You are on page 1of 162

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN

KHOA KINH TẾ

BÀI GIẢNG

PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG

Đắk Lắk, năm 2019


MỤC LỤC
Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Nguồn gốc nhà nước.................................................................................................1
1.1.1. Một số học thuyết phi mác xít về nguồn gốc nhà nước..................................1
1.1.2. Học thuyết Mác – LêNin về nguồn gốc nhà nước..........................................2
1.2. Bản chất của nhà nước..............................................................................................4
1.2.1. Tính giai cấp của nhà nước.............................................................................4
1.2.2. Tính xã hội của nhà nước...............................................................................4
1.3. Các đặc trưng của nhà nước......................................................................................5
1.4. Chức năng của nhà nước và bộ máy nhà nước.........................................................6
1.4.1. Chức năng của nhà nước................................................................................6
1.4.2. Bộ máy nhà nước............................................................................................7
1.5. Hình thức nhà nước..................................................................................................8
1.5.1. Hình thức chính thể........................................................................................8
1.5.2. Hình thức cấu trúc..........................................................................................9
1.5.3. Chế độ chính trị............................................................................................10
1.6. Kiểu nhà nước.........................................................................................................10
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
2.1. Nguồn gốc của pháp luật........................................................................................13
2.2. Bản chất của pháp luật............................................................................................14
2.2.1. Tính giai cấp của pháp luật...........................................................................14
2.2.2. Tính xã hội của pháp luật.............................................................................14
2.3. Các thuộc tính của pháp luật...................................................................................15
2.4. Các chức năng của pháp luật..................................................................................15
2.5. Các mối quan hệ cơ bản của pháp luật...................................................................16
2.5.1. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế........................................................16
2.5.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị.....................................................16
2.5.3. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước....................................................17
2.5.4. Mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác.........................17
2.6. Hình thức pháp luật và kiểu pháp luật....................................................................18
2.6.1. Hình thức pháp luật......................................................................................18

i
2.6.2. Kiểu pháp luật...............................................................................................20
Chương 3
QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT
3.1. Quy phạm pháp luật................................................................................................24
3.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật.....................................................................24
3.1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật......................................................................24
3.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật.................................................................24
3.2. Quan hệ pháp luật...................................................................................................29
3.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật........................................................................29
3.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật...................................................................29
3.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật...............................................................30
3.3. Sự kiện pháp lý.......................................................................................................34
3.3.1. Khái niệm sự kiện pháp lý............................................................................34
3.3.2. Phân loại sự kiện pháp lý..............................................................................34
Chương 4
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
4.1. Thực hiện pháp luật................................................................................................40
4.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật......................................................................40
4.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật................................................................41
4.2. Vi phạm pháp luật...................................................................................................43
4.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật........................................................................43
4.2.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật..........................................................................44
4.2.3. Phân loại vi phạm pháp luật.........................................................................45
4.2.4. Cấu thành vi phạm pháp luật........................................................................47
4.3. Trách nhiệm pháp lý...............................................................................................49
4.3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý.....................................................................50
4.3.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý......................................................................50
4.3.3. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý.......................................................50
4.3.4. Phân loại trách nhiệm pháp lý......................................................................52

Phần thứ hai


CÁC NGÀNH LUẬT CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chương 5
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
5.1. LUẬT HIẾN PHÁP................................................................................................56
5.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp....56
ii
5.1.2. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa - Luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa..57
5.1.3 Nội dung cơ bản của Luật hiến pháp.............................................................58
5.1.4. Tổ chức bộ máy và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam................................................... 59
5.2. LUẬT HÀNH CHÍNH...........................................................................................65
5.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hành
chính.......................................................................................................................65
5.2.2 Quan hệ pháp luật hành chính.......................................................................66
5.2.3. Vi phạm hành chính......................................................................................67
5.2.4. Xử phạt vi phạm hành chính.........................................................................68
Chương 6
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
6.1. LUẬT HÌNH SỰ....................................................................................................74
6.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự....74
6.1.1.1. Khái niệm Luật hình sự.............................................................................74
6.1.2. Tội phạm.......................................................................................................74
6.1.3. Cấu thành tội phạm.......................................................................................77
6.1.4. Hình phạt và các biện pháp tư pháp.............................................................79
6.2. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ..................................................................................85
6.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật tố
tụng hình sự............................................................................................................85
6.2.2. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. .86
6.2.3. Các giai đoạn tố tụng hình sự.......................................................................92
Chương 7
LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
7.1. LUẬT DÂN SỰ....................................................................................................102
7.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự102
7.1.2. Quyền sở hữu.....................................................................................................104
7.1.3. Giao dịch dân sự.........................................................................................105
7.1.4. Quyền thừa kế.............................................................................................108
7.2. LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ.................................................................................113
7.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật tố
tụng dân sự............................................................................................................113
7.2.2. Khái niệm vụ việc dân sự...........................................................................114
7.2.3. Chủ thể của pháp luật tố tụng dân sự..........................................................115
7.2.4. Thủ tục giải quyết vụ việc dân sự...............................................................117

iii
Chương 8
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
8.2.1. Kết hôn.......................................................................................................124
8.2.2. Đăng ký kết hôn..........................................................................................125
8.3. Kết hôn trái pháp luật...........................................................................................125
8.3.1. Khái niệm...................................................................................................125
8.3.2. Những người có quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật........................126
8.3.3. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật..................................126
8.3.4. Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn.............................................................................................................127
8.4. Ly hôn..................................................................................................................127
8.4.1. Khái niệm ly hôn........................................................................................127
8.4.2. Căn cứ ly hôn..............................................................................................127
8.4.3. Các trường hợp ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình..................................127
8.4.3. Hậu quả pháp lý của việc ly hôn.................................................................128
Chương 9
LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
9.1 Khái niệm tham nhũng và đặc điểm của hành vi tham nhũng........................132
9.1.1 Khái niệm tham nhũng.................................................................................132
9.1.2 Đặc điểm của hành vi tham nhũng...............................................................134
9.1.3 Các hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng..................................135
9.2 Nguyên nhân của tham nhũng...............................................................................136
9.2.1 Những hạn chế trong chính sách, pháp luật.................................................136
9.2.2 Những hạn chế trong quản lí, điều hành nền kinh tế và trong hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội..................................................................137
9.2.3 Những hạn chế trong việc phát hiện và xử lí tham nhũng...........................138
9.2.1 Những hạn chế trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, công chức cũng như
trong hoạt động bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ....................................................141
9.3 Tác hại của tham nhũng.........................................................................................142
9.3.1 Tác hại về chính trị......................................................................................142
9.3.2 Tác hại về kinh tế.........................................................................................143
9.3.3 Tác hại về xã hội..........................................................................................144
9.4 Ý nghĩa của công tác phòng chống tham nhũng...................................................144
9.4.1 Phòng, chống tham nhũng góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền....................................................................................................................144
9.4.2 Phòng, chống tham nhũng góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân.................................................................................................145
iv
9.4.3. Phòng, chống tham nhũng góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống,
làm lành mạnh các quan hệ xã hội........................................................................146
9.4.4 Phòng, chống tham nhũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chế
độ và pháp luật......................................................................................................146
9.5 Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng................................147
9.6 Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài
nhà nước trong phòng, chống tham nhũng ( Điều 4)..................................................149

v
Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được các quan điểm giải thích nguồn gốc ra đời của nhà nước, đặc biệt
quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin; hiểu được bản chất nhà nước, chức năng của
nhà nước cũng như những đặc trưng của nhà nước để phân biệt nhà nước và các tổ
chức khác. Nắm được các hình thức tổ chức nhà nước, bộ máy nhà nước và các kiểu
nhà nước trong lịch sử.

1.1. Nguồn gốc nhà nước

1.1.1. Một số học thuyết phi mác xít về nguồn gốc nhà nước
- Thuyết thần học: Các nhà tư tưởng theo Thuyết thần học cho rằng: Thượng đế
là người sắp đặt trật tự xã hội, nhà nước là do Thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự
chung. Do vậy, nhà nước là lực lượng siêu nhiên; quyền lực nhà nước là vĩnh cửu và sự
phục tùng quyền lực là cần thiết và tất yếu.
- Thuyết gia trưởng: những nhà tư tưởng theo Thuyết gia trưởng lại cố gắng
chứng minh rằng nhà nước là kết quả phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự
nhiên của cuộc sống con người. Vì vậy, nhà nước có trong mọi xã hội và quyền lực
nhà nước về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng của người đứng đầu gia đình.
- Thuyết khế ước xã hội: Đến khoảng thế kỷ 16, 17, 18 đã xuất hiện hàng loạt
quan niệm mới về nguồn gốc nhà nước. Nhằm chống lại sự chuyên quyền độc đoán
của nhà nước phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong việc tham gia
nắm giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho
rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết
trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Vì
vậy, nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và mỗi thành viên đều
có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ.
- Ngoài ra còn có một số học thuyết khác như: Thuyết bạo lực cho rằng nhà
nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác mà
kết quả là thị tộc chiến thắng “nghĩ ra” một hệ thống cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô
dịch kẻ chiến bại (Hume, Duhring...).
Các học giả thuyết tâm lý lại cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý
của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào thủ lĩnh, giáo sĩ... Vì vậy, nhà
nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mệnh lãnh đạo xã hội (Phoreder...).

1
1.1.2. Học thuyết Mác – LêNin về nguồn gốc nhà nước
1.1.2.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên trong lịch sử
nhân loại. Đó là một xã hội không có giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật. Nhưng
những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước và pháp luật lại nảy sinh chính
trong xã hội đó.
a. Cơ sở kinh tế
Sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thấp kém, công cụ lao động
thô sơ, con người chưa có nhận thức đúng đắn về thiên nhiên và về bản thân mình, họ
luôn luôn trong trạng thái mềm yếu, hoảng sợ và bất lực trước những tai họa của thiên
nhiên thường xuyên xảy ra, năng suất lao động thấp... Trong những điều kiện và hoàn
cảnh đó, con người không thể sống riêng biệt mà phải dựa vào nhau, cùng chung sống,
cùng lao động và hưởng thụ. Để có thể cùng chung sống, lao động và hưởng thụ những
thành quả lao động, một nguyên tắc phân phối đặc trưng đã hình thành, đó là nguyên
tắc bình quân. Mọi người đều bình đẳng trong lao động, hưởng thụ, không ai có tài sản
riêng, không có người giàu, kẻ nghèo, không có tình trạng người này chiếm đoạt tài
sản người kia. Xã hội chưa phân chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
b. Cơ sở xã hội
Chính những điều kiện kinh tế đã quyết định đời sống xã hội của chế độ cộng
sản nguyên thủy. Tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc.
Sự xuất hiện của tổ chức thị tộc là một bước tiến trong lịch sử phát triển của
nhân loại, nó đã đặt nền móng cho việc hình thành hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên
trong lịch sử: hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy. Trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, mọi người đều tự do, bình đẳng, không ai có đặc quyền, đặc lợi đối với
người khác trong cùng một thị tộc. Ở thời kỳ này đã có sự phân công lao động, nhưng
là sự phân công lao động tự nhiên giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ để
thực hiện những công việc khác nhau chứ chưa mang tính xã hội.
c. Quyền lực xã hội và quy phạm xã hội trong chế độ cộng sản nguyên thủy
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã tồn tại quyền lực và hệ thống quản lý các
công việc của thị tộc. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã
hội mà nó gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội.
- Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc, trong đó mọi người
lớn tuổi không phân biệt là đàn ông hay đàn bà, đều là thành viên của hội đồng thị tộc.
Hội đồng có quyền quyết định tất cả những vấn đề quan trọng nhất của thị tộc, các
quyết định của hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung của mọi thành viên và có tính bắt
buộc chung với tất cả mọi người.
2
Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu thị tộc như: tù trưởng, thủ lĩnh
quân sự... để thực hiện quyền lực và quản lý các công việc chung của thị tộc. Những
người đứng đầu thị tộc có quyền lực rất lớn. Nhưng quyền lực của họ hoàn toàn không
dựa vào một bộ máy cưỡng chế đặc biệt mà dựa vào tập thể cộng đồng, trên cơ sở uy
tín cá nhân và sự tín nhiệm, ủng hộ của các thành viên trong thị tộc.
Tóm lại, trong xã hội cộng sản nguyên thủy đã có quyền lực, nhưng đó là thứ
quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện dựa trên cơ sở của những nguyên tắc dân
chủ thực sự, quyền lực xuất phát từ xã hội và phục vụ cho cả cộng đồng.
1.1.2.2. Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện của nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội theo hướng
chuyên môn hóa, với việc tham gia của công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng
suất lao động kéo theo sự phát triển trình độ sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của xã
hội, đã dần dần tạo ra những tiền đề cho sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Lịch
sử xã hội cộng sản nguyên thủy vào thời kỳ cuối đã trải qua ba lần phân công lao động xã
hội, mỗi lần tạo ra những tiền đề mới làm tan rã chế độ cộng sản nguyên thủy.
Lần thứ nhất: Nghề chăn nuôi phát triển mạnh mẽ đã tách ra khỏi trồng trọt.
Do việc con người thuần dưỡng được động vật đã hình thành nên đàn gia súc và
trở thành nguồn tích lũy quan trọng, là mầm mống của chế độ tư hữu. Xuất hiện tầng
lớp nô lệ là các tù binh chiến tranh tham gia vào quá trình sản xuất. Chế độ tư hữu xuất
hiện làm cho kết cấu xã hội phân chia thành giai cấp chủ nô và nô lệ, tác động và làm
thay đổi quan hệ hôn nhân: hôn nhân một vợ một chồng, chế độ mẫu hệ dần chuyển
sang chế độ phụ hệ. Gia đình cá thể trở thành một lực lượng đe dọa sự tồn tại của thị tộc.
Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp
Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã nâng cao năng
suất lao động; nghề chế tạo đồ kim loại, nghề dệt, làm đồ gốm phát triển. Nô lệ trở thành
bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội. Sự phân công lao động xã hội lần thứ
hai đã đẩy nhanh quá trình phân hóa xã hội làm cho sự phân biệt giữa kẻ giàu và người
nghèo, giữa chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc; mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng.
Lần thứ ba: Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện
Nhu cầu trao đổi hàng hóa đã làm xuất hiện tầng lớp thương nhân không tham
gia vào sản xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất, bắt những người sản xuất
phải phụ thuộc mình về kinh tế. Sự ra đời và phát triển của thương mại cũng dẫn đến
sự xuất hiện đồng tiền; nạn cho vay lãi, quyền tư hữu ruộng đất, chế độ cầm cố phát
triển đã tăng cường sự tích tụ tập trung của cải vào tay thiểu số người trong xã hội, từ
đó sự phân hóa giữa chủ nô và nô lệ ngày càng thêm sâu sắc.
Trong xã hội hình thành giai cấp thống trị (giai cấp bóc lột) có những quyền và
lợi ích mâu thuẫn sâu sắc với giai cấp bị trị (giai cấp bị bóc lột). Mâu thuẫn giai cấp
3
càng quyết liệt đã làm cho điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của thị tộc bị phá vỡ. Ba
lần phân công lao động xã hội đã làm đảo lộn đời sống thị tộc và phá vỡ sự tồn tại của
thị tộc.
Trước thực trạng trên, chế độ thị tộc tỏ ra bất lực vì nó vốn “sinh ra từ một xã
hội không biết đến mâu thuẫn nội tại nào cả và chỉ thích ứng với xã hội ấy”. Nhưng
bây giờ, một xã hội mới đã ra đời, một xã hội mà do toàn bộ những điều kiện kinh tế
của sự tồn tại của nó mà phải phân chia thành các giai cấp đối lập nhau và mâu thuẫn
với nhau ngày càng gay gắt, tổ chức thị tộc trở thành bất lực, không phù hợp được nữa.
Xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai
giữa các giai cấp ấy, tổ chức đó là nhà nước và nhà nước xuất hiện.
1.2. Bản chất của nhà nước
1.2.1. Tính giai cấp của nhà nước
Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ: nhà nước là bộ máy chuyên chính
giai cấp tức là công cụ để thực hiện, củng cố và bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống
trị của giai cấp thống trị hay của lực lượng cầm quyền trong xã hội.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là sự biểu hiện của sự không
thể điều hòa được của các mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Nhà nước là tổ chức quyền
lực chính trị đặc biệt. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, quyền lực chính trị chỉ thuộc
về giai cấp thống trị hoặc liên minh giai cấp thống trị trên 3 lĩnh vực:
- Về kinh tế: theo quy luật, một giai cấp, lực lượng xã hội nào đó muốn nắm
được quyền thống trị xã hội thì trước tiên phải nắm được quyền thống trị về kinh tế.
- Về chính trị: để bảo vệ quyền thống trị về kinh tế của mình, lực lượng cầm
quyền phải dùng bộ máy nhà nước để trấn áp sự phản kháng, sự chống đối của các lực
lượng xã hội khác và nhà nước trở thành bộ máy cưỡng chế đặc biệt thực hiện sự
thống trị về chính trị.
- Về tư tưởng: để củng cố và bảo vệ quyền thống trị của mình, lực lượng cầm
quyền còn phải thực hiện sự thống trị về tư tưởng. Thông qua nhà nước, lực lượng cầm
quyền có thể nắm, quản lý và sử dụng phương tiện thông tin đại chúng, các cơ sở văn
hóa, giáo dục, dùng các phương tiện và cơ sở ấy tác động tới đời sống tinh thần của
toàn xã hội nhằm làm cho hệ tư tưởng của nó giữ địa vị thống trị trong xã hội và nhằm
tạo ra sự phục tùng, tự giác của giai cấp khác đối với quyền thống trị của nó.

1.2.2. Tính xã hội của nhà nước


Tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nó là bộ máy để tổ chức, điều hành và
quản lý xã hội nhằm thiết lập, củng cố và giữ gìn trật tự, sự ổn định của xã hội, để bảo
vệ lợi ích chung của cả cộng đồng, vì sự phát triển chung của cả xã hội. Với tư cách là
một tổ chức quyền lực công, là đại diện chính thức cho toàn quốc gia dân tộc trong tất

4
cả các mối quan hệ đối nội và đối ngoại, nhà nước phải giải quyết nhiều vấn đề nảy
sinh trong xã hội vì lợi ích chung và sự phát triển của toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước giải quyết các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói
nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, dịch
bệnh, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội khác…, bảo đảm trật tự chung -
bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển.
1.3. Các đặc trưng của nhà nước
Nhà nước có những dấu hiệu đặc trưng cơ bản riêng có của nó để phân biệt tổ
chức là nhà nước với các tổ chức khác trong xã hội. Các đặc trưng này làm cho nhà
nước giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị của đời sống xã hội, nhà nước có 5
đặc trưng chính sau:
- Nhà nước là tổ chức quyền lực công của quốc gia: bởi vì, quyền lực nhà nước
tồn tại một cách công khai, mọi tổ chức và cá nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
đều biết, đều cảm nhận được và đều phải phục tùng. Để giúp nhà nước thực hiện việc
quản lý xã hội, nhà nước thiết lập quyền lực đặc biệt cho phép nhà nước có quyền lực
bao trùm trên khắp các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội… trong xã hội.
Với quyền lực này nhà nước có quyền sử dụng sức mạnh cưỡng chế buộc tất cả các
thành viên trong xã hội phải phục tùng ý muốn nhà nước, từ đó duy trì sự thống trị của
giai cấp thống trị trong xã hội.
- Nhà nước tổ chức và quản lý dân cư sống trong lãnh thổ theo địa bàn cư trú
hay theo các đơn vị hành chính - lãnh thổ. Nhà nước có quyền phân chia lãnh thổ theo
đơn vị hành chính và quản lý dân cư theo lãnh thổ: Nhà nước là tổ chức có chức năng
quản lý xã hội, để thực hiện hiệu quả công việc quản lý này, nhà nước được quyền
phân chia lãnh thổ rộng lớn thành từng đơn vị khác nhau trong phạm vi lãnh thổ.
Những đơn vị này thường được các nhà nước căn cứ vào vị trí địa lý, đặc tính dân cư
theo từng vùng, miền khác nhau để xác lập. Đồng thời nhà nước xây dựng các cơ quan
nhà nước trên từng đơn vị này để thực hiện chức năng quản lý xã hội. Ở mỗi quốc gia
khác nhau cách gọi tên các đơn vị này có khác nhau, thông thường là tỉnh, thành phố,
quận, huyện, phường xã… hay tên gọi chung là các đơn vị hành chính.
Chức năng quản lý xã hội còn cho phép nhà nước có quyền quản lý dân cư
trong phạm vi lãnh thổ, có quyền ban hành và thực hiện chính sách quản lý, tác động
tất cả mọi người trong lãnh thổ. Đặc tính này, ngoài nhà nước thì không có một tổ
chức nào trong xã hội có được.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là chủ quyền độc lập về
lãnh thổ, dân cư và chính quyền, chủ quyền này được các nước trên thế giới tôn trọng.
Các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều được bình đẳng với nhau trong việc quyết định các
vấn đề liên quan đến chức năng đối nội và đối ngoại của một nước, thể hiện quyền tự
5
quyết của một quốc gia. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước. Về
mặt đối nội, nhà nước có quyền quyết định tất cả các vấn đề thuộc các ngành, các lĩnh
vực trong đời sống xã hội. Về mặt đối ngoại, nhà nước có quyền đại diện nhân dân
tham gia vào các quan hệ với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới.
- Nhà nước ban hành ra pháp luật tức là hệ thống các quy định hay các quy tắc
xử sự chung, các khái niệm pháp lý, các nguyên tắc có giá trị bắt buộc phải tôn trọng
hoặc thực hiện đối với các tổ chức và cá nhân trong một lĩnh vực, một phạm vi lãnh
thổ và một thời hạn nhất định, để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà
nước. Đồng thời, bảo đảm cho các quy tắc ấy được thực hiện bằng nhiều biện pháp, từ
tuyên truyền, phổ biến giáo dục, thuyết phục, tổ chức thực hiện, động viên, khen
thưởng cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
- Nhà nước có quyền quy định và thực hiện việc thu các loại thuế theo số lượng
và thời hạn được ấn định trước, nhà nước thường là chủ sở hữu lớn nhất trong xã hội
nên nó có lực lượng vật chất to lớn, không chỉ có thể trang trải cho các hoạt động của
nó và những hoạt động cơ bản của xã hội mà còn có thể hỗ trợ một phần kinh phí hoạt
động cho một số tổ chức khác.
1.4. Chức năng của nhà nước và bộ máy nhà nước
1.4.1. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu của
nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ nhà nước. Chức năng của nhà nước được
xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước do cơ sở kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã
hội quyết định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia thành
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội: là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội
bộ đất nước.
+ Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
+ Chức năng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản
kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và âm mưu phản cách mạng khác.
+ Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.
+ Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo vệ các quyền và lợi
ích cơ bản của công dân.
- Chức năng đối ngoại: là những hoạt động cơ bản của nhà nước thể hiện mối
quan hệ giữa nó với các quốc gia, dân tộc khác như phòng thủ đất nước, chống xâm
lược, tiến hành chiến tranh xâm lược để bành trướng thế lực, mở rộng thị trường và nô
dịch các nước khác.
+ Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
6
+ Chức năng mở rộng quan hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế và
khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và
góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
và tiến bộ xã hội.
1.4.2. Bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương tới
địa phương, cơ sở, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định
tạo thành một cơ chế để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
BMNN được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của
nhà nước. Phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội, các cơ quan trong BMNN
ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp hơn. Sự phân định chức năng, thẩm quyền
giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn và các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của chúng cũng ngày càng tiến bộ hơn.
- BMNN chủ nô có cấu tạo đơn giản, theo mô hình quân sự - hành chính và
chưa có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan: Chủ nô vừa là người
lãnh đạo quân đội, vừa là người đại diện chính quyền thực hiện quản lý xã hội và vừa
là quan tòa và người sáng tạo pháp luật.
- BMNN phong kiến cấu tạo phức tạp hơn do sự xuất hiện của những cơ quan
quản lý mới và giữa các cơ quan đã có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ. Đa số
các chức vụ trong BMNN là do nhà vua cắt cử để giúp việc cho vua nên phải tuyệt đối
trung thành tới mức “quân xử thần tử thần bất tử bất trung”. Tuy chưa tạo thành một
hệ thống hoàn chỉnh và thống nhất từ trung ương tới địa phương song các chức vụ
trong BMNN phong kiến đã được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
- BMNN tư sản phát triển ở trình độ khá cao và được tổ chức theo nguyên tắc
phân chia quyền lực để tạo nên cơ chế kiềm chế và đối trọng nhau giữa các cơ quan
nắm giữ 3 loại quyền:
+ Quyền lập pháp (nghị viện)
+ Quyền hành pháp (chính phủ)
+ Quyền tư pháp (tòa án)
BMNN bao gồm nhiều loại cơ quan nên có thể phân loại chúng theo nhiều cách
khác nhau:
- Nếu căn cứ vào thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ thì có thể chia các cơ quan
nhà nước thành các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương.
- Nếu căn cứ vào trình tự thành lập có thể chia các cơ quan nhà nước thành cơ
quan do truyền ngôi, cơ quan do bầu cử, các cơ quan do bổ nhiệm.

7
- Nếu căn cứ vào chức năng chủ yếu của cơ quan nhà nước có thể chia chúng
thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
- Riêng với BMNN xã hội chủ nghĩa thì nếu căn cứ vào chức năng, thẩm quyền
của các cơ quan nhà nước có thể chia chúng thành các cơ quan quyền lực nhà nước,
nguyên thủ quốc gia, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tòa án và các cơ quan
kiểm sát.
1.5. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp để
thực hiện quyền lực nhà nước.
1.5.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể nhà nước là cách thức và trình tự thành lập các cơ quan cao
nhất của quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau và với
nhân dân. Hình thức chính thể bao gồm: chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa:
Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập
trung toàn bộ (hay một phần) trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thừa
kế. Chính thể quân chủ bao gồm nhiều dạng với những đặc trưng khác nhau của
chúng. Tùy thuộc vào phạm vi quyền lực của nhà vua mà chính thể quân chủ gồm 2
dạng cơ bản: Chính thể quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) và chính thể quân chủ hạn chế.
- Quân chủ chuyên chế (tuyệt đối) là hình thức mà nhà vua có quyền lực tối cao
và vô hạn trong cả ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và tư pháp, không bị chia sẻ cho ai
và cũng không chịu một sự hạn chế nào. Về mặt pháp lý, toàn bộ quyền lực cao nhất
của nhà nước tập trung toàn bộ trong tay nhà vua, vua có quyền ban hành pháp luật, tất
cả các mệnh lệnh, chiếu chỉ thậm chí ý chỉ, khẩu dụ của nhà vua cũng là pháp luật.
Vua có quyền chỉ huy việc thực hiện pháp luật, đồng thời là vị quan tòa tối cao để xét
xử những vụ án quan trọng nhất.
- Quân chủ hạn chế là một hình thức tổ chức nhà nước mà nhà vua chỉ nắm giữ
một phần quyền lực tối cao của nhà nước, bên cạnh vua còn có cơ quan khác để chia sẻ
quyền lực với vua hoặc hạn chế quyền lực của vua. Chính thể này có các dạng điển hình
như: quân chủ đại diện đẳng cấp, quân chủ nhị hợp và quân chủ đại nghị hay nghị viện.
Trong các nhà nước tư sản theo chính thể quân chủ lập hiến, quyền lực của nguyên thủ
quốc gia (vua, nữ hoàng) bị hạn chế rất nhiều. Với tư cách nguyên thủ quốc gia, nhà
vua chỉ mang tính chất tượng trưng, đại diện cho truyền thống, cho sự thống nhất của
quốc gia, không có nhiều quyền hành trong thực tế, "nhà vua trị vì nhưng không cai
trị". Chính thể quân chủ lập hiến theo quy mô hình đại nghị đang tồn tại ở nhiều nước
tư bản phát triển như Nhật Bản, Vương quốc Anh, Thụy Điển, Đan Mạch, v.v...
Chính thể cộng hòa là hình thức mà quyền lực cao nhất của nhà nước thuộc về
một hoặc một số cơ quan được thành lập theo nguyên tắc bầu cử. Trong chính thể này,
8
quyền lực cao nhất của nhà nước được trao cho một hoặc một số cơ quan chủ yếu bằng
con đường bầu cử. Nhà nước theo chính thể cộng hòa gọi là Nhà nước cộng hòa. Hình
thức chính thể cộng hòa chia làm hai loại: cộng hòa quý tộc và cộng hòa dân chủ:
- Cộng hòa quý tộc là hình thức mà quyền bầu cử và được bầu vào cơ quan tối cao
của quyền lực nhà nước chỉ thuộc về tầng lớp quý tộc.
- Cộng hòa dân chủ là chính thể mà về mặt pháp lý, quyền bầu cử và ứng cử
vào các cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước thuộc về mọi công dân khi có đủ
những điều kiện luật định. Có 2 hình thức chính thể quân chủ cộng hòa: cộng hòa dân
chủ tư sản và cộng hòa dân chủ nhân dân.
 Cộng hòa dân chủ tư sản: Theo chính thể này quyền lực Nhà nước được chia
thành 3 quyền là lập pháp, hành pháp và tài phán theo nguyên tắc “tam quyền phân
lập” của Montesquieu.
Ví dụ: CHLB Đức, CH Áo…
 Cộng hòa dân chủ nhân dân: Quyền lực Nhà nước tối cao không phân chia
mà tập trung thống nhất trong các cơ quan quyền lực do nhân dân bầu ra và nhân dân
tham gia vào công việc quản lý Nhà nước.
Ví dụ: Ở các nước XHCN: Việt Nam, Cuba, Lào, Trung Quốc…
1.5.2. Hình thức cấu trúc
Hình thức cấu trúc nhà nước là cách cấu tạo nhà nước thành các cơ quan theo
các đơn vị hành chính – lãnh thổ, xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó với nhau và
với các cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình
thức nhà nước liên bang.
- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan quyền
lực và quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị hành chính bao
gồm tỉnh (thành phố), huyện (quận), xã (phường).
Ví dụ: Những nước có hình thức Nhà nước đơn nhất hiện nay: Việt Nam, Lào,
Trung Quốc, Nhật, Pháp, BaLan…
- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nước thành viên hợp lại. Nhà
nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và quản lý; một hệ thống chung cho
toàn liên bang và một hệ thống trong mỗi nước thành viên; có chủ quyền quốc gia chung
của nhà nước liên bang và đồng thời mỗi nước thành viên cũng có chủ quyền riêng.
Ngoài hai dạng cơ bản trên còn có nhà nước liên minh, đó là một nhóm các nhà
nước có chủ quyền hoàn toàn liên kết với nhau để thực hiện những mục đích cụ thể
nhưng mỗi nhà nước vẫn giữ chủ quyền riêng của mình. Nhà nước này giống nhà nước
liên bang ở chỗ nó cũng gồm nhiều nhà nước hợp thành, có thể có một BMNN và một
hệ thống pháp luật chung cho toàn liên minh, song khác ở chỗ tính độc lập của các nhà
9
nước thành viên cao hơn nhiều vì mỗi nhà nước ấy vẫn có chủ quyền hoàn toàn, vẫn là
chủ thể độc lập của luật quốc tế. Các nhà nước liên bang và liên minh có thể là bước
phát triển tiếp theo của liên minh các nhà nước.
1.5.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp, thủ đoạn mà các cơ quan nhà
nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Chế độ chính trị bao gồm hai dạng cơ bản là dân chủ và phản dân chủ.
Dân chủ là chế độ mà nhân dân có quyền tham gia vào việc tổ chức, hoạt động của
các cơ quan nhà nước, bàn bạc, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của
nhà nước.
Trong chế độ dân chủ, phương thức để lập ra cơ quan tối cao của quyền lực nhà
nước là bằng bầu cử hoặc chủ yếu bằng bầu cử, các quyết định quan trọng của nhà
nước được xây dựng nên thông qua các cuộc thảo luận, bàn bạc của nhân dân hoặc các
đại diện của họ và quyết định theo đa số. Nhân dân được hưởng một số quyền tự do
chính trị mà đặc biệt là quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà
nước, quyền giám sát hoạt động của các cơ quan và nhân viên nhà nước... Tùy theo đối
tượng được hưởng quyền tham gia vào việc tổ chức và hoạt động của nhà nước mà chế
độ dân chủ có thể là rộng rãi hoặc hạn chế.
Phản dân chủ là chế độ mà nhân dân không có quyền tham gia vào việc tổ chức
BMNN (đặc biệt là cơ quan tối cao của quyền lực nhà nước) hoặc vào việc bàn bạc, thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước.
Trong chế độ này, cơ quan cao nhất của nhà nước được lập ra theo phương thức
độc đoán, có thể bằng các con đường như: thông qua một cuộc chinh phục hoặc đảo
chính để chiếm đoạt quyền hành, cha truyền con nối tức là những con đường mà nhân
dân không được tham gia. Vì thế, nhân dân hoặc đại diện của họ cũng không thể tham
gia thảo luận, bàn bạc để quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước. Chế độ
này có những biến dạng cực đoan như chế độ độc tài, chế độ phát xít, chế độ phân biệt
chủng tộc, chế độ diệt chủng.

1.6. Kiểu nhà nước


Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà nước,
thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một
hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở để xác định kiểu nhà nước là học thuyết Mác - LêNin về hình thái kinh tế - xã
hội. Theo đó, mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu nhà nước tương ứng (trừ hình thái
kinh tế - xã hội công xã nguyên thủy).

10
- Kiểu nhà nước chủ nô: ra đời trên cơ sở sự tan rã của chế độ thị tộc bộ lạc gắn
liền với sự xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất và người lao động. Xã hội phân chia
thành các giai cấp đối kháng (giai cấp chủ nô và nô lệ) và mâu thuẫn giai cấp là gay
gắt.
- Kiểu nhà nước phong kiến: ra đời trên cơ sở sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô
lệ, thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp nô lệ chống lại tầng lớp địa chủ. Phân chi
giai cấp trong xã hội, trong đó giai cấp địa chủ chiếm hữu toàn bộ tư liệu sản xuất
quan trọng là đất đai, giai cấp nông dân không có tư liệu sản xuất phải nộp tô, thuế và
chịu sự bóc lột của giai cấp địa chủ.
- Kiểu nhà nước tư sản: ra đời trên cơ sở sự khủng hoảng của nhà nước phong
kiến thông qua cuộc cách mạng tư sản. Trong xã hội xuất hiện hai giai cấp mâu thuẫn
nhau đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Giai cấp tư sản sở hữu tư liệu sản xuất
chính và bóc lột giá trị thặng dư của người lao động.
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa: ra đời trên cơ sở là những tiền đề về kinh tế,
chính trị, xã hội trong lòng xã hội tư bản, là kết quả của cách mạng do giai cấp vô sản
và nhân dân lao động tiến hành. Xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu và quan hệ hữu nghị, bình đẳng và hợp tác giữa những người lao động; về tính
chất giai cấp thì là công cụ để thực hiện và bảo vệ lợi ích, địa vị thống trị của đại đa số
dân cư là những người lao động trong xã hội; là công cụ chủ yếu để xây dựng chế độ
xã hội theo lý tưởng của giai cấp công nhân.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 1


Câu 1: Khái niệm Nhà nước? Nêu sự khác biệt cơ bản giữa Nhà nước với các thiết chế
chính trị khác trong xã hội?
Câu 2: Nêu sự khác biệt cơ bản giữa hình thức chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa?
Câu 3: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao?
a. Sự xuất hiện chế độ tư hữu về tài sản là nguyên nhân duy nhất dẫn đến sự ra
đời của nhà nước.
b. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là nhà nước Đại cồ việt.
c. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị trong hệ thống
chính trị.
d. Để phân biệt nhà nước và các tổ chức khác cần chỉ cần dựa vào đặc trưng nhà
nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Nhà nước là:
a. Kết quả của 03 lần phân công lao động trong lịch sử.
b. Kết quả của nền sản xuất hàng hoá cùng những hoạt động thương nghiệp.
11
c. Nhu cầu về sự cần thiết phải có một tổ chức để dập tắt xung đột giai cấp.
d. Nhu cầu về sự cần thiết phải có một tổ chức thay thế thị tộc - bộ lạc.
2. Một trong những bản chất của nhà nước là:
a. Nhà nước có chủ quyền duy nhất
b. Tính xã hội
c. Đặt ra thuế và thu thuế dưới hình thức bắt buộc
d. Cả a,b,c đều đúng
3. Tính giai cấp của nhà nước thể hiện ở chỗ:
a. Nhà nước là một bộ máy trấn áp giai cấp.
b. Nhà nước là một bộ máy của giai cấp này thống trị giai cấp khác.
c. Nhà nước ra đời là sản phẩm của xã hội có giai cấp.
4. Chính sách nào sau đây thuộc về của nhà nước:
a. Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
b. Tương trợ tư pháp giữa các quốc gia.
c. Tăng cường các mặt hàng xuất khẩu công nghệ cao.
d. Cả a,b,c.
5. Hình thức nhà nước là cách tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước và phương
pháp thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước được thể hiện chủ yếu
ở ............ khía cạnh; đó là ...................
a. 3; hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ kinh tế -
chính trị.
b. 3; hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
c. 3; hình thức chuyên chính, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ kinh tế -
chính trị.
d. 3; hình thức chuyên chính, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.

12
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm và giải thích được nguồn gốc hình thành pháp luật; nắm được bản chất, chức
năng của pháp luật; phân tích được mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị,
nhà nước và các quy phạm xã hội khác; biết được các thuộc tính cơ bản của pháp luật;
so sánh được các hình thức pháp luật, nắm được các kiểu pháp luật trong lịch sử.
2.1. Nguồn gốc của pháp luật
Pháp luật là hiện tượng xã hội tồn tại khách quan, có vai trò điều chỉnh mối
quan hệ của con người trong xã hội, ổn định trật tự xã hội vì vậy cũng giống như sự
xuất hiện của Nhà nước, khi con người có nhận thức đã tìm cách lý giải về sự hình
thành pháp luật trong xã hội.
Trong lịch sử xã hội có nhiều học thuyết giải thích nguồn gốc hình thành pháp
luật khác nhau, nhưng chỉ có học thuyết Mác - Lênin là giải thích mang tính khoa học
và đúng đắn nhất.
Thuyết thần học: Nhà nước là do đấng thiêng liêng tạo ra để quản lý xã hội và
Nhà nước đặt ra pháp luật để thực hiện chức năng này.
Thuyết tư sản: Pháp luật xuất hiện ngay khi xã hội hình thành: Ở đâu có xã hội,
ở đó có pháp luật.
Theo học thuyết Mác - LêNin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch sử
cơ bản nhất của đời sống chính trị - xã hội, cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển
và cùng tiêu vong khi nhân loại tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp
luật, nhưng đã có các quy phạm xã hội hay những quy tắc xử sự chung tồn tại dưới
dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo để hướng dẫn cách xử sự cho
mọi người. Các quy tắc này thường được hình thành một cách tự phát trong một cộng
đồng dân cư nhất định, trên cơ sở những thói quen ứng xử lặp đi lặp lại hàng ngày và
từ nhu cầu tinh thần, tình cảm, tín ngưỡng của con người. Chúng thường phản ánh ý
chí của cộng đồng dân cư đó, được lưu truyền từ đời này sang đời khác theo phương
thức truyền miệng, được bảo đảm thực hiện bằng thói quen, bằng lương tâm, bằng
niềm tin tôn giáo, bằng dư luận xã hội và bằng cả các biện pháp cưỡng chế nhất định
như: phải nộp phạt, bị đuổi ra khỏi cộng đồng, bị giết...
Khi nhà nước xuất hiện, trong xã hội đã xuất hiện thêm một loại quy phạm xã
hội mới chỉ do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, đó là pháp luật.
Pháp luật hình thành bằng các con đường sau:

13
Thứ nhất, nhà nước thừa nhận những quy tắc xử sự chung đã tồn tại trong xã
hội dưới dạng phong tục tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí
của nhà nước thành pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo
đảm thực hiện.
Thứ hai, nhà nước đặt ra các quy tắc xử sự mới để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc xử sự cũ khi chúng không phù hợp với
ý chí của nhà nước, đồng thời bảo đảm cho các quy tắc đó được thực hiện.
Thứ ba, nhà nước thừa nhận các quyết định, các lập luận, các nguyên tắc hoặc
sự giải thích pháp luật do cơ quan xét xử (tòa án hay trọng tài) đưa ra khi giải quyết
các vụ việc thực tế, cụ thể làm mẫu, bắt buộc các cơ quan xét xử phải tuân theo khi
giải quyết các vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung tương tự như vậy.
Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ sắc bén để
thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
=> Khái niệm pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội,
thể hiện ý chí của Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
2.2. Bản chất của pháp luật
2.2.1. Tính giai cấp của pháp luật
- Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ nó là sự thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị hay lực lượng cầm quyền trong xã hội, là công cụ điều chỉnh quan hệ giữa
các giai cấp, các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ lợi ích, bảo vệ quyền và địa
vị thống trị của lực lượng cầm quyền.
- Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tự”, phù hợp với ý chí
của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó,
pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.
Bản chất giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi
kiểu pháp luật lại có nét riêng và cách biểu hiện riêng.
Ví dụ: pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của chủ nô, tình
trạng vô quyền của nô lệ. Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi
của địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc, dã man để đàn áp nhân
dân lao động. Trong pháp luật tư sản, bản chất giai cấp được thể hiện một cách thận
trọng, tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do
dân chủ... nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và
mục đích trước hết nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Pháp luật xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây
14
dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng
xã hội được bảo đảm.
2.2.2. Tính xã hội của pháp luật
Vì pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó
còn mang tính chất xã hội.
- Pháp luật thể hiện ý chí chung của toàn xã hội và nhằm bảo vệ lợi ích chung
của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Kết cấu xã hội bao gồm nhiều giai cấp,
tầng lớp khác nhau nên pháp luật không thể chỉ thể hiện ý chí của giai cấp thống trị
hay lực lượng cầm quyền mà còn phải thể hiện ý chí và phản ánh lợi ích của các giai
tầng khác ở một mức độ nhất định.
- Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập, củng cố
và bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống, bảo vệ lợi ích chung của toàn
quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của cả xã hội.
2.3. Các thuộc tính của pháp luật
- Tính quyền lực: Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nói
một cách khác, pháp luật được hình thành và phát triển bằng con đường nhà nước chứ
không thể bằng bất cứ một con đường nào khác. Vì vậy, khi pháp luật được nhà nước
ban hành và bảo đảm thực hiện, nó sẽ có sức mạnh của quyền lực nhà nước và có thể
tác động tới tất cả mọi người.
- Tính quy phạm: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn
mẫu, những mực thước được xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính
quy phạm của pháp luật nói lên giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để mọi người
(chủ thể) có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Vượt quá giới hạn đó
là trái luật. Giới hạn đó được xác định ở nhiều khía cạnh khác nhau như cho phép, cấm
đoán, bắt buộc...
- Tính ý chí: Pháp luật bao giờ cũng là hiện tượng ý chí không phải là kết quả
của sự tự phát hay cảm tính. Xét về bản chất, ý chí trong pháp luật là ý chí của giai cấp
cầm quyền. Ý chí đó thể hiện rõ ở mục đích xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và
dự kiến hiệu ứng của pháp luật khi triển khai vào thực tế đời sống xã hội.
- Tính xã hội: Muốn cho pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp
với những điều kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm nó tồn tại, nghĩa là pháp luật phải
phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội.
2.4. Các chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của pháp
luật, phản ánh bản chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật.
Pháp luật có 3 chức năng chủ yếu:

15
- Chức năng điều chỉnh: Chức năng điều chỉnh của pháp luật thể hiện vai trò và giá
trị xã hội của pháp luật. Pháp luật được đặt ra nhằm hướng tới sự điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Sự điều chỉnh lên các quan hệ xã hội được thực hiện theo hai hướng: một mặt pháp
luật ghi nhận các quan hệ xã hội chủ yếu trong xã hội, mặt khác pháp luật đảm bảo cho sự
phát triển các quan hệ xã hội. Như vậy, pháp luật đã thiết lập “trật tự” đối với các quan hệ
xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng nhất định phù
hợp với ý chí của giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động khách quan của các
quan hệ xã hội.
- Chức năng bảo vệ xã hội: Chức năng bảo vệ xã hội là công cụ bảo vệ các quan hệ
xã hội mà nó điều chỉnh. Khi có các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến
các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được quy định trong bộ phận chế tài của các quy
phạm pháp luật đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Ví dụ: như hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người, bị xử lý theo
Luật Hình sự, hành vi gây thiệt hại tài sản buộc phải bồi thường theo Luật Dân sự.
- Chức năng giáo dục: Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua
sự tác động của pháp luật và ý thức của con người, làm cho con người xử sự phù hợp
với cách xử sự được quy định trong các quy phạm pháp luật. Việc giáo dục có thể thực
hiện thông qua tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thông qua
việc xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm (xử phạt những hành vi vi phạm giao thông, xét
xử những người vi phạm hình sự,…).
2.5. Các mối quan hệ cơ bản của pháp luật
2.5.1. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế
Pháp luật là một hiện tượng xã hội nên luôn tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ
với các hiện tượng xã hội khác mà trước tiên là với nền kinh tế. Quan hệ giữa pháp
luật với kinh tế là quan hệ giữa một bộ phận của kiến trúc thượng tầng với một hiện
tượng nằm trong cơ sở hạ tầng của xã hội, tức là quan hệ giữa một hiện tượng giữ vai
trò quyết định với một hiện tượng phụ thuộc.
- Trong mối quan hệ với pháp luật thì kinh tế giữ vai trò quyết định đối với
pháp luật, nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật.
- Pháp luật cũng có sự tác động ngược trở lại đối với kinh tế, sự tác động đó có
thể tích cực và cũng có thể tiêu cực.
2.5.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị
Pháp luật và chính trị đều là những hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng của
xã hội, cùng dựa trên một nền tảng kinh tế - xã hội nhất định, cùng có chung đối tượng
phản ánh là đời sống kinh tế, xã hội nên có quan hệ khá mật thiết với nhau.

16
- Chính trị có tác động trực tiếp tới pháp luật, nó là cơ sở, là nền tảng của pháp
luật, nó chỉ đạo pháp luật.
- Pháp luật có ảnh hưởng tới chính trị, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Pháp luật là hình thức biểu hiện của chính trị, nó ghi nhận yêu cầu, nội dung,
đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền. Pháp luật còn là biện pháp, là phương
tiện để thực hiện các mục tiêu, đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền, nó thể
chế hóa nhằm hiện thực hóa các quan điểm, mục tiêu, đường lối chính trị. Vì thế, pháp
luật là công cụ đắc lực để hiện thực hóa, để duy trì và bảo vệ quyền lực chính trị trong
xã hội.
2.5.3. Mối quan hệ giữa pháp luật với nhà nước
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng xã hội cùng ra đời, tồn tại và phát triển
trong xã hội có giai cấp, cùng là những công cụ để thực hiện và bảo vệ lợi ích, quyền
và địa vị thống trị của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền, để điều hành và
quản lý xã hội, nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội cho nên chúng có quan hệ mật
thiết với nhau tới mức tồn tại không thể thiếu nhau. Nhà nước tồn tại không thể thiếu
pháp luật vì nó cần pháp luật để tổ chức bộ máy của nó, để thể hiện ý chí và để quản lý
xã hội. Tuy do nhà nước ban hành ra song khi có hiệu lực pháp lý thì pháp luật lại có
giá trị ràng buộc đối với nhà nước.
Ngược lại, pháp luật cũng không thể tồn tại nếu không có nhà nước bởi vì nó là
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện
pháp mang tính quyền lực nhà nước, từ tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thuyết phục,
động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho đến áp dụng các biện pháp cưỡng chế
của nhà nước.
2.5.4. Mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác
- Phong tục tập quán: là những thói quen trong ứng xử của cộng đồng hay
những quy tắc xử sự chung được hình thành một cách tự phát trong một cộng đồng dân
cư, được lưu truyền chủ yếu theo phương thức truyền miệng, được bảo đảm thực hiện
bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và bằng cả biện
pháp cưỡng chế phi nhà nước.
Ví dụ: Phong tục tập quán ở đất nước ta không thể không nhắc tới “Giỗ tổ
Hùng Vương” ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Sự tác động của phong tục tập quán đến các hoạt động pháp lí thực tiễn biểu
hiện ở hai mặt: tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực: phong tục tập quán tác động đến quá trình hình thành các quy
định của pháp luật. Nó được coi là một nguồn luật quan trọng đối với một số hình thức

17
nhà nước ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngoài ra, phong tục tập quán còn góp
phần hình thành nhân cách pháp lý của con người trong đời sống xã hội.
Tuy nhiên, phong tục tập quán cũng có những tác động tiêu cực: Về vấn đề thực
thi pháp luật, phong tục tập quán có 1 số nội dung lạc hậu gây cản trở đối với việc thực
hiện pháp luật của nhà nước. Phong tục tập quán tạo tâm lý thói quen sống theo phong
tục tập quán coi thường pháp luật ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật, tăng
cường pháp chế. Những quy định chưa phù hợp với pháp luật hiện hành nhưng nó đã
tồn tại lâu đời và ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã hội nên thường xảy ra tâm lí
cục bộ địa phương “phép vua thua lệ làng”. Ngoài ra, việc thực hiện áp dụng phong
tục tập quán trong xã hội còn mang tính nửa vời, không rõ ràng. Đó có thể là những
phong tục tập quán hạn chế và gây ảnh hưởng đến việc sử dụng pháp luật như: tảo
hôn, cúng ma, nổi dậy, mê tín dị đoan, trọng nam khinh nữ.
Nhà nước ghi nhận, củng cố và bảo vệ phong tục tập quán tốt đẹp dưới nhiều
hình thức và biện pháp khác nhau là hết sức cần thiết. Ở một khía cạnh nào đó nhà
nước thừa nhận các phong tục tập quán và nâng lên thành các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung là quy phạm pháp luật. Điều này giúp cho phong tục tập quán được tôn
trọng, bảo vệ và phát huy tác dụng trong cuộc sống, góp phần bảo tồn phát huy những
phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp khi chúng phù hợp với ý chí nhà nước và
được thừa nhận trong pháp luật.
- Đạo đức: là tổng thể các quan điểm, ý niệm của con người về điều thiện và
điều ác, về điều tốt và điều xấu, hạnh phúc và bất hạnh, công bằng và bất công, lẽ
sống, niềm tin... và các quy tắc xử sự hình thành trên các quan điểm, ý niệm đó.
- Tín điều tôn giáo: Là những giáo lý và những quy tắc xử sự chung do những
người sáng lập hoặc truyền bá các loại tôn giáo đặt ra để quy định về các lễ nghi tôn
giáo và để điều chỉnh quan hệ giữa các tín đồ với nhau và với các tổ chức tôn giáo.
Nhiều quan niệm đạo đức được thể chế hóa trong pháp luật, nhiều phong tục tập
quán, quy tắc đạo đức, tín điều tôn giáo được thừa nhận trong pháp luật, qua đó góp
phần tạo nên pháp luật đồng thời góp phần làm cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, tự giác hơn. Ngược lại, những quan niệm, quy tắc đạo đức, phong tục tập quán,
tín điều tôn giáo trái với ý chí của nhà nước có thể trở thành tiền đề để nhà nước ban
hành ra những quy định mới nhằm loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội.
Pháp luật cũng có tác động lớn đến các loại quy phạm xã hội khác. Pháp luật có
thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các quan niệm, quy tắc
đạo đức, phong tục tập quán hoặc tín điều tôn giáo khi chúng phù hợp với ý chí của
nhà nước và được thừa nhận trong pháp luật.

18
2.6. Hình thức pháp luật và kiểu pháp luật

2.6.1. Hình thức pháp luật


Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí
của giai cấp mình lên thành pháp luật, hay nói cách khác hình thức pháp luật là hình
thức thể hiện, biểu hiện của pháp luật.
2.6.1.1. Tập quán pháp
Là hình thức nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự đã tồn tại trong xã hội dưới
dạng phong tục tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo nhưng phù hợp với ý chí của nó
thành pháp luật, tức là thành các quy tắc xử sự chung được nhà nước bảo đảm thực hiện.
Ví dụ: “Giỗ tổ Hùng Vương” ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Đó là một trong
phong tục tập quán thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, ghi nhớ công lao của tổ
tiên. Năm 2007, “Giỗ tổ Hùng Vương” đã được pháp luật nước ta công nhận trở thành ngày
“Quốc giỗ”, tất cả người dân Việt Nam đều được nghỉ ngày 10/3 âm lịch hàng năm để có
thể sửa soạn cúng tổ tiên cho thật tươm tất. Không những vậy phong tục tập quán còn được
áp dụng trong luật “Hôn nhân và gia đình” để kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp
trong gia đình.
- Ưu điểm: Dễ được mọi người thực hiện vì tập quán là những cách xử sự gắn liền
với đời sống của con người.
- Nhược điểm: Tập quán có tính cục bộ, tản mạn, manh mún, hình thành một cách tự
phát, ít biến đổi...
2.6.1.2. Tiền lệ pháp hay án lệ
Là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định hoặc lập luận, hoặc nguyên
tắc, hoặc sự giải thích pháp luật do cơ quan xét xử (tòa án hoặc trọng tài) đưa ra khi
giải quyết một vụ việc thực tế cụ thể nào đó làm mẫu hoặc làm cơ sở để các cơ quan
xét xử dựa vào đó mà giải quyết các vụ việc khác xảy ra về sau có nội dung hoặc tình
tiết tương tự.
Trước đây, Việt Nam không thừa nhận hình thức này. Tuy nhiên từ năm 2015,
hình thức này đã được thừa nhận và TAND tối cao thường ban hành các tuyển tập án
lệ làm cơ sở cho các Toà án nhân dân các cấp căn cứ áp dụng.
Ưu điểm của tiền lệ pháp là giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, đơn giản,
đỡ tốn kém về thời gian và kinh phí. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm nhất
định như: dễ tạo ra sự tùy tiện bởi tiền lệ pháp không phải hình thành từ cơ quan lập
pháp mà hình thành từ cơ quan tư pháp và cơ quan hành pháp.
2.6.1.3. Văn bản quy phạm pháp luật
Điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015:

19
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.
Văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng được ban hành không đúng thẩm
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này thì không phải là văn bản
quy phạm pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật có những đặc điểm sau:
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền ban hành.
- Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung
được nhà nước bảo đảm thực hiện, tức là các quy phạm pháp luật.
- Văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nhiều lần trong thực tế cuộc sống
và được thực hiện trong mọi trường hợp khi có các sự kiện pháp lý tương ứng với nó
xảy ra cho đến khi nó hết hiệu lực.
- Tên gọi, nội dung, trình tự và thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật
được quy định cụ thể trong pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không được đặt
tên một cách tùy tiện mà phải theo quy định của pháp luật.
2.6.2. Kiểu pháp luật
Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của pháp
luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật
trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Học thuyết Mác - Lênin về các hình thái kinh tế xã hội là cơ sở để phân định kiểu
pháp luật. Đặc điểm của mỗi hình thái kinh tế - xã hội trong xã hội có giai cấp sẽ quyết
định những dấu hiệu cơ bản của pháp luật. Phù hợp với điều đó, trong lịch sử đã tồn tại
4 kiểu pháp luật: Kiểu pháp luật chủ nô, kiểu pháp luật phong kiến, kiểu pháp luật tư
sản và kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
a. Kiểu pháp luật chủ nô
- Cơ sở kinh tế xã hội: quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ (dựa trên chế độ sở hữu
của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ).
- Bản chất:
+ Tính giai cấp: thể hiện ý chí của giai cấp chủ nô.
+ Vai trò xã hội: có vai trò quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội. Xuất
hiện nhiều bộ luật quan trọng: Bộ luật 12 bảng của Nhà nước La Mã cổ đại.
b. Kiểu pháp luật phong kiến
- Cơ sở kinh tế xã hội: quan hệ sản xuất phong kiến (dựa trên chế độ tư hữu về
đất đai và các tư liệu sản xuất quan trọng khác)
- Bản chất:

20
+ Tính giai cấp: duy trì, bảo vệ đặc quyền đặc lợi của giai cấp địa chủ phong
kiến.
+ Vai trò xã hội: đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập, ghi nhận và phát
triển hệ thống quan hệ xã hội mới của hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn so với
pháp luật chủ nô, thúc đẩy XH phát triển.
c. Kiểu pháp luật tư sản
- Cơ sở kinh tế xã hội: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (dựa trên chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư)
- Bản chất:
+ Tính giai cấp: bảo vệ chế độ tư hữu tư sản và chế độ bóc lột lao động làm thuê.
+ Tính xã hội:
 Xuất hiện khái niệm “công dân”, quy định quyền tự do dân chủ rộng rãi của
công dân.
 Tuyên bố nguyên tắc “tự do hợp đồng”. Chế định hợp đồng rất phát triển, xuất
hiện chế định hợp đồng lao động.
 Nguyên tắc pháp chế lần đầu tiên được thể hiện.
 Kỹ thuật lập pháp phát triển .
d. Kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa
- Cơ sở kinh tế xã hội: quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất).
- Bản chất:
+ Tính giai cấp: là công cụ thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp vô sản.
+ Tính xã hội: Phủ nhận chế độ bóc lột, hạn chế và dần đi đến xoá bỏ chế độ tư
hữu, là công cụ xây dựng một xã hội bình đẳng, công bằng, tự do, dân chủ và nhân
đạo.
Tóm lại, các kiểu pháp luật trong lịch sử đã lần lượt thay thế nhau theo quy luật
kiểu sau tiến bộ hơn kiểu trước. Đó là một quy luật tất yếu, phù hợp với quy luật thay
thế các hình thái kinh tế - xã hội. Con đường đưa đến sự thay thế đó thông thường là
cách mạng hoặc biến động xã hội để lật đổ chính quyền của giai cấp hay lực lượng
thống trị cũ, thiết lập chính quyền của giai cấp hay lực lượng cầm quyền mới và cùng
với điều đó là việc thiết lập một kiểu pháp luật mới để thay thế kiểu pháp luật cũ.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, các kiểu pháp luật có thể lần lượt
thay thế nhau theo trật tự pháp luật phong kiến thay thế pháp luật chủ nô, pháp luật tư
sản thay thế pháp luật phong kiến và pháp luật xã hội chủ nghĩa thay thế pháp luật tư
bản chủ nghĩa, song cũng có thể không theo đúng trật tự đó. Chẳng hạn, ở Việt Nam
hầu như không có pháp luật chủ nô và pháp luật tư bản chủ nghĩa mà chỉ có pháp luật

21
phong kiến, pháp luật của chế độ thực dân nửa phong kiến rồi đến pháp luật của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 2


Câu 1: Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng xã hội khác?
Câu 2: Trình bày những nét cơ bản về hình thức pháp luật. Hình thức pháp luật Việt Nam
hiện nay?
Câu 3: So sánh văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật?
Câu 4: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao?
a. Mọi quy tắc xử sự tồn tại trong xã hội có Nhà nước đều được xem là pháp luật.
b. Nguồn gốc của sự hình thành pháp luật chính là nhu cầu quản lý và phát triển
của xã hội.
c. Pháp luật là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá hành vi con người.
d. Pháp luật luôn chỉ tác động tích cực đối với kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Hình thức pháp luật được áp dụng chủ yếu tại Việt Nam là:
a. Tập quán pháp.
b. Tiền tệ pháp.
c. Văn bản quy phạm pháp luật.
d. Học lý.
2. Tính quy phạm phổ biến là đặc tính của:
a. Pháp luật.
b. Quy tắc đạo đức.
c. Tôn giáo.
d. Tổ chức xã hội.
3. Các quốc gia sau đây đã trải qua 4 kiểu pháp luật trong quá trình phát triển:
a. Việt Nam.
b. Hoa kỳ.
c. Pháp.
d. Tất cả đều sai.
4. Điều ước quốc tế là hình thức của pháp luật Việt Nam khi:
a. Việt Nam không công nhận.
b. Việt Nam tham gia ký kết.
c. Điều ước có nhiều quốc gia ký kết.
d. Điều ước được nhiều quốc gia trên thế giới công nhận.
5. Pháp lệnh là một loại văn bản pháp luật do cơ quan nào sau đây ban hành:
a. Quốc hội.
22
b. Ủy ban thường vụ Quốc hội.
c. Chính phủ
d. Cả a,b,c.
6. “Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính ....................., do ..................
ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ....................... của giai cấp thống trị và phụ
thuộc vào các điều kiện .................. , là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội”
a. Bắt buộc – quốc hội – ý chí – chính trị.
b. Bắt buộc chung – nhà nước – lý tưởng – chính trị.
c. Bắt buộc – quốc hội – lý tưởng – kinh tế xã hội.
d. Bắt buộc chung – nhà nước – ý chí – kinh tế xã hội.
7. Văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật ở nước ta:
a. Hiến pháp
b. Nghị quyết của Quốc hội
c. Pháp lệnh của Chủ tịch nước
d. Pháp lệnh
8. Sắp xếp các văn bản gồm: Nghị định, Pháp lệnh, Luật, theo trật tự thứ bậc
trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta:
a. Pháp lệnh - Luật - Nghị định
b. Luật - Pháp lệnh - Nghị định
c. Pháp lệnh - Nghị định - Luật
d. Nghị định - Luật - Pháp lệnh
9. Nghị định là văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành là:
a. Chính phủ
b. Ủy ban thường vụ Quốc hội
c. Thủ tướng chính phủ
d. Chủ tịch nước

23
Chương 3
QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được khái niệm và đặc điểm của quy phạm pháp luật, cấu trúc của quy phạm
pháp luật. Hiểu nội dung cơ bản của quan hệ pháp luật, đặc điểm của quan hệ pháp luật,
cơ cấu của quan hệ pháp luật. Nắm được sự kiện pháp lý và sự kiện thực tế.
3.1. Quy phạm pháp luật
3.1.1. Khái niệm quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo
đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng của nhà nước.
Các quy phạm xã hội khác nhau thì có những đặc tính khác nhau, nhưng chúng
luôn liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và cùng tác động lên các
quan hệ xã hội.
3.1.2. Đặc điểm quy phạm pháp luật
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự. Với tư cách là quy tắc xử sự, quy phạm
pháp luật luôn là khuôn mẫu cho hành vi con người, nó chỉ dẫn cho mọi người cách xử
sự (nên hay không nên làm gì hoặc làm như thế nào) trong những hoàn cảnh, điều kiện
nhất định.
- Quy phạm pháp luật là tiêu chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi
của con người. Không chỉ là khuôn mẫu cho hành vi, quy phạm pháp luật còn là tiêu
chuẩn để xác định giới hạn và đánh giá hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ mà
nó điều chỉnh từ phía nhà nước, từ những người có chức vụ, quyền hạn, từ phía các
chủ thể khác về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong xử sự của các bên. Nghĩa là,
thông qua quy phạm pháp luật mới biết được hoạt động nào của các chủ thể có ý nghĩa
pháp lý, hoạt động nào không có ý nghĩa pháp lý, hoạt động nào phù hợp với pháp
luật, hoạt động nào trái pháp luật...
- Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện. Quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra, thừa nhận
hoặc phê chuẩn, do vậy bản chất của chúng trùng với bản chất của pháp luật. Nhà nước
áp đặt ý chí của mình trong quy phạm pháp luật bằng cách xác định những đối tượng
(tổ chức, cá nhân) nào trong những điều kiện, hoàn cảnh nào thì phải chịu sự tác động
của quy phạm pháp luật.
- Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung. Quy phạm pháp luật không phải
được ban hành cho một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho tất cả các tổ chức và cá
nhân tham gia quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh. Mọi tổ chức và cá nhân ở vào những
điều kiện và hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật đã quy định đều xử sự thống nhất như nhau.

24
- Quy phạm pháp luật có tính hệ thống. Mỗi quy phạm pháp luật được nhà nước
ban hành không tồn tại và tác động một cách biệt lập, riêng rẽ, mà giữa chúng luôn có
sự liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau. Quy phạm pháp luật của các nhà nước hiện
đại chủ yếu là quy phạm pháp luật thành văn, chúng được chứa đựng trong các văn
bản quy phạm pháp luật của nhà nước.
3.1.3. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật là một hiện tượng pháp lý có tính độc lập tương đối của
mình không chỉ ở nội dung, hình thức thể hiện mà còn ở cấu trúc. Cấu trúc của quy
phạm pháp luật chính là những thành phần tạo nên quy phạm có liên quan mật thiết
với nhau.
3.1.3.1. Phần giả định
- Định nghĩa: Là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những hoàn cảnh, điều
kiện có thể xảy ra trong cuộc sống và cá nhân hay tổ chức nào ở trong những điều kiện,
hoàn cảnh đó cần phải xử sự (hành động hay không hành động) theo những quy định
của Nhà nước. Bộ phận giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá
nhân nào; khi nào; trong hoàn cảnh, điều kiện nào thì phải xử sự theo quy định của pháp
luật.
- Nội dung: bộ phận này thường nêu ra: chủ thể, phạm vi thời gian và không
gian, những điều kiện và hoàn cảnh nhất định trong đời sống xã hội.
- Ý nghĩa: Giả định là bộ phận không thể thiếu trong quy phạm pháp luật. Nếu
thiếu giả định thì quy phạm pháp luật trở nên vô nghĩa, bởi lẽ chỉ từ giả định của quy
phạm pháp luật thì chúng ta mới biết được ai (cá nhân, tổ chức nào); khi ở vào những
điều kiện, hoàn cảnh nào; thì phải xử sự theo đúng quy định của quy phạm pháp luật đó.
- Yêu cầu: của phần giả định phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế.
- Phân loại: Giả định có thể đơn giản hay phức tạp (một điều kiện, hoàn cảnh
hoặc nhiều điều kiện, hoàn cảnh).
Ví dụ: Khoản 1, Điều 54 Luật doanh nghiệp 2014 đối với công ty TNHH 2
thành viên trở lên: “Trường hợp thành viên là cá nhân chết thì người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật của thành viên đó là thành viên của công ty. Trường hợp
thành viên là cá nhân bị Tòa án tuyên bố mất tích thì người quản lý tài sản của thành
viên đó theo quy định của pháp luật về dân sự là thành viên của công ty”.
Khoản 1, Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi, bổ sung 2014): “Người có
quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam”.
Điều 33 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những
ngành nghề mà pháp luật không cấm”.
3.1.3.2. Phần quy định

25
- Là bộ phận chủ yếu của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên cách xử sự mà chủ
thể khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã xác định trong bộ phận giả định của quy phạm, cách
xử sự đó có thể là một sự cấm đoán, bắt buộc, cho phép được hưởng một quyền lợi hoặc
một nghĩa vụ (được phép, không được phép hoặc buộc phải thực hiện).
- Nội dung: bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Phải
làm gì, được làm gì, không được làm gì và làm như thế nào.
- Quy tắc xử sự được nêu trong phần quy định của quy phạm pháp luật chính là
mệnh lệnh Nhà nước buộc mọi người phải tuân theo, nó trực tiếp thể hiện ý chí Nhà
nước của giai cấp thống trị. Thông qua bộ phận quy định của quy phạm pháp luật Nhà
nước xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ xã hội mà quy
phạm pháp luật điều chỉnh.
- Phần quy định thường được nêu dưới dạng: cấm, không được, phải, thì được…
Vì vậy, phần quy định cần chính xác, chặt chẽ, rõ ràng của phần quy định của quy
phạm pháp luật là một trong những điều kiện đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động
của các chủ thể pháp luật.
- Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể dứt
khoát (chỉ nêu một cách xử sự mà không có sự lựa chọn) hoặc tùy nghi (nêu lên 2 hoặc
nhiều cách xử sự và các chủ thể được phép lựa chọn cho mình cách xử sự phù hợp từ
những điều kiện, hoàn cảnh đã nêu).
Ví dụ: Điều 9 (LHN&GĐ 2014) về đăng ký kết hôn quy định: “Việc kết hôn phải
được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật
này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này
thì không có giá trị pháp lý”.
3.1.3.3. Phần chế tài
- Là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên biện pháp tác động, mà Nhà nước
dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước
đã nêu ở phần quy định của quy phạm pháp luật. Nói cách khác, chế tài pháp luật là
hậu quả pháp lý bất lợi đối với những sai phạm của họ và là điều kiện cần thiết, bảo
đảm cho những quy định của Nhà nước được thực hiện đầy đủ và triệt để.
- Nội dung: bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Hậu
quả sẽ như thế nào nếu không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ở bộ
phận quy định của quy phạm pháp luật.
- Yêu cầu: chế tài phải rõ ràng, biện pháp tác động phải tương xứng với hành vi
của chủ thể.
- Mục đích của chế tài: trừng trị người vi phạm pháp luật, làm cho họ có ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật; ngăn ngừa mọi khả năng có thể vi phạm pháp luật.

26
Ví dụ: Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một
vợ, một chồng như sau:
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai
bên dẫn đến ly hôn; b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi
phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc
chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ
đó.”
- Các biện pháp mà Nhà nước tác động đến chủ thể vi phạm pháp luật rất đa
dạng. Căn cứ vào tính chất của những biện pháp đó và cơ quan có thẩm quyền áp dụng
chúng để có thể chia chế tài quy phạm pháp luật thành các loại sau:
+ Chế tài hình sự (hình phạt) theo Luật hình sự Việt Nam gồm có: Cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài ra,
còn có các biện pháp được coi là hình phạt phụ như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân,
tịch thu tài sản, phạt tiền và trục xuất.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 quy định: “Người nào cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến
30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo
không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người;…”.
+ Chế tài hành chính bao gồm các biện pháp: Cảnh cáo, phạt tiền. Ngoài ra
còn có các biện pháp bổ sung như: tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh, chứng
chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện dùng để vi phạm hành chính.
Ví dụ: “Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với một trong các hành
vi vi phạm sau đây: a) Điều khiển xe không có còi; đèn soi biển số; đèn báo hãm;
gương chiếu hậu bên trái người điều khiển hoặc có nhưng không có tác dụng;…”
Khoản 1 Điều 17 Nghị định 46/2016/NĐ-CP Xử phạt vi phạm giao thông đường bộ,
đường sắt.
27
+ Chế tài kỷ luật gồm các biện pháp như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương,
chuyển đi làm việc khác, buộc thôi việc, cách chức…
Ví dụ: Điều 12 Luật Viên 2010 chức quy định hình thức kỷ luật cách chức áp
dụng đối với viên chức quản lý có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
“1. Không hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công mà
không có lý do chính đáng, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng;
2. Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được bổ nhiệm chức vụ;…..”
+ Chế tài dân sự gồm các biện pháp: trách nhiệm vật chất, bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, phạt bội ước…
Ví dụ: Điều 594 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Bồi thường thiệt hại trong
trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng: “Người gây thiệt hại trong trường
hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Người gây
thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt
hại.”
Việc áp dụng biện pháp nào, mức độ bao nhiêu là do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền áp dụng lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của vụ việc cần áp dụng.
 Như vậy, ba bộ phận này có liên hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau
tạo nên một cơ cấu thống nhất nhằm để trả lời những câu hỏi sau:
- Chủ thể (cá nhân, tổ chức) nào; khi nào; trong những điều kiện, hoàn cảnh nào.
- Phải làm gì; được làm gì; làm như thế nào.
- Hậu quả sẽ như thế nào nếu không làm đúng những quy định Nhà nước đã nêu ở trên.
Trong thực tế không phải điều nào của văn bản quy phạm pháp luật cũng đầy
đủ 3 bộ phận (tùy vào đặc điểm từng ngành luật, từng lĩnh vực quản lý) mà việc xây
dựng các quy phạm pháp luật có sự thể hiện khác nhau (quy phạm pháp luật của Luật
Hiến pháp thường chỉ có 2 yếu tố: giả định và quy định; quy phạm pháp luật của Luật
hình sự thường có phần giả định và chế tài).
Ví dụ: Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Khoản 1 Điều 132 BLHS 2015: “Người nào thấy người khác đang trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện cứu mà không cứu giúp dẫn đến hậu
quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc
phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. (trường hợp ta cũng có thể thấy là phần quy định ẩn
đi không thể hiện ra điều luật, vì người đọc ngầm hiểu là phải cứu người khi gặp
trường hợp này).
Để đảm bảo tính khoa học, ngắn gọn và logic mà mọi người vẫn hiểu đầy đủ,
chính xác ý muốn của Nhà nước, các quy phạm pháp luật có thể trình bày ở nhiều điều
28
khác nhau trong một văn bản pháp luật hoặc trong những văn bản pháp luật khác nhau.
Cũng có thể trình bày nhiều quy phạm pháp luật trong cùng một điều của văn bản pháp
luật, nếu việc trình bày như vậy tiện lợi cho việc so sánh và nhận thức nội dung của
các quy phạm pháp luật đó. Trật tự giả định, quy định, chế tài có thể bị đảo lộn chứ
không nhất thiết phải trình bày theo thứ tự giả định - quy định - chế tài.
Ví dụ: Điều 337 Bộ luật dân sự 2015: “Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu
bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có thỏa thuận”.
3.2. Quan hệ pháp luật
3.2.1. Khái niệm quan hệ pháp luật
Những quan hệ xuất hiện trong quá trình hoạt động xã hội của con người, chúng
xuất hiện trong quá trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, trong việc thỏa mãn
những nhu cầu văn hóa, tinh thần cũng như trong việc bảo vệ lợi ích của xã hội thì
được gọi là “quan hệ xã hội”. Quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú, tính đa dạng
của quan hệ xã hội dẫn đến sự phong phú của các hình thức tác động đến chúng. Trong
lịch sử, người ta đã dùng rất nhiều loại quy tắc xử sự (quy phạm xã hội) khác nhau để
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chúng có thể là quy phạm pháp luật, quy phạm đạo
đức, phong tục, tập quán... Trong hệ thống quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có vị
trí đặc biệt quan trọng, chúng là các quy phạm có hiệu quả nhất. Việc dùng quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ ấy có tính chất pháp lý,
nghĩa là đã quy định cho các bên tham gia quan hệ xã hội đó các quyền và nghĩa vụ
pháp lý nhất định.
Như vậy, quan hệ pháp luật là những quan hệ nảy sinh trong xã hội được các
quy phạm pháp luật điều chỉnh.
3.2.2. Đặc điểm của quan hệ pháp luật
- Quan hệ pháp luật thuộc loại quan hệ tư tưởng: Quan hệ pháp luật thuộc kiến
trúc thượng tầng và phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, mỗi kiểu
quan hệ sản xuất có kiểu pháp luật phù hợp. Các quan hệ pháp luật phát triển, biến đổi
theo sự phát triển, biến đổi của quan hệ sản xuất và phục vụ quan hệ sản xuất.
- Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội có ý chí: Tính ý chí của quan hệ pháp
luật thể hiện ở chỗ quan hệ pháp luật là dạng quan hệ cụ thể hình thành giữa những
chủ thể nhất định. Các quan hệ này không ngẫu nhiên hình thành mà được hình thành
thông qua hành vi có ý chí của các chủ thể. Có những quan hệ pháp luật mà sự hình
thành đòi hỏi cả hai bên chủ thể đều phải thể hiện ý chí, như quan hệ hợp đồng hay
quan hệ kết hôn. Cũng có những loại quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở ý
chí nhà nước, như quan hệ pháp luật hình sự được hình thành không phải xuất phát từ
ý chí của người phạm tội.

29
- Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật, vì thế, quan hệ
pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Việc lựa chọn quan hệ xã hội nào để điều chỉnh
bằng pháp luật là phụ thuộc vào ý chí nhà nước. Trong xã hội chủ nghĩa, những quan hệ
xã hội nào liên quan tới việc áp bức, bóc lột đều bị pháp luật kìm hãm và tìm cách loại
trừ dần, còn những quan hệ xã hội nào liên quan đến lợi ích người lao động, đến công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì được pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện phát triển.
- Nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Đây là đặc
trưng cơ bản của quan hệ pháp luật. Trong quan hệ pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt pháp luật.
3.2.3. Thành phần của quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật được cấu thành bởi: chủ thể, nội dung và khách thể.
3.2.3.1. Chủ thể quan hệ pháp luật
Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ pháp luật; nói cách
khác, đó là các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trên cơ sở những quyền và nghĩa
vụ do nhà nước quy định trong pháp luật. Chủ thể của quan hệ pháp luật có thể là cá
nhân, tổ chức có năng lực chủ thể.
Năng lực chủ thể gồm: năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận, có thể
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Năng lực pháp luật có thể được coi là phần tối thiểu trong năng lực chủ thể của
cá nhân và pháp nhân. Với năng lực pháp luật, các chủ thể chỉ tham gia thụ động vào
các quan hệ pháp luật hoặc được pháp luật bảo vệ trong các quan hệ nhất định. Tính
thụ động của chủ thể ở chỗ là không tự tạo ra được cho mình những quyền và nghĩa vụ
pháp lý. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà họ có được trong mối quan hệ pháp luật cụ
thể là do ý chí của nhà nước, ý chí của người thứ ba. Ví dụ, Một đứa trẻ được thừa kế
khi bố, mẹ chết.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng hành vi
của mình thực hiện một cách độc lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý, độc lập tham gia các
quan hệ xã hội cũng như độc lập chịu trách nhiệm về những hành vi của mình.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính không tách rời của
mỗi cá nhân nhưng không phải là những thuộc tính tự nhiên, không phải sẵn có khi
người đó sinh ra mà là những thuộc tính pháp lý.
- Đối với cá nhân:
+ Năng lực pháp luật bắt đầu kể từ khi cá nhân đó sinh ra và chấm dứt khi cá
nhân chết. Năng lực pháp luật dân sự của mỗi công dân được quy định tại khoản 3,
điều 16 BLDS 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh
30
ra và chấm dứt khi người đó chết”, có những trường hợp con chưa sinh ra nhưng đã
được quyền thừa kế “con sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết”.
Trong một số lĩnh vực, năng lực pháp luật được mở rộng dần từng bước phụ
thuộc vào sự phát triển thể lực và trí lực của cá nhân. Có một số trường hợp năng lực
pháp luật chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định, lúc này năng lực
pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc.
Ví dụ: Độ tuổi kết hôn của công dân Việt Nam là nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ
từ đủ 18 tuổi trở lên. Đủ 21 tuổi được quyền ứng cử, đủ 18 tuổi được quyền bầu cử…
Năng lực pháp luật là điều kiện pháp lý chủ yếu quy định tư cách của chủ thể.
Về nguyên tắc, năng lực pháp luật của cá nhân không bị hạn chế trừ trường hợp do
pháp luật quy định, chủ yếu là chế tài đối với người vi phạm pháp luật và việc hạn chế
đó phải được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
+ Năng lực hành vi: Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ xuất
hiện khi cá nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định và đạt được những điều kiện nhất định.
Phần lớn pháp luật các nước đều lấy độ tuổi 18 tuổi tròn và tiêu chuẩn lý trí làm điều
kiện công nhận năng lực hành vi cho chủ thể của đa số các nhóm quan hệ pháp luật.
Đạt đến một độ tuổi nhất định: Về tuổi, tùy theo quy định của từng nước và tùy
từng loại quan hệ pháp luật, nhưng thường lấy độ tuổi 18 là tuổi thành niên của công
dân làm mốc quy định. Ở độ tuổi này, công dân đã có đủ suy nghĩ khi hành động. Tuy
nhiên, phụ thuộc vào tính chất, tầm quan trọng của quan hệ pháp luật mà pháp luật quy
định độ tuổi cho một số loại quan hệ pháp luật có khác nhau.
Đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Công dân tuy đã đạt đủ độ tuổi
quy định nhưng người đó phải không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh nào khác làm
mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, tức là cá nhân đó phải ý thức được hậu
quả của việc mình làm. Người nào không có khả năng nhận thức thì không có năng lực
hành vi.
Ví dụ: Ở Việt Nam
 Trong quan hệ pháp luật hình sự: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “Người từ đủ
16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287,
289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật HS”. (Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi 2017)
“Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm
thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”. (Điều 21 BLHS năm 2015)
31
Tuy nhiên, việc mất năng lực hành vi chỉ miễn trừ trách nhiệm khi vì nguyên
nhân khách quan. Trường hợp, đương sự mất khả năng nhận thức vì lí do chủ quan
(uống rượu hay chất kích thích) thì không được miễn trừ trách nhiệm.
 Trong quan hệ pháp luật dân sự quy định:
- Người đã thành niên:
Người đủ 18 tuổi trở lên và không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
không điều khiển hành vi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, các giao dịch dân
sự do người thành niên tự xác lập và thực hiện.
- Người chưa thành niên:
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải
đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo
pháp luật đồng ý.
- Người mất năng lực hành vi dân sự:
+ Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
+ Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ
quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự.
+ Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
- Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
+ Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng
nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu
quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố
người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người
giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
+ Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên

32
quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên
bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
- Người hạn chế năng lực hành vi dân sự:
+ Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
+ Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa
án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan
có quy định khác.
+ Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
 Trong quan hệ hôn nhân và gia đình: nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ
18 tuổi trở lên thì mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật này.
 Tóm lại, cá nhân muốn là chủ thể của quan hệ pháp luật bắt buộc phải có
năng lực pháp luật. Ngoài năng lực pháp luật, cá nhân còn phải có năng lực hành vi
trong trường hợp quan hệ pháp luật đó đòi hỏi phải có hành vi cụ thể.
- Đối với tổ chức: năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một
lúc vào thời điểm tổ chức được thành lập và được ghi nhận trong điều lệ, quy chế hoặc
văn bản của nhà nước, năng lực hành vi của tổ chức thực hiện thông qua người đứng
đầu cơ quan hoặc người đại diện (tổ chức có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có
tư cách pháp nhân).
Tổ chức có tư cách pháp nhân khi thỏa mãn 4 điều kiện được quy định tại Điều
74 BLDS 2015 là: Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; Có tài sản độc lập
với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; Nhân danh
mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Cơ cấu tổ chức của pháp nhân: Pháp nhân phải có cơ quan điều hành. Tổ chức,
nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan điều hành của pháp nhân được quy định trong
điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân. Pháp nhân có cơ
quan khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
3.2.3.2. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể.
33
a. Quyền chủ thể: Quyền chủ thể là cách xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể
được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự theo cách
thức nhất định được pháp luật cho phép.
Quyền chủ thể có những đặc điểm như sau:
Một là, khả năng của chủ thể xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho
phép. Pháp luật quy định cá nhân có quyền ký kết hợp đồng, khiếu nại, tự do ngôn luận.
Hai là, khả năng yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành động cản trở việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ hoặc yêu cầu tôn trọng các nghĩa vụ tương ứng phát
sinh từ quyền và nghĩa vụ này.
Ba là, khả năng các chủ thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo
vệ lợi ích của mình như yêu cầu hủy hợp đồng do lỗi của bên kia, yêu cầu bồi thường
thiệt hại, kiện đòi nợ.
b. Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể: Nghĩa vụ của chủ thể là cách xử sự mà nhà
nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác.
Nghĩa vụ pháp lý có những đặc điểm sau:
Chủ thể cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định. Những hành vi
này được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động như không vứt rác nơi công
cộng, không tự ý sửa chữa thay đổi cấu trúc nhà đang thuê, đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm.
Việc thực hiện những hành vi bắt buộc nhằm đáp ứng quyền chủ thể của chủ
thể bên kia. Thông thường trong quan hệ pháp luật này thường có hai bên tham gia xác
định như bên vay phải trả nợ bên cho vay, bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật mà mình gây ra.
Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không thực hiện những hành vi bắt buộc. Đối
với người vi phạm tuỳ theo từng trường hợp phải chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng
như bị phạt tiền do không đội mũ bảo hiểm, buộc phải trả nợ và chịu lãi suất nợ quá
hạn do chậm trả, bị phạt hành chính do hành vi gây ô nhiễm môi trường.
3.2.3.3. Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã
hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân mà vì
chúng các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật, nghĩa là, vì chúng mà họ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình.
Khách thể là cái thúc đẩy các tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật.
3.3. Sự kiện pháp lý
3.3.1. Khái niệm sự kiện pháp lý
Quy phạm pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội và biến chúng thành quan
hệ pháp luật, nhưng quy phạm pháp luật chỉ có thể làm phát sinh quan hệ pháp luật
thực tế nếu gắn liền với những sự kiện đặc biệt, đó là sự kiện pháp lý.
34
Sự kiện pháp lý là những sự kiện mà khi nó xuất hiện trên thực tế theo quy định
của pháp luật kéo theo sự hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
3.3.2. Phân loại sự kiện pháp lý
- Thứ nhất, căn cứ vào tiêu chuẩn ý chí, sự kiện pháp lý được phân thành sự
biến và hành vi.
Sự biến là những hiện tượng tự nhiên (không phụ thuộc vào ý chí của con
người) mà trong những trường hợp nhất định, pháp luật gắn sự xuất hiện của chúng
với sự hình thành ở các chủ thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Ví dụ: Các hiện tượng tự nhiên như: dịch họa, thiên tai…những hiện tượng này
xảy ra trong xã hội, gắn liền với đời sống con người mới dẫn tới hậu quả pháp lý: Do
điều kiện bão lụt mà hợp đồng không thực hiện được.
Hành vi pháp lý (hành động hoặc không hành động) là những sự kiện xảy ra
theo ý chí của con người, là hình thức biểu thị ý chí của chủ thể pháp luật.
Ví dụ: Một cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân thì phải làm đơn
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Hay là hành vi ký kết hợp đồng kinh
tế, đăng ký kết hôn.
- Thứ hai, căn cứ vào số lượng những hoàn cảnh, điều kiện làm nảy sinh hậu
quả pháp lý, có thể phân chia sự kiện pháp lý thành sự kiện pháp lý đơn giản và sự
kiện pháp lý phức tạp.
Sự kiện pháp lý đơn giản chỉ bao gồm một sự kiện thực tế mà pháp luật gắn sự
xuất hiện với sự phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý phức tạp bao gồm một loạt các sự kiện mà chỉ với sự xuất hiện
của chúng các quan hệ pháp luật mới phát sinh, thay đổi hay chấm dứt.
- Thứ ba, căn cứ vào hậu quả của sự kiện pháp lý, ta có sự kiện pháp lý phát
sinh quan hệ pháp luật (cái chết của một người làm phát sinh quan hệ thừa kế), sự kiện
pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật (các bên chủ thể trong hợp đồng thỏa thuận
thay đổi nghĩa vụ thanh toán tiền trong hợp đồng mua bán tài sản thành nghĩa vụ trả nợ
trong hợp đồng vay tài sản) và sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật (chủ sở
hữu từ bỏ quyền sở hữu tài sản làm chấm dứt quyền sở hữu của mình đối với tài sản).
 Có thể tóm tắt nội dung quan hệ pháp luật bằng sơ đồ sau:

QPPL điều chỉnh Chủ thể


Quan hệ xã hội Quan hệ pháp luật Nội dung
Sự kiện pháp lý Khách thể
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 3
Câu 1: Trình bày sự khác nhau giữa quy phạm pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Câu 2: Nêu và phân tích các yếu tố của quan hệ pháp luật.
35
Câu 3: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao?
a. Trong quan hệ mua bán nhà thì khách thể của quan hệ là căn nhà và số tiền.
b. Quy phạm pháp luật dân sự như sau: “Việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, mọi hình thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt
pháp lý” bao gồm bộ phận giả định và quy định.
c. Quy phạm pháp luật luôn phải hội tụ đủ 3 bộ phận: giả định, quy định và chế tài.
d. Quy phạm pháp luật chính là điều luật.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Quy phạm pháp luật được thể hiện bằng hình thức:
a. Lời nói
b. Văn bản
c. Hành vi cụ thể
d. b và c đều đúng
2. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc thể hiện ý chí của:
a. Tổ chức kinh tế
b. Tổ chức xã hội
c. Tổ chức chính trị - xã hội
d. Nhà nước
3. Quan hệ mua bán hàng hóa là quan hệ pháp luật khi chủ thể tham gia gồm:
a. Các cá nhân có năng lực chủ thể.
b. Công ty với công ty.
c. Công ty với cá nhân có năng lực chủ thể.
d. Cả a, b, c đều đúng.
4. Đứa trẻ mới được sinh ra được Nhà nước công nhận là chủ thể có năng lực:
a. Năng lực pháp luật.
b. Năng lực hành vi.
c. Năng lực chủ thể.
d. Tất cả đều sai.
5. Các tổ chức sau đây, tổ chức nào không phải là pháp nhân:
a. Công ty cổ phần.
b. Công ty hợp danh.
c. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
d. Ủy ban nhân dân các cấp.
6. Thời điểm năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân được Nhà
nước công nhận là:
a. Cùng một thời điểm.
b. Năng lực pháp luật được công nhận trước năng lực hành vi.
36
c. Năng lực hành vi được công nhận trước năng lực pháp luật.
d. b và c sai.
7. Nội dung của quan hệ pháp luật là:
a. Các bên tham gia vào quan hệ pháp luật.
b. Những giá trị mà các chủ thể quan hệ pháp luật muốn đạt được.
c. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật.
d. Là đối tượng mà các chủ thể quan tâm khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
8. Các sự kiện pháp lý nào sau đây được xem là sự biến pháp lý?
a. Nhận con nuôi.
b. Lập di chúc thừa kế.
c. Đăng ký kết hôn.
d. Sự qua đời của một người.
9. Khi nào pháp nhân có năng lực chủ thể?
a. Khi Nhà nước cho phép hoặc công nhận sự hình thành của pháp nhân.
b. Khi tổ chức có đủ thành viên.
c. Khi các thành viên thỏa thuận thành lập pháp nhân.
d. Khi một tổ chức có đủ vốn.
BÀI TẬP
A. Xác định các bộ phận cấu thành quy phạm pháp luật sau:
1. “Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm
năm”.
2. “Người học có thành tích trong học tập, rèn luyện được nhà trường, cơ sở giáo
dục khác, cơ quan quản lý giáo dục khen thưởng; trường hợp có thành tích đặc biệt
xuất sắc được khen thưởng theo quy định của pháp luật”.
3. Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên: “Người giám hộ đương
nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ, không xác định được
cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc
người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu được xác định như sau:
a. Trong trường anh ruột, chị ruột không có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc
chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ
điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ.
b. Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc cả anh ruột, chị ruột
không có đủ điều kiện giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám
hộ; nếu không có ai trong những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám
hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ”.

37
4. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác: “Người nào
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật
từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
a. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người.
b. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
c. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.
d. Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác
không có khả năng tự vệ.
đ. Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy cô giáo của mình.
e. Có tổ chức.
g. Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục.
h. Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.
i. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
k. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân”.
5. “Người thành lập Doanh nghiệp phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh
thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW, nơi Doanh nghiệp đặt trụ sở
chính và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ đăng
ký kinh doanh”.
6. “Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với 1 trong các hành vi sau đây:
a. Đăng ký vốn nhưng thực tế không có vốn, đăng ký vốn lớn hơn số vốn có trên thực tế;
b. Không thực hiện việc cấp giấy chứng nhận phần góp vốn cho các thành viên có vốn;
c. Không lập sổ đăng ký thành viên đối với công ty TNHH có từ 2 thành viên trở
lên và công ty hợp danh; sổ đăng ký cổ đông đối với công ty cổ phần”.
7. “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
8. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng: “Người nào có nghĩa vụ cấp
dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng theo quy định của pháp luật,
mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo
không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”.
9. “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn
cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả
đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến
2 năm”.
10. “Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch nước quyền chủ tịch cho
đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới”.
38
B. Hãy xác định có bao nhiêu quy phạm pháp luật và cơ cấu của các quy phạm
pháp luật đó trong các điều luật sau đây:
1. “Công dân có nghĩa vụ nộp thuế và lao động công ích theo quy định của pháp
luật”.
2. “Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: (1) Nam từ đủ 20
tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; (2) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết
định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản
trở; (3) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn”.
3. “Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa xóa án tích mà
còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ
đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm”.
4. Quyền chiếm hữu gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc: “Người phát
hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phải thông báo hoặc trả lại
ngay cho chủ sở hữu; nếu chưa xác định được chủ sở hữu thì được chiếm hữu tài sản đó từ
thời điểm phát hiện đến thời điểm trả lại cho chủ sở hữu”.
5. “Cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật được hoạt động thương mại trong các lĩnh vực, tại các địa bàn mà pháp luật
không cấm”.
6. “Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không
có sự đồng ý của UBTVQH thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không
được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội”.
7. “Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người
thứ ba giữ tài sản thế chấp”.
8. “Người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn dấu, bị chìm đắm phải
thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải
thông báo hoặc giao nộp cho UBND xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật. Người phát
hiện tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
chôn dấu, bị chìm đắm được chiếm tài sản đó từ thời điểm phát hiện đến thời điểm trả
lại cho chủ sở hữu hoặc đến thời điểm giao nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
C. Trong những tình huống sau đây, tình huống nào thể hiện mối quan hệ pháp luật,
chỉ rõ nội dung quan hệ đó, giải thích tại sao?
Thứ nhất: Quan hệ giữa giáo viên coi thi và người đi thi.
Thứ hai: Quan hệ giữa người bán phở và người khách đến ăn phở (khi người đến ăn
phở chỉ đến ngồi trong quán, người bán phở mang bát phở ra trong khi người khách

39
chưa gọi hoặc không có ý định gọi, và người khách bỏ đi không trả tiền vì khách không
ăn phở).
Thứ ba: Anh A 20 tuổi, chị B 17 tuổi đi đăng kí kết hôn nhưng lại không được Ủy
ban nhân dân nơi đăng kí chấp nhận, về nhà 2 bên gia đình vẫn quyết định cho cưới, sau
một thời gian chung sống hai anh chị không hợp nhau, anh A đuổi chị B ra khỏi nhà và
đòi lại thằng con trai 8 tháng tuổi...và gia đình bên nhà gái đã đi khởi kiện.

40
Chương 4
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT
VÀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được các hình thức thực hiện pháp luật và phân tích được các trường hợp áp
dụng pháp luật. Nắm được khái niệm, cấu thành của vi phạm pháp luật và phân tích
các yếu tố, phân loại vi phạm pháp luật. Hiểu và nắm được khái niệm, đặc điểm trách
nhiệm pháp lý, căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý.

4.1. Thực hiện pháp luật

4.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật


Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ
thể pháp luật. Nói cách khác, thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống, vào
thực tiễn hoạt động.
Ví dụ: Trên đường phố mọi người đi xe đạp, xe máy, ôtô tự giác dừng lại đúng nơi
quy định, không vượt qua ngã 3, ngã 4 khi có tín hiệu đèn đỏ. Hay là ba thanh niên
chở nhau trên một chiếc xe máy và bị cảnh sát giao thông bắt dừng lại, lập biên bản
phạt tiền.

4.1.2. Các hình thức thực hiện pháp luật


Căn cứ vào tính chất và đặc điểm của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp
lý xác định những hình thức thực hiện pháp luật như sau:
4.1.2.1. Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động)
Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế, không làm những gì pháp luật không cho phép hoặc ngăn cấm.
Ví dụ: Không tự tiện chặt phá cây rừng; không săn bắt động vật quý hiếm;
không khai thác, đánh bắt cá ở sông, ở biển bằng công cụ, phương tiện có tính hủy diệt
(mìn, chất nổ…).
4.1.2.2. Thi hành pháp luật (xử sự chủ động)
Thi hành pháp luật - hay là chấp hành pháp luật: là hình thức xử sự tích cực khi
các chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật quy định. Hay nói cách khác hơn, các cá
nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động làm những gì mà pháp luật
quy định phải làm.
Ví dụ: Thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước khi có hoạt động kinh
doanh; thực hiện đi nghĩa vụ quân sự theo quy định Nhà nước. Luật hôn nhân và gia

41
đình quy định khi kết hôn, công dân phải đến đăng ký tại ủy ban nhân dân có thẩm
quyền, công dân thực hiện đúng quy định đó là đã chấp hành pháp luật.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thu gom
và xử lý chất thải theo tiêu chuẩn môi trường. Đây là việc làm của cơ sở sản xuất, kinh
doanh chủ động thực hiện công việc mà mình phải làm theo quy định Luật bảo vệ môi
trường 2014. Thông qua việc làm này thì cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã thi
hành pháp luật về bảo vệ môi trường.
4.1.2.3. Sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật là hình thức chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình do
pháp luật cho phép (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép). Hình thức này
thể hiện ở chỗ chủ thể pháp luật được thực hiện các hành vi cho phép theo quy định
của pháp luật.
Nếu như trong 2 hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật: thể hiện
nghĩa vụ của chủ thể phải thực hiện các quy phạm một cách thụ động hay tích cực thì
trong hình thức này chỉ thực hiện các quyền cho phép và chủ thể có thể được hưởng
hoặc không hưởng quyền mà pháp luật cho phép theo ý chí của mình chứ không bị ép
buộc phải thực hiện (bởi vì đó là quyền thì có thể làm hoặc không làm)
Ví dụ: Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền lợi của họ thì họ có
quyền khởi kiện trước Tòa án đòi bồi thường. Pháp luật quy định công dân có quyền
khiếu nại (Công dân A gửi đơn khiếu nại Giám đốc công ty khi bị kỷ luật cảnh cáo
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị vi phạm. Trong trường hợp
này công dân A đã sử dụng quyền khiếu nại của mình theo quy định của pháp luật, tức
là công dân A đã sử dụng pháp luật).
 Nhìn chung, cả 3 hình thức thực hiện pháp luật trên đều có đặc điểm chung là
mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự mình trực tiếp thực hiện pháp luật. Nhưng nếu chỉ
thông qua những hình thức này thì sẽ có nhiều quy phạm pháp luật không được thực
hiện, dẫn đến có hình thức thực hiện pháp luật thứ tư.
4.1.2.4. Áp dụng pháp luật
Khi thực hiện pháp luật, có nhiều trường hợp nếu không có sự can thiệp của cơ
quan Nhà nước, các quy phạm pháp luật sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, do đó áp dụng pháp luật tức là áp dụng quy phạm pháp luật vào trong các
trường hợp cụ thể.
- Các trường hợp áp dụng pháp luật
+ Thứ nhất, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật không
mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Đây là những trường hợp
mà các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật sẽ xuất hiện hay chấm dứt khi các

42
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những hoạt động thuộc chức năng, quyền
hạn của mình.
Ví dụ: Nữ đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi muốn trở thành quan hệ hôn nhân phải
được UBND xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai bên công nhận.
Hay chẳng hạn: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân”, nhưng quan hệ
pháp luật lao động với những quyền và nghĩa vụ lao động cụ thể giữa công dân N với
cơ quan X của nhà nước chỉ phát sinh khi có quyết định của nhà chức trách có thẩm
quyền tuyển dụng công dân N vào làm việc tại cơ quan X của nhà nước.
+ Thứ hai, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không thể tự mình giải quyết được. Trong
trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh, nhưng quyền và nghĩa vụ của các bên
không thực hiện được và có sự tranh chấp.
Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể nào về điều
khoản về thời gian, chất lượng, nếu có yêu cầu của một trong hai bên thì Tòa kinh tế sẽ
giải quyết.
+ Thứ ba, khi cần áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc áp dụng
các chế tài pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì khi
một chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì không phải ngay sau đó trách nhiệm pháp
lý sẽ phát sinh và người vi phạm sẽ tự giác gánh chịu trách nhiệm, chính vì thế cần có
hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định và xử lý, qua đó ấn định
trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm và buộc chủ thể phải chấp hành.
Ví dụ: Một người đi xe gắn máy (110 phân phối) không có bằng lái bị cảnh sát
giao thông xử phạt hành chính, căn cứ vào Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ra
quyết định xử phạt. Cảnh sát giao thông xử phạt người không đội mũ bảo hiểm là
100.000 đồng; Tòa án ra quyết định phạt cải tạo không giam giữ và yêu cầu bồi thường
thiệt hại đối với hành vi đốt rừng, phá rừng trái phép.
Hay công dân A đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng A không muốn bị trừng
phạt theo hình phạt tương ứng đã được pháp luật quy định. Vì vậy, cần phải có hoạt
động của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác có liên quan nhằm điều tra, đối
chiếu với pháp luật để xét xử, ra bản án trong đó ấn định trách nhiệm pháp lý đối với
A là người phạm tội và buộc A phải chấp hành hình phạt đó.
+ Thứ tư, trong một số trường hợp mà Nhà nước thấy cần tham gia để kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hoặc Nhà nước xác nhận
sự tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, hiện tượng, sự kiện thực tế cụ thể nào đó...
Ví dụ: Tòa án tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích, từ đó nhà nước chứng
tử cho người đó. Nhà nước chứng thực hợp đồng mua bán nhà giữa 2 công dân; nhà

43
nước xác nhận di chúc hợp pháp; Nhà nước phê chuẩn điều lệ hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp, chứng thực thế chấp, việc xác định di chúc…
 Tóm lại, Áp dụng pháp luật là hình thức Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền của mình để các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện những quy
định của pháp luật (chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước) hoặc tự
mình căn cứ vào những quy định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật cụ
thể. Đây là hình thức rất quan trọng, phức tạp trong việc thực hiện pháp luật.
Quá trình thực hiện pháp luật chỉ đạt được hiệu quả khi mỗi cá nhân, tổ chức và cơ
quan nhà nước tham gia vào các quan hệ pháp luật đều chủ động, tự giác thực hiện
đúng đắn quyền và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật.

4.2. Vi phạm pháp luật

4.2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật


Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực pháp
lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Trong quan hệ pháp luật, vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để
truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên, để bị coi là vi phạm pháp luật, cần phải hội tụ đủ các dấu hiệu cơ
bản của vi phạm pháp luật.
4.2.2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội có những dấu hiệu cơ bản sau: Là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, có lỗi và chủ thể thực hiện phải có năng
lực trách nhiệm pháp lý.
- Dấu hiệu thứ nhất, vi phạm pháp luật luôn là hành vi (hành động hoặc không
hành động) xác định của con người hoặc là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội (các chủ thể pháp luật) nguy hiểm hoặc có khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
Hành vi (hành động hay không hành động) là sự thể hiện ý chí ra bên ngoài một
cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Bất kỳ một sự
việc nào của con người tạo nên cũng bắt nguồn từ những động cơ, nguyên nhân nào đó
và được thực hiện, sự thực hiện thể hiện bằng hành vi dưới dạng hành động hoặc
không hành động nhằm đạt được mục đích nào đó.
Ví dụ: Đi xe máy vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông; trốn tránh nghĩa vụ nộp
thuế; không thực hiện nghĩa vụ khi giao kết hợp đồng…
Một người chỉ có ý định cướp giật tài sản của người khác, thì không bị buộc tội
cướp giật tài sản. Chỉ khi người đó thể hiện bằng hành động thì mới bị coi là vi phạm
pháp luật. Chỉ bằng hành vi cụ thể của con người, họ mới gây ra thiệt hại cho xã hội
hoặc người khác và do đó mới đánh giá được những sai sót trong ý nghĩ, trong tâm tư,
44
tình cảm của họ. Cho nên, vi phạm pháp luật là hành vi của con người hoặc là hoạt
động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội…
- Dấu hiệu thứ hai, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Đây là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi vi
phạm pháp luật.
Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với những quy định của pháp
luật. Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng:
+ Hành động (1 việc làm) mà pháp luật cấm không được làm.
Ví dụ: Đi xe máy vào đường ngược chiều; tàn trữ ma túy, thuốc lắc…
+ Không hành động (không làm 1 việc mà pháp luật đòi hỏi).
Ví dụ: Trong quan hệ hôn nhân - gia đình, là vợ chồng phải có giấy đăng ký kết
hôn. Nếu không đăng ký coi như là đã vi phạm. Trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông
bà, cha mẹ…
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá mức quy định của pháp luật (những gì không
được phép làm mà làm thì sẽ vi phạm).
Ví dụ: Trưởng thôn bán đất công cho một số cá nhân nhất định…
Như vậy, chỉ khi có quy định của pháp luật mà không được các chủ thể có năng
lực hành vi nhất định thực hiện đúng, thì mới có vi phạm pháp luật xảy ra. Vi phạm
pháp luật là hành vi vi phạm những quy định trong các quy phạm pháp luật, còn những
gì pháp luật không cấm, không bảo vệ thì các chủ thể dù có làm trái cũng không bị coi
là vi phạm pháp luật (chẳng hạn hành vi vi phạm các quy định của tổ chức xã hội, trái
với các quy tắc tập quán, phong tục hoặc đạo đức…).
- Dấu hiệu thứ ba, vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi.
Dấu hiệu trái pháp luật mới chỉ là biểu hiện bên ngoài của hành vi (mặt khách
quan). Để xác định hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét cả mặt chủ quan của hành
vi, nghĩa là phải xác định trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật
của mình. Nếu một hành vi trái pháp luật được thực hiện do những hoàn cảnh và điều
kiện khách quan, chủ thể hành vi đó không cố ý và không vô ý thực hiện hoặc không
thể ý thức được, từ đó không thể lựa chọn cách xử sự theo yêu cầu của pháp luật thì
hành vi đó không thể coi là có lỗi và chủ thể không bị coi là vi phạm pháp luật. Kể cả
những hành vi trái pháp luật mà chủ thể bị buộc phải thực hiện trong điều kiện không
có tự do ý chí thì cũng không bị coi là có lỗi.
- Dấu hiệu thứ tư, chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực
trách nhiệm pháp lý. Trong pháp luật xã hội chủ nghĩa, sự độc lập gánh chịu nghĩa vụ
pháp lý chỉ quy định đối với những người có khả năng tự lựa chọn cách xử sự và có tự
do ý chí. Nói một cách khác, người đó phải có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình. Những hành vi mặc dù trái pháp luật nhưng do những người
45
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không thể coi là vi
phạm pháp luật.
Như vậy, những hành vi do người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình hay do người chưa đến
tuổi chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật, thì mặc dù hành vi đó trái
pháp luật cũng không thể coi là vi phạm pháp luật. Họ chỉ bị coi là những người gây
nguy hại đối với xã hội. Do đó, buộc phải cách ly họ với xã hội và áp dụng biện pháp
cưỡng bức chữa bệnh, mà không truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với họ.
Ví dụ: Một người điên thực hiện hành vi trái pháp luật, nhưng không phải là
hành vi vi phạm pháp luật vì tại thời điểm thực hiện hành vi này họ không nhận thức
được hành vi của mình.
Tóm lại, để xác định một hành vi là vi phạm pháp luật thì hành vi đó phải là hành
vi xử sự trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý thực hiện,
xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
4.2.3. Phân loại vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật xảy ra trong xã hội rất đa dạng và phức tạp. Căn cứ vào mức độ
và tính chất nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật chia thành tội phạm và các vi
phạm pháp luật không phải là tội phạm.
- Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý. (Khoản 1 Điều 8 BLHS
2015).
+ Xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
+ Chủ thể vi phạm hình sự: cá nhân
Ví dụ: Chị Thanh (40 tuổi, không chồng), có quan hệ với anh Lê Mạnh Hùng
(đã có vợ) và sinh được một đứa con (cháu Minh). Sau khi chấm dứt quan hệ với anh
Hùng, chị Thanh luôn bị một người tên Đỗ Thị Kim Duân (vợ của Hùng – 43 tuổi) gọi
điện thoại chửi mắng. Ngày 06/11/2009, Duân đến nhà chị Thanh. Tại đây, Duân xin
được bế đứa trẻ, chị Thanh đồng ý. Lấy cớ nghe điện thoại, Duân bế cháu xuống bếp
và dùng chiếc kim khâu lốp dài 7cm mang theo đâm vào đỉnh thóp đầu cháu. Sợ bị
phát hiện, Duân lấy mũ đậy vết đâm lại, nhưng máu chảy quá nhiều, cháu lại thét lên
nên mọi người phát hiện. Sau khi đưa đi cấp cứu, cháu Minh (40 ngày tuổi) qua đời.

46
Duân (sinh năm 1974) không có bệnh về thần kinh, chưa có tiền án, là một người làm
ruộng.
- Vi phạm hành chính: là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý của Nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính do
cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cố ý hay vô ý.
+ Quy tắc quản lý Nhà nước rất đa dạng: quản lý trật tự an toàn xã hội, trật tự quản
lý văn hóa, giáo dục, đất đai, tài nguyên, môi trường; trật tự an toàn giao thông.
+ Chủ thể vi phạm hành chính: cá nhân hoặc tổ chức.
Ví dụ: Tháng 9/2008, Bộ Tài nguyên và môi trường đã phát hiện ra vụ việc sai
phạm của công ty Bột ngọt Vedan (Công ty TNHH Vedan Việt Nam). Theo đó thì
công ty vedan đã hằng ngày sả nước thải bẩn (chưa qua xử lý) trực tiếp ra sông Thị
Vải (Đồng Nai) suốt 14 năm qua kể từ khi đi vào hoạt động (1994): 45000m 3/1tháng.
Hành động này gây ô nhiễm nặng cho dòng sông Thị Vải, gây chết các sinh vật sống ở
sông này và ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe người dân ven sông…Dẫn đến, là một
tổ chức có đầy đủ trách nhiệm pháp lý khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật này.
- Vi phạm dân sự: là những hành vi xâm hại đến tài sản, quan hệ nhân thân có liên
quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự.
+ Xâm hại đến:
 Quan hệ tài sản: Là quan hệ giữa người với người về những lợi ích vật
chất được tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất của con người như: quan hệ sở
hữu, quan hệ thừa kế…Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản.
 Quan hệ nhân thân: là quan hệ giữa người với người về những lợi ích phi
vật chất, không có những giá trị kinh tế, không tính ra được thành tiền và không thể
chuyển giao vì nó gắn liền với một cá nhân, tổ chức nhất định. Nó ghi nhận đặc tính
riêng biệt và sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân hay tổ chức đó.
Quan hệ nhân thân thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật dân sự gồm quan hệ
nhân thân liên quan đến tài sản (như: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp…) và quan
hệ nhân thân không liên quan đến tài sản (như: danh dự, nhân phẩm, tên gọi…)
+ Vi phạm dân sự dẫn đến sự áp dụng các chế tài do những quy phạm pháp luật
dân sự quy định.
+ Chủ thể vi phạm dân sự: cá nhân hoặc tổ chức
- Vi phạm kỷ luật: là những hành vi có lỗi, trái với những quy chế, quy tắc xác
lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học…
+ Vi phạm pháp luật dẫn đến việc áp dụng các biện pháp thi hành kỷ luật khác
nhau như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương…
+ Chủ thể của vi phạm kỷ luật: cán bộ, công chức Nhà nước, học sinh, sinh viên.

47
Ví dụ: Lê Văn An là sinh viên năm thứ 2, trường Đại học X nhiều lần bỏ học, quay
cóp trong giờ kiểm tra nên bị giáo viên nhắc nhở nhiều lần. An ở ký túc xá của trường, lại
còn thường xuyên uống rượu bia. An đã liên tục vi phạm từ cuối năm 2018 đến tháng
05/2019 và vượt quá chấp thuận của nhà trường.
4.2.4. Cấu thành vi phạm pháp luật
4.2.4.1. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên ngoài của vi
phạm pháp luật, bao gồm: hành vi trái pháp luật; hậu quả thiệt hại cho xã hội; mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả thiệt hại cho xã hội, cùng các dấu
hiệu khác.
- Hành vi trái pháp luật: Bất kỳ một vi phạm pháp luật nào cũng được cấu
thành bởi hành vi trái pháp luật. Hành vi trái pháp luật, trước hết phải là hành vi thể
hiện bằng hành động hoặc không hành động. Tính trái pháp luật được biểu hiện dưới
hình thức làm ngược lại điều pháp luật quy định, thực hiện hành vi vượt quá giới hạn
pháp luật cho phép hoặc làm khác đi so với yêu cầu của pháp luật.
- Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội. Hành vi
trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều nguy hiểm và gây hại cho xã hội. Tính
nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thể hiện ở chỗ nó đã hoặc có nguy cơ gây ra
những thiệt hại về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác cho xã hội.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả (sự thiệt hại)
mà nó gây ra cho xã hội được biểu hiện: sự thiệt hại cho xã hội phải do chính hành vi
trái pháp luật nói trên trực tiếp gây ra, nói cách khác, sự thiệt hại của xã hội xảy ra là
hậu quả tất yếu của hành vi trái pháp luật.
Ngoài ra, trong mặt khách quan còn có các dấu hiệu khác như: thời gian, địa
điểm, phương tiện, công cụ,... vi phạm pháp luật.
4.2.4.2. Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ,
nhưng bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có
tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do vậy, tính chất và tầm quan trọng của khách
thể cũng là những yếu tố để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
4.2.4.3. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu bên trong của nó,
bao gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể
thực hiện vi phạm pháp luật.
- Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi trái pháp
luật của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi được xem như là thước đo
của trách nhiệm pháp lý, nó thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi VPPL
48
của mình, cũng như đối với hậu quả của hành vi đó, của xã hội tại thời điểm thực hiện
hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới 2 hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý: gồm lỗi cố ý trực tiếp và gián tiếp
 Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm (chủ thể) nhận thức được hành vi mình
gây ra là nguy hiểm cho xã hội, nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Ví dụ: tội giết người, cướp của…
Hay A thù B đã lâu, một hôm A cầm lựu đạn đến nhà B thì thấy B, C, D
đang ngồi uống nước (C là bạn thân của A), A đã ném lựu đạn vào và cả 3 cùng chết.
 Lỗi cố ý gián tiếp: Chủ thể vi phạm pháp luật nhận thức hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả tuy không mong muốn nhưng có ý thức
để mặc cho hậu quả xảy ra.
Ví dụ: Thấy người bị tai nại nguy hiểm đến tính mạng nhưng để mặc cho
người đó, không cứu giúp họ.
+ Lỗi vô ý: gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả
 Lỗi vô ý vì quá tự tin: Chủ thể vi phạm pháp luật thấy trước được hành vi
của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng không xảy ra hoặc có thể
ngăn ngừa được.
Ví dụ: Lái xe quá tốc độ tin rằng không xảy ra tai nạn nhưng thực tế đã xảy ra
tai nạn. Hay là thủ trưởng cơ quan không trang bị đầy đủ phương tiện phòng cháy chữa
cháy cho cơ quan để xảy ra thiệt hại (lỗi chủ quan).
Anh A là một thanh niên có tài bắn cung, trong một lần vui chơi. A đã rủ
một người bạn của mình là B thi thố tài năng bằng cách mỗi người lần lượt để một quả
táo lên đầu cho người kia bắn, kết quả là B bị mũi tên của A bắn vào mắt. Trong
trường hợp trên, anh A có lỗi hay không, nếu có thuộc loại lỗi gì? tại sao?
 Lỗi cố ý do cẩu thả: Chủ thể vi phạm pháp luật không nhận thấy được hậu
quả nguy hiểm do hành vi của mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
Ví dụ: Kinh doanh thuốc nông dược, không sắp xếp bảo đảm an toàn để xảy ra
ngộ độc.
- Động cơ vi phạm: Động cơ được hiểu là động lực thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật. Thông thường, khi thực hiện vi phạm pháp luật chủ thể
thường được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định nào đó. Động cơ đó có thể là vụ lợi, trả
thù, đê hèn...
- Mục đích vi phạm: Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình
chủ thể muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Mục đích vi phạm của
chủ thể cũng thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi.
49
Trong mặt chủ quan, lỗi là dấu hiệu bắt buộc, còn động cơ và mục đích không
phải là dấu hiệu bắt buộc, trong thực tế, nhiều trường hợp vi phạm pháp luật chủ thể
thực hiện hành vi không có mục đích và động cơ.
4.2.4.4. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Khi truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu chủ thể
hành vi trái pháp luật là cá nhân phải xác định người đó có năng lực trách nhiệm pháp
lý trong trường hợp đó hay không, muốn vậy phải xem họ đã đủ độ tuổi theo quy định
của pháp luật phải chịu trách nhiệm pháp lý trong trường hợp đó hay chưa? Khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi trong trường hợp đó như thế nào? Còn đối với chủ thể
là tổ chức phải chú ý tới tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó.
Như vậy, bốn yếu tố cấu thành và các dấu hiệu nói trên của VPPL là căn cứ
thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Tóm lại, mọi hành vi VPPL đều là sự kiện
pháp lý, gây nên những hậu quả pháp lý nhất định. Nó có thể dẫn đến sự xuất hiện,
thay đổi hoặc đình chỉ những QHPL nhất định. VPPL là cơ sở truy cứu TNPL.
4.3. Trách nhiệm pháp lý
Trong ngôn ngữ hàng ngày, nói tới “trách nhiệm” là nói tới bổn phận của một người
mà họ đã hoàn thành. Còn trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được
hiểu theo nhiều nghĩa.
Thứ nhất, trách nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý được
đề cập đến trong phần quy định của quy phạm pháp luật.
Thứ hai, trách nhiệm là việc chủ thể phải thực hiện một mệnh lệnh cụ thể của cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền.
Thứ ba, trách nhiệm là việc chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi
được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Chủ thể phải gánh chịu
trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này khi họ vi phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy
ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định. Chương này sẽ đề cập đến
trách nhiệm pháp lý theo nghĩa này.
4.3.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý được hiểu là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính
trừng phạt của nhà nước) mà cá nhân, tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện
đúng mệnh lệnh của nhà nước đã quy định trong các quy phạm pháp luật
4.3.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. Trách nhiệm
pháp lý chỉ áp dụng đối với chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện hành vi trái pháp
luật trong trạng thái có lý trí và tự do về ý chí.
50
Thứ hai, trách nhiệm pháp lý chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có
thẩm quyền tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Thứ ba, trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế được
quy định trong chế tài các quy phạm pháp luật. Khi vi phạm pháp luật xảy ra, thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp có tính
cưỡng chế khác nhau, nhưng không phải bất cứ biện pháp tác động nào cũng là trách
nhiệm pháp lý. Biện pháp trách nhiệm pháp lý chỉ là những biện pháp có tính chất
trừng phạt, làm thiệt hại hoặc tước đoạt ở một phạm vi nào đó các quyền tự do, lợi ích
hợp pháp mà chủ thể vi phạm pháp luật trong điều kiện bình thường đáng ra được hưởng.
Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà
nước như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng…
Thứ tư, cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý là quyết định có
hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4.3.3. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức hay cá nhân nào đó cần phải
xác định được cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý làm căn cứ cho việc truy cứu. Về cơ sở
thực tiễn để truy cứu trách nhiệm pháp lý thì phải có vi phạm pháp luật xảy ra. Về cơ
sở pháp lý đó là những quy định pháp luật hiện hành có liên quan đến vi phạm pháp
luật đó và thẩm quyền, trình tự, thủ tục để giải quyết vụ việc đó.
- Khi xác định cơ sở thực tiễn, điều đầu tiên phải tiến hành là xác định được
trong thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp luật nguy hiểm. Nếu không xác định được
hành vi trái pháp luật nguy hiểm trong thực tế thì không được truy cứu trách nhiệm
pháp lý. Tiếp đến là đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thông qua
việc xác định hậu quả (sự thiệt hại) về vật chất, về tinh thần và những thiệt hại khác
nếu có do hành vi đó gây ra cho xã hội. Cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và hậu quả, tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả. Nghĩa là phải xác
định một cách chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do hành vi trái pháp luật trực
tiếp gây ra.
Việc xác định lỗi, động cơ và mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp khi
truy cứu trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn biện pháp cưỡng chế
thích hợp.
Về nguyên tắc, trách nhiệm pháp lý chỉ áp dụng đối với những chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý khi họ thực hiện hành vi trái pháp luật có lỗi, tức là chủ thể
hành vi đó có khả năng nhận thức được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
những hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp pháp luật còn cho
phép truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cả những hành vi trái pháp luật được thực
hiện do những nguyên nhân khách quan hoặc trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm
51
cao độ, như phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ...
gây ra và một số trường hợp khác trong quan hệ dân sự mặc dù không có lỗi, chủ thể
vẫn phải chịu trách nhiệm pháp lý.
Khi xem xét khách thể vi phạm pháp luật cần chú ý tới tính chất và tầm quan
trọng của khách thể để đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật.
- Khi xem xét cơ sở pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với
trường hợp vi phạm pháp luật đó thì phải chú ý tới: thẩm quyền của cơ quan trong việc
giải quyết vụ việc đó; trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc; các biện pháp mà pháp luật
quy định có thể áp dụng đối với chủ thể vi phạm... Ngoài ra, còn phải xác định thời
hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với từng trường hợp vi phạm cụ thể.
4.3.4. Phân loại trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý mà Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
có nhiều loại. Thông thường, chúng được phân ra các loại tương ứng với các loại vi
phạm pháp luật:
- Trách nhiệm pháp lý hình sự: là loại trách nhiệm pháp lý cao nhất, nghiêm khắc
nhất chỉ do Tòa án áp dụng đối với cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, được quy định
trong Bộ luật hình sự.
Ví dụ: Tòa án tuyên phạt một người thực hiện hành vi trộm cắp với mức hình phạt
là 3 năm tù giam (tội danh trộm cắp tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự).
Trách nhiệm hình sự được quy định dưới dạng hình phạt: Tử hình; Tù chung thân; Tù
có thời hạn; Án treo; Cải tạo không giam giữ; Phạt tiền; Cảnh cáo; Cấm đảm nhận chức
vụ; Cấm cư trú, quản chế; Tước quyền công dân, trục xuất.
- Trách nhiệm pháp lý hành chính: Trách nhiệm do các cơ quan Nhà nước áp dụng
đối với cá nhân hoặc tổ chức thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Chế tài
đối với trách nhiệm hành chính ít nghiêm khắc hơn so với chế tài hình sự.
Ví dụ: Cảnh sát giao thông áp dụng phạt hành chính đối với người vi phạm pháp
luật “đua xe trái phép”.
Trách nhiệm hành chính được quy định dưới dạng như: Cảnh cáo; Phạt tiền; Thu
hồi giấy phép; Tịch thu tài sản…
- Trách nhiệm pháp lý dân sự: Trách nhiệm này được Tòa án áp dụng đối với các
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự phải
dùng tài sản hoặc công sức của mình bồi thường thiệt hại đã gây ra cho bên bị thiệt hại
(thường trong hợp đồng).
Ví dụ: Một bên trong quan hệ hợp đồng không thực hiện đúng nghĩa vụ được cam
kết bị Tòa án tuyên bố bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm.

52
- Trách nhiệm pháp lý kỷ luật: là loại trách nhiệm pháp lý do chủ thể của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị áp dụng đối với các thành viên của cơ quan, tổ chức đó (như cán
bộ, công chức, nhân viên, sinh viên, học sinh, người lao động…) khi những người này
vi phạm những quy định trong điều lệ, quy chế, nội quy, quy định của cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình.
Trách nhiệm kỷ luật đưa đến chế tài là khiển trách, cảnh cáo, chuyển đi làm công
việc khác, sa thải hoặc buộc thôi việc.
Ví dụ: Doanh nghiệp áp dụng trách nhiệm kỷ luật đối với người lao động vi phạm
nội quy lao động của Doanh nghiệp.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 4
Câu 1: Phân biệt áp dụng pháp luật với các hình thức thực hiện pháp luật khác.
Câu 2: So sánh áp dụng quy phạm pháp luật tương tự và áp dụng pháp luật tương tự.
Câu 3: Theo anh (chị) một số nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật ở Việt
Nam hiện nay là gì?
Câu 4: Anh (chị) có thể trình bày các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trách nhiệm
pháp lý?
Câu 5: Nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích vì sao?
a. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều là hành vi trái pháp luật.
b. Mọi hành vi trái pháp luật đều là hành vi vi phạm pháp luật.
c. Sự thiệt hại về vật chất là dấu hiệu bắt buộc của vi phạm pháp luật.
d. Không thấy trước hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội thì không bị xem là có lỗi.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Hành vi nào kể dưới đây là hành vi vi phạm pháp luật.
a. Hành vi trốn thuế.
b. Hành vi làm thiệt hại đến xã hội của người tâm thần.
c. Ý định cướp giật tài sản của người khác.
d. Hành vi cư xử không lịch sự.
2. Chủ thể thực hiện vi phạm hình sự có thể là:
a. Tổ chức pháp nhân.
b. Cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự.
c. Tổ chức không là pháp nhân.
d. Người tâm thần.
3. Hành vi tổ chức đánh bài của công chức, viên chức Nhà nước bị công an bắt quả
tang được xác định là hành vi:
a. Vi phạm dân sự.
b. Vi phạm công vụ.
c. Vi phạm hành chính.
53
d. Vi phạm hình sự.
4. Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm pháp lý do:
a. Tòa án áp dụng đối với chủ thể vi phạm hình sự.
b. Viện kiểm sát áp dụng đối với chủ thể vi phạm hình sự.
c. Công an áp dụng đối với chủ thể vi phạm hình sự.
d. Chính phủ áp dụng đối với chủ thể vi phạm hình sự.
5. Chế tài nghiêm khắc nhất trong các loại trách nhiệm pháp lý là:
a. Chế tài kỷ luật.
b. Chế tài hành chính.
c. Chế tài dân sự.
d. Chế tài hình sự.
6. Trường hợp nào sau đây là hành vi vi phạm pháp luật:
a. Một người tâm thần thực hiện hành vi giết người.
b. Một người 14 tuổi điều khiển xe máy không bằng lái.
c. Một người thuê mướn trẻ em dưới 15 tuổi làm việc.
d. Cả a,b,c.
7. Một thực khách đến quán ăn dùng bữa đã dựng xe trước cửa quán ăn. Vị khách
này đã chủ quan không lấy thẻ giữ xe cũng như chất vấn chủ quán về trách nhiệm
trông coi xe. Xe bị kẻ trộm lấy mất và người chủ quán thoái thác trách nhiệm. Trong
trường hợp này người chủ quán:
a. Có lỗi cố ý trực tiếp.
b. Có lỗi cố ý gián tiếp.
c. Vô ý vì quá tự tin.
d. Không có lỗi.
8. A là người lái đò đã già yếu, công việc thường ngày của ông là đưa học sinh qua
sông đi học. Hôm đó là ngày mưa lũ nên ông không làm việc, nhưng nhìn thấy lũ trẻ
không được đến trường nên ông đánh liều đưa chúng qua sông. Sóng to làm đò bị lật
làm chết nhiều học sinh. Hành vi khách quan trong cấu thành vi phạm pháp luật của
ông A ở đây là:
a. Đưa người sang sông trong điều kiện mưa lũ.
b. Chở quá tải.
c. Hành vi góp phần dẫn đến cái chết của những đứa trẻ.
d. Cả a,b,c.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 1: Vào lúc 23h30 ngày 20/01/2018, 04 sinh viên lớp TCNH K17,
khoa Kinh tế Trường Đại học Tây Nguyên gồm: Đỗ Văn A, Đinh Văn B, Nguyễn Văn
C và Trương Văn D đã tự ý bỏ ra ngoài khu nội trú, tổ chức uống rượu bia, gây mất
54
trật tụ khu vực cổng phụ, trèo vào Trung tâm GDQPAN Trường ĐHTN. Hành vi này
đã vi phạm quy chế công tác sinh viên ban hành kèm theo Thông tư số 10/2016/TT-
BGDĐT ngày 05/4/2016. Anh/chị hãy xác định cấu thành vi phạm của các sinh viên
như trên và chỉ ra loại trách nhiệm pháp lý mà các sinh viên sẽ phải gánh chịu?
Tình huống 2: Sáng 6-3, Phòng Cảnh sát truy nã tội phạm Công an tỉnh Đắk
Lắk cho biết vừa di lý thanh niên Nguyễn Đông Phương (28 tuổi, ngụ xã Cư Bao, thị
xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) từ tỉnh Khánh Hòa về cơ quan công an để tiếp tục điều tra
về hành vi chống người thi hành công vụ.
Trước đó, chiều 9-7-2017, một tổ tuần tra của Phòng CSGT, Công an tỉnh Đắk
Lắk đang làm nhiệm vụ trên đường Hồ Chí Minh (đoạn qua xã Ea Đrơng, huyện Cư
M’gar) thì phát hiện Nguyễn Đông Phương điều khiển xe máy chạy quá tốc độ nên đã
ra tín hiệu dừng để kiểm tra.
Tuy nhiên, Phương không chấp hành hiệu lệnh mà cố tình lao xe vào tổ công tác. Chưa
dừng lại, thanh niên này Phương còn vòng xe lại 2 lần cố tình đâm trực diện và dùng
chân đạp vào lực lượng CSGT. Đến 16 giờ cùng ngày, Phương cùng một thanh niên
(chưa rõ danh tính) cầm theo một cây dao rựa đến tổ công tác. Tại đây, thanh niên đi
cùng Phương chém nhiều nhát vào 2 xe đặc chủng gây thiệt hại hơn 26 triệu đồng.
- Anh/chị hãy xác định cấu thành vi phạm của 02 thanh niên trên và chỉ ra
loại trách nhiệm pháp lý mà họ sẽ phải gánh chịu?
Tình huống 3: Sự việc như sau: 09/02/2017 Nguyễn Thanh Hiệp đi ngang xe qua
thấy Tường đang ngồi chơi với bạn gái tại chung cư Chu Văn An (Q.Bình Thạnh) liền
buông lời chọc ghẹo, chửi bới xúc phạm hai người này. Tường tức giận bỏ về nhà rồi
“tâm sự” với Hiếu về vụ việc như trên, đồng thời hai người quay lại tìm đối thủ để dằn
vặt. Trên đường đi Tường và Hiếu mỗi người cầm một khúc gỗ làm hung khí. Phát hiện
Hiệp đang ngồi đánh bài với đám bạn ở bờ kè gần chung cư nên Tường nói “ê mày, hồi
nãy chửi tao cái gì ?” rồi dùng khúc gỗ vụt liên tục vào người Hiệp. Ngay lúc này Hiếu
cũng nhảy vào dùng hung khí đánh trúng đầu phía bên phải, làm Hiệp ngã gục xuống.
Khi nhóm bạn của Hiệp vào can ngăn, đồng thời truy hô thì hai đối tượng trên mới
bỏ về. Nạn nhân được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, nhưng ngày
hôm sau đã tử vong do chấn thương sọ não. Biết được nạn nhân đã chết, gia đình
Tường, Hiếu đã vận động hai đối tượng trên ra công an đầu thú.
Sáng 12/01, TAND TP HCM xử phạt bị cáo Trần Anh Tường (SN 1983) 8 năm tù, Bùi
Trung Hiếu (SN 1991) 12 năm tù, cùng về tội “Giết người” (theo pháp luật TP HCM). Hãy
miêu tả cấu thành của vi phạm pháp luật trong tình huống trên?

55
Phần thứ hai
CÁC NGÀNH LUẬT CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chương 5
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bộ máy nhà nước và các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước; khái niệm, đối tượng
và phương pháp điều chỉnh của ngành Luật hành chính; vi phạm hành chính, các dấu hiệu
của vi phạm hành chính, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
5.1. LUẬT HIẾN PHÁP
5.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến
pháp
5.1.1.1. Khái niệm Luật Hiến pháp
Luật Hiến pháp là một ngành luật độc lập, ngành luật cơ bản và chủ đạo trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội cơ bản có liên quan đến tổ chức quyền lực nhà nước: chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân; bộ máy nhà nước và các nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
5.1.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp là những quan hệ xã hội do Luật Hiến
pháp tác động vào nhằm thiết lập một trật tự xã hội nhất định phù hợp với ý chí nhà
nước. Đó là những mối quan hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất gắn liền với việc
xác định chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ, địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
5.1.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hiến pháp
Để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác không những cần phải căn cứ
vào phạm vi đối tượng điều chỉnh mà phải dựa theo phương pháp điều chỉnh. Phương
pháp điều chỉnh của một ngành luật là toàn bộ những phương thức, cách thức tác
động pháp lý lên những quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật đó.
Phù hợp với đối tượng điều chỉnh thì luật hiến pháp thường sử dụng phương pháp cho
phép, phương pháp bắt buộc và phương pháp cấm để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Phương pháp cho phép: Phương pháp này thường được sử dụng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội liên quan đến thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, quyền hạn của
những người có chức trách trong bộ máy nhà nước. Nội dung của phương pháp này là

56
quy phạm luật hiến pháp trao cho chủ thể luật hiến pháp quyền thực hiện những hành
vi nhất định.
- Phương pháp bắt buộc: Phương pháp này thường được sử dụng để điều chỉnh
các quan hệ xã hội liên quan tới nghĩa vụ của công dân, tổ chức và hoạt động của nhà
nước, của các cơ quan nhà nước. Nội dung của phương pháp này là quy phạm luật hiến
pháp buộc các chủ thể luật hiến pháp phải thực hiện hành vi nhất định.
- Phương pháp cấm: Phương pháp này được sử dụng để điều chỉnh một số quan
hệ xã hội liên quan đến hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc của công dân. Theo
phương pháp cấm, quy phạm luật hiến pháp nghiêm cấm chủ thể luật hiến pháp thực hiện
những hành vi nhất định.
- Ngoài ba phương pháp nói trên, luật hiến pháp còn sử dụng phương pháp xác
lập những nguyên tắc chung mang tính định hướng cho các chủ thể tham gia vào các
quan hệ pháp luật hiến pháp.
Như vậy, Luật hiến pháp là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật, là
nguồn trực tiếp của các ngành luật khác và quy định trật tự thiết lập, thay đổi các quy
phạm pháp luật của các ngành luật khác. Có thể nói, luật hiến pháp là luật gốc, là trung
tâm của các ngành luật khác, đảm bảo sự thống nhất các ngành luật trong hệ thống
pháp luật.
5.1.2. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa - Luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khi nói đến Hiến pháp phải thấy được đặc tính đầu tiên của nó là một đạo luật,
tức là một văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thông qua.
- Hiến pháp xã hội chủ nghĩa là văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền
lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của gia cấp
công nhân.
- Đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp có tính chất bao quát lên tất cả các lĩnh
vực của đời sống, liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi công dân trong xã hội.
Hiến pháp xã hội chủ nghĩa có hiệu lực pháp lý cao nhất, thể hiện như sau:
Một là, các quy định của Hiến pháp là nguồn, là căn cứ của tất cả các ngành luật
khác thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tất cả các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn mà phải hoàn
toàn phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở của
Hiến pháp và để thi hành Hiến pháp.
Ba là, các điều ước quốc tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa tham gia không được
mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp. Khi có mâu thuẫn, đối lập với Hiến
pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được tham gia ký kết, không phê
chuẩn hoặc bảo lưu đối với từng điều riêng biệt.

57
Bốn là, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình theo
quy định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa vụ mà
Hiến pháp quy định.
Năm là, tất cả các công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, nghiêm chỉnh
chấp hành các quy định của Hiến pháp.
Sáu là, việc xây dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi, thay đổi Hiến pháp phải
tuân theo một trình tự đặc biệt: chủ trương xây dựng Hiến pháp thường được biểu thị
bằng một Nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; việc xây dựng dự thảo
Hiến pháp thường được tiến hành bằng một cơ quan soạn thảo Hiến pháp do chính
Quốc hội lập ra; việc lấy ý kiến nhân dân thường được tiến hành rộng rãi; việc thông
qua Hiến pháp thường được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt của cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất; việc sửa đổi Hiến pháp thường được thực hiện theo một trình tự
đặc biệt được quy định tại Hiến pháp; cả quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp được
sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng cộng sản.
5.1.3 Nội dung cơ bản của Luật hiến pháp
* Chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ
- Về chế độ chính trị
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng trên nền chính trị dân
chủ. Theo Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông
qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, những cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu
ra bằng quyền bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Mục đích của
Nhà nước Việt Nam là đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
của nhân dân.
- Về chế độ kinh tế: Điều 50 Hiến pháp 2013 quy định, “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập,
hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.

58
Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Về chế độ văn hoá: Khoản 1 Điều 60 Hiến pháp 2013 quy định, “Nhà nước, xã
hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Như vậy, Nhà nước Việt Nam xây dựng nền văn hoá trên cơ sở giữ gìn, phát huy
những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc kết hợp với việc tiếp thu các giá trị văn
hoá của toàn nhân loại gồm cả văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Mục tiêu cao
nhất của nền văn hoá là hướng tới xây dựng và hoàn thiện con người mới xã hội chủ
nghĩa.
* Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của nhà nước Việt Nam được xây dựng
trên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, người dân là chủ quốc gia. Với tư cách đó, công
dân có những quyền, nghĩa vụ nhất định trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá… và được nhà nước bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận từ Điều 14 đến Điều 49
Hiến pháp năm 2013.
- Các quyền cơ bản của công dân
+ Quyền bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực Nhà nước (Điều 54);
+ Quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm
(Điều 33);
+ Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác (Điều 32);
+ Quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các
hoạt động văn hoá khác (Điều 59);
+ Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội bình đẳng giới (Điều 26);
+ Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước theo quy định của pháp luật (Điều 23);
+ Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; tiếp cận thông tin; hội họp, lập hội, biểu
tình theo quy định của pháp luật (Điều 25);
+ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào
(Điều 24);
+ Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
59
- Nghĩa vụ cơ bản của công dân
+ Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 45);
+ Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46);
+ Nghĩa vụ nộp thuế theo luật định (Điều 47);
Ngoài quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên, Hiến pháp năm 2013 còn quy định học
tập vừa là quyền vừa là nghĩa vụ cơ bản của công dân (Điều 39).
5.1.4. Tổ chức bộ máy và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
5.1.4.1. Bộ máy Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013
- Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan
nhà nước từ Trung ương xuống địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc chung
thống nhất, tạo thành một cơ cấu đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của
Nhà nước.
- Cơ quan nhà nước là một tổ chức cấu thành bộ máy nhà nước, đó là tổ chức có
tính độc lập tương đối, có thẩm quyền và thành lập theo quy định của pháp luật, nhân
danh Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ Nhà nước bằng những hình thức và
phương pháp đặc thù.
- Đặc điểm của cơ quan nhà nước:
+ Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thông qua hệ thống cơ quan nhà nước
do nhân dân bầu ra.
+ Bộ máy nhà nước vừa là tổ chức hành chính, vừa là tổ chức quản lý văn hóa –
xã hội.
+ Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động; hoạt động phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật và
chỉ hoạt động khi pháp luật cho phép.
+ Bộ máy nhà nước gồm nhiều cơ quan nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, bao gồm:
Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước hay còn gọi là các cơ quan đại diện,
bao gồm: Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh,
huyện, xã và cấp tương đương) do nhân dân trực tiếp bầu ra.
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước hay còn gọi là các cơ quan chấp hành,
bao gồm: Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy
ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương) và các sở, phòng, ban thuộc Ủy
ban nhân dân.

60
Hệ thống các cơ quan xét xử bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân
dân quận, huyện và tương đương; Tòa án quân sự các cấp.
Tổ chức Tòa án nhân dân (Điều 3 Luật Tổ chức TAND năm 2014) gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân cấp cao.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
- Tòa án quân sự.
Hệ thống các cơ quan kiểm sát bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện và tương đương; Viện kiểm sát quân
sự các cấp.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (Điều 40 Luật Tổ chức VKSND năm 2014)
gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
- Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện).
- Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Ngoài bốn hệ thống các cơ quan nhà nước nói trên, trong tổ chức bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có Chủ tịch nước - Nguyên thủ quốc
gia (người đứng đầu nhà nước), có chức năng thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại.
5.1.4.2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là những tư tưởng chỉ
đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan trong bộ máy Nhà
nước được xác định trong Hiến pháp.
Những nguyên tắc được xác định trong Hiến pháp 2013 đó là: Nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Nhà nước; Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công chức năng; Nguyên tắc tập
trung dân chủ; nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ các dân tộc; Nguyên tắc
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật.
- Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân

61
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, Điều 2, HP 2013 "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức".
Nội dung: Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân bao gồm các đại biểu của nhân dân,
do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước
và ở địa phương.
Ngoài ra, nhân dân còn trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước bằng nhiều cách
khác nhau như: nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc quản lý nhà nước; tham gia
thảo luận Hiến pháp và luật; trực tiếp bầu ra các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân, giám sát hoạt động của các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, bãi nhiệm
các đại biểu này khi họ không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; bỏ phiếu
trưng cầu ý dân về những vấn đề quan trọng thuộc nhiệm vụ quyền hạn của nhà nước.
- Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công chức năng
Cơ sở pháp lý: Khoản 3, Điều 2 HP 2013 “Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nội dung: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân được Hiến pháp quan
niệm Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, Nhân dân thông qua quyền
lập hiến giao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho cơ
quan tư pháp như các Hiến pháp trước đây. Theo điều 70 Hiến pháp năm 2013, Nhân
dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về
lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao và quyền hạn và nhiệm
vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Nói quyền lực nhà nước là thống
nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước.
Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một
nhà nước “đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của Nhân
dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”như Điều 3 Hiến pháp 2013 đã quy định.
Đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho Nhân dân thể hiện ý chí chung của
quốc gia. Những người được Nhân dân trao cho quyền này là những người do phổ
thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, xuyên
suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho Nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung
62
của Nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được
Nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông qua luật là
quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội. Vì vây,
quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm ra luật. Đồng thời, là người thay mặt
Nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện
quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các quyền mà Nhân dân giao cho các cơ quan
nhà nước không bị lạm quyền, lộng quyền hay bị tha hóa. Quyền hạn và nhiệm vụ của
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của
Hiến pháp năm 2013.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính
phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đề xuất,
hoạch định, tổ chức soạn thảo chính sách quốc gia và sau khi chính sách quốc gia được
thông qua là người tổ chức thực hiện và quản lý nhà nước mà thực chất là tổ chức thực
hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Không có một Chính
phủ thực hiện quyền hành pháp một cách hữu hiệu, thông minh; không thể có một nhà
nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này
đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp
thời và quyền uy tập trung thống nhất. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ
quan thực hiện quyền hành pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến
pháp năm 2013.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được Nhân dân giao cho Tòa án thực hiện. Độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực
hiện quyền này; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
thẩm phán và hội thẩm Nhân dân (khoản 2 Điều 103). Đây thực chất là quyền bảo vệ ý
chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ
phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân là nhiệm vụ hàng đầu của quyền tư pháp (khoản 3 Điều 102). Mọi cơ
quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và
công lý trong các phán quyết của Tòa án.
- Nguyên tắc Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đối với nhà nước
Cơ sở pháp lý: Điều 4 Hiến pháp 2013 "Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội".
Nội dung: thể hiện ở việc Đảng định hướng sự phát triển về tổ chức bộ máy nhà
nước, giới thiệu, bồi dưỡng cán bộ ưu tú để nhân dân lựa chọn bầu hoặc để các cơ
63
quan nhà nước đề bạt bổ nhiệm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước; Đảng
vạch ra phương hướng xây dựng nhà nước, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước; Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua các đảng viên, các tổ chức Đảng trong các
cơ quan nhà nước, thông qua công tác tuyên truyền, vận động quần chúng trong bộ
máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng mọi tổ chức của Đảng phải hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là một tất yếu khách quan, là sự bảo đảm cho
nhà nước ta thực sự là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
- Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc
Cơ sở pháp lý: Điều 5 Hiến pháp 2013 "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc
có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập
quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát
triển với đất nước".
Nội dung: Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước đòi hỏi, tất cả các dân tộc phải có đại diện của mình trong các cơ quan nhà nước
đặc biệt trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan nhà nước phải
xuất phát từ lợi ích của nhân dân, của các dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ giữa các dân tộc. Nhà nước có chính sách ưu tiên giúp đỡ để các dân tộc ít
người mau đuổi kịp trình độ phát triển chung của toàn xã hội.
Bên cạnh đó, nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị gây chia rẽ, hằn thù giữa các
dân tộc cũng như bất cứ hành vi nào lợi dụng chính sách dân tộc để phá hoại an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội và chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, nhà nước
ta.
- Nguyên tắc quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, Điều 8 Hiến pháp 2013 "Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật".
Nội dung:
Thứ nhất, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được tiến
hành theo đúng pháp luật. Tất cả các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm túc. Ngay cả sự lãnh đạo của Đảng cũng
phải tuân thủ nguyên tắc này.

64
Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và
pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật. Mọi hành vi vi phạm
pháp luật của bất cứ cá nhân, tổ chức nào cũng phải được xử lý nghiêm minh theo
đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục pháp luật
để nâng cao ý thức pháp luật của công dân để công dân hiểu biết pháp luật, tôn trọng
pháp luật nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tích cực đấu tranh với hành vi vi phạm
pháp luật.
Thứ tư, nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện để kịp thời điều
chỉnh các quan hệ xã hội đang và sẽ xảy ra nhằm thiết lập một trật tự xã hội nhất định phù
hợp với ý chí của Nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý hết sức cần thiết để thực hiện nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ
Cơ sở pháp lý: Khoản 1, Điều 8 Hiến pháp 2013 "Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".
Nội dung:
Thứ nhất, bộ máy nhà nước phải do nhân dân xây dựng nên. Nhân dân thông qua
bầu cử để lựa chọn những đại biểu xứng đáng, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, quyết định của cấp trên, của trung ương buộc cấp dưới, địa phương phải
thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cấp dưới, địa phương có quyền phản
ánh những kiến nghị của mình đối với cấp trên, trung ương, có quyền sáng kiến trong
quá trình thực hiện cho phù hợp với tình hình, đặc điểm của đơn vị, địa phương.
Thứ ba, những vấn đề quan trọng của cơ quan nhà nước phải được đưa ra thảo luận
tập thể và quyết định theo đa số.
5.2. LUẬT HÀNH CHÍNH
5.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hành
chính
5.2.1.1. Khái niệm Luật hành chính
Luật hành chính là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao
gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong
quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước trên các
lĩnh vực hành chính, chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội.
5.2.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính
Đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính: là các QHXH phát sinh trong lĩnh
vực quản lý hành chính nhà nước, bao gồm 3 nhóm QHXH cơ bản:
65
Nhóm thứ nhất: Những QHXH phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước của cơ
quan hành chính nhà nước, đây là bộ phận cơ bản trong đối tượng điều chỉnh của ngành
luật hành chính, bao gồm:
+ Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với nhau: Cơ quan cấp trên với cơ
quan cấp dưới theo hệ thống dọc, cơ quan có thẩm quyền riêng cấp trên với cơ quan có
thẩm quyền chung cấp dưới, cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan có thẩm quyền
riêng cùng cấp, giữa các cơ quan có thẩm quyền riêng các cấp).
+ Quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các cá nhân, tổ chức thuộc
phạm vi quản lý của nó (Các đơn vị cơ sở trực thuộc, các đơn vị cơ sở của TW hoặc của
cấp trên đóng tại địa phương, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, công dân, người
nước ngoài…).
Nhóm thứ hai: Những quan hệ có tính chất quản lý, hình thành trong quá trình
các cơ quan quản lý nhà nước xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy và chế độ công tác nội
bộ của cơ quan, nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhóm thứ ba: Những quan hệ quản lý hình thành trong quá trình một số tổ chức
và cá nhân thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với những vấn đề cụ thể được
pháp luật quy định.
5.2.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính
Phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương, được
hình thành từ quan hệ quyền lực - phục tùng giữa một bên nhân danh nhà nước ra
những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa
vụ phục tùng các mệnh lệnh đó. Chính mối quan hệ quyền lực - phục tùng biểu hiện sự
không bình đẳng giữa các bên tham gia quản lý hành chính, sự không bình đẳng thể hiện:
- Chủ thể quản lý có quyền nhân danh nhà nước áp đặt ý chí lên đối tượng quản
lý. Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý chí của chủ thể quản lý lên đối tượng
quản lý cũng được thực hiện trong nhiều trường hợp khác nhau:
+ Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định bắt
buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng. Phía bên kia có nghĩa vụ thực
hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan có thẩm quyền.
+ Hoặc một bên có quyền đưa ra yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem
xét, giải quyết, có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu, kiến nghị đó.
+ Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định điều
gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quyết định.
- Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh lệnh
của mình.

66
- Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà
nước còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của quyết định hành
chính. Quyết định có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lý
hành chính nhà nước trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
5.2.2 Quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý, chỉ huy, điều hành các mặt hoạt động của
đời sống xã hội khi được các quy phạm của luât hành chính điều chỉnh trở thành các
quan hệ pháp luật hành chính.
Những đặc điểm của luật hành chính:
- Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính luôn
gắn liền với hoạt động chấp hành, điều hành của quản lý nhà nước.
- Trong quan hệ pháp luật hành chính bao giờ cũng có ít nhất một chủ thể mang
quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước và để thực hiện quyền lực nhà nước.
- Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính được giải
quyết theo thủ tục hành chính. Một số ít các tranh chấp có tính chất phức tạp, sau khi
đã giải quyết theo thủ tục hành chính mà không đạt kết quả, thì có thể được giải quyết
theo thủ tục tố tụng hành chính.
- Bên vi phạm trong quan hệ pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lý
trước nhà nước chứ không phải trước bên kia. Vì bản chất của sự vi phạm đó bao giờ
cũng là vi phạm trật tự quản lý nhà nước nói chung.
5.2.3. Vi phạm hành chính
5.2.3.1. Định nghĩa vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định
của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Theo nguyên tắc hành vi, Luật hành chính Việt Nam không đặt vấn đề trách
nhiệm hành chính đối với những khuynh hướng tư tưởng của con người, không đặt vấn
đề trách nhiệm hành chính đối với cả biểu hiện ra bên ngoài mà không phải hành vi.
Hành vi vi phạm được xác định thông qua bốn đặc điểm: Tính xâm hại nguyên
tắc quản lý nhà nước; tính có lỗi; tính trái pháp luật hành chính; tính chịu xử phạt vi
phạm hành chính.
5.2.3.2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính
a. Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi
phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là hành vi xâm
phạm các quy tắc quản lý hành chính nhà nước và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm.
Như vậy, khi xem xét để đi đến kết luận rằng hành vi của cá nhân hay tổ chức có phải là
67
vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng, xác
định hành vi đó phải được pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các biện pháp xử
phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng “nguyên tắc suy đoán” hoặc “áp dụng
tương tự pháp luật”. Vi phạm hành chính không phải là tội phạm mà là hành vi xâm hại
hoặc có nguy cơ xâm hại các quan hệ xã hội trong quản lý nhà nước.
b. Mặt chủ quan
Lỗi là dấu hiệu cơ bản trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính, là dấu hiệu
bắt buộc phải có trong mọi hành vi do cá nhân thực hiện. Vi phạm hành chính phải là
hành vi có lỗi, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý; nói cách khác, người thực hiện
hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó hoặc
nhận thức được nhưng vẫn cố tình thực hiện vi phạm. Nếu xác định rằng, chủ thể thực
hiện hành vi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì chúng
ta xác định rằng không có vi phạm hành chính xảy ra.
c. Chủ thể
Chủ thể thực hiện vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu
trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành
chính phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính trong
trường hợp thực hiện với lỗi cố ý.
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong
mọi trường hợp.
- Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ
chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định
của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác.
d. Khách thể
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đã xâm hại đến các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm
hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước
đã được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ.

68
5.2.4. Xử phạt vi phạm hành chính
5.2.4.1. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn
cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính, quyết
định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành
chính khác (trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật) đối với tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có đặc điểm sau:
- Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật.
- Xử phạt hành chính được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
- Xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo những nguyên tắc, trình tự,
thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính do
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở các quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, trong đó ghi nhận các hình thức, biện pháp xử phạt áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
5.2.4.2. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử
lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo
đúng quy định của pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công khai,
khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật;
Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi
phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng;
Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp
luật quy định.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó.
Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành
chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm;
Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp
chứng minh mình không vi phạm hành chính;

69
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức
bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
5.2.4.3. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính gồm có hình thức phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền) và hình thức phạt bổ sung
(tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt
động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện để thực hiện vi
phạm hành chính-gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trục xuất).
- Cảnh cáo: Được áp dụng đối với vi phạm hành chính nhỏ, do sơ suất vi phạm
ban đầu, có tình tiết giảm nhẹ, chưa gây thiệt hai vật chất do không biết hoặc do tác
động của nguyên nhân khách quan hoặc do người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện.
- Phạt tiền: Là hình thức cưỡng chế tác động đến lợi ích vật chất của người vi
phạm, gây cho họ thiệt hại về tài sản.
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động
có thời hạn: Là hình thức xử phạt bổ sung theo đó cơ quan có thẩm quyền tước bỏ có
thời hạn hoặc không thời hạn giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
- Tịch thu tang vật phương tiện được sử dụng vi phạm hành chính: Là hình thức
tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm sung vào công qũy nhà nước, những vật,
tiền, phương tiện, công cụ liên quan đến vi phạm hành chính; được áp dụng đối với vi
phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức.
- Trục xuất: Là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm
hành chính tại Việt Nam rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5.2.4.4. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;
Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc
xây dựng không đúng với giấy phép;
Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh;
Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái
xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi,
cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh
doanh, vật phẩm;
Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng;

70
Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc
buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu
thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 5
1. Phân tích đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hiến pháp.
2. Vì sao nói “ Hiến pháp - Luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa”?
3. Nêu khái niệm và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Khái niệm, phương pháp điều chỉnh của Luật hành chính.
5. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm hành chính.
6. Phân tích cấu thành của vi phạm hành chính. Cho ví dụ.
7. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và các hình thức xử phạt vi phạm hành chính.
8. Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự. Cho ví dụ minh họa.
CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH
1. Cưỡng chế hành chính chỉ được áp dụng khi có vi phạm hành chính xảy ra.
2. Trong mọi trường hợp việc truy cứu trách nhiệm hành chính không cần xét đến
thực tế là hậu quả đã xảy ra hay chưa xảy ra.
3. Văn bản quản lý hành chính chỉ đạo cơ quan hành chính nhà nước ban hành.
4. Hiến pháp là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam vì Hiến pháp
chi phối các ngành luật khác.
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
1. Cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của Nhà nước Việt Nam là:
a. Đảng Cộng sản.
b. Quốc hội.
c. Chính phủ.
d. Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh được bầu hay được bổ nhiệm bởi:
a. Tổng bí thư Đảng.
b. Thủ tướng.
c. Chủ tịch Quốc hội.
d. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố thuộc trung ương.
3. Cơ quan thường trực của Quốc hội là:
a. Chính phủ.
b. Ủy ban thường vụ Quốc hội.
c. Hội đồng nhân dân các cấp.
d. Ủy ban nhân dân các cấp.
4. Cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương là:
71
a. Ủy ban nhân dân các cấp.
b. Hội đồng nhân dân các cấp.
c. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương.
d. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương.
5. Cơ quan quản lý Nhà nước cấp Trung ương là:
a. Tòa án nhân dân tối cao.
b. Ủy ban thường vụ Quốc hội.
c. Bộ và cơ quan ngang Bộ.
d. Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
6. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam có nhiệm kỳ mấy năm?
a. 4 năm
b. 5 năm
c. 6 năm
d. Tất cả đều sai.
7. Cơ quan thường trực của Quốc hội là:
a. Hội đồng dân tộc
b. Ủy ban Quốc hội
c. Ủy ban thường vụ Quốc hội
d. Cả a, b, c đều đúng
8. Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam có quyền:
a. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng
b. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND tối cao
c. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng VKSND tối cao
d. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các Bộ trưởng
9. Quyền nào sau đây của Chủ tịch nước là quyền trong lĩnh vực tư pháp:
a. Công bố Luật, Pháp lệnh.
b. Thực hiện các chuyến công du ngoại giao.
c. Tuyên bố tình trạng chiến tranh.
d. Quyền ân xá.
10. Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua:
a. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng thời kỳ.
b. Tổ chức Đảng trong các cơ quan nhà nước.
c. Đào tạo và giới thiệu những Đảng viên vào cơ quan nhà nước.
d. Cả a, b, c.
BÀI TẬP
1. Ngày 16/3/2018, phóng viên Báo Người Lao Động đã nhận được một đoạn clip
do anh N., tài xế xe khách chạy tuyến Huế - Bình Phước, cung cấp.
72
Theo tài xế N., khoảng 16 giờ ngày 14/3/2018, khi xe khách đang lưu thông trên
đường Hồ Chí Minh đoạn qua ngã ba Duy Hòa
(TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) thì bị 1
thanh niên chạy xe máy lạng lách, cố tình chặn
đầu.
Nội dung đoạn clip ghi lại cảnh một thanh
niên cởi trần, mình xăm trổ chạy xe máy mang
BKS: 47B1-235.61 không đội mũ bảo hiểm, chở
phía sau một cô gái liên tục lạng lách đánh võng
trước đầu xe khách.
Thỉnh thoảng, thanh niên trên dừng xe, quay
lại chỉ tay chửi bới, đòi đánh tài xế. Mặc cho tài
xế bấm còi xin vượt, thanh niên này vẫn luôn tìm cách chặn xe khách không cho vượt
lên.
Tài xế xe khách cho xe tấp vào lề đường chờ cho thanh niên đi rồi mới đi tiếp. Tuy
nhiên, thanh niên này cũng dừng lại để ngăn cản chiếc xe vượt lên. Người phụ nữ ngồi
sau xe thỉnh thoảng cũng đẩy thanh niên này đi nhưng bất thành.
"Sau khi bị chặn đầu gần 3 km, khi đến đoạn gần Bến xe phía Nam, xe khách vào
đường tránh phía Tây Buôn Ma Thuột thì mới thoát được thanh niên này. Tôi mong
công an làm việc, xử lý tình trạng trên để nhà xe yên tâm hoạt động" - anh N. bày tỏ.
- Anh/chị hãy xác định hành vi vi phạm (các yếu tố cấu thành) và nêu biện
pháp xử phạt?
2. Ngày 16/3/2018, người dùng mạng xã hội đăng tải đoạn video ghi cảnh nữ tài
xế lái xe Toyota Altis quay đầu xe giữa cầu Cót, đoạn qua phường Láng Thương
(Đống Đa, Hà Nội). Thời điểm này, do cầu đang ùn ứ nên khi nữ tài xế cho xe lùi lại
thì chạm nhẹ vào xe máy phía sau, khiến người đi xe máy phải đập tay vào đuôi ôtô để
cảnh báo.
Khi chiếc xe ôtô quay đầu, chắn ngang cầu, nữ tài xế mở cửa xuống xe chỉ tay vào
phía người lái xe máy và nói "thích quay đầu thì cứ quay đấy". Sau ít phút, do cầu ùn ứ
nên nữ tài xế lên xe và lái đi thẳng.
Anh/chị hãy xác định hành vi vi phạm (các yếu tố cấu thành) và nêu biện pháp
xử phạt?

73
Chương 6
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật
hình sự; tội phạm và các dấu hiệu của tội phạm; cấu thành tội phạm; hình phạt và các
biện pháp tư pháp; khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của
luật tố tụng hình sự; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng; các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.

6.1. LUẬT HÌNH SỰ

6.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự

6.1.1.1. Khái niệm Luật hình sự


Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ
thống những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội nào là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy.
Trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ có
luật hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt.
6.1.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự
Đối tượng điều chỉnh của luật Hình sự Việt Nam là những quan hệ xã hội phát
sinh giữa nhà nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm.
Luật hình sự là ngành luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi
là tội phạm đồng thời quy định hình phạt có thể áp dụng đối với những người đã thực
hiện hành vi ấy. Trong quan hệ pháp luật hình sự luôn có hai chủ thể với những vị trí
pháp lý khác nhau đó là nhà nước và người phạm tội.
- Nhà nước là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự với tư cách là người bảo vệ
luật pháp, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội.
- Người phạm tội - người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự coi là tội phạm, có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà nhà nước áp
dụng đối với mình.
6.1.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Luật hình sự điều chỉnh các quan hệ pháp luật hình sự bằng phương pháp quyền
uy. Đó là phương pháp sử dụng quyền lực nhà nước trong việc điều chỉnh quan hệ
pháp luật hình sự giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước với tư cách là người
điều hành và quản lý xã hội được coi là người trực tiếp có quyền buộc người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà họ đã gây ra. Việc buộc phải chịu trách

74
nhiệm hình sự này được thực hiện bằng việc sử dụng quyền lực nhà nước. Do thực
hiện hành vi nguy hiểm gây thiệt hại cho các lợi ích xã hội được Nhà nước bảo hộ và
bị luật hình sự coi là tội phạm, người phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước
về tội phạm đã gây ra. Họ phải chấp hành hình phạt mà Nhà nước áp dụng đối với họ.
6.1.2. Tội phạm
6.1.2.1. Khái niệm tội phạm
- Khái niệm tội phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 8 Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi năm 2017): “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này
phải bị xử lý hình sự”.
Bộ luật Hình sự năm (BLHS) 2015 đã quy định mở rộng hơn, không chỉ cá nhân mà
cả pháp nhân thương mại cũng có thể bị coi là tội phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định.
Phân loại tội phạm
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tội phạm được
phân thành: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm
trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội
mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình.
6.1.2.2. Nguyên tắc của Luật hình sự
- Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc quan trọng, được đặt lên hàng đầu đòi hỏi các
cơ quan nhà nước phải triệt để tuân theo pháp luật khi đưa ra quyết định có liên quan
đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự, đến việc quyết định hình phạt.
- Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật hình sự
75
Bình đẳng trước pháp luật là nguyên tắc chung của pháp luật. Trên khía cạnh
Luật Hình sự thì sự bình đẳng được thể hiện trong việc vận dụng các dấu hiệu để xác
định hành vi phạm tội và hâu quả pháp lý mà người phạm tội phải gánh chịu, không
phân biệt giới tính, dân tộc, chính kiến, địa vị xã hội và tình trạng tài sản.
- Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện không ai phải chịu trách nhiệm về hành vi
nguy hiểm cho xã hội của mình mà không có lỗi. Lỗi là một dấu hiệu của tội phạm và
lỗi là cơ sở không thể thiếu được của trách nhiệm hình sự.
- Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo xuất phát từ quan điểm đạo lý xã hội và tình thương con
người trong truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong Luật hình sự nguyên tắc nhân
đạo có nghĩa là đối với người phạm tội thì xã hội không có mục đích trả thù, mà ngược
lại, tạo mọi điều kiện có thể để cho người phạm tội đó cải tạo tốt và trở lại làm ăn
lương thiện, sống có ích cho xã hội.
- Nguyên tắc công minh
Nguyên tắc này thể hiện khi xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội
phạm hay không và quyết định áp dụng các biện pháp chế tài hình sự phải khách quan
và đúng pháp luật, đảm bảo không làm oan người vô tội và không để lọt tội phạm, góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
6.1.2.3. Các dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm
Theo luật hình sự Việt Nam, hành vi bị coi là tội phạm được phân biệt với
những hành vi không phải là tội phạm qua bốn dấu hiệu sau:
a, Tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội
Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào cũng đều có tính nguy hiểm cho xã
hội, nhưng đối với tội phạm thì tính nguy hiểm cho xã hội luôn ở mức độ cao hơn so
với các loại vi phạm pháp luật khác. Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản,
quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Hành vi nào đó sở dĩ
bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có
tính nguy hiểm cho xã hội.
Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
b, Tính có lỗi
Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người bị
coi là có lỗi khi người đó thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nếu hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết
định thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
76
c, Tính trái pháp luật hình sự
Bất kỳ một hành vi nào bị coi là tội phạm cũng đều được quy định trong Bộ luật
hình sự. Đặc điểm này đã được pháp điển hoá tại Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015 (SĐ,
BS 2017): " Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự” và “chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được
quy định tại Điều 76 của Bộ luật hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Như vậy,
một người hay một pháp nhân thương mại thực hiện hành vi dù nguy hiểm cho xã hội
đến đâu nhưng hành vi đó chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự thì không bị coi
là tội phạm.
d, Tính phải chịu hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do tòa án áp
dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, được quy định trong Bộ luật Hình sự. Quy định về tội phạm sẽ không có ý
nghĩa nếu không có quy định về hình phạt kèm theo. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa là việc áp dụng và thi hành trên thực tế một hình phạt cụ thể là bắt buộc tuyệt
đối cho mọi trường hợp, cũng có những trường hợp người phạm tội không phải chịu
một hình phạt nào như các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
hoặc miễn chấp hành hình phạt.
6.1.3. Cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự.
Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và là căn cứ pháp
lý để định tội danh. Các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Bất cứ hành vi
phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một số quan hệ xã
hội nhất định được luật hình sự bảo vệ.
- Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, ở những tội nhất định
còn đòi hỏi chủ thể phải có các dấu hiệu khác, thể hiện những đặc điểm nhất định của
chủ thể. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải có chủ thể, không có chủ thể của tội phạm
thì không có tội phạm.
+ Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật hình sự có quy định khác.

77
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều sau đây:
Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán
người dưới 16 tuổi);
Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội
trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất
ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin
học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử);
Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính,
mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản);
Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
+ Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành
vi của người phạm tội. Tình trạng không có trách nhiệm hình sự là trường hợp người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã
lâm vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự trước khi bị kết án, thì cũng
được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự.
+ Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự, Điều 13 Bộ luật hình sự.
78
- Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao
gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những điều kiện bên ngoài khác (công cụ,
phương tiện, thời gian, hoàn cảnh phạm tội, địa điểm...).
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm,
bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng là hành
vi có lỗi (lỗi cố ý hoặc vô ý). Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu hiện của
mặt chủ quan ở một số tội nhất định.
+ Cố ý phạm tội (Điều 10 BLHS 2015; SĐ, BS 2017) là phạm tội trong những
trường hợp sau đây:
 Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (cố ý trực tiếp);
 Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp).
+ Vô ý phạm tội (Điều 11 BLHS 2015 SĐ, BS 2017) là phạm tội trong những
trường hợp sau đây:
 Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được
(Vô ý do quá tự tin).
 Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (Vô ý do
cẩu thả).
+ Động cơ và mục đích phạm tội là nội dung biểu hiện của mặt chủ quan ở một
số tội nhất định.
6.1.4. Hình phạt và các biện pháp tư pháp
6.1.4.1. Khái niệm và đặc điểm hình phạt
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước
bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội được quy định trong Bộ luật hình
sự và do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội (Điều 30 BLHS).
Mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại
phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống,
ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng
pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Từ khái niệm này cho thấy hình phạt có bốn đặc điểm sau:

79
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống
các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị tước
bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của họ.
Thứ hai, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự ở phần chung và phần
các tội phạm cụ thể. Hình phạt được quy định cụ thể trong luật, các chủ thể không có
quyền thoả thuận các chế tài khác với quy định của luật như một số ngành luật khác.
Thứ ba, hình phạt do Tòa án áp dụng đối với cá nhân người phạm tội hay pháp
nhân thương mại phạm tội.
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh nhà nước, quyết định người
phạm tội có phải chịu hình phạt hay không và mức hình phạt cụ thể đối với người
phạm tội thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa.
Thứ tư, hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội hay pháp nhân
thương mại phạm tội. Để quyết định hình phạt đối với một người phải thông qua một
quá trình tố tụng hình sự nghiêm ngặt, chỉ khi xác định được hành vi phạm tội của
người đó toà án có thẩm quyền mới áp dụng hình phạt tương ứng.
6.1.4.2. Các loại hình phạt
Tội phạm có nhiều loại khác nhau. Mỗi loại tội phạm khi xảy ra trong thực tế
lại có tính chất và mức độ nguy hiểm nhất định cho xã hội. Xuất phát từ yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm cần phải có hệ thống hình phạt thể hiện chính sách hình
sự của nhà nước.
Các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt chia làm hai nhóm gồm hình phạt
chính và hình phạt bổ sung (Điều 32).
* Hình phạt chính: là hình phạt cơ bản được áp dụng cho một tội phạm và được
tuyên độc lập, mỗi tội phạm chỉ phải chịu một hình phạt chính.
- Các hình phạt đối với người phạm tội
+ Hình phạt chính đối với người phạm tội: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không
giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
 Cảnh cáo là sự khiển trách về mặt tinh thần đối với người bị kết án.
Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình
tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.
 Phạt tiền là hình phạt buộc người bị kết án phải nộp một khoản tiền nhất định
sung công quỹ Nhà nước.
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây: Người
phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định; Người
phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công
cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

80
Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham
nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội
phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá
cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.
Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77
của Bộ luật hình sự.
 Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi môi trường sống bình thường mà buộc họ tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục
của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội hoặc cơ sở giáo dục, đào tạo.
Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người
phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang
có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải
cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được
trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm
giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát,
giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc
Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ
theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05%
đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng.
Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải
ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện
nghĩa vụ quân sự.
Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất
việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc
lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai
hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo,
người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

81
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định
tại Luật thi hành án hình sự.
 Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong
từng trường hợp cụ thể.
 Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam
giữ trong một thời hạn nhất định.
Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức
tối đa là 20 năm.
Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01
ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.
Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm
trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.
 Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Không áp
dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
 Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm
tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ
có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi
phạm tội hoặc khi xét xử.
Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các
trường hợp sau đây: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;
Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ
mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ
và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội
phạm hoặc lập công lớn. Trong trường hợp này hoặc trường hợp người bị kết án tử
hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.
* Hình phạt bổ sung: là hình phạt không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên
kèm theo hình phạt chính. Mỗi tội phạm có thể tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ
sung.
+ Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số

82
quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có
thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
 Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được
áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm
công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.
Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù
hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.
 Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường
trú ở một số địa phương nhất định. Thời hạn cấm cư trú là từ 01 năm đến 05 năm, kể
từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.
 Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải
tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân
dân địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi
cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy định tại Điều 44 của Bộ luật này và bị
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Quản chế được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia,
người tái phạm nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Thời hạn quản chế là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình
phạt tù.
 Tước một số quyền công dân thông thường được áp dụng với công dân Việt
Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội
phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định, thì bị tước một hoặc
một số quyền công dân sau đây: Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước;
Quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ
trang nhân dân.
Thời hạn tước một số quyền công dân là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp
hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp
người bị kết án được hưởng án treo.
 Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người
bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an

83
ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy
định.
Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều
kiện sinh sống.
- Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
+ Hình phạt chính đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Phạt tiền;
Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
+ Hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Cấm
kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt
chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung
6.1.4.3. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là những biện pháp cưỡng chế hình sự được Bộ luật
hình sự quy định, do các cơ quan tư pháp (Viện kiểm sát hoặc Tòa án) áp dụng đối với
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt
(Điều 46).
- Biện pháp tư pháp đối với người phạm tội bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp
liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công
khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh.
+ Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
 Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp
dụng đối với: Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; Vật hoặc tiền do phạm tội
hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm
tội; Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
 Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì
không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
 Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho
người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.
+ Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
 Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định
do hành vi phạm tội gây ra.

84
 Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm
tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
+ Bắt buộc chữa bệnh
 Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh quy
định tại Điều 21 của Bộ luật này, Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều
trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh.
 Đối với người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước
khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
 Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận giám
định pháp y, giám định pháp y tâm thần, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ
sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, nếu không có lý do
khác để miễn chấp hành hình phạt, thì người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt.
 Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.
- Biện pháp tư pháp đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm: Tịch thu
vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; Khôi phục lại tình trạng ban đầu; Thực hiện một số
biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
6.2. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
6.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng
hình sự
6.2.1.1. Khái niệm Luật tố tụng hình sự
Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

6.2.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự


Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập có đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh riêng. Trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự, giữa cơ

85
quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phát sinh mối quan hệ nhất
định. Ví dụ: để thu thập chứng cứ của vụ án, cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt
động hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng nên phát sinh mỗi quan hệ
giữa cơ quan điều tra với bị can, với người làm chứng... đó là những quan hệ xã hội
được ngành luật tố tụng hình sự điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự là những quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi án hình sự.
6.2.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng hình sự
- Phương pháp quyền uy là phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tố tụng
hình sự. Quyền uy thể hiện ở quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với những người
tham gia tố tụng. Các quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án có tính
chất bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Quyền uy
không có nghĩa là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án muốn làm gì thì làm mà các
cơ quan này phải thực hiện quyền lực của mình trong khuôn khổ của pháp luật.
- Phương pháp phối hợp - chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan điều
tra, viện kiểm sát và toà án. Các cơ quan này có nhiệm vụ phối hợp với nhau tiến hành
các hoạt động của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
6.2.2. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
6.2.2.1. Cơ quan tiến hành tố tụng
Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân; Tòa
án nhân dân.
- Cơ quan điều tra: Hệ thống Cơ quan Điều tra (Điều 4, Luật tổ chức cơ quan
điều tra hình sự 2015): Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan Điều tra
trong Quân đội nhân dân; Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Cơ quan Điều tra của Công an nhân dân:
 Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công
an cấp tỉnh).
 Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện).
+ Cơ quan Điều tra trong Quân đội nhân dân.
 Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu
và tương đương.

86
 Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu
và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực.
+ Cơ quan Điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
 Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
 Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Ngoài ra còn có một số các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra (Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015) gồm: Các cơ quan của Bộ
đội biên phòng; Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan
của lực lượng Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác
trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các
cơ quan này không phải là cơ quan điều tra nhưng do tính chất của nhiệm vụ và do yêu
cầu phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội nên được phép tiến
hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi quyền hạn được pháp luật quy định.
- Viện kiểm sát nhân dân: Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (Điều 40)
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
+ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
+ Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện).
+ Viện kiểm sát quân sự các cấp.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp (Điều 41)
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp cao.
+ Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình.
- Toà án nhân dân: Tổ chức Tòa án nhân dân.
+ Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Tòa án nhân dân cấp cao.
Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 29).

87
 Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
 Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị
kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp cao gồm (Điều 30):
 Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao;
 Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia
đình và người chưa thành niên.
Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
 Bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân cấp cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó
Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức khác và người lao
động.
+ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các nhiệm vụ, quyền hạn.
 Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.
 Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
 Kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện có vi phạm
pháp luật hoặc có tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh
án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị.
 Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm
(Điều 38):
 Ủy ban Thẩm phán;
 Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia
đình và người chưa thành niên.
Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Tòa
chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

88
Căn cứ quy định tại điểm này và yêu cầu thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định
việc tổ chức các Tòa chuyên trách;
 Bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh án, các Phó
Chánh án, Chánh tòa, các Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án,
công chức khác và người lao động.
+ Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm
vụ, quyền hạn:
 Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.
 Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
và tương đương (Điều 45).
 Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có
thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý
hành chính. Trường hợp cần thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Căn cứ quy định tại khoản này và yêu cầu, thực tế xét xử ở mỗi Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương đương, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao quyết định việc tổ chức Tòa chuyên trách.
 Bộ máy giúp việc.
Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có
Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Thẩm phán, Thư ký Tòa án,
Thẩm tra viên về thi hành án, công chức khác và người lao động.
+ Tòa án quân sự.
Tòa án quân sự có nhiệm vụ, quyền hạn (Điều 49).
Các Tòa án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử
những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của
luật.
Tổ chức Tòa án quân sự (Điều 50).
 Tòa án quân sự trung ương.
 Tòa án quân sự quân khu và tương đương.
 Tòa án quân sự khu vực.
Tòa án quân sự trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây (Điều 51):

89
 Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án quân sự quân
khu và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự;
 Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án quân sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực bị kháng nghị theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tòa án quân sự trung ương có cơ cấu tổ chức:
 Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương;
 Tòa phúc thẩm Tòa án quân sự trung ương;
 Bộ máy giúp việc.
Tòa án quân sự trung ương có Chánh án, các Phó Chánh án, Chánh tòa, các Phó
Chánh tòa, Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, công chức và người lao động.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập và quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của bộ máy giúp việc trong Tòa án quân sự trung ương sau khi thống nhất
với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
6.2.2.2. Người tiến hành tố tụng
Những người tiến hành tố tụng bao gồm:
Thứ nhất, là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Cán
bộ điều tra;
- Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền ra các quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, ra các quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế, bản kết luận điều tra, đề nghị truy tố và các quyết định tố tụng khác
thuộc thẩm quyền.
- Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra có được nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng
Cơ quan điều tra khi được ủy nhiệm hoặc khi được phân công trực tiếp điều tra vụ án
hình sự.
- Điều tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự (Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2015).
- Cán bộ điều tra thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của
Điều tra viên.
Thứ hai, là Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên.
- Viện trưởng Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng quản lý hoạt động tố tụng.
Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền hạn tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình
sự của các cơ quan chức năng trong quá trình giải quyết vụ án; phân công Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
90
động tư pháp; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Phó viện trưởng Viện kiểm sát có được nhiệm vụ quyền hạn của Viện trưởng
khi được ủy nhiệm hoặc khi được phân công trực tiếp giải quyết vụ án hình sự.
- Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Luật tổ chức
viện kiểm sát nhân dân 2014).
- Kiểm tra viên thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của
Kiểm sát viên.
Thứ ba, là Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm (nhân dân hoặc
hội thẩm quân nhân), Thư ký Tòa án và Thẩm tra viên.
- Chánh án Tòa án khi thực hiện chức năng quản lý hoạt động tố tụng Chánh án
Tòa án có nhiệm vụ tổ chức công tác xét xử của Tòa án, quyết định phân công Phó
chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký giải quyết vụ án hình sự; kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm các bản án và quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, ra quyết định
thi hành án, quyết định xóa án tích và các quyết định tố tụng khác trong phạm vi thẩm
quyền.
- Phó chánh án Tòa án có được nhiệm vụ quyền hạn trong quản lý hoạt động tố
tụng của Chánh án khi được ủy nhiệm; có được nhiệm vụ quyền hạn khi thực hiện
chức năng tiến hành tố tụng của Chánh án khi được phân công trực tiếp giải quyết vụ
án hình sự.
- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
(Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).
- Hội thẩm nhân dân là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để
làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án (Điều 86 Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân 2014).
- Thư ký Tòa án là cán bộ của Tòa án được phân công làm nhiệm vụ ghi biên bản
phiên tòa và những việc khác theo quy định của pháp luật như phổ biến nội quy phiên
tòa, báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên
tòa...
- Thẩm tra viên được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Chánh án, Phó Chánh án Tòa án về hành vi
của mình.
6.2.2.3. Những người tham gia tố tụng
- Người tham gia tố tụng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
+ Người bị tạm giữ (Điều 59)
91
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu
thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
+ Bị can (Điều 60)
Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị
can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân theo quy định của Bộ luật này.
+ Bị cáo (Điều 60)
Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và
nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
+ Bị hại (Điều 62)
Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
+ Nguyên đơn dân sự (Điều 63)
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
+ Bị đơn dân sự (Điều 64)
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 65)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
+ Người bào chữa (Điều 72)
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
 Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào
chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc
đối tượng được trợ giúp pháp lý.
 Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng
vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau.
 Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc tội.
- Người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ
+ Người làm chứng (Điều 66)

92
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về
tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm
chứng.
+ Người chứng kiến (Điều 66)
Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu
cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
+ Người giám định (Điều 68)
Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định,
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu
cầu giám định theo quy định của pháp luật.
+ Người phiên dịch, người dịch thuật (Điều 70)
Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật
và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người
tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện
bằng tiếng Việt.
6.2.3. Các giai đoạn tố tụng hình sự
6.2.3.1. Khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự trong đó, cơ
quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có hay không có dấu hiệu tội phạm để
quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm; lực lượng cảnh sát biển; các cơ
quan khác thuộc lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Tòa án.
- Căn cứ khởi tố vụ án hình sự (Điều 143):
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu
hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
+ Tố giác của cá nhân;
+ Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
+ Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
+ Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
+ Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
+ Người phạm tội tự thú
6.2.3.2. Điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan
điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án.

93
Khi đủ chứng cứ xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ
quan điều tra ra bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố.
6.2.3.3. Truy tố
Truy tố là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án cùng
bản kết luận điều tra, nếu Viện kiểm sát thấy việc điều tra hoàn toàn khách quan, toàn
diện, có đầy đủ chứng cứ thì ra quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng và gửi hồ
sơ cùng bản cáo trạng đến cơ quan toà án.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn truy tố (Điều 236).
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong
trường hợp cần thiết.
+ Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét
thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
+ Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố
vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác
trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra.
+ Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung.
+ Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng
thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
+ Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
+ Quyết định truy tố.
+ Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ
án đối với bị can; quyết định phục hồi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can.
6.2.3.4. Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà có nhiệm
vụ nghiên cứu hồ sơ và tiến hành những công việc cần thiết khác cho việc mở phiên
toà. Nếu xét thấy hồ sơ vụ án đã đầy đủ các chứng cứ cần thiết, thẩm phán ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Phiên toà sơ thẩm được tiến hành với thành phần Hội đồng xét xử gồm một
Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm
trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
* Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp
- Thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 268)
94
+ Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những
vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Các tội phá
hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; Các tội quy định tại các điều
123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369,
370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình sự; Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm
những vụ án: Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở
nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; Vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng
có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan
đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra
viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố
thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy
tín cao trong dân tộc ít người.
- Thẩm quyền theo lãnh thổ (Điều 269)
+ Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực
hiện. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác
định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết
thúc việc điều tra.
+ Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp
tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi
cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử.
+ Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
thì Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự
trung ương.
- Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự (Điều 272)
+ Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử: Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân
tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu,
phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ
trong Quân đội nhân dân; Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại
95
điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân,
viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm
tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của
Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do
Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
+ Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết
quân luật.
- Phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm các giai đoạn
Trình tự xét xử tại phiên toà hình sự sơ thẩm cũng gồm 5 giai đoạn: bắt đầu phiên
toà, xét hỏi tại phiên toà, tranh luận tại phiên toà, nghị án và tuyên án.
+ Giai đoạn bắt đầu phiên tòa ở giai đoạn này Thẩm phán (chủ tọa phiên tòa)
làm các thủ tục cần thiết trước khi xét hỏi như kiểm tra sự có mặt của những người
tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, giải
quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng...
+ Giai đoạn xét hỏi trước khi bắt đầu xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng,
sau đó Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, trực tiếp
xem xét vật chứng, tài liệu tại phiên tòa. Khi xét hỏi, chủ tọa phiên tòa hỏi trước sau
đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi. Người tham gia tố tụng tại
phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng
tỏ.
+ Giai đoạn tranh luận mở đầu giai đoạn tranh luận Kiểm sát viên trình bày lời
luận tội, sau đó người bào chữa (nếu có), bị cáo trình bày lời bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hoặc đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Kiểm sát viên phải tham gia đối đáp về những vấn đề còn mâu thuẫn giữa lời
luận tội, quan điểm xử lý vụ án của Kiểm sát viên với lời trình bày của bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác.
+ Giai đoạn nghị án và tuyên án khi nghị án chỉ có thành viên Hội đồng xét xử
(Thẩm phán, Hội thẩm) mới có quyền này. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng
nghị án. Hội đồng xét xử phải lần lượt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề của vụ án;
các thành viên của Hội đồng xét xử đều phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề
của vụ án, Hội thẩm phát biểu trước, Thẩm phán phát biểu sau và là người biểu quyết
sau cùng. Bản án, các quyết định của Hội đồng xét xử phải được đa số thành viên của
Hội đồng xét xử biểu quyết thông qua, người có ý kiến thiểu số được bảo lưu ý kiến

96
trong hồ sơ; việc nghị án phải được lập thành biên bản, bản án, các quyết định của Hội
đồng xét xử và biên bản nghị án phải được thông qua tại phòng nghị án.
Sau khi nghị án xong Thư ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và người tham gia tố
tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội
đồng xét xử đọc bản án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản
án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng
cáo.
6.2.3.5. Xét xử phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
* Người có quyền kháng cáo (Điều 331)
- Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết
định sơ thẩm.
- Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
- Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo
phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có
quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của họ.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18
tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần
bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo
vệ.
- Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà
bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
* Kháng nghị của Viện kiểm sát (Điều 336)
- Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị
bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp
sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án
tuyên án.
- Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa
án ra quyết định.

97
6.2.3.6. Thi hành án hình sự
Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay. Trường hợp bị cáo đang bị
tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình
phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc
ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành
ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.
- Thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án (Điều 364)
+ Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án
hoặc ủy thác cho Chánh án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.
+ Thời hạn ra quyết định thi hành án là 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết
định thi hành án.
+ Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì quyết định thi hành án
phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, người đó
phải có mặt tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để thi hành án.
Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn thì Chánh án Tòa
án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh
nơi người bị kết án phạt tù đang tại ngoại ra quyết định truy nã.
6.2.3.7. Giai đoạn tố tụng đặc biệt
* Giám đốc thẩm:
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án.
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 371). Bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi
có một trong các căn cứ:
+ Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến
sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 379)
98
+ Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến
hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
+ Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành
bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
+ Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
+ Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có
quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị
biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
- Phạm vi giám đốc thẩm (Điều 387)
Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong
nội dung của kháng nghị.
- Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388)
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị.
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết
định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa
không đúng pháp luật.
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
+ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
+ Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
+ Đình chỉ xét xử giám đốc thẩm.
* Tái thẩm:
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhưng
bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm (Điều 398)
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục tái thẩm khi có một trong các căn cứ:
+ Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết
luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan
trọng không đúng sự thật;
+ Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không
biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;

99
+ Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động
tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc
không đúng sự thật;
+ Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm (Điều 401)
+ Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự và thời
hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo
về tình tiết mới được phát hiện.
+ Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian
và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho
họ.
+ Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm Điều 402)
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị.
+ Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc
xét xử lại.
+ Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án.
+ Đình chỉ việc xét xử tái thẩm.
* Thủ tục rút gọn: Để giải quyêt nhanh chóng các vụ án hình sự mà mức độ vi
phạm nhẹ, tình tiết đơn giản, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định thêm thủ tục rút gọn.
- Thủ tục rút gọn được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
khi có đủ các điều kiện (Điều 456):
Một là, người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú;
Hai là, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
Ba là, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng;
Bốn là, người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng.
- Thủ tục rút gọn được áp dụng trong xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều
kiện:
Thứ nhất, vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có
kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo;
Thứ hai, vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có
đủ các điều kiện về thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng
nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo.
100
Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có
đủ các điều kiện trên, Viện kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 6
1. Phân tích khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật
hình sự.
2. Tội phạm là gì? Phân tích các dấu hiệu của tội phạm.
3. Phân biệt tội phạm với vi phạm pháp luật khác và vi phạm đạo đức.
4. Phân tích cấu thành tội phạm. Cho ví dụ.
5. Hình phạt là gì? Đặc điểm của hình phạt. Phân biệt hình phạt với các biện pháp
cưỡng chế khác của nhà nước.
6. Nêu khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh Luật tố tụng hình sự.
7. So sánh khái niệm: người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
8. Mô tả cấu thành tội phạm giết người được quy định tại Bộ luật hình sự năm hiện
hành.
CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH
Câu 1: Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự là những quan hệ xã hội được Luật
hình sự bảo vệ.
Câu 2: Mỗi tội phạm chỉ trực tiếp xâm hại đến một quan hệ xã hội cụ thể.
Câu 3: Căn cứ phân loại tội phạm theo Điều 8 Bộ Luật hình sự là mức hình phạt do
Tòa án áp dụng đối với người phạm tội.
Câu 4: Việc giải quyết vụ án hình sự phải trải qua 7 giai đoạn tố tụng hình sự.
Câu 5: Trong mọi trường hợp bào chữa bắt buộc theo quy định tại khoản 1 Điều 76
Bộ luật TTHS 2015, khi không có người bào chữa thì toà án hoãn phiên toà.
Câu 6: Một trong các bên của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự bắt buộc phải là cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
BÀI TẬP
Bài 1: Ngày 24/2/2018, Phương cùng với anh Dương Văn Ngọc (SN 1993) và 4
người bạn rủ nhau vào khu rừng giáp ranh giữa xã Đắk Nia và xã Nhân Đạo (huyện Đắk
R’lấp, tỉnh Đắk Nông) để đi săn. Khi đi, Phương mang theo 2 khẩu súng (1 khẩu súng kíp, 1
khẩu súng thể thao tự chế). Đến khoảng 6 giờ ngày 25/2/2018, Phương nghe tiếng gà rừng
gáy nên dậy lấy khẩu súng thể thao tự chế đi bắn. Khi thấy 2 con gà rừng đi vào bụi cây và
gây động đậy, Phương liền bắn 1 phát về phía bụi cây nhưng không ngờ trúng Ngọc. Ngay
sau đó, nhóm người đưa anh Ngọc đi cấp cứu nhưng nạn nhân đã tử vong trước khi đến bệnh
viện. Sau khi đưa thi thể anh Ngọc về cho gia đình lo hậu sự, Phương đã đến Công an xã Đắk
Nia đầu thú.
Anh/chị hãy xác định hành vi vi phạm (các yếu tố cấu thành) và chỉ rõ Điều luật áp dụng
trong trường hợp này?

101
Bài 2: Theo Công an, tại đơn tố cáo của các giáo viên hợp đồng tại Trường THCS
Ngô Mây từ thanh tra huyện chuyển qua, các giáo viên tố cáo ông Huỳnh Bê đã bớt xén tiền
lương của các giáo viên. Cụ thể, có 7 giáo viên bị chi trả lương sai so với số thực nhận từ kho
bạc. Sau khi các cô vô tình nhặt được tờ kê khai do kế toán nhà trường Nguyễn Viết Bình làm
rơi. Từ manh mối các cô giáo đã kiểm tra lại số lương thực nhận của mình tại trường thì phát
hiện trong 5 tháng (từ tháng 8 đến tháng 12/2017), tổng số tiền của 7 giáo viên này nhận tại
trường là 17 triệu đồng, trong khi số tiền mà Kho bạc huyện Krông Pắk chi trả về cho 7 giáo
viên là gần 70 triệu đồng, chênh lệch 53 triệu đồng.
Qua làm việc và tìm hiểu từ kho bạc thì số tiền hao hụt này đã xảy ra từ năm 2015 đến
nay. Do đó số tiền mà Hiệu trưởng và Kế toán trường này ăn chặn của giáo viên có thể lên
hàng trăm triệu đồng.
Anh/chị hãy xác định hành vi tội phạm (các yếu tố cấu thành) và chỉ rõ Điều luật áp dụng
trong trường hợp này?

102
Chương 7
LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được khái niệm, đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật dân sự; nội
dung quyền sở hữu; giao dịch dân sự và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự;
quyền thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh,
phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự; vụ việc dân sự; chủ thể của pháp luật
tố tụng dân sự; thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự.
7.1. LUẬT DÂN SỰ
7.1.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự
7.1.1.1. Khái niệm Luật Dân sự
Luật Dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá - tiền
tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập, tôn trọng quyền tự định đoạt
của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đó.
7.1.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là các quan hệ tài sản và quan hệ nhân
thân phát sinh giữa các chủ thể của Luật Dân sự, nhằm đáp ứng lợi ích vật chất hoặc
tinh thần cho chính chủ thể tham gia quan hệ đó cũng như các chủ thể khác.
a, Quan hệ tài sản: Quan hệ tài sản hay còn gọi là quan hệ xã hội về tài sản là
quan hệ giữa chủ thể này với chủ thể khác có liên quan đến tài sản. Tài sản có thể là tài
sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, tài sản hiện có hoặc tài sản được hình thành trong
tương lai.
b, Quan hệ nhân thân: Quan hệ nhân thân là những quan hệ giữa người với
người về những lợi ích phi vật chất, không có giá trị kinh tế, không tính ra được thành
tiền và không thể chuyển giao và nó gắn liền với cá nhân, tổ chức nhất định. Quan hệ
này ghi nhận đặc tính riêng biệt và sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân hay tổ chức.
Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự bao gồm:
+ Quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản: tên gọi, danh dự, nhân phẩm, uy
tín của cá nhân hoặc tổ chức.
+ Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản: các quan hệ này là tiền đề phát sinh các
quan hệ tài sản như quyền tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật, các đối tượng sở
hữu công nghiệp như các sáng chế phát minh, kiểu dáng công nghiệp.

103
7.1.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự
a, Khái niệm
Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức biện pháp mà
nhà nước dùng các quy phạm pháp luật dân sự tác động đến các các quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi hay chấm dứt phù hợp
với ý chí của chủ thể tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập
thể và của chủ thể khác.
b, Đặc điểm
Thứ nhất: Các chủ thể tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của
Luật Dân sự có sự độc lập về tổ chức và tài sản, bình đẳng về địa vị pháp lý.
Thứ hai: Các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự có quyền tự định đoạt và thỏa
thuận trong các quan hệ mà mình tham gia. Sự tự do thỏa thuận, tự định đoạt của các
chủ thể tham gia quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự được ghi
nhận là một nguyên tắc trong Luật Dân sự.
Thứ ba: Trách nhiệm dân sự của bên vi phạm trước bên bị vi phạm trong các
quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự luôn liên quan đến tài sản.
Thứ tư: Việc hòa giải hợp pháp, đúng pháp luật của các bên trong các quan hệ
xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự luôn được pháp luật khuyến khích.
Việc hòa giải có thể được thực hiện bởi chính các bên tham gia quan hệ phát sinh tranh
chấp, nhưng cũng có thể được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Nguyên tắc của Luật Dân sự (Điều 3 BLDS 2015)
- Nguyên tắc bình đẳng: Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy
bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền
nhân thân và tài sản.
- Nguyên tắc tự do thỏa thuận: Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi
cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có
hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
- Nguyên tắc thiện chí, trung thực: Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
- Nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác: Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
- Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm: Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về
việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

104
7.1.2. Quyền sở hữu
7.1.2.1. Khái niệm quyền sở hữu
Quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
7.1.2.2. Nội dung quyền sở hữu
Quyền sở hữu là một chế định của pháp luật dân sự. Nội dung của một quan hệ pháp luật
dân sự bao gồm các quyền và nghĩa vụ cụ thể. “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở
hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền định đoạt tài sản”.
Quyền sở hữu bao gồm các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình, đó là:
- Quyền chiếm hữu: là quyền kiểm soát và chiếm giữ vật trên thực tế. Việc chiếm hữu có
thể được thực hiện bởi chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu chuyển giao hay do
pháp luật quy định.
- Quyền sử dụng: Là quyền khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ vật. Việc sử
dụng có thể được thực hiện bởi chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu chuyển giao
quyền sử dụng hay do pháp luật quy định.
- Quyền định đoạt : Là quyền quyết định số phận pháp lý và số phận thực tế của vật. Chủ
sở hữu tài vật có quyền bán, cho tặng hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác với tài vật
nhưng phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật.
Chủ sở hữu có thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có đầy đủ 3 quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt.
Tài sản sở hữu có thể là động sản, bất động sản, các giấy tờ trị giá bằng tiền và các quyền
tài sản.
Nước ta có nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung. Mỗi
hình thức sở hữu có chế độ pháp lý khác nhau.
Căn cứ xác lập và chấm dứt quyền sở hữu
Các căn cứ xác lập quyền sở hữu
- Do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp.
- Thu hoa lợi, lợi tức.
- Được chuyển giao quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền.
- Vật tạo thành do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
- Thừa kế tài sản.
- Chiếm hữu đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, chôn dấu… theo quy định
của pháp luật.
- Các trường hợp khác theo luật định.
Các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu
- Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác.

105
- Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu.
- Tài sản bị tiêu hủy.
- Tài sản bị trưng mua.
- Tài sản bị tịch thu.
- Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu.
- Vật bị đánh rơi, bị thất lạc, bị bỏ quên mà người khác đã xác lập quyền sở hữu do pháp
luật quy định.
- Các trường hợp khác theo luật định.
7.1.3. Giao dịch dân sự
7.1.3.1. Khái niệm và các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
a, Khái niệm
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”. Điều 116 BLDS 2015
Hành vi pháp lý đơn phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một phía chủ thể
nên việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự trước hết phụ thuộc
vào ý chí của chủ thể đó.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ dân sự.
b, Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 thì một giao dịch dân sự được pháp luật
thừa nhận có hiệu lực pháp lý khi đảm bảo các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác lập
- Đối với cá nhân
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi của
mình có quyền tự mình tham gia mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hoặc vì lợi
ích của chủ thể khác.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: Những người này đã có thể tham gia lao
động và có thu nhập, xuất phát từ lý do này, pháp luật dân sự đã chấp nhận một số giao
dịch dân sự nhất định phát sinh hậu quả pháp lý nếu do người từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi thực hiện.
+ Người đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị Toà án ra quyết định hạn chế năng
lực hành vi dân sự: có quyền tự mình tham gia giao dịch dân sự nhỏ phục vụ nhu cầu
hàng ngày. Đối với những giao dịch dân sự có giá trị lớn thì phải thông qua người đại
diện theo pháp luật mới coi là hợp pháp, nếu không thì giao dịch dân sự có thể bị coi là
vô hiệu.

106
+ Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân
sự do bị bệnh tâm thần, pháp luật không cho phép họ tự mình tham gia giao dịch dân
sự mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
- Đối với tổ chức: người tham gia giao dịch phải là người đại diện theo pháp luật
hoặc theo ủy quyền của tổ chức.
Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện
Trong trường hợp thiếu sự tự nguyện thì trái với bản chất của giao dịch dân sự và
giao dịch dân sự có thể bị coi là vô hiệu trong trường hợp sau:
- Giao dịch dân sự giả tạo.
- Giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn; giao dịch dân sự được xác lập do bị
lừa dối.
- Giao dịch dân sự được xác lập do bị đe dọa.
- Giao dịch dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập không
nhận thức hoặc làm chủ được hành vi của mình.
Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội
Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà các chủ thể
mong muốn đạt tới khi xác lập giao dịch dân sự. Nội dung của giao dịch dân sự là tổng
hợp các điều khoản cam kết trong giao dịch, quy định các quyền và nghĩa vụ của các
bên chủ thể. Giao dịch trái pháp luật như: mua bán tài sản pháp luật cấm (mua bán ma
tuý, trồng cây thuốc phiện), cho vay nặng lãi, đòi các khoản tiền do việc bán dâm,
đánh bạc mang lại,...
Ngoài ra, Luật Dân sự quy định: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Hình thức của giao dịch dân sự thường được thể hiện dưới các hình thức như sau:
bằng lời nói; bằng hành vi cụ thể; bằng văn bản thường hoặc văn bản có chứng thực,
chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc phải đăng ký (hợp đồng mua
bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,...) “hình thức của giao dịch là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”.
Hình thức giao dịch dân sự
- Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu
theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
- Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

107
7.1.3.2. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý
Giao dịch dân sự vô hiệu: là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định.
BLDS phân thành các loại giao dịch dân sự vô hiệu như sau: Giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; Giao dịch dân sự vô hiệu
do không tuân thủ quy định về hình thức; Giao dịch dân sự vô hiệu do thiếu sự tự
nguyện của các chủ thể tham gia; Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Về nguyên tắc giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của các bên từ thời điểm giao dịch dân sự được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu
các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu nghĩa là phải hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại.
Đối với trường hợp đối tượng là tài sản không còn nên các bên không thể hoàn trả
được bằng hiện vật mà phải hoàn trả cho nhau bằng tiền.
Tuỳ từng trường hợp xét theo tính chất của giao dịch vô hiệu, tài sản giao dịch và
hoa lợi, lợi tức thu được có thể bị tịch thu theo quy định của pháp luật.
Khi giao dịch bị vô hiệu cần xác định lỗi của các bên để yêu cầu bồi thường. Ví dụ
như trong hợp đồng mua bán nhà ở.
- Bên bán bị coi là có lỗi: Bên bán bị coi là có lỗi nếu làm cho bên mua tin tưởng
là bên bán có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở hoặc có hành vi gian dối để
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, đất ở
và sử dụng các giấy tờ này làm bằng chứng để cho bên mua tin và giao kết hợp đồng
mua bán nhà ở đó.
- Bên mua bị coi là có lỗi: Bên mua bị coi là có lỗi nếu có hành vi gian dối làm
cho bên bán tin tưởng là tài sản đặt cọc, tài sản để thực hiện nghĩa vụ thuộc quyền sở
hữu của bên mua nên đã giao kết hoặc giao nhà ở cho bên mua.
7.1.4. Quyền thừa kế
7.1.4.1. Những quy định chung về thừa kế
Thừa kế theo nghĩa thông thường là việc thực thi chuyển giao tài sản, lợi ích, nợ
nần, các quyền, nghĩa vụ từ một người đã chết sang một hoặc nhiều người nào đó.
- Thừa kế theo nghĩa pháp lý được hiểu là một chế định pháp luật dân sự (chế
định thừa kế) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về
việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của
họ được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của nhà nước được thể hiện trong các quy
phạm pháp luật.

108
- Quyền thừa kế: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình;
để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc
hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”. Điều 609
BLDS năm 2015.
- Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. (Điều 613 BLDS năm 2015)
Trong trường hợp những người được hưởng thừa kế di sản của nhau mà chết
cùng một thời điểm hoặc được coi chết cùng một thời điểm không xác định được
người nào chết trước, chết sau thì những người đó không được hưởng di sản thừa kế
của nhau, phần di sản của người nào sẽ do những người thừa kế của người đó hưởng.
(Trừ trường hợp thừa kế thế vị)
- Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của người chết: thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất và tài sản của người chết trong
khối tài sản chung với người khác. (Điều 612 BLDS năm 2015)
Bên cạnh việc hưởng quyền tài sản, pháp luật quy định người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản như
nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,...
- Từ chối nhận di sản: Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường
hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với
người khác. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản trước thời điểm
phân chia di sản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người
được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. (Điều 620 BLDS năm 2015)
- Người không được quyền hưởng di sản: (i) Người bị kết án về hành vi cố ý
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ
người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; (ii)
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản; (iii) Người bị
kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần
hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; (iv) Người có hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di
chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Những người này vẫn được hưởng di
sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ
hưởng di sản theo di chúc. Như vậy, những người này không được hưởng di sản theo
pháp luật, còn theo di chúc thì vẫn được hưởng nếu người để lại di sản đã biết nhưng
109
vẫn cho họ hưởng dựa theo ý nguyện của người để lại di sản. (Điều 621 BLDS năm
2015)
- Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động
sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản
thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Đối với trường hợp người chết còn để
lại các nghĩa vụ tài sản (nợ, bồi thường thiệt hại) thì những người thừa kế phải thanh
toán trong phạm vi di sản, thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ
về tài sản là 3 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. (Điều 623 BLDS năm 2015)
Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không
được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước. (Điều 622
BLDS năm 2015)
- Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp
Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án
xác định người đó chết theo quy định BLDS. (Khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2015)
- Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Vì nơi cư
trú cuối cùng thường là nơi có nhiều tài sản, nơi tập trung các giao dịch của người
chết, là nơi phát sinh và thực hiện các quyền và nghĩa vụ về tài sản của người chết.
Hoặc là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản. (Khoản 2 Điều 611 BLDS năm 2015)
7.1.4.2. Thừa kế theo di chúc
- Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. (Điều 624 BLDS năm 2015)
- Thừa kế theo di chúc là việc chuyển tài sản của người đã chết cho những người
thừa kế theo ý chí tự nguyện của người để lại di sản thể hiện trong di chúc.
- Người có quyền lập di chúc: (Điều 625 BLDS năm 2015)
+ Người thành niên
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý (phải lập thành văn bản)
- Hình thức của di chúc: (Điều 627 BLDS năm 2015)
+ Di chúc bằng văn bản
 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
 Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
 Di chúc bằng văn bản có công chứng, chứng thực
+ Di chúc miệng: Trong trường hợp một người bị cái chết đe doạ mà không thể lập
di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.
- Điều kiện hợp pháp của di chúc (Điều 630 BLDS năm 2015)

110
+ Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể trong việc lập di chúc;
+ Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép;
+ Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã
hội;
+ Hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật;
+ Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc;
+ Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực;
+ Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm
chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí
cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng
thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
- Hiệu lực của di chúc
Di chúc có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là thời điểm người có tài sản
chết hoặc là ngày bị Toà án xác định là đã chết. (Khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2015)
Di chúc miệng chỉ có hiệu lực trong vòng 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng
được lập. Nếu sau thời gian này mà mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng
suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ. (Khoản 2 Điều 629 BLDS năm 2015)
- Di chúc vô hiệu: là di chúc không thỏa mãn các điều kiện hợp pháp của di chúc
và/hoặc:
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở
thừa kế.
+ Di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Di chúc có thể vô hiệu một phần hoặc vô hiệu toàn bộ. (Khoản 2 Điều 643 BLDS
năm 2015)
- Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (Điều 644 BLDS năm
2015)
Những người sau đây vẫn hưởng di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng hoặc chỉ cho hưởng ít hơn hai phần ba suất đó, trừ
khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản:
+ Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
111
+ Con đã thành niên không có khả năng lao động.
- Di sản dùng vào việc thờ cúng: Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di
sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao
cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu
người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của
những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng. (Điều 645 BLDS năm 2015)
- Di tặng: là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác.
Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. (Điều 646 BLDS năm 2015)
7.1.4.3. Thừa kế theo pháp luật
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa
kế do pháp luật quy định. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường
hợp sau đây:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với phần di sản:
+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
+ Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
+ Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ
không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm
với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Khác với thừa kế theo di chúc là dựa vào ý chí của người để lại di sản, thừa kế
theo pháp luật dựa vào diện và hàng thừa kế.
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản được xác định trên
ba cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để
lại thừa kế và người thừa kế.
Hàng thừa kế được pháp luật phân chia thành ba hàng như sau: (Điều 651
BLDS năm 2015)
- Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết.
- Hàng thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, các cháu nội ngoại, anh
112
chị em ruột của người chết.
- Hàng thứ ba: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; chắt ruột nội ngoại của người
chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột; cháu ruột của người chết mà người
chết là chú, bác, cô, dì, cậu.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản ngang nhau. Những
người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu hàng thừa kế trước đó không
còn ai do đã chết, do không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc
từ chối nhận di sản. Nếu cả ba hàng thừa kế đều không còn sống hoặc còn sống nhưng
không đủ điều kiện hưởng thì di sản thừa kế thuộc về nhà nước.
Thừa kế thế vị: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc chết cùng
người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống. (Điều 652 BLDS năm 2015)
Thanh toán và phân chia di sản
Sau thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có thể gặp mặt thỏa thuận việc
phân chia di sản, thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
Việc phân chia di sản được thực hiện sau khi tiến hành thành toán các nghĩa vụ
tài sản và các khoản chi phí liên quan.
Thứ tự ưu tiên thanh toán: Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan
đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây: (Điều 658 BLDS năm 2015)
- Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
- Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
- Chi phí cho việc bảo quản di sản;
- Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
- Tiền công lao động;
- Tiền bồi thường thiệt hại;
- Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước;
- Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;
- Tiền phạt;
- Các chi phí khác.
Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực
hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản
phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của
người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.

113
Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế
thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị
di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
Hạn chế phân chi di sản: Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia
di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia
đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần di sản mà những người
thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời
hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. (Điều 661 BLDS năm 2015)
7.2. LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
7.2.1. Khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng
dân sự
7.2.1.1. Khái niệm Luật tố tụng dân sự
Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo đảm việc giải quyết các
vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước.
7.2.1.2. Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự là các quan hệ xã hội phát sinh
giữa tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, đương sự, người
đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người định giá tài sản và người liên
quan phát sinh trong tố tụng dân sự.
7.2.1.3. Phương pháp điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự
Với các quy phạm pháp luật, Luật tố tụng dân sự đã tác động tới đối tượng điều
chỉnh bằng các phương pháp điều chỉnh sau đây:
- Phương pháp quyền uy mệnh lệnh: Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong tố tụng bằng phương pháp quyền uy mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định
địa vị pháp lý của Tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án và các chủ thể khác trong
tố tụng không giống nhau; các chủ thể khác đều phải phục tùng Tòa án, viện kiểm sát và
cơ quan thi hành án. Các quyết định của Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có
giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải thực hiện, nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện.
- Phương pháp định đoạt: dựa trên nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng và tự
định đoạt của các đương sự. Phương pháp điều chỉnh này xuất phát từ các quan hệ
pháp luật nội dung mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết trong các vụ việc dân sự là các
quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình.
114
7.2.2. Khái niệm vụ việc dân sự
Vụ việc dân sự là vụ việc phát sinh tại Tòa án nhân dân do cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện, yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc
của người khác. Như vậy, vụ việc dân sự có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, vụ việc dân sự trước hết phải là những vụ việc phát sinh tại Tòa án.
Chỉ những vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và phát sinh tại Tòa án
mới được gọi là vụ việc dân sự.
Thứ hai, vụ việc dân sự phát sinh trên cơ sở có đơn khởi kiện hoặc yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.
- Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự là có tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
- Việc dân sự là những trường hợp không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
mà chỉ yêu cầu Toà án xác nhận những sự kiện pháp lý như yêu cầu tuyên bố một
người là đã chết, tuyên bố mất tích, yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Đối với vụ án thì đương sự có đơn khởi kiện (Toà án thụ lý, yêu cầu cung cấp
chứng cứ, hoà giải và mở phiên toà xét xử nếu hoà giải không thành), còn việc dân sự
chủ thể có liên quan gửi đơn yêu cầu Toà án (Toà án thụ lý, yêu cầu cung cấp chứng
cứ, mở phiên họp giải quyết có sự tham gia của Viện kiểm sát, quyết định giải quyết
có hiệu lực pháp luật ngay).
- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm kể từ thời điểm quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm phạm.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là một năm kể từ ngày phát sinh quyền
yêu cầu.
7.2.3. Chủ thể của pháp luật tố tụng dân sự
7.2.3.1. Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự
Cơ quan tiến hành tố tụng dân sự là cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, bao gồm:
- Tòa án nhân dân: Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Trong tố tụng dân sự, Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự chủ
yếu. Nhiệm vụ, quyền hạn chủ yếu của Tòa án trong tố tụng dân sự là giải quyết vụ việc
dân sự.
- Viện kiểm sát nhân dân: Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
kiểm sát các hoạt động tố tụng dân sự theo Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm
sát tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án để bảo đảm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự kịp thời, đúng pháp luật.

115
- Cơ quan thi hành án dân sự: Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan có thẩm
quyền thi hành, bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án, bảo vệ
lợi ích của các chủ thể có quyền, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
7.2.3.2. Người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng dân sự là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, bao gồm:
- Chánh án Tòa án là người được bầu hoặc được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật, là thủ trưởng của cơ quan Tòa án.
- Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử, giải quyết những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thẩm
phán là người thuộc biên chế của tòa án. Trong tố tụng dân sự, thẩm phán là người tiến
hành tố tụng chủ yếu, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của tòa án trong giải quyết vụ
việc dân sự.
- Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng được bầu theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án. Khác với
thẩm phán, hội thẩm nhân dân không phải là người thuộc biên chế của tòa án mà do
hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo nhiệm kỳ.
- Thẩm tra viên là người thẩm tra hồ sơ vụ việc dân sự mà bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm; Kết luận về việc thẩm tra và báo cáo kết quả thẩm tra, đề xuất phương án giải
quyết vụ việc dân sự với Chánh án Tòa án; Thu thập tài liệu, chứng cứ có liên quan
đến vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS; Hỗ trợ Thẩm phán thực hiện hoạt
động tố tụng theo quy định của BLTTDS.
- Thư ký Tòa án là người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc ghi các biên bản tố tụng. Tiêu chuẩn của thư ký tòa án tuy không được pháp
luật quy định cụ thể nhưng để thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình thì họ
cũng phải có một trình độ pháp luật và trình độ nghiệp vụ nhất định.
- Viện trưởng Viện kiểm sát là người tiến hành tố tụng đứng đầu viện kiểm sát,
tổ chức và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát.
- Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong tố tụng dân
sự, kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo sự phân công và
dưới sự chỉ đạo của viện trưởng viện kiểm sát.
- Kiểm tra viên là người nghiên cứu hồ sơ vụ việc, báo cáo kết quả với KSV;
Lập hồ sơ kiểm sát vụ việc dân sự theo phân công của Kiểm sát viên hoặc Viện trưởng
116
Viện kiểm sát; Giúp Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân
sự.
7.2.3.3. Người tham gia tố tụng dân sự
Người tham gia tố tụng là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự và
thi hành án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác
hoặc hỗ trợ tòa án, cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành
án dân sự, bao gồm:
- Đương sự, đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn
và người có quyền, lợi ích liên quan trong vụ án dân sự; người yêu cầu, người bị yêu
cầu, người có liên quan trong việc dân sự.
+ Nguyên đơn là người tham gia tố tụng khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực phụ
trách hoặc được chủ thể khác có quyền khởi kiện đã khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
+ Bị đơn là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị nguyên đơn
hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật.
+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là người tham gia vào vụ án dân sự đã
phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
+ Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu tại
Tòa án về giải quyết việc dân sự. Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có lợi ích
pháp lý độc lập, được đưa ra yêu cầu cho tòa án giải quyết như nguyên đơn trong vụ
án dân sự khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên,
yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận hay không công
nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của họ
hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ.
+ Người bị yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về các
yêu cầu của việc dân sự. Thông thường trong các việc dân sự đều có người bị yêu cầu
nhưng trong một số trường hợp cá biệt thì chỉ có người yêu cầu mà không có người bị
yêu cầu như: việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, yêu cầu công nhận thỏa thuận về
thay đổi người trực tiếp nuôi con...
- Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự
thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương
sự trước Tòa án.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố
tụng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

117
- Người làm chứng là người tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự do biết được các tình tiết, sự kiện đó.
- Người giám định là người tham gia tố tụng sử dụng kiến thức, kinh nghiệm
chuyên môn để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự.
- Người phiên dịch là người tham gia tố tụng dịch ngôn ngữ khác ra Tiếng Việt
và ngược lại.
7.2.4. Thủ tục giải quyết vụ việc dân sự
Là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện nhằm giải quyết vụ việc dân sự.
Trong giai đoạn này, nguyên đơn hoặc người yêu cầu phải xác định được thẩm
quyền của Toà án các cấp trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Thẩm quyền này được
quy định tại Điều 26, 27, 35, 36, 37, 39, 40 BLTTDS năm 2015.
7.2.4.1. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự
- Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự: Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự là giai đoạn
đầu tiên của tố tụng dân sự, thông qua việc khởi kiện và thụ lý làm phát sinh vụ án dân
sự tại Tòa án.
Tại giai đoạn này, đương sự cần phải thể hiện nội dung, yêu cầu của mình thông
qua đơn khởi kiện. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện được quy định tại Điều 189
BLTTDS năm 2015.
Sau khi Tòa án xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, nếu nhận thấy
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì thông báo cho người khởi kiện nộp tiền
tạm ứng án phí và tiến hành thụ lý vụ án bằng việc ghi vào sổ thụ lý của Tòa án, từ đó
phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án.
- Hòa giải và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là giai đoạn tố tụng, theo đó
Tòa án lập hồ sơ vụ án trên cơ sở các chứng cứ do các đương sự cung cấp, Tòa án chỉ
thu thập các chứng cứ trong thời hạn luật định.
Qua quá trình xem xét, đánh giá nội dung của vụ án, Tòa án phải tiến hành hoà
giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Đây là một thủ tục
bắt buộc trong tố tụng dân sự trước khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, trừ những vụ án
mà theo quy định của pháp luật là không được hoà giải hoặc không hòa giải được. Nếu
qua hoà giải mà các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì
Tòa án lập biên bản hoà giải thành và trong thời hạn 7 ngày từ ngày lập biên bản hoà
giải thành, nếu không có đương sự nào thay đổi thì Toà án ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự, quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được
ban hành, ngược lại Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử.
- Xét xử sơ thẩm vụ án dân sự: Sau khi tiến hành hoà giải mà các đương sự không
thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
118
Phiên toà được tiến hành với sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định, trừ các
trường hợp theo quy định của pháp luật.
Phiên toà sơ thẩm dân sự được tiến hành qua các thủ tục: thủ tục bắt đầu phiên toà,
thủ tục hỏi tại phiên toà, thủ tục tranh luận tại phiên toà và sau đó tiến hành nghị án và
tuyên án. Hội đồng xét xử nghị án trong phòng riêng, các thành viên của Hội đồng xét
xử thảo luận và quyết định giải quyết vụ án theo đa số. Khi tuyên án, Chủ toạ phiên toà
giải thích thêm cho các đương sự quyền kháng cáo của họ.
- Xét xử phúc thẩm vụ án dân sự: Phúc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng mà
thực chất là Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của
Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị. Trình tự tiến hành phiên toà phúc thẩm về cơ
bản cũng như phiên toà sơ thẩm. Khi phúc thẩm các bản án, quyết định, Tòa án phúc
thẩm có quyền: giữ nguyên bản án, sửa bản án sơ thẩm, hủy bản án sơ thẩm và chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án hoặc hủy bản án và đình chỉ giải
quyết vụ án. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay sau khi tuyên.
- Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: là một giai đoạn tố tụng đặc biệt, trong đó Tòa án
có thẩm quyền xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hoặc vì phát hiện được
những tình tiết mới quan trọng làm thay đổi nội dung vụ án.
+ Giám đốc thẩm: là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 326 của BLTTDS
năm 2015.
Căn cứ giám đốc thẩm: (Điều 326 BLTTDS năm 2015)
 Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan
của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
 Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được
quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không
được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
 Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không
đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Thẩm quyền kháng nghị Giám đốc thẩm: Điều 331 BLTTDS năm 2015
 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
119
 Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi
thẩm quyền theo lãnh thổ.
+ Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị
vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết
định mà Tòa án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó.
Căn cứ giám đốc thẩm: (Điều 352 BLTTDS năm 2015)
 Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết
được trong quá trình giải quyết vụ án;
 Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch
không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
 Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc
cố ý kết luận trái pháp luật;
 Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa
án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Thẩm quyền kháng nghị Tái thẩm: Điều 354 BLTTDS năm 2015 (tương tự Giám đốc
thẩm)
7.2.4.2. Thủ tục giải quyết việc dân sự
Việc dân sự có đặc tính là các chủ thể (không có tranh chấp) như yêu cầu Tòa
án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, tuyên bố mất tích,… nên tiến hành theo thủ
tục tố tụng riêng (không tiến hành hòa giải, việc giải quyết do một Thẩm phán thực
hiện, Thẩm phán mở phiên họp giải quyết chứ không phải mở phiên tòa xét xử,…).
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 7
1. Nêu và phân tích khái niệm, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
của Luật dân sự.
2. Nêu và phân tích khái niệm, nội dung quyền sở hữu.
3. Giao dịch dân sự là gì? Phân tích các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
4. Nêu khái niệm, đặc điểm và phân biệt thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
5. Phân biệt thừa kế thế vị và thừa kế chuyển tiếp.
6. Nêu và phân tích khái niệm, đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự.
7. Nêu chủ thể của Luật tố tụng dân sự. Trình bày thủ tục giải quyết vụ việc dân sự.
CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH
Câu 1: Văn bản quy phạm pháp luật là nguồn duy nhất của luật dân sự.
Câu 2: Luật dân sự điều chỉnh tất cả các quan hệ tài sản và nhân thân trong giao lưu
dân sự.
120
Câu 3: Quan hệ nhân thân không thể tính được thành tiền và không thể chuyển
giao trong các giao lưu dân sự.
Câu 4: Người bị bệnh tâm thần là người bị mất năng lực hành vi dân sự.
Trả lời: Sai, người bị mất người mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của
người có quyền hoặc lợi ích liên quan đến cơ quan tòa án và có quyết định của tòa án
dưới kết luận của cơ quan chuyên môn.
Câu 5: Cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên của con chưa thành niên.
Câu 6: Trách nhiệm dân sự của pháp nhân là trách nhiệm hữu hạn.
Câu 7: Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm soát có quyền thu thập chứng cứ.
Câu 8: Người có năng lực hành vi dân sự là người có năng lực hành vi tố tụng dân
sự.
BÀI TẬP
1. Đốm, Bê và Gấu (đều 14 tuổi) là bạn thân cùng học lớp 9 tại trường THCS
Hoa Mai. Tuy nhiên, khác với Bê và Gấu siêng năng học hành, Đốm lại lười nhác và
biếng học. Vì vậy, cậu hay nhờ Bê và Gấu chép bài hộ. Vào ngày 18/11/2018, cô giáo
ra đề cương ôn tập để kiểm tra cuối kỳ. Cũng vì lười nên Đốm đã nhờ Bê và Gấu soạn
giúp các câu hỏi. Đồng thời hứa tặng cho Bê và Gấu chiếc điện thoại Iphone 4 của
mình.
Sau khi soạn bài giúp bạn, Bê và Gấu nhận được điện thoại. Sau đó, đem bán lại
cho cửa hàng của anh Tượng được 1 triệu đồng. Cả hai dùng tiền này mời Đốm đi ăn
pizza hết 600 ngàn đồng. Số tiền còn lại được tiết kiệm để sau khi thi học kỳ sẽ ăn liên
hoan. Một thời gian sau, mẹ Đốm không thấy điện thoại của con đâu nên tra hỏi thì
biết sự việc trên. Mẹ Đốm rất giận nên tìm gặp mẹ của Bê và Gấu để đòi lại điện thoại.
Tuy nhiên, mẹ Bê và Gấu cho rằng điện thoại đã bán thì không đòi lại được, do đó, chỉ
cần trả 400 ngàn tiền thừa (sau khi bán điện thoại và ăn uống, Đốm cũng có tiêu xài
tiền cùng với Bê và Gấu).
- Căn cứ vào BLDS, hãy phân tích tình huống trên?
2. A và B kết hôn năm 1970 và có 4 người con chung là: C, D, E và Q. Trong đó,
C đã lập gia đình và có 02 con là X và Y. Ngày 10/2/2017, C chở A đi bệnh viện để
khám bệnh. Trên đường đi A và C bị tại nạn giao thông dẫn đến cả 2 đều tử vong ngay
tại hiện trường. Trước đó, A có lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho C, D, E, Q và P
(là cháu của A).
Hãy thực hiện việc phân chia di sản của A, biết rằng: A để lại 1 khối tài sản riêng
là 300 triệu, khối tài sản của vợ chồng A có giá trị là 680 triệu và A có vay mượn để
kinh doanh riêng là 20 triệu đồng.
3. Ông X và bà Y xác lập quan hệ hôn nhân năm 10/4/1991. Ông bà có 2 con
chung là chị C sinh 03/3/1992 và H sinh ngày 13/6/2001. Ngày 24/8/2014 chị C kết hôn
121
và sau đó sinh được 2 người con là T và Q. Ngày 20/8/2017 ông X và chị C gặp tai nạn
giao thông, bị chết cùng thời điểm. Sau đám tang ông X và chị C, những người trong gia
đình là bà Y và H tiến hành chia di sản thừa kế, nhưng khi họ mở di chúc của ông X ra
thì được biết theo nguyện vọng của ông sau khi chết một nửa tài sản của ông sẽ chuyển
cho chị K là cháu họ, bị tật nguyền của ông. Những người thân trong gia đình không
đồng ý với bản di chúc, họ làm đơn ra Tòa yêu cầu Tòa chia khối di sản thừa kế do ông
X để lại (được biết ông X có 1 khối tài sản riêng là 460 triệu đồng. Tài sản chung của
ông X với bà Y trị giá 1 tỷ đồng; Bố mẹ X đã mất).
- Tòa án sẽ chia di sản thừa kế của ông X như thế nào, tại sao?
4. Phiên toà giả định giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo bản án số
62/2017/DS-ST ngày 20/12/2017 của Toà án nhân dân huyện D, tỉnh T (án lệ do Tòa
án nhân dân tối cao công bố)
5. Ông Thanh kết hôn với bà Bích sinh được 3 người con là Chung, Dũng và
Kiên. Tháng 06/2008, ông Thanh qua đời trước khi mất ông Thanh có để lại di chúc
cho Kiên hưởng 1/4 di sản, được tin ông Thanh mất chị Hồng mang các giấy tờ đến
đòi các con ông Thanh phải trả nợ cho ông Thanh, giấy tờ chứng minh ông Thanh nợ
chị Hồng 50 triệu đồng. Hãy chia di sản thừa kế của ông Thanh. Biết rằng ông Thanh
và bà Bích có tài sản chung là 900 triệu, tài sản riêng của ông Thanh là 200 triệu.
6. Ông A kết hôn với bà B năm 1952, sinh ra anh C (năm 1954), chị D (1956).
Năm 1965, ông A và bà B phát sinh mâu thuẫn và đã ly hôn. Họ thống nhất thỏa thuận
bà B nhận cả ngôi nhà đang ở và nuôi chị D, ông A nhận nuôi anh C và được chia một
số tài sản trị giá là 20 triệu đồng. Năm 1968, ông A dùng số tiền trên để xây dựng 1
căn nhà khác. Tháng 9/1970 ông A kết hôn với bà T sinh ra được 2 người con là E
(1972) và F (1978). Hai ông bà sống trong căn nhà mới này và ông A tuyên bố nhà là
của riêng không nhập vào tài sản chung.
Tháng 1/2018 ông A chết để lại di chúc hợp pháp cho anh C hưởng 1/2 di sản
của ông. Riêng ngôi nhà ông để lại cho bà T dùng làm nơi thờ cúng mà không chia
thừa kế. Tháng 3/2018, anh C yêu cầu bà T chuyển nhà cho mình nhưng bà không
chịu. Đến tháng 5/2018, chị D có đơn gửi Toà án yêu cầu chia di sản thừa kế của bố.
Qua điều tra xác định ngôi nhà của ông A trị giá 30 triệu đồng, ông A và bà T tạo lập
được khối tài sản trị giá 60 triệu đồng. Hãy chia di sản thừa kế của ông A?
7. Hậu và Lan có con là Phát và Quân. Phát lấy vợ là Như sinh được 2 con là
Quỳnh và Nhung (cả 2 đều chưa thành niên). Năm 1996, Phát chết không để lại di
chúc. Năm 2018, Hậu chết để lại di chúc cho 2 cháu Quỳnh và Nhung mỗi cháu 1/2 tài
sản của mình.
Biết tài sản của Phát và Như là 800 triệu. Tài sản của Hậu và Lan là 1,2 tỷ.
Quân chưa đến tuổi trưởng thành. Tiền mai táng Hậu là 20 triệu.
122
Chia tài sản trong tình huống trên?
8. Ông A và bà B kết hôn và có 2 người con là C và D. C kết hôn với E và có 2
con là M và N. D kết hôn với F và cũng có 2 con là X và Y. Từ tháng 3/1997, ông A
còn sống chung như vợ chồng với bà H. Mẹ của ông A là bà T coi bà H như con dâu.
Giữa ông A và bà H có 2 con chung là P và Q.
Năm 1/ 2017, C chết không để lại di chúc. Tháng 3/2007, ông A lập di chúc với
nội dung: "Cho H, P và Q được hưởng 1/2 tài sản của A". Ông A chết năm 2018. Bà B
lo mai táng hết 20 triệu. Sau đám tang, bà H đưa di chúc ra yêu cầu thực hiện. Bà B
phản đối.
Anh chị hãy áp dụng BLDS 2015 giải quyết các tranh chấp trên và giải thích tại
sao lại giải quyết như vậy? Biết rằng tài sản chung của ông A bà B là 1,1 tỷ đồng. Tài
sản chung của C và E là 100 triệu. Chị D chết sau ông A 10 ngày. Cha ông A chết
trước ông A.

123
Chương 8
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Yêu cầu: Học xong chương này, sinh viên cần nắm vững những vấn đề sau:
Nắm được khái niệm, đối tượng, phương pháp điều chỉnh của Luật hôn nhân và
gia đình; kết hôn và các điều kiện kết hôn; hủy kết hôn trái pháp luật; ly hôn, căn cứ ly
hôn và các trường hợp ly hôn theo luật định.
8.1. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh Luật hôn nhân và gia đình
8.1.1. Khái niệm Luật hôn nhân và gia đình
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật hôn
nhân và gia đình (HN&GĐ) là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thể chế hoá nhằm điều chỉnh các quan hệ về HN&GĐ (quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản).
8.1.2. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật HN&GĐ là những quan hệ xã hội trong lĩnh vực
HN&GĐ, cụ thể là quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con
và giữa những người thân thích ruột thịt khác. Hay nói cách khác, đối tượng điều chỉnh
của Luật HN&GĐ là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình
về những lợi ích nhân thân và tài sản.
8.1.3. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật HN&GĐ là những cách thức, biện pháp mà
các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình tác động lên các quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của nó. Phương pháp điều chỉnh của Luật HN&GĐ hết sức mềm dẻo,
chủ yếu là khuyến khích các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ và quyền hôn nhân - gia
đình. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới dùng biện pháp cưỡng chế như hủy
hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên,...
8.2. Kết hôn và các điều kiện kết hôn
8.2.1. Kết hôn
Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của
Luật Hôn nhân và Gia đình về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Như vậy, để được pháp luật công nhận thì hai bên phải thoả mãn về điều kiện kết
hôn và việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của Luật HN&GĐ và pháp luật về hộ tịch. Mọi nghi thức kết hôn không tuân theo
các quy định của pháp luật về đăng ký kết hôn đều không có giá trị pháp lý. Vợ chồng
đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn. Nam, nữ không đăng

124
ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận
là vợ chồng.
Điều kiện kết hôn
- Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
- Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GĐ. (Điều 8 Luật HN&GĐ
2014)
Các trường hợp cấm kết hôn: (khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GĐ)
 Kết hôn giả tạo;
 Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn;
 Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ.
 Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
8.2.2. Đăng ký kết hôn
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện
theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị
pháp lý.
- Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn.
- Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan
đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện
kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn.
- Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ kết hôn. Đại diện cơ quan
đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng
ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

125
8.3. Kết hôn trái pháp luật

8.3.1. Khái niệm


Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định
tại Điều 8 của Luật HN&GĐ năm 2014.
Như vậy, việc kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn tuy đã được đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng sau đó mới phát hiện một hoặc cả hai bên kết
hôn vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định cụ thể:
- Chưa đến tuổi kết hôn theo quy định mà đã kết hôn.
- Không có sự tự nguyện của một trong hai bên.
- Một hoặc cả hai bên bị mất năng lực hành vi dân sự.
- Kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn.
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác
- Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ
trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ
nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng
của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
Hôn nhân trái pháp luật sẽ bị Tòa án xử hủy khi có yêu cầu. Hủy việc kết hôn trái
pháp luật là biện pháp chế tài của Luật HN&GĐ, thể hiện thái độ phủ nhận của nhà
nước đối với những trường hợp kết hôn trái pháp luật.
Về nguyên tắc, việc kết hôn vi phạm một trong các điều kiện kết hôn khi có yêu
cầu, Toà án có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Tuy nhiên, trong trường hợp
tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên
kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại của Luật HN&GĐ và hai bên
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó.
Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều
kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ. (Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2014).
8.3.2. Những người có quyền yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật
“1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về
tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại
khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi
phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân
sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm
quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:

126
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ,
con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái
pháp luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có
quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu
cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.” (Điều 10 Luật HN&GĐ)
8.3.3. Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật
- Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ
như vợ chồng.
- Quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa
vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn.
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết như trong
trường hợp không có đăng ký kết hôn (theo quy định chung của BLDS). Việc giải
quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công
việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao
động có thu nhập. (Điều 12 Luật HN&GĐ)
8.3.4. Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn
- Không phát sinh quyền, nghĩa vụ của vợ chồng
- Quan hệ giữa cha, mẹ và con giải quyết như trường hợp có đăng ký kết hôn
- Quan hệ tài sản giải quyết theo quy định chung của BLDS. (Điều 14,15,16
Luật HN&GĐ)
8.4. Ly hôn
8.4.1. Khái niệm ly hôn
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án.
Như vậy, việc giải quyết ly hôn là thuộc thẩm quyền của Tòa án. Còn căn cứ để
giải quyết ly hôn thì lại phụ thuộc vào yêu cầu của đương sự. Những người sau sẽ có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn:
- Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
- Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi
một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của
127
họ. Tuy nhiên, pháp luật quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng
trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
8.4.2. Căn cứ ly hôn
Căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và
chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ 2014 thì Tòa án quyết định
cho ly hôn nếu xét thấy: “vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm nghiêm
trọng quyền và nghĩa vụ của chồng, vợ làm cho làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
8.4.3. Các trường hợp ly hôn theo Luật hôn nhân gia đình
a. Thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là việc cả hai vợ, chồng cùng yêu cầu Toà án giải quyết việc ly
hôn và hai bên đã thỏa thuận được với nhau các vấn đề về: hôn nhân; con chung và tài
sản.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn, Tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải giữa các
đương sự. Trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, Tòa án sẽ ra Quyết định công
nhận việc thuận tình ly hôn này (Khoản 4 Điều 397 BLTTDS năm 2015).
Căn cứ để giải quyết việc thuận tình ly hôn: (Điều 55 Luật HN&GĐ năm 2014,
Khoản 4 Điều 397 BLTTDS năm 2015)
+ Hai bên thực sự tự nguyện ly hôn;
+ Hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản chung,
việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con;
+ Sự thỏa thuận phải bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ, con.
Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay
sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
(Điều 213 BLTTDS năm 2015).
Trong tường hợp không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo
đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn theo thủ tục
chung.
b. Ly hôn do một bên yêu cầu
Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án
giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc
vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
được. (Điều 56 Luật HN&GĐ).
Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, thì Tòa án
sẽ căn cứ vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
128
của hôn nhân không đạt được” để giải quyết. Chứ không phải căn cứ vào nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này vì ngoài 02 nguyên nhân: vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình; vợ, chồng vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng thì còn những vi
phạm khác: mâu thuẫn, bất đồng…
Trong đời sống vợ chồng thì phải có sơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly
hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Như vậy, đây cũng được xem là một căn cứ để
Tòa án giải quyết việc ly hôn vì mục đích hôn nhân không đạt được.
8.4.3. Hậu quả pháp lý của việc ly hôn
a. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng
Khi quyết định, bản án của Tòa án giải quyết ly hôn có hiệu lực thì quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt (chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật).
b. Quan hệ giữa cha mẹ - con sau khi ly hôn:
Sau khi ly hôn thì quan hệ giữa cha mẹ - con vẫn tồn tại nên việc giải quyết cho
ai nuôi con trước hết dựa trên cơ sở do vợ, chồng thỏa thuận cũng như các quyền và
nghĩa vụ đối với con. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, nếu con từ đủ 7
tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Đối với con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, nếu các
bên không có thỏa thuận khác. Người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con
phải cấp dưỡng nuôi con (theo quy định cấp dưỡng).
c. Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn hết sức phức tạp, do vậy các vụ án ly
hôn các đương thường kháng cáo chủ yếu việc xác định và chia tài sản.
Nhằm hạn chế, giảm bớt việc tranh chấp tài sản khi ly hôn. Luật HN&GĐ năm
2014 đã đưa vào “chế độ tài sản theo thỏa thuận” bên cạnh “chế độ tài sản theo luật
định”.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận: (Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2014) là việc
trước khi kết hôn, hai bên kết hôn thỏa thuận với nhau về các vấn đề: xác định tài sản
chung, tài sản riêng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng
và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; việc phân
chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản, khi ly hôn….thỏa thuận này phải được lập
trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài
sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Như vậy, khi ly hôn nếu hai bên đã lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì
việc giải quyết tài sản sẽ căn cứ theo thỏa thuận này. Trong trường hợp hai bên không
129
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc thỏa thuận này không đầy đủ, rõ ràng thì việc
giải quyết tài sản sẽ theo thỏa thuận của hai bên khi ly hôn. Trong trường hợp hai bên
không thỏa thuận sẽ được áp dụng chế độ tài sản theo luật định, cụ thể:
Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi
nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:
(i) “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp
luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly
hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có
quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia
hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ
nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng;
(ii) “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và
lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung.
Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao
động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công
sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
(iii) “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản
chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được
tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục
được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị
tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu
của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi
dân sự;
(iv) “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của
vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly
hôn.
- Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định
theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.
- Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

130
CÂU HỎI ÔN THẬP VÀ THẢO LUẬN CHƯƠNG 8
1. Trình bày khái niệm, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của
Luật HN&GĐ.
2. Kết hôn là gì? Phân tích các điều kiện kết hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
3. Các trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật. Phân biệt hủy kết hôn trái pháp
luật với không công nhận là vợ chồng.
4. Phân tích khái niệm ly hôn. Các căn cứ ly hôn theo luật định.
5. Trình bày và phân tích các trường hợp ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
CÂU HỎI NHẬN ĐỊNH
1. Nam tròn 20 tuổi, nữ tròn 18 tuổi trở lên mới được đăng kí kết hôn?
2. Mọi trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn thì không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng?
3. Những giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng do 1
bên vợ hoặc chồng thực hiện luôn bị coi là vô hiệu.
4. Khi vợ hoặc chồng thực hiện những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu
của gia đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch đó
phải thanh toán bằng tài sản riêng của mình.
5. Thoả thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng có hiệu lực kể từ thời điểm thoả
thuận được công chứng, chứng thực?
6. Những giao dịch liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng do 1
bên vợ hoặc chồng thực hiện luôn bị coi là vô hiệu?
7. Khi vợ hoặc chồng thực hiện những giao dịch phục vụ cho nhu cầu thiết yếu
của gia đình mà không có sự đồng ý của bên kia thì người thực hiện giao dịch đó
phải thanh toán bằng tài sản riêng của mình?

131
BÀI TẬP
Bài 1: Anh A và chị B kết hôn năm 2010. Năm 5 sau kết hôn, hai vợ chồng đã
tích góp mua được một ngôi nhà diện tích 70m 2 và có một con chung là N (sinh năm
2000). Năm 2017, anh A chết đột ngột do tai nạn giao thông. Sau khi anh A chết, chị B
và con vẫn tiếp tục ở tại ngôi nhà này. Vì không còn khả năng lao động, không có tài
sản để tự nuôi mình và do không còn ai nuôi dưỡng, bà H (mẹ ruột của anh A) đã yêu
cầu phân chia phần tài sản của anh A trong khối di sản thừa kế. Tuy nhiên, hoàn cảnh
gia đình chị B sau khi anh A chết cũng rất éo le: Chị B phải nuôi con nhỏ (2 tuổi); bản
thân chị lại không có thu nhập gì đáng kể do không có việc làm; trong lúc đó, ngôi nhà
thuộc di sản thừa kế lại là nơi ngụ duy nhất, nếu đem phân chia sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cuộc của sống của hai mẹ con chị. Trước tình thế đó, chị B đã làm đơn yêu
cầu Tòa án tạm hoãn việc phân chia di sản thừa kế là căn nhà nói trên.
Theo anh (chị), TA sẽ giải quyết các yêu cầu trên như thế nào? Vì sao phải giải
quyết như vậy?
Bài 2: A và B là vợ chồng hợp pháp, trước khi kết hôn A có 1 căn nhà, sau khi
kết hôn vì hai vợ chồng không có công ăn việc làm ổn định nên đã dùng tầng 1 căn
nhà đó cho thuê mỗi tháng là 2 triệu đồng để có thêm thu nhập. Sau 5 năm A đã bán
căn nhà đó mà không cho B biết. B biết chuyện đã yêu cầu toà án xác định hợp đồng
mua bán đó bị vô hiệu. Hỏi toà án sẽ giải quyết như thế nào?
Bài 3: A và B là vợ chồng có con là X, đồng ý để X đi làm con nuôi của bà K,
khi K lên 10 tuổi thì bà K lại rơi vào tình trạng khó khăn đặc biệt về kinh tế nên A, B
muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa X và bà K nhưng cả X và bà K đều không
đồng ý. Hỏi A và B có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi hay không? Trong
thời gian bà K đang ko có đủ điều kiện nuôi dưỡng X thì A và B có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho X hay không? nếu X gây ra thiệt hại thì A và B có nghĩa vụ bồi thường cho
X không?

132
Chương 9
LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

Yêu cầu: Sinh viên trình bày được khái niệm và những đặc điểm cơ bản của
tham nhũng; nhận biết được các hành vi tham nhũng, nguyên nhân và tác hại của tham
nhũng; nêu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng chống tham nhũng.
9.1 Khái niệm tham nhũng và đặc điểm của hành vi tham nhũng
9.1.1 Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là thuật ngữ được sử dụng trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước Việt Nam trong khoảng hai chục năm trở lại đây. Văn bản pháp luật sớm nhất
của Nhà nước sử dụng thuật ngữ “tham nhũng”, quy định việc xử lý hành vi tham
nhũng là Quyết định Số 240-HĐBT, ngày 26 tháng 6 năm 1990 về đấu tranh chống
tham nhũng của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) và Nghị quyết của Quốc Hội
ngày 30 tháng 12 năm 1993 về Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng, chống buôn lậu. Tiếp đó các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao của Nhà
nước quy định trực tiếp về vấn đề đấu tranh chống tham nhũng lần lượt được ban hành
như: Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 2000; Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2007
và năm 2012; Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018,
khái niệm “tham nhũng” được hiểu: “là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã
lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.” 1.
Trong Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và Luật phòng, chống tham nhũng
năm 2005, khái niệm tham nhũng cũng được quy định khác nhau. Sự khác nhau trong
hai khái niệm này không phải ở độ dài của câu chữ mà là ở nhận thức và quan niệm
của nhà lập pháp về tham nhũng. Cũng giống như các nước khác trên thế giới, tham
nhũng ở Việt Nam có biểu hiện rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau, trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy việc mô tả, liệt kê những hành vi tham nhũng cùng
với những đặc điểm cụ thể của nó là điều không thể và không cần thiết. Mặt khác việc
mô tả tham nhũng bao gồm những hành vi A, hành vi B… sẽ dẫn đến tình trạng “bỏ
lọt”, vì hành vi tham nhũng có biểu hiện rất đa dạng và trong nhiều lĩnh vực. Hơn nữa,
các khái niệm pháp lý đòi hỏi phải có tính khái quát cao, phản ánh được đầy đủ, chính
xác về hiện tượng pháp lý cần quy định với ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ
áp dụng. Từ những tiêu chí như vậy, chúng ta có thể thấy khái niệm tham nhũng được
quy định trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 có tính khái quát cao hơn,
1
Xem thêm: Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018
133
phản ánh được đầy đủ hơn về tham nhũng - một tệ nạn xã hội đang có diễn biến rất
phức tạp ở Việt Nam hiện nay.
Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng được quy định trong các văn bản
pháp luật của Việt Nam hiện nay được hiểu là “tham nhũng trong khu vực công”.
Hành vi tham nhũng luôn gắn với việc người có chức vụ, quyền hạn (trong các cơ
quan, tổ chức), lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn làm trái công vụ mưu cầu
lợi ích riêng.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng:
Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng,
do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó, bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong
cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
đ) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng: “Cơ quan, tổ
chức, đơn vị khu vực nhà nước (sau đây gọi là cơ quan, tổ chức, đơn vị) bao gồm cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân,
đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà
nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt
động, do Nhà nước trực tiếp”.
9.1.2 Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Theo Điều 3 Luật phòng chống tham nhũng có thể nhận thấy hành vi tham nhũng
có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tham nhũng phải là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn.
Theo Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi… lợi dụng
chức vụ, quyền hạn…”. Điều này cho thấy: chủ thể của hành vi tham nhũng phải là
nhũng người có chức vụ, quyền hạn. Bởi vì, chỉ khi “có chức vụ, quyền hạn” người ta
mới có thể lợi dụng chức vụ quyền hạn. Chức vụ quyền hạn mà chủ thể của hành vi
tham nhũng có được có thể do được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng…
Chức vụ quyền hạn phải gắn với quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực và các cơ
quan khác nhau: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trong các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức
kinh tế Nhà nước hoặc lực lượng vũ trang từ trung ương đến địa phương.
134
Đây là dấu hiệu đầu tiên phân biệt hành vi tham nhũng với những hành vi vi
phạm pháp luật khác tuy cũng có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là tham nhũng vì nó
được thực hiện bởi những người không có chức vụ, quyền hạn như hành vi trộm cắp,
lừa đảo, buôn lậu…
Thứ hai, khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn lợi
dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu lợi cá nhân. Người có
hành vi tham nhũng sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một phương tiện để
thực hiện hành vi trái pháp luật. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó họ sẽ không thể
thực hiện được hoặc khó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu
cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của bản thân. Ví dụ: nếu không phải là thủ kho thì A
không thể hoặc khó có thể lấy được tài sản trong kho làm tài sản riêng của mình. Việc
lợi dụng (sử dụng) chức vụ, quyền hạn là thủ kho trong trường hợp này đã giúp A đạt
được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật. Đó chính là tham nhũng. Việc lợi
dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc trưng của hành vi
tham nhũng. Mặt khác, không phải khi nào người có chức vụ, quyền hạn làm trái pháp
luật cũng có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thì
hành vi vi phạm đó không phải là tham nhũng. Ví dụ, trường hợp một công chức có
hành vi trộm cắp tài sản của người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi trộm
cắp tài sản và chức vụ của người đó không có quan hệ gì với nhau trong các trường
hợp này. Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào không
có chức vụ quyền hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ quyền hạn đó không
liên quan đến việc quản lý, bảo vệ tài sản. Như vậy, dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái pháp luật là một dấu hiệu không thể thiếu của hành vi tham nhũng.
Thứ ba, động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi. Người có chức vụ,
quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn - sử dụng trái pháp luật quyền hành mà nhà
nước trao cho để mưu cầu những lợi ích cá nhân.2 Hành vi của họ không xuất phát từ
nhu cầu công việc hay trách nhiệm của người cán bộ, công chức mà vì lợi ích cá nhân.
Thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, làm trái công vụ của cán
bộ công chức cũng không bị coi là “tham nhũng” nói chung, tội phạm về tham nhũng
nói riêng.
Hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn làm trái pháp luật mưu lợi cá
nhân đã xuất hiện và tồn tại trong xã hội từ rất sớm. Sự tha hoá, biến chất của cán bộ
công chức bộ máy nhà nước; sự lạm quyền làm trái pháp luật phục vụ lợi ích cá nhân
2
- Theo Từ điển tiếng Việt: “vụ lợi” được hiểu là vì “mưu cầu lợi ích cho riêng mình” (Từ điển tiếng Việt, Nxb
Đà nẵng, năm 2000, tr.1130);
- Theo quy định tại Điều 3 Luật phòng, chống tham nhũng: “Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng.
135
không chỉ là “tệ nạn” xã hội mà còn là “quốc nạn” đe doạ sự tồn vong, phát triển ổn
định của mỗi quốc gia. Ý thức được tính nguy hiểm của hành vi tham nhũng, tác hại
của tham nhũng đối với sự phát triển của nhà nước và xã hội, mỗi quốc gia đều sử
dụng nhiều loại công cụ với các biện pháp khác nhau để phòng ngừa và đấu tranh
chống tham nhũng. Trong số các biện pháp được áp dụng thì biện pháp đấu tranh
mạnh mẽ, nghiêm khắc bằng pháp luật được sử dụng phổ biến ở các quốc gia. Việc
ban hành và áp dụng các văn bản pháp luật đặc biệt là các văn bản pháp luật chuyên
ngành trừng trị, xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng được coi là công cụ hữu
hiệu trong việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở mỗi quốc gia.
9.1.3 Các hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng
Ngày 20 tháng 11 năm 2018, Quốc hội 14, đã thông qua Luật phòng, chống tham
nhũng 2018. Điều 2 Luật này trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật phòng, chống tham
nhũng 2005 đã quy định 12 hành vi tham nhũng bao gồm:
a) Tham ô tài sản;
b) Nhận hối lộ;
c) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
đ) Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
g) Giả mạo trong công tác vì vụ lợi;
h) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn
vị hoặc địa phương vì vụ lợi;
i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi;
k) Nhũng nhiễu vì vụ lợi;
l) Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công
vụ vì vụ lợi;
m) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Đối với các tội phạm về tham nhũng:
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là BLHS năm 2015) đã kế thừa Bộ luật Hình sự
năm 1999 đồng thời sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới liên quan đến tội tham
nhũng. Cùng với Luật phòng, chống tham nhũng, những quy định về tội phạm tham
nhũng trong Bộ luật hình sự mới sẽ góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng và khắc phục những bất cập trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
trong giai đoạn hiện nay. Nhóm tội phạm về tham nhũng được quy định tại mục 1
Chương XXIII của Bộ luật hình sự năm 2015 gồm 7 điều, từ Điều 353 đến Điều 359.
136
Đó là các tội: Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội
lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng
đối
9.2 Nguyên nhân của tham nhũng
Tham nhũng phát sinh trong xã hội là do sự tác động của nhiều nguyên nhân
khác nhau. Nguyên nhân của tham nhũng được hiểu là những hạn chế của các yếu tố,
các quá trình trong xã hội đã thúc đẩy làm phát sinh tham nhũng. Phân tích những hạn
chế này sẽ cho thấy các nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
9.2.1 Những hạn chế trong chính sách, pháp luật
- Hạn chế về pháp luật
Thời gian qua, cơ quan lập pháp nước ta đã cố gắng hoàn thiện khung pháp lí.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
nền kinh tế-xã hội. Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ dẫn
đến nhiều sơ hở, tạo thuận lợi cho tham nhũng gia tăng. Nghị quyết số 04-NQ/TW
ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá “Cơ chế,
chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở, nhưng chậm
được sửa đổi, bổ sung”. Chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020
ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính
phủ cũng chỉ rõ “Nguyên nhân chủ yếu” của tình hình tham nhũng là “hệ thống chính
sách, pháp luật chưa đồng bộ“.
- Hạn chế trong các chính sách của Đảng và Nhà nước
Các chính sách đền bù, trợ giá, vay ưu đãi, chính sách lãi suất, chính sách hỗ trợ cho
người nghèo, chính sách tái định cư, … vẫn còn nhiều hạn chế, chưa rõ ràng, công khai,
minh bạch khiến cho những người thuộc đối tượng chính sách khó tiếp xúc với các nguồn
hỗ trợ của nhà nước, của xã hội, nếu không có sự “môi giới” của người khác. Đây chính là
các rào cản mà muốn vượt qua, các đối tượng cần phải có những “thỏa thuận”, “chi phí”
nhất định. Hơn nữa, nhiều cán bộ, công chức, viên chức đã lợi dụng các chính sách này để
phục vụ cho các lợi ích của bản thân và gia đình. Một số trường hợp cán bộ đã làm giả
hồ sơ, khai khống thuộc diện chính sách để tham ô tài sản của Nhà nước. Bên cạnh đó,
chính sách tiền lương không đủ đảm bảo đời sống của cán bộ, công chức cũng là một
nguyên nhân quan trọng làm gia tăng tệ tham nhũng. Lương thấp, không đủ chi phí
cho các nhu cầu thiết yếu đã làm phát sinh các hiện tượng sách nhiễu trong đội ngũ cán
bộ, công chức để đòi hối lộ.
9.2.2 Những hạn chế trong quản lí, điều hành nền kinh tế và trong hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
- Hạn chế trong quản lí và điều hành nền kinh tế
137
Thực hiện đường lối của Đảng chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta đã và đang đạt được những thành công vượt
bậc. Tuy nhiên, do cơ chế quản lí mới được xây dựng theo định hướng kinh tế thị
trường còn chưa theo kịp với trình độ phát triển của nền kinh tế nên đã tạo ra những sơ
hở, bất cập. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21 tháng 8 năm 2006 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã phân tích “Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung,
của bộ máy nhà nước nói riêng, còn nhiều khuyết điểm, chất lượng và hiệu quả chưa
cao; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số cơ quan, tổ chức chưa được xác định
rõ ràng, cụ thể, còn trùng lặp hoặc bị phân tán”.
- Hạn chế trong cải cách hành chính
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã quyết liệt thực hiện cải cách hành chính và bước
đầu đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, cải cách hành chính vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế - xã hội. Do ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kinh
tế cũ nên các thủ tục hành chính tuy đã được rà soát và loại bỏ một phần nhưng vẫn
còn rất phức tạp, rườm rà, gây nhiều khó khăn, bất lợi cho người dân và doanh nghiệp.
Chính sự rườm rà, phức tạp trong các thủ tục hành chính đã tạo điều kiện cho tham
nhũng gia tăng. Việc điều hành, quản lí nền kinh tế còn nhiều bất cập, lỏng lẻo, yếu
kém, nhất là cơ chế xét cấp phát vốn đầu tư, vốn vay ODA… đã tạo ra nhiều kẽ hở.
Bên cạnh đó, những thủ tục còn kéo dài, làm cho những người không có thời gian,
hoặc những người muốn có kết quả nhanh chóng buộc phải đưa hối lộ. Các thủ tục như
thủ tục vay vốn, thủ tục cấp sổ đỏ, sổ hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, đăng kí xe
máy, đăng kí kinh doanh…vẫn còn rườm rà và phức tạp. Đây chính là các nguyên
nhân làm cho tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng.
Chiến lược Quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã đánh giá
nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tham nhũng trong thời gian vừa qua là “việc kiện
toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chưa theo kịp sự phát triển của đời
sống kinh tế - xã hội”. Chính những bất cập này là những điều kiện tốt làm gia tăng tệ
tham nhũng trong xã hội. Vì vậy, cải cách hành chính không chỉ là một giải pháp quan
trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà còn góp phần quan
trọng vào việc phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là những hành vi tham nhũng có
nguồn gốc từ cơ chế tập trung bao cấp.
9.2.3 Những hạn chế trong việc phát hiện và xử lí tham nhũng
- Hạn chế trong việc khuyến khích tố giác hành vi tham nhũng
Việc phát hiện hành vi tham nhũng ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế. Hành vi
tham nhũng chủ yếu được phát hiện thông qua việc tố giác của cán bộ, công chức, viên
chức và thông qua các công cụ phát hiện tham nhũng. Tuy nhiên, cả hai hình thức này
hiện nay đều còn nhiều hạn chế.
138
Tham nhũng là hành vi do các cán bộ, công chức thực hiện. Do đó, việc phát hiện
các hành vi tham nhũng rất khó khăn. Chúng ta chưa có một cơ chế khuyến khích có
hiệu quả việc tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng, đặc biệt là cơ chế bảo vệ quyền lợi
cho những người tố cáo hành vi tham nhũng. Thông thường, những người tố cáo hành
vi tham nhũng là những nhân viên hoặc cấp dưới của người có hành vi tham nhũng. Vì
vậy rất nhiều trường hợp cán bộ, công chức, viên chức biết rõ hành vi tham nhũng của
cấp trên nhưng không dám tố cáo vì sợ bị trù dập, sợ bị trả thù. Điều 38 Luật phòng,
chống tham nhũng đã quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức, viên chức khi phát
hiện dấu hiệu tham nhũng phải báo cáo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp. Tuy vậy, luật chưa
quy định cụ thể trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp trong việc bảo vệ cũng như
giữ bí mật danh tính người tố cáo hành vi tham nhũng. Tại khoản 2 Điều 8 Luật phòng,
chống tham nhũng quy định nghiêm cấm các hành vi “Đe dọa, trả thù, trù dập, tiết lộ
thông tin về người phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về
hành vi tham nhũng”. Tuy nhiên, luật lại không quy định cụ thể cơ chế xử lí đối với
các hành vi vi phạm thuộc loại này. Mặt khác, luật cũng không quy định cụ thể trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp khi có hành vi
bao che cho hành vi tham nhũng của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của cán
bộ, công chức, viên chức đã tố cáo hành vi tham nhũng của thủ trưởng mình. Trong
những trường hợp này, nhiều khả năng người đã tố cáo hành vi tham nhũng sẽ bị thủ
trưởng cơ quan, tổ chức hay đơn vị trù dập. Điều đó làm cho nhiều cán bộ, công chức,
viên chức không dám tố cáo các hành vi tham nhũng.
Như vậy rõ ràng thiếu cơ chế bảo vệ hữu hiệu cũng như khuyến khích cán bộ,
công chức, viên chức tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng. Điều này làm hạn chế đáng
kể việc phát hiện tham nhũng đồng thời tạo điều kiện cho tham nhũng có điều kiện gia
tăng.
- Hạn chế trong hoạt động của các cơ quan phát hiện tham nhũng
Hiện nay hoạt động của các cơ quan phát hiện tham nhũng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn. Tham nhũng chủ yếu được phát hiện thông việc sử dụng
các công cụ thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán. Tuy nhiên, hoạt động của các cơ
quan này vẫn còn nhiều hạn chế thể hiện ở các điểm sau:
+ Các cơ quan, tổ chức có chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán
chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc phát hiện tham
nhũng. Hệ thống tổ chức, phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát còn chậm đổi mới,
chưa theo kịp yêu cầu và sự phát triển đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội cũng như
các hành vi tham nhũng. Đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát,
139
kiểm toán vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng cũng như trình độ, năng lực,
bản lĩnh chính trị. Đặc biệt có một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa về phẩm chất,
nhân cách, đạo đức đã lợi dụng chức vụ, nhiệm vụ được giao để đòi hoặc nhận hối lộ,
bỏ qua các sai sót của các doanh nghiệp, đơn vị.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát dựa trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất
của quyền lực Nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tuy nhiên do cơ chế tổ
chức của nền hành chính hiện nay nên các tổ chức Thanh tra Nhà nước ở các cấp, các
ngành gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp. Vì vậy, Thanh
tra Nhà nước chưa thực sự độc lập trong hoạt động. Điều này đã hạn chế đáng kể nhiệm
vụ của thanh tra là phát hiện tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.
+ Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán đối với các cơ quan Nhà
nước để phát hiện tham nhũng còn chưa được tiến hành thường xuyên và toàn diện dẫn
đến hiệu quả của việc phát hiện tham nhũng còn hạn chế. Hoạt động của các cơ quan
kiểm toán vẫn còn nhiều hạn chế trong việc phát hiện kịp thời hành vi tham nhũng.
- Hạn chế trong hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự
Công tác điều tra khám phá các vụ án tham nhũng vẫn còn hạn chế. Tỷ lệ phát
hiện các vụ án tham nhũng theo đánh giá của các chuyên gia là chưa cao. Vẫn còn hiện
tượng bỏ lọt tội phạm, chuyển từ xử lí hình sự sang xử lí hành chính hay xử lí kỉ luật.
Việc xử lí các vụ án tham nhũng còn có những biểu hiện thiếu quyết tâm, ngại xử lí.
Quá trình giải quyết vụ án còn chậm, gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Một số vụ án
tham nhũng nghiêm trọng nhưng hoạt động điều tra, truy tố và xét xử kéo dài, hiệu quả
xử lí còn thấp; một số trường hợp bỏ lọt các hành vi tham nhũng. Mức án dành cho
những người có hành vi tham nhũng còn quá nhẹ chưa đảm bảo tính răn đe, phòng
ngừa riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.
Hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng còn những hạn chế làm phát
sinh tham nhũng. Những quy định trong hoạt động của các cơ quan này còn chưa rõ
ràng, minh bạch dẫn đến sự gia tăng các hiện tượng tham nhũng hối lộ cho các cán bộ
công chức làm việc trong các cơ quan này. Vẫn còn tồn tại các hiện tượng hối lộ cán
bộ, công chức trong các cơ quan bảo vệ pháp luật để được xử lí hành chính, được kết
luận điều tra có lợi, được truy tố với tội danh và khung hình phạt nhẹ hơn, được xét xử
với hình phạt nhẹ hơn, mức án nhẹ hơn hoặc được hưởng án treo. Vẫn còn tồn tại hiện
tượng đưa hối lộ để thu hồi tài sản là đối tượng của tội phạm trả cho người bị hại, đưa
hối lộ để cưỡng chế thi hành án…
- Hạn chế trong hoạt động của các cơ quan truyền thông
Trong cuộc chiến chống tham nhũng, truyền thông giữ một vai trò rất quan trọng.
Thời gian quan báo chí đã phát hiện và cung cấp thông tin giúp các cơ quan bảo vệ
pháp luật phát hiện được nhiều vụ án tham nhũng. Tuy nhiên hiệu quả của hoạt động
140
này còn rất khiêm tốn. Truyền thông, báo chí nước ta hiện mới chỉ tập trung thực hiện
nhiệm vụ giám sát và đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng chứ chưa thực
hiện việc điều tra về các vụ việc, các hành vi và các cá nhân tham nhũng. Hơn nữa thời
lượng và các chuyên mục của truyền thông dành cho việc chống tham nhũng còn quá
ít, chưa tạo ra một dư luận rộng rãi để tăng cường hiệu quả tối đa hoạt động phòng,
chống tham nhũng. Đây là một hạn chế của báo chí và truyền thông nước ta hiện nay.
Cần phải tăng cường hơn nữa vai trò của báo chí và truyền thông trong việc theo dõi
phân tích hoạt động của Nhà nước, phát hiện và phản ánh chính xác, kịp thời các vụ
việc về tham nhũng và tạo ra diễn đàn cho đông đảo công chúng tham gia phát hiện
và tố giác các vụ việc tham nhũng, tạo ra những dư luận xã hội để lên án mạnh mẽ
các hành vi tham nhũng nhất là các hành vi tham nhũng của các cán bộ có chức vụ
cao, tham nhũng gây ra thiệt hại lớn. Báo chí phải thực sự là người bạn đồng hành
của người dân trong cuộc chiến chống tham nhũng thì mới phát huy được vai trò thực
sự quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng.
- Hạn chế trong việc phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, tổ chức trong phòng,
chống tham nhũng
Trong hoạt động chống tham nhũng, nhiều cơ quan, tổ chức chưa nhận thức đúng
tính chất và tầm quan trọng của hoạt động phòng, chống tham nhũng. Việc tổ chức
thực hiện các chủ trương giải pháp về phòng, chống tham nhũng ở nhiều cơ quan, tổ
chức, đơn vị vẫn còn tiến hành một cách hình thức, chưa chú trọng nội dung, đặc biệt
là những vấn đề như kê khai tài sản và minh bạch hóa các hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị. Hầu hết các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa xây dựng được các kế hoạch
phòng chống tham nhũng làm cơ sở triển khai các hoạt động phòng, chống tham
nhũng. Chúng ta chưa huy động được sức mạnh của tất cả các cá nhân, tổ chức, cơ
quan, đơn vị vào hoạt động phòng, chống tham nhũng. Hiện nay vẫn còn thiếu một cơ
chế phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan Nhà nước với các tổ chức chính trị, các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong hoạt động phòng, chống
tham nhũng. Điều này làm giảm hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng đồng
thời làm cho hành vi tham nhũng phát sinh mà không bị ngăn chặn.
9.2.1 Những hạn chế trong nhận thức, tư tưởng của cán bộ, công chức cũng như
trong hoạt động bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ
- Sự xuống cấp về đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức, viên
chức
Do nền kinh tế kế hoạch đã tồn tại rất lâu ở nước ta, nên nhiều cán bộ, công chức,
viên chức nước ta vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của các tư tưởng, tâm lí tiêu cực của
thời kì quan liêu, bao cấp. Nhiều người vẫn duy trì những thái độ tiêu cực như hách
dịch, cửa quyền, sách nhiễu gây khó khăn cho nhân dân, làm việc theo kiểu bố thí, ban
141
ơn, kéo dài thời hạn… Điều này đã làm cho một bộ phận người dân ngại tiếp xúc, ngại
làm việc trực tiếp mà thường sử dụng những hình thức tiêu cực như đưa hối lộ, thông
qua môi giới hối lộ để giải quyết công việc. “Văn hóa phong bì”, vấn đề ăn chia, trích
tỷ lệ phần trăm… cũng đang ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của cán bộ, công chức,
viên chức làm gia tăng tình trạng tham nhũng. Những lĩnh vực liên quan đến tài chính,
tiền tệ, vốn đầu tư… như cấp phát vốn, duyệt dự án đầu tư, cấp giấy phép, duyệt hạn
ngạch…đều xuất hiện các tình trạng nhũng nhiễu đòi hối lộ. Nếu không đưa hối lộ thì
công việc sẽ bị gây khó khăn, mất thời gian, doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tốt để làm
ăn.
Bên cạnh đó, sự xuống cấp về đạo đức, nhân cách của một bộ phận cán bộ, đảng
viên và công chức, viên chức cũng làm gia tăng tệ tham nhũng.
- Hạn chế trong công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ
Công tác quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ thời gian qua đã có nhiều đổi mới nhưng
nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa thực hiện tốt. Tư tưởng cục bộ, địa phương,
bè phái trong công tác bổ nhiệm cán bộ vẫn còn tồn tại cũng làm gia tăng tệ tham
nhũng. Vẫn còn tình trạng chỉ lựa chọn, bổ nhiệm những cán bộ cùng quê, cùng bè
phái để từ đó hình thành các đường dây cấu kết với nhau tạo thành những vòng tham
nhũng khép kín, vô hiệu hóa cơ chế kiểm soát, thanh tra nội bộ. Những vụ án tham
nhũng lớn thời gian qua đã cho thấy rõ điều đó. Việc luân chuyển cán bộ cũng chưa
được thực hiện tốt, nhiều khi còn phản tác dụng. Nhiều trường hợp các cán bộ, công
chức, viên chức tích cực tố cáo tham nhũng thì bị luân chuyển công tác, còn những
người tham nhũng cùng bè phái, bị tố cáo thì không những không bị luân chuyển công
tác mà còn được bổ nhiệm chức vụ cao hơn.
Những nguyên nhân tham nhũng xuất phát từ hạn chế trong nhận thức, tư tưởng
của cán bộ, công chức, viên chức và công tác cán bộ được xác định là những nguyên
nhân cơ bản. Vì vậy, muốn hoạt động phòng chống tham nhũng đạt hiệu quả cao thì
vấn đề quan trọng là phải tạo bước chuyển biến cơ bản trong tư tưởng, nhận thức của
cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện tốt văn hóa công sở cũng như chế độ quản lí,
luân chuyển cán bộ.
9.3 Tác hại của tham nhũng
Tham nhũng gây ra nhiều tác động xấu đối với các lĩnh vực chính trị, kinh tế và
xã hội.
9.3.1 Tác hại về chính trị
Tham nhũng trước hết gây ra những thiệt hại to lớn về lĩnh vực chính trị của đất
nước. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 Ban hành kèm
theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ đã nhận định:
“tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản
142
lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử
dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi
ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở
thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của
Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.” Tham nhũng tạo ra những rào cản, cản trở việc
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhiều chính sách của
Đảng và Nhà nước bị các cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng phục vụ cho các mục
đích cá nhân đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển chung của đất nước.
Các chính sách đối với người nghèo, đối với vùng đồng bào dân tộc ít người, chính
sách đối với thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng…thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, những chính sách này thời gian qua đã bị một số
cán bộ, đảng viên lợi dụng để tham ô, chiếm đoạt tài sản. Các chính sách về trợ giá,
đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ hoạt động xuất, nhập khẩu…cũng bị một số cán
bộ, công chức lợi dụng phục vụ cho lợi ích của cá nhân. Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến việc thực hiện những chính sách của Đảng và Nhà nước trong các chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà còn gây thiệt hại không nhỏ đến tài
sản của Nhà nước, gây bất bình trong nhân dân. Tham nhũng vì vậy làm giảm sút lòng
tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào đội
ngũ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc trong nhân dân, gây ra những dư luận rất xấu trong
xã hội.
Không những thế, tham nhũng còn làm ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia trên
trường quốc tế. Tham nhũng làm giảm lòng tin của các nhà tài trợ khi mà nguồn viện
trợ cho các dự án, nguồn hỗ trợ cũng như ủng hộ của các quốc gia cho nước ta bị thất
thoát nhiều do tệ tham nhũng làm cho hiệu quả đạt được của các nguồn tài chính, tín
dụng này là rất thấp.
9.3.2 Tác hại về kinh tế
Bên cạnh các thiệt hại về chính trị, tham nhũng còn gây ra những thiệt hại to lớn
về mặt kinh tế cho Nhà nước và xã hội. Những thiệt hại về kinh tế mà tham nhũng gây
ra cho nước ta có thể kể đến là:
- Tham nhũng làm thất thoát những khoản tiền lớn trong xây dựng cơ bản do phải
chi phí cho việc đấu thầu, việc cấp vốn, việc thanh tra, kiểm toán và hàng loạt các chi
phí khác. Mặt khác do tham nhũng mà một số lượng lớn tài sản của Nhà nước bị thất
thoát do các hành vi tham ô, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt...
- Tham nhũng gây tổn thất lớn cho nguồn thu của ngân sách nhà nước thông qua
thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên do tệ tham nhũng,
hối lộ mà một số doanh nghiệp chỉ phải nộp khoản thuế ít hơn nhiều so với khoản thuế
143
thực tế phải nộp. Điều này đã làm thất thoát một lượng tiền rất lớn hàng năm. Hối lộ
cũng dẫn đến những thất thoát lớn trong việc hoàn thuế, xét miễn giảm thuế…
- Tham nhũng, nhất là hành vi tham ô tài sản đã làm cho một số lượng lớn tài sản
công trở thành tài sản tư của một số cán bộ, công chức, viên chức. Trong một số cơ
quan, tổ chức đã hình thành các đường dây tham ô hàng tỷ, thậm chí hàng ngàn tỷ
đồng của Nhà nước.
Tham nhũng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các công trình xây dựng. Do
tham nhũng mà một số công trình xây dựng như các công trình cầu đường, nhà cửa kém
chất lượng. Điều này không chỉ gây nguy hiểm đáng kể cho cuộc sống của người dân
khi sử dụng các công trình này mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội.
Tham nhũng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường kinh doanh, làm giảm đáng kể
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Do tệ nạn tham nhũng mà nhiều doanh nghiệp tuy không có đủ thực lực và uy tín nhưng
nhờ “hối lộ” mà vẫn giành được những hợp đồng kinh tế lớn. Điều đó không chỉ làm
mất lòng tin của các doanh nghiệp làm ăn chính đáng trong cạnh tranh lành mạnh mà
còn dẫn đến nhiều hậu quả xấu khác như chất lượng công trình kém, làm suy thoái phẩm
chất của một số cán bộ, công chức, viên chức, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư…
Hành vi sách nhiễu, gây khó khăn, đòi hối lộ của một bộ phận cán bộ, công chức,
viên chức còn gây thiệt hại đến tài sản của người dân do họ phải đưa hối lộ khi liên
quan đến các thủ tục hành chính. Mặt khác thủ tục hành chính bị kéo dài đã gây mất
thời gian, tiền của của người dân, làm đình trệ các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
9.3.3 Tác hại về xã hội
Tham nhũng làm ảnh hưởng đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức và pháp luật,
làm xuống cấp đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Tham nhũng đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên coi thường các giá trị
đạo đức, coi thường các chuẩn mực của pháp luật, sách nhiễu, gây khó khăn… để đòi
hối lộ. Một số người sẵn sàng làm trái lương tâm, trái đạo đức, xâm phạm nghĩa vụ
nghề nghiệp cũng như vi phạm pháp luật vì những khoản tiền hối lộ. Tham nhũng làm
xáo trộn trật tự xã hội. Khi những cán bộ, đảng viên thay mặt Đảng, Nhà nước thực thi
công vụ mà tham nhũng, nhận hối lộ thì lúc đó, hoạt động của họ không còn phục vụ
cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân mà hoạt động đó chỉ phục vụ cho
lợi ích của một số ít người là những người đưa hối lộ. Điều này gây ra những ảnh
hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, gây bất bình trong nhân dân. Ngày nay
tham nhũng đã không chỉ xảy ra đối với một số lĩnh vực liên quan đến tài chính, tiền
tệ, đầu tư xây dựng cơ bản, đất đai, nhà cửa mà tham nhũng đã xảy ra ở nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, gây ra những hậu quả xấu, làm cản trở sự phát triển lành mạnh
144
của đất nước. Đặc biệt, khi tham nhũng xảy ra trong các lĩnh vực, ngành nghề được xã
hội tôn kính như giáo dục, y tế, văn hóa… thì hành vi tham nhũng còn xâm hại đến các
giá trị đạo đức, xã hội truyền thống, gây ra những hậu quả xấu, tác động không nhỏ
đến hệ tư tưởng trong xã hội.
Tóm lại, tham nhũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về chính trị, kinh tế và
xã hội; gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển mọi mặt của nền kinh tế - xã hội. Tham
nhũng làm xuống cấp đạo đức một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, gây bất bình
trong dư luận xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
9.4 Ý nghĩa của công tác phòng chống tham nhũng
9.4.1 Phòng, chống tham nhũng góp phần bảo vệ chế độ, xây dựng Nhà nước pháp
quyền
Hoạt động phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
đặc biệt. Trong những năm gần đây, hoạt động phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên kết quả của hoạt động này còn chưa
được như mong muốn. Tham nhũng vẫn được coi là “quốc nạn” của đất nước, là một
trong những nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nghị quyết số 14 ngày 15/5/1996 của Bộ chính trị về lãnh đạo cuộc đấu tranh chống
tham nhũng đã nhận định: Tình trạng tham nhũng đã và đang gây ra hậu quả hết sức
nghiêm trọng, làm xói mòn bản chất của Đảng và Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ,
đảng viên, tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá ta, uy hiếp sự tồn vong
của chế độ.3 Trong chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020,
Chính phủ nhận định: “Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công
cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”.4 Như vậy,
phòng, chống tham nhũng không chỉ có mục đích đơn thuần là làm giảm tình hình vi vi
phạm pháp luật nói chung, tội phạm nói riêng mà nó còn có ý nghĩa quan trọng bảo vệ
sự vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Do đó, phòng, chống tham
nhũng cần được xem như là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của toàn Đảng, toàn
dân trong giai đoạn hiện nay.
9.4.2 Phòng, chống tham nhũng góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân
Thiệt hại vật chất do tham nhũng gây ra không chỉ là số lượng tài sản rất lớn của
Nhà nước, tập thể và công dân bị các đối tượng tham nhũng chiếm đoạt mà còn bao
gồm cả những thiệt hại vật chất do các đối tượng này làm thất thoát hoặc gây lãng phí.

3
Xem: Ban nội chính trung ương, Một số văn bản của Đảng về phòng chống tham nhũng. Nxb. Chính trị quốc
gia, 2005. Tr.04-205.
4
Xem: Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 Ban hành kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-
CP ngày 12 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ
145
Ở Việt Nam, tham nhũng đã và đang gây ra sự lo lắng, bức xúc lớn của toàn xã
hội. Thời gian qua, nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng đã bị phát hiện và xử lý như vụ
Nhà máy dệt Nam định, vụ Tamexco, vụ EPCO Tăng Minh Phụng, vụ Dự án Mường
Tè, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ PU18,… Những thiệt hại vật chất do các vụ tham nhũng
trên gây ra là rất lớn, có vụ lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Tham nhũng làm hao tổn lớn
nguồn lực kinh tế của quốc gia, làm chậm nhịp tăng trưởng của nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng tụt hậu ngày càng xa so với các nước trong khu
vực và thế giới. Mặt khác, tham nhũng còn làm cho người dân bị thiệt hại về kinh tế
thông qua việc “buộc phải đưa hối lộ”, phải trả thêm tiền khi mua hàng hoá, thanh toán
dịch vụ… vì giá cả hàng hoá, dịch vụ đã được cộng thêm các khoản chi phí, “tiêu cực
phí”… của các nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ. Tham nhũng làm tăng thêm gánh nặng
về kinh tế đối với người dân trong điều kiện kinh tế vốn đã rất khó khăn. Tham nhũng
còn làm cho sự chênh lệch về tài sản, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng
tăng. Các lợi ích kinh tế trong xã hội không được phân chia hợp lý; nguồn lực kinh tế
của xã hội không được sử dụng hợp lí cho việc thoả mãn nhu cầu hưởng thụ cũng như
tái sản xuất của cải vật chất của xã hội. Điều này không chỉ gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất, phát triển kinh tế mà còn làm tiềm ẩn nguy cơ mâu thuẫn, bất ổn trong
xã hội.
Vì vậy, để phát triển kinh tế nhanh và vững chắc, đồng thời không ngừng nâng
cao đời sống, vật chất, tinh thần cho nhân dân cần thực hiện các biện pháp cần thiết để
phòng ngừa và đấu tranh mạnh mẽ với tham nhũng. Việc tích cực phòng, chống tham
nhũng có ý nhĩa quan trọng không chỉ đối với việc phát triển, tăng trưởng nền kinh tế
mà còn có ý nghĩa to lớn, góp phần quan trọng trong việc cải thiện, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho nhân dân.
9.4.3. Phòng, chống tham nhũng góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống,
làm lành mạnh các quan hệ xã hội
Tham nhũng làm suy giảm, thay đổi, thậm chí làm băng hoại các giá trị đạo đức
truyền thống của xã hội, của dân tộc. Sự tha hóa trong lối sống, đạo đức và vi phạm
pháp luật của một số người có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước nếu không được
ngăn chặn, loại bỏ sẽ nhanh chóng lan ra toàn xã hội, tạo thành xu hướng, trào lưu xã
hội, làm cho xã hội bị suy đồi và dẫn đến diệt vong. Để bảo vệ xã hội, bảo tồn và phát
triển các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống thì nhà nước, mỗi người dân và toàn xã
hội cần đồng lòng, chung sức đấu tranh không khoan nhượng với các hành vi tham
nhũng và tội phạm về tham nhũng. Việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng
chính là hoạt động góp phần duy trì các giá trị đạo đức truyền thống và làm lành mạnh
các quan hệ xã hội.

146
9.4.4 Phòng, chống tham nhũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chế
độ và pháp luật
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết
định đối với sự sống còn của chế độ, hạnh phúc và tương lai của dân tộc. Đây là cuộc
chiến đầy gian khó và phức tạp nhằm chống lại những thói hư, tật xấu đang tiềm ẩn
trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức - những người được nhà nước và nhân dân
trao quyền ở các cơ quan từ trung ương đến địa phương. Cuộc đấu tranh chống tham
nhũng chỉ có thể giành được thắng lợi như mong muốn khi có sự kiên quyết trong chỉ
đạo của cấp uỷ Đảng, của chính quyền cũng như sự hưởng ứng, tham gia tích cực của
mỗi công dân. Phương châm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là lấy phòng ngừa là
chính nhưng đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng. Để phòng ngừa tham nhũng,
các cơ quan, tổ chức cần thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục cán
bộ, công chức, viên chức không vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, cổ vũ
động viên mọi tầng lớp nhân dân phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng. Trong phạm
vi quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan tổ
chức phải thường xuyên nhắc nhở, giáo dục cán bộ đồng thời xử lý nghiêm minh các
hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, bảo vệ người tố giác… Điều đó góp
phần phòng, chống tham nhũng nhưng đồng thời củng cố lòng tin của cán bộ, công
chức đối với cơ quan, tổ chức và pháp luật.
9.5. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Công dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham
nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị
với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát
việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Công dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong phòng, chống tham nhũng.
9.6 Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp, tổ chức khu vực
ngoài nhà nước trong phòng, chống tham nhũng ( Điều 4)
1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có
trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, xử lý
theo thẩm quyền và kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; thực hiện quy định khác của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng;
b) Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố
giác, báo tin, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng;
c) Tiếp nhận, xử lý kịp thời phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, tin báo về hành
vi tham nhũng;

147
d) Kịp thời cung cấp thông tin và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng.
2. Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, phản
ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham nhũng
xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy
chế, quy định của doanh nghiệp, tổ chức;
b) Kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của người có chức vụ,
quyền hạn và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham
nhũng.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 10


1. Trình bày khái niệm, đặc điểm và các loại hành vi tham nhũng.
2. Phân tích nguyên nhân và tác hại của tham nhũng.
3. Trình bày trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng.

148
ÔN TẬP
BÀI TẬP TỔNG HỢP
Bài tập 1: Ông Lê Hoàng còn nợ ông Thanh Hùng số tiền 300 triệu đồng. Ngày
16.09.2018 ông Hùng khởi kiện đòi nợ ông Hoàng tại Tòa án. Tòa án đã thụ lý và giải
quyết vụ kiện đòi nợ. Ông Hoàng biết chắc chắn rằng Tòa án sẽ xử buộc ông phải trả nợ
tiền vay và tiền lãi nên ngôi nhà ở của ông sẽ bị cơ quan thi hành án để bán đấu giá
(ngoài ngôi nhà ông không cò có tài sản gì khác). Trong thời gian Tòa đang giải quyết,
ông Hoàng đã nhờ em trai là là Lê Thanh đến ký hợp đồng mua bán nhà ở để trốn nợ.
Hợp đồng được xác lập vào ngày 12/12/2018và công chứng tại Phòng công chứng số 1
(các bên không giao tiền và giao nhà cho nhau).
Xác định hợp đồng trên đã vi phạm điều kiện có hiệu lực nào pháp luật quy định?
Bài tập 2: Anh A và chị B kết hôn hợp pháp vào tháng 1 năm 1986, hai người có
một con chung là cháu C (sinh năm 1988), vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm
2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 8 năm 2018 chị B làm đơn xin ly hôn với anh A.
Được biết khi ly hôn vợ chồng có nhà đất trị giá khoảng 100 triệu đồng, tài sản khác trị giá
10 triệu đồng. Ngoài ra, anh A còn giấu riêng 20 triệu đồng tiền thường năm.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, hãy xác định:
a, Trường hợp chị B viết đơn xin ly hôn mà anh A không chịu ký thì Toà án có
giải quyết hay không?
b, Tòa án giải quyết ly hôn dựa trên căn cứ nào?
c, Chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp này nếu Toà án giải quyết ly hôn.
Bài tập 3: Ngày 16/9/2018 Công ty vận tải X ký hợp đồng vận chuyển 50 tấn
hàng hóa cho Công ty cổ phần K. Trong hợp đồng các bên thoả thuận “Địa điểm vận
chuyển từ Huế và Thành phố Hồ Chí Minh, giá cước vận chuyển là 60 triệu đồng.
Giao đúng và đủ hàng hóa theo như đã thoả thuận”. Khi giao hàng Công ty cổ phần K
thấy hàng bị vỡ nên không nhận và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Kết luận giám định
đã xác định hàng hóa bị hư hại do va chạm cơ học trong quá trình vận chuyển, thiệt hại
là 28 triệu đồng.
Hãy xác định các điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt theo hợp đồng
và trách nhiệm bồi thường của công ty của Công ty vận tải X.
Bài tập 4: Ông Hoàng Văn Đẩu có diện tích đất 500 m 2, có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp. Diện tích đất của ông Đẩu
sát với đất ông Thành. Tháng 5/2018, ông Thành xây dựng nhà ở đã lấn chiếm 20 cm 2
(tổng diện tích lấn chiến 12 m2). Ông Đẩu muốn kiện ông Thành thì phải tiến hành thủ
tục gì. Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai ?
Bài tập 5: Ông Nguyễn Văn Thành có diện tích đất ở 350 m 2, có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp. Tháng 6 năm 2018
149
ông Thành cần tiền nên đã treo biển “BÁN ĐẤT”, sau đó bà Lê Thị Bình có nhu cầu đã
đến hỏi và thống nhất giá là 300 triệu đồng. Ông Thành phải chịu toàn bộ các phí tổn về
thuế và lệ phí. Trên cơ sở thỏa thuận, ngày 12 tháng 7 năm 2018 hai bên ký hợp đồng
mua bán đất đai có nội dung “Ông Nguyễn Văn Thành bán đứt cho bà Lê Thị Bình 350
m2 đất ở với giá 300 triệu đồng, ông Thành phải chịu toàn bộ thuế và lệ phí. Bà Bình
giao tiền lần thứ nhất là 100 triệu, còn 200 triệu đồng khi hoàn tất thủ tục sang tên cho
bà Bình sẽ giao hết. Hai bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng”.
Hợp đồng được bên mua và bên bán ký tên. Sau khi ký hợp đồng và nhận 100 triệu
nhưng do đất tăng giá ông Thành không tiến hành bất cứ thủ tục gì, vì vậy bà Bình đã
viết đơn kiện yêu cầu ông Thành phải thực hiện đúng cam kết.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự và Luật Đất đai hãy xác định:
a, Hợp đồng mua bán đất giữa ông Thành và bà bình có hợp pháp hay không. Vì sao?
b, Hãy tư vấn cho hai bên xác lập hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Bài tập 6: Ông Thông được Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp 500 m 2 quyền sử
dụng đất tại xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh T (có quyết định) nhưng chưa làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Toàn bộ diện tích đất trên ông Thông
trồng táo. Năm 2018, ông Thông làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
phát hiện ông Hiền (người sử dụng đất liền kề đã lấn chiếm 30 cm theo chiều dài của
đất, tổng diện tích đất bị lấn chiếm là 25,3 m 2).
Hãy xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai giữa ông Thông và ông
Hiền dựa trên cơ sở pháp lý nào ?
Bài tập 7: Ông Lê Quang Tính thoả thuận cho bà Trần Thị Lừng vay 500 triệu
đồng, thời hạn trả nợ là hết ngày 20/02/2018. Đến hạn trả nợ bà Lừng không thực hiện
nghĩa vụ theo thỏa thuận. Do đòi nhiều lần không được nên ngày 13/3/2018, ông Tính
đã thuê ba người và một xe tải đến nhà bà Lừng chở toàn toàn bộ tài sản của bà Lừng
về trừ nợ (một xe máy, hai ti vi, tủ và bàn nghế).
Căn cứ vào quy định của pháp luật hãy xác định :
a, Hành vi xiết nợ của ông Tính là đúng hay sai. Vì sao ?
b, Để thực hiện đòi nợ ông Tính phải làm những thủ tục gì ?
c, Thời hiệu khởi kiện được tính như thế nào ?
d, Trình tự giải quyết của Toà án khi ông Tính khởi kiện tại Tòa án.
Bài tập 8: Ông A và bà B kết hôn hợp pháp, có 03 người con chung là C, D và E
đều đã thành niên và có công việc ổn định. Anh C kết hôn với chị M và sinh được
cháu H. Hãy chia thừa kế trong các trường hợp sau:
a. Ông A chết không để lại di chúc.
b. Ông A chết lập di chúc cho mỗi người con được hưởng 1/3 di sản.
Được biết: Các trường hợp nêu trên là hoàn toàn độc lập với nhau; di sản mà mỗi
150
người chết để lại trong từng trường hợp là 500 triệu; chỉ căn cứ vào các dữ kiện đã biết
mà không cần biện luận thêm.
Bài tập 9: Ông A và bà B kết hôn hợp pháp, có 03 người con chung là C, D và E
đều đã thành niên và có công việc ổn định. Anh C kết hôn với chị M và sinh được
cháu H và K. Hãy chia thừa kế trong các trường hợp sau:
a. Ông A chết lập di chúc cho anh E được hưởng 1/3 di sản.
b. Ông A chết năm 2018, nhưng anh C chết năm 2017.
Được biết: Các trường hợp nêu trên là hoàn toàn độc lập với nhau; di sản mà mỗi
người chết để lại trong từng trường hợp là 300 triệu; chỉ căn cứ vào các dữ kiện đã biết
mà không cần biện luận thêm.
Bài tập 10: Nguyễn Công Vinh là công nhân của nhà máy Thanh Hòa được phân
làm ca từ 15h đến 23h. Hết giờ làm ca Vinh đi qua phòng Quản đốc thấy mở cửa, quản
đốc đang nằm ngủ trên ghế để máy tính xách tay và điện thoại trên bàn. Vinh lay vai
nhưng Quản đốc ngủ quá say nên đã lấy trộm điện thoại và máy tính xách tay. Hôm
sau Vinh mang bán điện thoại được 5 triệu, còn máy tính xách tay cất ở nhà. Việc mất
tài sản đã được thông báo đến công nhân trong toàn nhà máy, tối hôm đó có anh Hòe
cùng làm ca với Vinh có thấy Vinh vào phòng Quản đốc nên đã báo cho Giám đốc nhà
máy. Giám đốc đã có cuộc họp khẩn cấp và quyết định bắt Vinh. Hôm sau như thường
lệ Vinh đi làm lại tại nhà máy, Giám đốc cho người gọi Vinh lên phòng đọc lệnh bắt
khẩn cấp của Giám đốc và tạm giam Vinh vào phòng họp để hôm sau giải đến công an
để xử lý theo pháp luật.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật, hãy xác định:
a. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp của Vinh.
b. Việc ký lệnh bắt người khẩn cấp của Giám đốc nhà máy là đúng hay sai ? Vì sao ?
c. Xác định cơ quan có thẩm quyền bắt, tạm giữ người theo quy định của pháp luật.
d. Các giai đoạn tố tụng được áp dụng để xử lý Vinh.
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Trong mỗi tình huống được nêu dưới đây, anh (chị) hãy phân tích theo các yêu
cầu sau:
1. Chủ thể của quan hệ pháp luật được đề cập đến.
2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (nói trên) được thể hiện như thế nào?
3. Khách thể của quan hệ pháp luật trong tình huống đề cập đến.
4. Căn cứ làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ pháp luật.
5. Hành vi của chủ thể được thể hiện như thế nào, dưới dạng hành động hay không
hành động? Hành vi này có trái với pháp luật hay không?
6. Phân tích lỗi của chủ thể khi thực hiện hành vi vi phạm (nếu có).
7. Phân tích năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể.
151
8. Trong tình huống được nêu có những chủ thể nào có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
9. Phân tích cấu thành vi phạm pháp luật (nếu có).
10. Nêu cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể đã nêu ra trong bài
tập tình huống.
11. Mục đích của việc truy cứu trách nhiệm pháp lý.
12. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý.
13. Nguyên tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý.
Tình huống 1: Ruộng nhà ông Phương, vụ hè năm nay có chuột tràn đồng. Xót
đám ruộng ông làm bẫy điện. Một số ruộng gần đường đi lại đặt thông báo có bẫy
điện. Nghĩ ruộng mình nằm giữa các ruộng khác, không ai đi vào, ông Phương không
đặt biển báo, không mắc đèn làm hiệu ban đêm. Lịch kéo điện của ông từ 19h đến 5h
sáng hôm sau, an toàn được một tuần. Đến ngày 11/06/2018, từ ruộng lúa nhà ông
Phương bố mùi hôi nồng nặc. Dân trong ấp ùa ra, giữa ruộng lúa xanh cao khoảng
40cm, xác một người nằm sấp đã trương phình. Đó là anh Phạm Văn Linh, 23 tuổi,
người cùng ấp.
Tình huống 2: Ông A kết hôn với bà B từ năm 2004 và có hai người con chung.
Tháng 2 năm 2007, ông A chung sống như vợ chồng với cô C có một người con trai
chung (cháu D) tháng 3 năm 2007, ông A xây một ngôi nhà để 2 người chung sống do
ông A đứng tên. Chẳng may một lần ông A uống rượu say, ông A đột quỵ mà chết.
Chuyện tranh chấp tài sản đã xảy ra.
Tình huống 3: A là người yêu cũ của B, vì bị B từ chối nên A ghép hình ảnh của B
với người khác rồi đưa lên mạng internet nhằm bôi nhọa B.
Tình huống 4: A sử dụng mạng internet và viết nhật ký (viết blog). Trong nội
dung blog của A có nhiều bài viết nói xấu B.
Tình huống 5: Ngày 08/10/2018, anh Nguyễn Văn A sau khi uống rượu say trên
đường về nhà đã gây tai nạn giao thông làm chết một người đi bộ sang đường; sau đó
gia đình A đã gặp gỡ gia đình người bị nạn và đã thực hiện việc bồi thường đầu đủ các
chi phí cho họ, gia đình người bị hại cũng có đơn xin không xử lý hình sự đối với anh
N.V.A.
Tình huống 6: Hai anh A và B điều khiển xe môtô hai bánh với tốc độ rất nhanh và
còn lạng lách, đánh võng trên đường trong thành phố, cảnh sát giao thông đã ra lệnh dừng
lại, nhưng họ vẫn phóng xe, đến gần ngã tư có đèn đỏ họ mới chịu dừng lại.
Tình huống 7: Ngày 8/10/2018, chuyến bay mang số hiệu VN 783 của Hãng hàng
không quốc gia Việt Nam từ Hà Nội đi TP Hồ Chí Minh, dự định cất cánh lúc 18h10’,
bị chậm hơn ba giờ do hành khách Nguyễn Văn N sinh năm 1986 cố tình “nói đùa”
với tiếp viên đang làm nhiệm vụ là có lựu đạn trong hành lý xách tay.

152
Tình huống 8: Chiều 24/12/2018, tại khu vực giáp ranh giữa 2 xã Quảng Thuận và
Quảng Thọ, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình, một con trâu của ông Nguyễn Văn A,
bất ngờ nổi điên chạy lồng lộn vào làng húc 9 người bị thương nặng.
Tình huống 9: Ông A là giám đốc Công ty dịch vụ vận tải X, do hàng hóa về
nhiều nên đã điều động anh T lái xe tải không bảo đảm an toàn kỹ thuật, đang chờ đại
tu nhiều tháng nay. Ngay trong lần vận chuyển đầu tiên, do phanh bị mòn anh T đã
không làm chủ được tốc độ và đâm vào một xe ôtô con đỗ phía trước, anh T bị thương
và cả hai xe bị hỏng nặng.
Tình huống 10: Rạng sáng 28/12/2018, Trần Văn V (SN 1986, trụ tại Phúc Tân,
Hoàn Kiếm) đi xe máy không biển kiểm soát chở hai người là Nguyễn Ngọc H (SN 1987,
trú tại phố Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm) và Nguyễn Hoàng N (SN 1987, trú tại phố
Trương Định, quận Hai Bà Trưng). Khi đi đến phố Phạm Ngọc Thạch (Kim Liên, Đống
Đa, Hà Nội), ba đối tượng trên gặp xe ôtô của công an phường Kim Liên đang làm nhiệm
vụ. Các đối tượng chửi bới, thóa mạ lực lượng công an. Thượng úy Đỗ Trần Lâm xuống
xe yêu cầu các đối tượng cho kiểm tra giấy tờ, liền bị V nhảy vào ôm để H và N xông vào
đấm đá. Nhân dân xung quanh vây bắt được V và N, riêng H bỏ trốn, sau đó tới đầu thú
tại cơ quan công an trong ngày. Tại cơ quan công an điều tra – công an quận Đống Đa,
các đối tượng đã khai nhận hành vi sai trái của mình.
Tình huống 11: Theo nguồn tin từ phòng CSGT đường bộ Công an TP.HCM, đêm
01/06/2008 tổ tuần tra CSGT do thượng úy Bùi Minh Phước (đội CSGT số 6, phòng
CSGT đường bộ Công an TP.HCM) và thượng sĩ Nguyễn Trần Bảo Tuấn (chiến sĩ
cảnh sát cơ động) làm nhiệm vụ trên Quốc lộ L13 (đoạn từ cầu ông Dầu đến ngã tư
Bình Phước, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức) thì phát hiện một nhóm thanh
niên đi xe máy không đội mũ bảo hiểm chạy lạng lách, đãnh võng với tốc độ cao. Tổ
tuần tra đuổi theo và ra hiệu dừng xe nhưng nhóm thanh niên này đã rú ga bỏ chạy.
Đến gần Công ty cân Nhơn Hòa, tổ tuần tra đuổi kịp xe máy 54V2 18…do Nguyễn
Văn A (22 tuổi, ngụ Dĩ An, Bình Dương) điều khiển. Tổ tuần tra yêu cầu dừng xe
kiểm tra nhưng A không chấp hành và lôi kéo đồng bọn chống trả, cướp lại xe bị giữ.
Trong lúc ẩu đả, A lẻn vào nhà dân lấy một chai nước ngọt tấn công hai anh Phước,
Tuấn gây thương tích nhẹ rồi bỏ chạy.
Tình huống 12: Tại Đại hội phụ nữ vừa qua của xã, chị A đã được Đại hội tín
nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội phụ nữ xã. Khi biết tin này, anh H chồng chị đã ra
sức ngăn cấm, đánh đập không cho chị tham gia hoạt động xã hội, khiến chị phải vào
bệnh viện điều trị. Mặc dù đã được chính quyền địa phương và các đoàn thể khuyên
nhủ nhiều lần nhưng anh H vẫn cố tình vi phạm.
Tình huống 13: Anh A và anh B cùng lớp. Anh A có cho anh B mượn số tiền là 2
triệu đồng, thời hạn mượn là 3 tháng. Khi hết thời hạn, do anh B không có tiền trả, anh
153
A đã giữ lại chiếc xe máy của anh B trị giá 5 triệu đồng và dọa nếu anh A không thanh
toán nợ ngay thì sẽ bán xe máy để trừ vào nợ.
MỘT SỐ DẠNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP
I. Câu hỏi so sánh hay phân biệt.
1. So sánh trách nhiệm pháp lý hình sự và dân sự.
2. Phân biệt giữa Nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang.
II. Câu hỏi trắc nghiệm
A. Những khẳng định sau đây đúng hay sai. Giải thích tại sao ?
1. Năng lực pháp luật của cá nhân do tự nhiên sinh ra.
2. Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.
3. Từ ngày 01/01/2001 ở Việt Nam nếu nam nữ chung sống không đăng ký kết hôn
thì không được công nhận là vợ chồng.
4. Tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi cá nhân là từ đủ 16 tuổi trở lên.
5. Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền tuyên bố một người là có tội hay vô tội.
6. Người thừa kế theo di chúc thì không có quyền thừa kế theo pháp luật.
7. Người từ đủ 14 tuổi trở lên có quyền ký kết Hợp đồng lao động.
8. Chủ thể của Luật Thương mại chỉ bao gồm các Hợp tác xã.
9. Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền giao đất và thu hồi đất của cá nhân hoặc hộ
gia đình.
10. Nam từ 20 tuổi trở lên, Nữ từ 18 tuổi trở lên được kết hôn.
11. Tuổi phải chịu trách nhiệm hành chính đối với mọi cá nhân là từ đủ 18 trở lên.
12. Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền tuyên bố một người là có tội hay vô tội.
13. Người thừa kế theo di chúc thì vẫn có quyền thừa kế theo pháp luật.
14. Người từ đủ 15 tuổi trở lên có quyền ký kết hợp đồng lao động trong một số
trường hợp pháp luật quy định.
15. Chủ thể của Luật hình sự bao gồm cá nhân hoặc pháp nhân.
16. Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giao đất và thu hồi đất của cá nhân,
hộ gia đình hoặc mọi tổ chức.
B. Hãy ghi rõ "đúng" hay "sai" cho từng ý trong các câu sau đây:
1. Năng lực pháp luật của tất cả cá nhân bắt đầu từ khi:
- Cá nhân được đăng ký khai sinh.
- Cá nhân được sinh ra.
- Cá nhân chưa sinh ra.
2. Năng lực hành vi của tất cả cá nhân bắt đầu từ khi:
- Cá nhân từ đủ 18 tuổi.
- Cá nhân từ đủ 18 tuổi.
- Cá nhân từ 20 tuổi.
154
3. Trách nhiệm dân sự không áp dụng trong các trường hợp sau đây:
- Có hành vi vi phạm hình sự (tội phạm).
- Có hành vi vi phạm hành chính.
- Có hành vi vi phạm quy chế thi.
- Có hành vi gây thiệt hại tài sản cho người khác trái pháp luật.
4 . Một vụ án có thể được xét xử theo các thủ tục:
- Thủ tục sơ thẩm.
- Thủ tục phúc thẩm.
- Thủ tục rút gọn.
5. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong:
- Bộ luật Hình sự.
- Bộ luật Hành chính.
- Bộ luật Dân sự.
6. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự bao gồm:
- Tòa án nhân dân.
- Viện kiểm sát nhân dân.
- Thanh tra nhân dân.
7. Chủ thể của Luật thương mại gồm:
- Các doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh
- Các Ủy ban nhân dân.
- Các tổ chức xã hội.
8. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ của cá nhân bắt đầu từ khi:
- Cá nhân đủ 18 tuổi.
- Cá nhân được sinh ra.
- Cá nhân đủ 16 tuổi.
9. Mọi cá nhân đều có quyền và nghĩa vụ:
- Tham gia lao động công ích
- Tham gia nghĩa vụ quân sự
- Tham gia hoạt động từ thiện hiến máu nhân đạo.
10. Trách nhiệm hành chính không áp dụng trong các trường hợp sau đây:
- Có hành vi vi phạm hình sự (tội phạm).
- Có hành vi vi phạm hành chính.
- Có hành vi ngoại tình với người khác.
- Có hành vi gây thiệt hại cho người khác khi phòng vệ chính đáng.
11. Một vụ án hình sự có thể được giải quyết theo trình tự sau:
- Khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử.

155
- Khởi tố, truy tố, điều tra, xét xử.
- Khởi tố, thi hành án, xét xử.
12. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm:
- Cha mẹ, các con và các cháu nội ngoại.
- Cha mẹ vợ, cha mẹ chồng, các con.
- Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, vợ hoặc chồng, con đẻ hoặc con nuôi.
13. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng dân sự bao gồm:
- Tòa án nhân dân.
- Đoàn luật sư.
- Thanh tra nhân dân.

156

You might also like