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học.

Nội dung các giải pháp chung hướng tới là tiếp tục hoàn thiện chiến lược và
chính sách phát triển giáo dục đại học; nâng cao vai trò quản lý nhà nước kết hợp
với mở rộng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở trong giáo dục đại
học; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nhiệm vụ liên quan và đẩy
mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý nhà nước về chất lượng
giáo dục đại học.

Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, nhóm giải pháp cụ thể hướng đến việc cải
cách thủ tục hành chính, hoàn thiện hệ thống văn bản phối hợp trong quản lý nhà
nước về giáo dục đại học, xây dựng cơ chế kết hợp đồng bộ các nhóm đối tượng
trên địa bàn Thành phố, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn chủ
động đặt hàng đào tạo đối với các cơ sở giáo dục đại học, chú trọng nâng cao năng
lực của Trung tâm dự báo nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố có
kế hoạch tuyển dụng, thu hút nhân tài nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.

77
KẾT LUẬN

Chất lượng giáo dục đại học là tổng thể những kiến thức, kỹ năng, thái độ
được tạo nên thông qua đào tạo đại học, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của quốc gia theo từng giai
đoạn nhất định. Chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó
quản lý nhà nước được coi là nhân tố quan trọng nhất, có tác động tương đối toàn
diện đến chất lượng giáo dục đại học.

Hiệu quả quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học phụ thuộc chủ yếu
vào các hoạt động xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách phát triển
chất lượng giáo dục đại học, công tác ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học, công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát trong thực hiện pháp luật về chất lượng giáo dục đại học cũng như các điều kiện
về pháp luật, năng lực quản lý của nhà nước, năng lực đào tạo của các cơ sở giáo
dục đại học và năng lực của người học.

Từ việc đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học tại
Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua cho thấy, quản lý nhà nước về chất
lượng giáo dục đại học đã từng bước có sự chuyển biến. Tuy nhiên tiếp tục còn có
không ít những hạn chế, bất cập dẫn đến chất lượng giáo dục đại học thấp, tụt hậu
so với nhiều nước trong khu vực và thế giới, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về
chất lượng giáo dục đại học cần tiếp tục được xem xét, đổi mới. Cụ thể là tiếp tục
hoàn thiện chiến lược và chính sách phát triển giáo dục đại học; nâng cao vai trò
quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đẩy mạnh công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại
học. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, ngoài các giải pháp chung trên cần hoàn
thiện hệ thống văn bản và tạo cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước về giáo dục
đại học, cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với chất lượng giáo dục đại học trên địa bàn.

78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hà Ánh, Sinh viên ra trường phải đào tạo tiếp , Website Báo Thanh
niên, http://thanhnien.vn/giao-duc/94-sinh-vien-ra-truong-phai-dao-tao-
tiep 120622 html, ngày truy cập 25 tháng 10 năm 2015.
2. Đặng Quốc Bảo (2003), Quản lý chất lượng trong các tổ chức, Nxb Thống kê,
Hà Nội
3. Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp, Tổng quan về Thành phố Hồ
Chí Minh, Website Ban Quản lý các khu Chế xuất và Công nghiệp,
http://www.hepza.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/tong-quan-ve-tphcm , truy
cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
4. Báo điện tử Đảng Cộng sản, Thành phố Hồ Chí Minh đã quy hoạch đất xây
dựng để di dời các trường cao đẳng, đại học ở nội thành, Website Báo điện tử
Đảng Cộng sản, http://dangcongsan.vn/khoa-giao/tp-ho-chi-minh-da-qui-hoach-
dat-xay-dung-de-di-doi-cac-truong-cao-dang-dai-hoc-o-noi-thanh, ngày truy cập
15 tháng 12 năm 2015.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2005-2020, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Báo cáo sự phát triển của hệ thống giáo dục
đại học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai
đoạn 2009-2014, Hà Nội.
8. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT
ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 10 tháng 8 năm 2012
của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2020, Hà Nội.

79
10. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT
ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11
năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Chỉ thị
296/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và chương trình hành động của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Hà Nội.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Văn bản hợp nhất số 06/VBHN-BGDĐT ngày
04 tháng 3 năm 2014, Quyết định ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng giáo dục trường đại học, Hà Nội.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số 09/VBHN-BGDĐT, ngày 07 tháng
3 năm 2014, quy định về việc xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sĩ, thạc
sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp, Hà Nội.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư ban hành Quy chế tuyển sinh đại
học, cao đẳng hệ chính quy số 03/2015/TT-BGDĐT, ngày 26 tháng 02 năm
2015, Hà Nội.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16
tháng 4 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về
khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau
khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình
xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ,
tiến sĩ, Hà Nội.
16. Nguyễn Bá Cần (2009), Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân Hà Nội.
17. Nguyễn Đức Cường (2009), Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại
học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.

80
18. Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Phương Nga, Lê Đức Ngọc (2002), Kiểm định
chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Chính phủ (2010), Nghị định số 115/2010/NĐ-CP, ngày 24 tháng 12 năm 2010
qui định trách nhiệm quản lý của nhà nước về giáo dục, Hà Nội.
20. Chính phủ (2010) Báo cáo số 51/BC-CP ngày 08 tháng 5 năm 2010, Hà Nội.
21. Chính phủ (2013), Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2013 về
tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục, Hà Nội.
22. Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2014 của
Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại
học công lập giai đoạn 2014-2017, Hà Nội.
23. Đỗ Diên (2010), Những việc cần đổi mới để đưa giáo dục Việt Nam đi lên,
Báo cáo Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục
đại học và cao đẳng Việt nam”, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Phan Thu Hằng (2011), Phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học kỹ thuật, Thành phố
Hồ Chí Minh.
25. Lê Thị Kim Dung (2012), Hoàn thiện pháp luật về giáo dục đại học ở Việt Nam
hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
26. Đoàn Văn Dũng (2015), Quản lý nhà nước về chất lượng giáo dục đại học,
Luận án tiến sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia.
27. Văn Duẩn, Cả nước có 225000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp, Web site Báo
Người lao động, http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/ca-nuoc-co-225-500-cu-
nhan-thac-si-that-nghiep-20151224 4112508471.htm, ngày truy cập 24 tháng 12
năm 2015.
28. Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt
nam”, Thành phố Hồ Chí Minh.
29. Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành
phố lần thứ IX (2010 - 2015), Thành phố Hồ Chí Minh.

81
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11
năm 2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, Hà Nội.
32. Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực
theo ISO & TQM, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
33. Trần Khánh Đức (2013), Giáo dục Việt Nam và Thế giới, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
34. Trần Khánh Đức (2014), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực thế kỷ XXI,
Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35. Nguyễn Quang Giao (2010), Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng trong các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo Hội thảo khoa học “Giải pháp
nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt nam”, Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
36. Nguyễn Thị Thu Hà (2012), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục
đại học, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
37. Bùi Hiền, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Từ điển
giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
38.Hội đồng quốc gia biên soạn (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà
Nội.
39.Hội đồng quốc gia biên soạn (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà
Nội.
40. Bảo Lâm, Bộ và trường vênh nhau về tuyển sinh, Website Báo Người lao
động, http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/bo-va-truong-venh-quan-diem-ve-
chi-tieu-201411042200 547669.htm, ngày truy cập 14 tháng 11 năm 2015.
41. Hoàng Thị Tú Oanh (2007) Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo - Thực
trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận nhà nước và Pháp luật,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.

82
42. Kiều Oanh, Danh sách 207 ngành học bị dừng tuyển sinh năm 2014, http://viet
namnet.vn/vn/giao-duc/159712/danh-sach-207-nganh-dai-hoc-bi-dung-tuyen
-sinh.html, ngày truy cập 10 tháng 11 năm 2015.
43. Dương Minh Quang (2010), Đổi mới quản lý, đòn bẩy để phát triển giáo dục đại
học Việt nam, Báo cáo Hội thảo khoa học “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý giáo dục đại học và cao đẳng Việt nam”, Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh.
44. Quốc hội (1998), Luật Giáo dục, Hà Nội.
45. Quốc hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Hà Nội.
46. Quốc hội (2011), Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 05 năm 2011-2015,
Hà Nội.
47. Quốc hội (2013), Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013, Hà Nội.
48. Quốc hội (2012), Luật Giáo dục đại học, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
49. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Chương trình hành động số 09-
CTrHĐ/TU ngày 16 tháng 3 năm 2011 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương trình
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015, Thành phố Hồ
Chí Minh.
50. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường
đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020, Hà Nội.
51. Thủ tướng Chính phủ (2010), Chỉ thị số 296/CT-TTG, ngày 27 tháng 2 năm
2010 về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, Hà Nội.
52. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9
năm 2010 về việc ban hành Điều lệ trường đại học, Hà Nội.
53. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm
2012 của Thủ tướng Chính phủ năm 2012 phê duyệt "Chiến lược phát triển giáo
dục 2011-2020", Hà Nội.

83
54. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 37/2013/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6
năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới
các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020, Hà Nội.
55. Trung tâm Dự báo nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí
Minh (2015), Thực trạng thị trường lao động năm 2010 – 2014, dự báo nhu cầu
nhân lực giai đoạn 2015-2020 và đến năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
56. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Quyết định số 22/2011/QĐ-
UBND ngày 14 tháng 05 năm 2011 của Ủy ban nhân dân về việc ban hành kế
hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về chương
trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2010-2015, Thành phố Hồ Chí Minh.
57. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Quyết định số 33/2011/QĐ-
UBND, ngày 28 tháng 05 năm 2011 ban hành quy định về thực hiện các dự án
đầu tư thuộc chương trình kích cầu của Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh.
58. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo tổng kết Chương
trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 và nhiệm vụ
trọng tâm giai đoạn 2016-2020, Thành phố Hồ Chí Minh.
59. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Quyết định số 5209/QĐ-
UBND ngày 22 tháng 10 năm 2014 về duyệt nhiệm vụ qui hoạch xây dựng hệ
thống các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2025, Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch kinh tế - xã hội, ngân sách 5 năm (2011 - 2015), phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp 5 năm (2016 - 2020), Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Harvey và Green (1993), Quality in Education and Training, pp.44-50.
62. Ronald Barnett (1990), The Idea of Higher Education (Buckingham: Open
University Press and SRHE, 1990), The republic of Indonesia (1998), Law
teaches and lecturers.

84

You might also like