Professional Documents
Culture Documents
3 1
3 1
1
Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26 tháng 1 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội
Bảng 1: Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới phân theo ngành kinh tế chia theo
Ngành và Năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Ngành kinh tế
Nghiên cứu khoa học và phát triển 539 603
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ khác 7010 7764
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 57560 59783
Bảng 2: Số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh tại thời
điểm 31/12 hàng năm phân theo ngành kinh tế chia theo Ngành kinh tế và Năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê về số doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới phân theo ngành kinh tế chia theo Ngành và Năm (Bảng 1), cụ thể là
các doanh nghiệp đăng ký thành lập thuộc ngành chuyên môn, khoa học và công
nghệ từ 2020-2022. Vào năm 2020, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập đạt
được con số cụ thể là 11.527, qua đó có thể thấy được với các quyết định, định
hướng của Chính phủ về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo làn sóng
cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc thành lập và hoạt động trong lĩnh
vực này. Năm 2021 là thời điểm đại dịch Covid – 19 bùng nổ, gây ảnh hưởng tiêu
cực tới nhiều lĩnh vực của đất nước, dẫn tới hoạt số doanh nghiệp về lĩnh vực công
nghệ được thành lập cũng bị giảm mạnh so với năm 2020. Sau khi bình thường hóa
diễn biến của đại dịch Covid – 19 thì số lượng doanh nghiệp thành lập trong lĩnh
vực này trong năm 2022 được tăng lên đáng kể vượt qua số lượng doanh nghiệp
của năm 2020. Mới đây vào ngày 23/2/2023, theo tạp chí Forbes (Mỹ) đã đăng tải
bài viết cho rằng “Vị thế về AI tại Việt Nam đang thăng hoa”. Cùng với điều đó,
dựa vào Bảng 2 theo Tổng cục Thống kê thì có thể thấy được qua mỗi năm đều có
mức tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp hoạt động có kết quả sản xuất kinh
doanh phân theo ngành kinh tế hay cụ thể là các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học &
Công nghệ. Có thế thấy sự sẵn sàng và chủ động của các doanh nghiệp trong việc
năm bắt xu thế của AI qua việc nghiên cứu, phát triển và đã ứng dụng trong các
ngành kinh tế, xã hội, phục vụ chính quyền, nhân dân và doanh nghiệp. Trong
khuôn khổ của Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2023 – AIVN 2023 (22/9/2023)
với chủ đề “Doanh nghiệp Việt trong cơn sốt AI” đã trở thành một sự kiện công
nghệ có sức hút mạnh mã các cơ quan quản lý, tập đoàn công nghệ, doanh nghiệp
về KH&CN… Các chuyên gia đã thảo luận và chia sẻ các thông tin về công nghệ
AI – công nghệ mũi nhọn, công nghệ chủ cốt của Cách mạng Công nghiệp lần thứ
tư, AI hiện đang có mặt và ảnh hưởng mạnh mẽ tới quốc phòng, tài chính, sản xuất,
giáo dục… Có thể thấy AI đã len lỏi vào tất cả lĩnh vực của cuộc sống chứ không
riêng gì lĩnh vực công nghệ, một trong những bước phát triển nổi bật nhất hiện nay
là trợ lý ảo ChatGPT có thể thực hiện nhiều tác vụ, chứng tỏ nhiều năm sau thì AI
sẽ tạo ra sự thay đổi lớn về công nghệ, thông tin và nhân lực. Những doanh nghiệp
đi đầu về lĩnh vực công nghệ số trong cuộc Cách mạng lần thứ tư tại Việt Nam có
thể kể đến như là FPT, VNPT, Viettel, VinGroup đều đã và đang tiếp cận, đầu từ,
nghiên cứu và ứng dụng AI, luôn cố gắng tạo ra những trợ lý AI mang tiêu chí
“Made in Vietnam”.
c. Về thực tế ứng dụng công nghệ AI vào nền kinh tế và xã hội
Việc ứng dụng công nghệ AI làm được nhiều điều trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống hiện nay khiến con người ta kinh ngạc, điều đó khẳng định AI chính là đòn
bẩy để phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt
Nam đã ghi nhận xu thế phát triển tất yếu và tác động chuyển đổi mạnh mẽ đến từ
AI trong đời sống, kinh tế và xã hội. Từ ứng dụng trong những vấn đề nhỏ và cụ
thế như trong lĩnh vực y tế, giáo dục, điều khiển giao thông… chính điều đó sẽ góp
phần tạo nên một thành phẩm lớn. Cụ thể, hệ thống giám sát hành trình được
nghiên cứu và triển khai bở Tổng cục Đường bộ Việt Nam có khả năng theo dõi
lượng lớn xe khách, xe vận tải trên phạm vi toàn quốc, tại TP. Hồ Chí Minh, AI
được dùng để hỗ trợ hệ thống giám sát camera giao thông và điều chỉnh tính hiệu
đèn. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông thì hiện nay AI đang được ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực kinh tế có thể kể đến như là sản xuất, bán lẻ, thương mại điện
tử, công nghệ thực phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng, hậu cần và vận tải, du lịch,
bất động sản, giải trí… Nổi bật nhất có thể nói đến là trong lĩnh vực ngân hàng, với
việc ứng dụng AI vào việc đổi mới mô hình kinh doanh, nâng cao dịch vụ, trải
nghiệm khách hàng hay sử dụng định danh điện tử để xác thực mang tính chính
xác, tiện lợi và bảo mật hơn. Về lĩnh vực y tế trong giai đoạn Covid – 19 bùng nổ
vừa qua thì trợ lý AI đã thực hiện nhiều cuộc gọi, hỗ trợ kiểm soát, sàng lọc và tìm
ra các ca nhiễm. Ngoài ra công tác đẩy mạnh việc ứng dụng AI trong lĩnh vực hành
chính công cũng đóng vai trò quan trọng. Việc này mang lợi ích lớn trong các vấn
đề của xã hội, hỗ trợ cơ quan nhà nước giải quyết công việc hiệu quả và nhân dân
thuận lợi hơn khi làm thủ tục hành chính. Thời gian qua nhiều cơ quan hành chính
ứng hiệu quả AI điển hình như là dịch vụ định danh điện tử, quản lý trật tự xây
dựng, hệ thống camera, hệ thống Chatbox/Voicebox hỗ trợ người dân…
3.1.2 Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
a. Về hạ tầng công nghệ cho sự phát triển AI
Trí tuệ nhân tạo trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại nhiều cơ
hội, tiềm năng nếu có thể chủ động nắm bắt thì sẽ mang lại nhiều lợi ích và thành
tựu cho đất nước. Bên cạnh những thành quả đạt được thì vấn đề giải quyết bài
toán ứng dụng công nghệ AI một cách hiệu quả luôn là điều khó khăn không chỉ ở
Việt Nam mà còn tồn tại ở nhiều nước khác trên thế giới. Trong đó vấn đề liên
quan đến hạ tầng công nghệ tại Việt Nam còn gặp nhiều bất cập gây cản trở cho
việc nghiên, phát triển và nghiên cứu AI. Cụ thể về thực trạng tồn tại như là hạ
tầng về công nghệ thông tin, viễn thông có tốc độ còn quá chậm chưa đáp ứng tốt
được trước những yêu cầu phát triển Internet vạn vật, phương tiện và sản xuất tự
động, thành phố thông minh…; khoảng cách phát triển giữa khu vực trung tâm so
với khu vực nông thôn, đồi núi còn quá cách biệt. Cùng với hạ tầng vật lý vẫn chưa
đáp ứng được các yêu cầu của các phương thức quản lý thông minh, điều khiển từ
xa… Với quy mô quốc gia thì hệ thống hạ tầng, cơ sở dữ liệu tạo nền tảng cho
chuyển đổi số vẫn còn thiếu sót, phân tán dẫn tới không được đạt được chuẩn hóa
đồng bộ; việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia vẫn còn
chậm chạp, khiến việc kết nối, chia sẻ các cơ quan dữ liệu của cả khu vực công và
tư gặp nhiều hạn chế. Nguyên do xuất phát nên những hạn chế đó là do các chính
sách, chiến lược về tài chính, đầu tư, quy hoạch mặt bằng, đối tác công tư vẫn chưa
được đồng bộ, triệt để và dứt khoát. Công nghiệp hỗ trợ và năng lực nghiên cứu,
phát triển và chế tạo công nghệ trong nước vẫn còn kém phát triển, vẫn còn nhận
nhiều đầu tư từ nước ngoài. Việc triển khai thực hiện các dự án vẫn còn bị chậm
tiến độ, thường xuyên điều chỉnh và kéo dài do năng lực quản lý, điều hành, thiếu
nhân lực, vấn đề về vốn hay giải phóng mặt bằng… Việc vẫn còn coi nhẹ, chưa chú
trọng vào công tác phát triển hạ tầng công nghệ làm bệ phóng cho công nghệ AI là
một trong những hạn chế lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết nhanh chóng trong
thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ.
b. Về nguồn nhân lực phát triển công nghệ AI
Bảng 3: Số lao động có việc làm và cơ cấu lao động có việc làm trong nền kinh tế
phân theo ngành kinh tế chia theo Ngành, Phân tổ và Năm
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Vấn đề hạn chế về nguồn nhân lực trong lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo về Việt Nam
đang gặp phải là về số lượng và chất lượng. Sự xuất hiện của AI trong Cuộc cách
mạng 4.0 mang lại nhiều tiềm năng và cơ hội cho Việt Nam tuy nhiên cũng mở ra
nhiều thách thức, hạn chế đó là về nguồn nhân lực cho AI hiện nay chỉ mới đáp
ứng được 1/10 nhu cầu thị trường. Hiện nay các nước trên thế giới khi xây dựng
chiến lược quốc gia cho AI thì luôn chú trọng yếu tố nguồn nhân lực, thông qua
việc đào tạo nguồn lực, đặc biệt đội ngũ nhân lực tinh hoa, xuất sắc về AI. Những
tồn tại và bất cập trong nguồn nhân lực về AI của Việt Nam bao gồm số lượng đào
tạo ít, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực, canh tranh với doanh
nghiệp nước ngoài, nhân sự làm trong lĩnh vực này chưa đúng chuyên môn…
Nhân lực trong lĩnh vực có gia tăng nhỏ về số lượng và chất lượng tuy nhiên vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nền KT&XH của đất nước; việc nhận thức
vai trò và tầm quan trọng của AI cũng như trách nhiệm của bản thân đối với sự
phát triển của đất nước vẫn chưa cao; môi trường thể chế và cơ chế chính sách về
phát triển nhân của lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo trong Cuộc các mạng 4.0 vẫn chưa
hoàn chỉnh, chưa có chính sách đột phá để nhân lực trong AI nói riêng hay
KH&CN nói chung trở thành mục tiêu cốt yếu của sự phát triển đất nước.
Theo Bảng 3 được thống kê bởi Tổng cục Thống kê, khi so sánh số lao động và cơ
cấu lao động có việc làm qua các năm của một ngành bất kì với ngành hoạt động
chuyên môn, khoa học và công nghệ thì luôn thấy sự chênh lệch rất lớn. Nguyên
do có thể là lượng cán bộ khoa học đi đầu về lĩnh vực AI lần lượt giảm đi bởi đến
tuổi nghỉ chế độ, đồng thời khả năng thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có
trình độ tại các doanh nghiệp, tổ chức vẫn còn thấp; kinh phí hỗ trợ, chương trình
đào tạo vẫn còn hạn chế dẫn tới gây bất cập cho cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ
cao.
2020 2021
Viễn thông 21.743,31 21.128,51
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 25.036,95 25.587,11
Hoạt động dịch vụ tài chính (trừ bảo hiểm và bảo hiểm xã hội) 25.341,97 25.149,49
Bảo hiểm, tái bảo hiểm và bảo hiểm xã hội (trừ bảo đảm xã hội bắt buộc) 32.442,08 35.154,55
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 11.086,40 12.173,59
Nghiên cứu khoa học và phát triển 8.894,63 11.200,53
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ khác 9.479,14 9.569,39
Bảng 5: Thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong doanh nghiệp
đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh phân theo ngành kinh tế chia theo
Ngành kinh tế và Năm (đơn vị: nghìn đồng)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Dựa vào bảng 5 có thể nhận thấy 3 lĩnh vực Hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ, Nghiên cứu khoa học và phát triển, Hoạt động chuyên môn, khoa học
và công nghệ khác có mức thu nhập bình quân một tháng khá là chững lại so với
các lĩnh vực khác mặc dù có tăng lên qua từng năm. Vấn đề này cho thấy rằng chế
độ đãi ngộ qua tiền lương vẫn còn hạn chế, còn nhiều bất hợp lý, chưa thực sự dựa
trên kết quả công việc, do đó cán bộ trong lĩnh KH&CN nói chung hay lĩnh vực AI
nói riêng thiếu đi tâm huyết với công việc nghiên cứu. Nhiều người phải làm thêm
nhiều việc trái với lĩnh vực chuyên môn để tăng thêm thu nhập. Đây cũng là
nguyên do dẫn đến các cán bộ dễ dàng chấp thuận các lời mời từ các doanh nghiệp,
tập đoàn nước ngoài. Vì vậy đội ngũ cán bộ chuyên môn cao dần mai một và lực
lượng trẻ kế cận thì lại thiếu hụt trầm trọng.
c. Về đầu tư cho phát triển công nghệ AI
Bên cạnh những kết quả đạt được trong những năm qua thì hoạt động về KH&CN
vẫn còn những tồn tại như là còn phân tán, chưa tập trung vào các hướng ưu tiên
phát triển công nghệ AI. Việc hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động hợp tác nghiên cứu
còn nhiều hạn chế thiếu nguồn vốn đối ứng cho hoạt động nghiên cứu chung. Việc
chủ động tranh thủ các nguồn ODA, vốn vay, hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc
tế, các đối tác mạnh, cũng như việc huy động, thu hút các nguồn lực khác cho lĩnh
vực AI hay KH&CN vẫn chưa cao, thiếu sự hợp tác nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ với các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn