You are on page 1of 2

Công ty A nộp đơn đăng ký KDCN ngày 01/02/2008 và được Cục SHTT cấp Bằng độc

quyền KDCN xe gắn máy số 1780. Tháng 5/2009, công ty A ký hợp đồng chuyển quyền
sử dụng KDCN số 1780 cho công ty B. Thời hạn hợp đồng đến ngày 31/12/2010. Tuy
nhiên, sau khi hết thời hạn hợp đồng, công ty B vẫn tiếp tục sản xuất, kinh doanh sản
phẩm trên.
Ngày 1/2/2011, công ty A gửi Công văn yêu cầu công ty B chấm dứt hoạt động mua bán
sản phẩm mang KDCN thuộc sở hữu của công ty A. Công ty B không đồng ý và lập
luận rằng lượng hàng mà công ty này sản xuất có sử dụng KDCN của công ty A không
tiêu thụ hết trong thời gian hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng với công ty A còn hiệu
lực, do đó, hiện nay công ty vẫn phải tiếp tục bán trên thị trường. Công ty B khởi kiện
công ty A tại toà án.
Theo em:
- Xác định thời hạn bảo hộ KDCN 1780
- Hành vi của công ty B có xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp của công ty A
không? Nêu cơ sở pháp lý
- Tại toà án, công ty A yêu cầu công ty B bồi thường 50 triệu đồng là khoản lợi nhuận mà
công ty B đã bán những sản phẩm mang KDCN 1780 sau khi Hợp đồng chuyển giao hết hiệu
lực. Theo em, yêu cầu này có cơ sở chấp nhận không? Vì sao?
Trả lời:
1. **Thời hạn bảo hộ KDCN 1780:**
- Khi công ty A nộp đơn đăng ký KDCN ngày 01/02/2008 và được cấp Bằng độc quyền
KDCN xe gắn máy số 1780, thì thời hạn bảo hộ bắt đầu tính từ ngày cấp bằng. Căn cứ vào
Khoản 4 Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có
hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần
liên tiếp, mỗi lần năm năm”. Như vậy, KDCN 1780 đươc bảo hộ trong khoảng thời gian là từ
ngày 01/02/2008 – 01/02/2013

2. **Xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp của công ty A:**
- Nếu công ty B vẫn sử dụng kiểu dáng công nghiệp (KDCN) số 1780 sau khi hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng hết hiệu lực mà không có sự đồng ý từ công ty A, thì hành vi này
có thể được xem là vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của công ty A.
- Cơ sở pháp lý: Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (Sửa đổi bổ sung), Điều 148 quy định về
việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, bao gồm việc ngăn chặn người khác sử dụng trái
phép kiểu dáng công nghiệp của mình.
- Yêu cầu của công ty A về việc bồi thường 50 triệu đồng là khoản lợi nhuận mà công ty B
đã bán những sản phẩm mang KDCN 1780 sau khi hợp đồng chuyển giao hết hiệu lực không
có cơ sở pháp lý chấp nhận.
- Lý do:

- Trong trường hợp này, việc xác định lợi nhuận chính xác từ việc bán sản phẩm sử dụng KDCN 1780
sau khi hợp đồng hết hiệu lực có thể gặp khó khăn, vì không thể chắc chắn rằng lượng hàng này không
được tiêu thụ trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực.

- Thay vào đó, công ty A có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại thực sự do việc sử dụng trái phép KDCN
của họ gây ra, bao gồm cả mất mát tiềm ẩn và mất lợi nhuận do việc xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp.

Trong tình huống này, công ty A có thể yêu cầu toà án xem xét và yêu cầu công ty B chấm dứt việc sử
dụng KDCN 1780 của họ mà không có sự đồng ý, và đòi hỏi bồi thường thiệt hại thực sự phát sinh từ
hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp.

You might also like