You are on page 1of 11

Kinh tế số và đo lường kinh tế số tại

các nước và Việt Nam


Mặc dù khái niệm kinh tế số đã phát triển, nhưng các nghiên cứu định lượng
đo lường ngành kinh tế số, các ngành kinh tế số hóa, hay đóng góp của các
ngành kinh tế số và ngành kinh tế số hóa trong GDP của quốc gia vẫn chưa
theo kịp.

TS. Đặng Thị Việt Đức, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
21:33 PM 06/04/2021
In bài viết này

Chia sẻ bài viết này

 Facebook
 Twitter
 Email

Khái niệm kinh tế số và sự phát triển của khái niệm kinh tế số

Kể từ lần đầu tiên được đặt ra vào giữa những năm 1990, khái niệm kinh tế
số đã phát triển, phản ánh bản chất thay đổi nhanh chóng của công nghệ và
việc sử dụng nó của các doanh nghiệp và người tiêu dùng (Barefoot và cs.,
2018).

Vào cuối những năm 1990, các phân tích chủ yếu quan tâm đến với việc áp
dụng Internet và tác động kinh tế của nó (Brynjolfsson và Kahin, 2002;
Tapscott, 1996). Khi việc sử dụng Internet được mở rộng, các báo cáo từ giữa
những năm 2000 trở đi tập trung ngày càng nhiều về các điều kiện mà nền
kinh tế Internet có thể xuất hiện và phát triển.

Trong vài năm trở lại đây, cuộc thảo luận lại đã thay đổi, tập trung nhiều hơn
vào cách thức công nghệ số, dịch vụ, sản phẩm, kỹ thuật và kỹ năng đang lan
tỏa trong các nền kinh tế. Quá trình này thường được gọi là số hóa, được định
nghĩa là quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp thông qua việc sử dụng
công nghệ, sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số (Brennen và Kreiss, 2014). Phản
ánh sự thay đổi này, các nghiên cứu gần đây đã tập trung về "số hóa" và
"chuyển đổi số" (tức là cách thức mà các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số
đang phá vỡ các lĩnh vực truyền thống) để khám phá các xu hướng số hóa đa
ngành khác nhau (OECD, 2016a và 2017a; UNCTAD, 2017a). Điều này đặc
biệt phù hợp với các nước đang phát triển nơi kỹ thuật số đã bắt đầu ảnh
hưởng đến các lĩnh vực truyền thống, chẳng hạn như nông nghiệp, du lịch và
giao thông vận tải.

Theo UNCTAD (2019), các công nghệ khác nhau và các khía cạnh kinh tế
của nền kinh tế số có thể được chia thành ba thành phần lớn: (1) Các khía
cạnh cốt lõi hoặc các khía cạnh cơ bản của nền kinh tế số, bao gồm những đổi
mới cơ bản (chất bán dẫn, bộ xử lý), công nghệ cốt lõi (máy tính, thiết bị viễn
thông) và cơ sở hạ tầng cho phép (Mạng Internet và mạng viễn thông), (2)
Khu vực sản xuất các sản phẩm chính hoặc các dịch vụ dựa trên công nghệ
kỹ thuật số cốt lõi, bao gồm nền tảng kỹ thuật số, ứng dụng di động và dịch
vụ thanh toán và (3) Một tập hợp rộng hơn các lĩnh vực số hóa, bao gồm
những ngành kinh tế truyền thống mà trong đó các sản phẩm và dịch vụ kỹ
thuật số ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Điều này bao gồm chuyển đổi số
các lĩnh vực trong đó các hoạt động mới hoặc các mô hình kinh doanh đã
xuất hiện và đang được chuyển đổi do kết quả của sự xâm nhập của công
nghệ số. Ví dụ điển hình bao gồm nông nghiệp, tài chính, truyền thông, du
lịch và vận tải.

Đo lường kinh tế số

Mặc dù khái niệm kinh tế số đã phát triển, nhưng các nghiên cứu định lượng
đo lường ngành kinh tế số, các ngành kinh tế số hóa, hay đóng góp của các
ngành kinh tế số và ngành kinh tế số hóa trong GDP của quốc gia vẫn chưa
theo kịp.

Lý tưởng nhất là phép đo giá trị trong nền kinh tế số nên bao gồm cả ba cấp
độ như khái niệm (UNCTAD 2019): ngành kỹ thuật số (digital sector), nền
kinh tế số (digital economy) và nền kinh tế số hóa (digitalized economy). Tuy
nhiên, thống kê so sánh, dữ liệu chỉ có sẵn chủ yếu cho ngành kỹ thuật số cốt
lõi, và ngay cả trong trường hợp này cũng có những khoảng trống đáng kể,
đặc biệt liên quan đến các nước đang phát triển. Thiếu dữ liệu thống kê và
các khó khăn đo lường khác tăng lên khi phân tích chuyển từ cốt lõi sang
phạm vi rộng của nền kinh tế số. Cho dù vậy, các nghiên cứu cũng cố gắng
đo lường kinh tế số trong điều kiện cho phép.

Đo lường một vài khía cạnh của nền kinh tế số


Nhiều tổ chức quốc tế và các nhóm nghiên cứu đã tham gia vào công việc
thống kê liên quan đến các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế số.

Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU) đo lường các vấn đề liên quan tới viễn
thông và ICT như cơ sở hạ tầng ICT, tiếp cận và sử dụng ICT của các hộ gia
đình và cá nhân, cũng như một số chỉ số liên quan đến thương mại điện tử và
kỹ năng ICT.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đưa ra phương pháp về thống kê lao động,
giải quyết các khía cạnh việc làm của kinh tế số. Điều này bao gồm việc làm
trong ngành công nghệ số hoặc trong các ngành nghề liên quan đến công
nghệ số, và các lĩnh vực như việc làm phi chính thức và các khía cạnh liên
quan đến công việc của các nền tảng kỹ thuật số.

UNCTAD cung cấp hướng dẫn phương pháp luận và hỗ trợ kỹ thuật cho các
quốc gia thành viên trong các lĩnh vực như sử dụng ICT của doanh nghiệp,
lĩnh vực ICT và thương mại hàng hóa và dịch vụ ICT. Tổ chức này cũng thực
hiện thu thập dữ liệu có liên quan và đặc biệt dữ liệu từ các nền kinh tế đang
chuyển đổi.

Lực lượng đặc nhiệm liên cơ quan về thương mại quốc tế Thống kê (The
Inter-agency Task Force on International Trade Statistics - TFITS) trong các
hoạt động thúc đẩy quốc tế hợp tác về thống kê thương mại đã nghiên cứu
một số chủ đề liên quan đến kinh tế số, bao gồm thương mại hàng hóa và
dịch vụ ICT, và hơn thế nữa gần đây là thương mại kỹ thuật số (digital trade).

OECD đã phát triển các hướng dẫn để đo lường xã hội thông tin. Vào năm
2014, OECD đã đánh giá các nước thành viên với cùng một số khía cạnh liên
quan, xác định khoảng cách và phát triển kế hoạch xây dựng phép đo kinh tế
số.
Phối hợp chặt chẽ với OECD và các các tổ chức quốc tế, G20 đã xuất bản Bộ
công cụ để Đo lường nền Kinh tế số, phác thảo chương trình đo lường cho
nền kinh tế số và phân tích tình hình các nước G20 với tài liệu tham khảo
gồm 35 chỉ số. Nó cũng làm nổi bật khoảng trống thống kê và đề xuất các
hành động để cải thiện (G20, 2018).

Ngoài ra, một sáng kiến khu vực cũng tập trung vào chủ đề này. Ví dụ, Liên
minh châu Âu (EU) có một bảng điểm kỹ thuật số đo lường hiệu quả hoạt
động của EU và các quốc gia thành viên trong nhiều lĩnh vực, từ kết nối và
kỹ năng kỹ thuật số để số hóa doanh nghiệp và dịch vụ công cộng. EU cũng
đưa ra Chỉ số kinh tế số và Xã hội.

Đo lường toàn diện nền kinh tế số

Việc đo lường một cách toàn diện nền kinh tế số khó khăn hơn nhiều so với
việc xem xét từng khía cạnh riêng lẻ như đã đề cập ở trên.

Các thước đo của nền kinh tế số phụ thuộc rất nhiều vào định nghĩa được sử
dụng. IMF (2019) lưu ý rằng, sử dụng định nghĩa hẹp của OECD (chỉ đề cập
đến ngành ICT), nền kinh tế số ở Trung Quốc chiếm 6% GDP vào năm 2017.
Sử dụng một định nghĩa rộng hơn, bao gồm cả ngành ICT và các bộ phận của
các ngành đã áp dụng công nghệ số, kinh tế số có thể đóng góp tới 30% GDP
(xem Miura, 2018).

BEA (2019) nghiên cứu và chỉ ra nền kinh tế số chiếm 6,9% GDP của Mỹ
vào năm 2017, tăng từ 5,9% năm 1997.

Giá trị gia tăng thực của nền kinh tế số tăng trưởng với tốc độ trung bình
hàng năm là 9,9%, so với mức trưởng 2,3% cho tổng thể nền kinh tế.
Năm 2016, Cục Văn hóa, Truyền thông và Thể thao của Anh đánh giá ngành
kỹ thuật số chiếm 7,3% nền kinh tế Anh năm 2014. Con số này năm 2009 là
6,9% (Department for Culture, Media and Sport, 2016).

Cục Thống kê Úc ước tính rằng tỷ trọng giá trị gia tăng của hoạt động kỹ
thuật số trong tổng giá trị gia tăng của nền kinh tế tăng từ 5,4% trong năm
2011–2012 lên 5,7% trong 2016–2017 (ABS, 2019).

Trong bối cảnh đo lường nền kinh tế số, một nghiên cứu của Huawei và
Oxford Economics (2017) vượt ra ngoài các thước đo thông thường để nắm
bắt hiệu ứng lan tỏa tích cực từ đầu tư kỹ thuật số của các công ty, sẽ nhân
lên tác động đến nền kinh tế tổng thể. Mô hình đánh giá cả những tác động
trực tiếp, chủ yếu dưới dạng tăng năng suất và các tác động gián tiếp liên
quan để lan tỏa.

Nghiên cứu ước tính rằng nền kinh tế số toàn cầu trị giá 11,5 nghìn tỷ đô la
vào năm 2016, tương đương 15,5% GDP toàn cầu - 18,4% GDP ở các nền
kinh tế phát triển và 10% ở các nền kinh tế đang phát triển. Nghiên cứu tìm
thấy rằng nền kinh tế số đã tăng trưởng với tốc độ gấp 2,5 lần so với GDP
toàn cầu trong 15 năm qua và tăng gần gấp đôi về quy mô kể từ năm 2000.

Các ước tính ít ỏi và phân tán này về quy mô của nền kinh tế số ở một số
quốc gia cho thấy khó khăn của việc đo lường tổng thể nền kinh tế số về cả
phương pháp và số liệu.

Kinh tế số và đo lường kinh tế số tại Việt Nam

Tại Việt Nam, công nghệ thông tin được chính thức xem như một điểm chốt
cho phát triển kinh tế xã hội từ năm 1993 thông qua Nghị quyết số 49/CP của
Chính phủ. Cho đến nay, Việt Nam liên tục khẳng định ICT là bước phát
triển tất yếu đối với Việt Nam với đặc trưng của nền kinh tế đang phát triển,
cấu trúc kinh tế phân tán (Duy Phương 2016, T.C. 2016). Gần đây, chính phủ
Việt Nam có những bước tiến mới, hướng theo sự chuyển mình của kinh tế số
thế giới cũng như tái khẳng định chiến lược phát triển kinh tế dựa vào kinh tế
số. Tháng 6/2020, chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt
chương trình chuyển đổi số quốc gia, đưa ra một khung khổ cho sự phát triển
kinh tế số tại Việt Nam.

Nhằm đánh giá mức độ chuyển đổi số, tháng 10/2020 Bộ Thông tin và
Truyền thông ban hành Quyết định 1726/QĐ-BTTTT về việc phê duyệt Đề
án Xác định Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các Bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và của
Quốc gia.

Ở góc độ vĩ mô, có một vài nghiên cứu định lượng về tác động của ICT tới
tăng trưởng kinh tế Việt Nam rất hiếm. Dang Thi Viet Duc và Dang Huyen
Linh (2018) tính toán sự đóng góp của ICT tới các ngành kinh tế và tới tổng
giá trị gia tăng của nền kinh tế sử dụng kỹ thuật bảng IO. Nghiên cứu chỉ ra
sản xuất ngành ICT chiếm 5,3% tổng sản lượng các ngành kinh tế Việt Nam.
Dang Thi Viet Duc và cộng sự (2019) nghiên cứu đánh giá tác động của ICT
tới tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2000-2018. Sử dụng mô hình hạch toán tăng
trưởng, nghiên cứu đã chỉ rõ đóng góp trực tiếp của tăng trưởng các yếu tố
sản xuất ngành ICT tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Kết quả cho thấy các
yếu tố vốn và lao động ICT đóng góp trung bình giai đoạn 2000-2018 trong
100% tăng trưởng GDP chỉ đạt 2,28%. Trong đó, vốn ICT đóng góp phần lớn
hơn và lao động ICT đóng góp phần ít hơn. Mức đóng góp này cao hơn tỷ
trọng đầu tư ngành ICT trên tổng đầu tư, nhưng thấp hơn tỷ trọng GDP ngành
ICT trong tổng GDP Việt Nam.

Tuy vậy, cùng nghiên cứu này cũng chỉ ra khi xem xét tác động kích thích
nền kinh tế của ngành ICT Việt Nam thông qua ảnh hưởng số
nhân (tác động gián tiếp), kết quả cho thấy, mức độ tác động nhân sản lượng
của các ngành ICT đều khá tốt và tốt hơn mức trung bình của nền kinh tế. Ch
ẳng hạn 1 đơn vị sản lượng ngành dịch
vụ ICT có thể kích thích 3,6 đơn vị sản lượng của nền kinh tế. Do vậy việc
đo lường kinh tế số chắc chắn không nên dừng lại tại việc đo lường quy mô
của ngành lõi ICT mà cần tính toán tới ảnh hưởng ứng dụng ICT và chuyển
đổi số trong các ngành kinh tế khác hay chính là nền kinh tế chuyển đổi số
(digitalized economy).

Kết luận

Cùng với sự phát triển của công nghệ số và ứng dụng công nghệ số, các nghiê
n cứu gần đây đều đồng thuận ở việc cần phải xem xét nền kinh tế chuyển đổi
số (digitalized economy) thay vì chỉ xem xét kinh tế số (digital economy) hay
phần lõi ngành ICT (digital sector) như trước đây. Tuy vậy, ởkhía cạnh thống
kê và định lượng, các nghiên cứu vẫn chưa theo kịp sự phát triển thực tế ấy tr
ong các nền kinh tế và việc đo lường định lượng ảnh hưởng của chuyển đổi s
ố trong các ngành kinh tế truyền thống vẫn còn sơ khai.

Việt Nam, với vị thế là một nền kinh tế đang phát triển sẽ gặp các khó khăn
nhiều hơn trong việc định nghĩa và đo lường kinh tế số. Tuy vậy, đây là việc
cần làm vì nó sẽ giúp chúng ta nhìn nhận được các tác động của ứng dụng
ICT và chuyển đổi số trong các ngành kinh tế truyền thống, từ đó có sự vững
tin cũng như hướng giải pháp tiếp theo cho chiến lược số hóa nền kinh tế
quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
[1]. ABS (2019). Measuring digital activities in the Australian Economy.
Paper prepared for the Economic Commission for Europe Conference of
European Statisticians, Eighteenth session, Geneva, 10-12 April 2019.
Available at: https://www.unece.org/fileadmin/DAM/stats/
documents/ece/ces/ge.20/2019/mtg1/ Australia_2.pdf.
[2]. Barefoot K, Curtis D, Jolliff W, Nicholson JR, and Omohundro R (2018).
Defining and measuring the digital economy. Working paper. Bureau of
Economic Analysis, United States Department of Commerce, Washington,
DC. Available at: https://www.bea.gov/system/ files/papers/WP2018-4.pdf.
[3]. Brynjolfsson E and Kahin, B, eds. (2002). Understanding the Digital
Economy. Massachusetts Institute of Technology, Cambridge, MA.
[4]. Brennen S and Kreiss D (2014). Digitalization and digitization. Culture
Digitally, 8.
Available at: http://culturedigitally. org/2014/09/digitalization-and-
digitization/.
[5]. BEA (2019). Measuring the digital economy: An update incorporating
data from the 2018
comprehensive update of the industry economic accounts. Bureau of
Economic Analysis, Washington, DC.
[6]. Dang Thi Viet Duc, Dang Huyen Linh (2018). Contribution of ICT to the
Vietnamese Economy: An Input-Output Analysis, VNU Journal of Science:
Economics and Business, Vol.
34, No. 5E (2018), 1-17.
[7]. Đặng Thị Việt Đức và cs. (2019), Nghiên cứu đánh giá tác động của
ngành ICT tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2010-2018 và dự
báo tới 2025. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Thông tin và Truyền thông.
[8]. Department for Culture, Media and Sport (2016). Digital Sector
Economic Estimate:
Statistical Release, (Department for Culture, Media and Sport London, UK).
[9]. Duy Phương, 2016, Nền kinh tế số là bước phát triển tất yếu, VOV, tải từ
http://vov.vn/
cong-nghe/nen-kinh-te-so-la-buoc-phat-trien-tat-yeu-579710.vov
[10]. G20 (2018). Toolkit for Measuring the Digital Economy, Agentina.
[11]. Huawei and Oxford Economics (2017). Digital spillover: Measuring the
true impact of the digital economy. Available at:
https://www.huawei.com/minisite/gci/en/digital-spillover/
index.html.
[12]. IMF (2019). China's digital economy: Opportunities and risks. Working
Paper No. 19/16.Washington, DC.
[13]. Miura Y (2018). China's digital economy: Assessing its scale,
development stage,
competitiveness, and risk factors. Pacific Business and Industries, XVIII (70).
[14]14from the Meeting on The Digital Economy: Innovation, Growth and
Social Prosperity,
Cancun, 21–23 June 2016. Available at:
https://www.oecd.org/internet/Digital-Economy-
Ministerial-Declaration-2016.pdf.
[15]. OECD (2017). OECD Digital Economy Outlook 2017. OECD
Publishing, Paris.
[16]. Quyết định số 1726/QĐ-BTTTT ngày 12/10/2020 của Bộ Thông tin và
Truyền thông Phê duyệt Đề án "Xác định Bộ chỉ số đánh giá chuyển đổi số
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương và của quốc gia"
[17]. Tapscott D (1996). The Digital Economy: Promise and Peril in the Age
of Networked
Intelligence. McGraw-Hill, New York, NY.
[18]. T.C., 2016, Việt Nam không thể lỡ hẹn với kinh tế số", VietnamNet, tải
ngày 10/3 từ http://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-truyen-thong/viet-nam-khong-
the-lo-hen-voi-kinh-teso307061.html
[19]. UNCTAD (2017). Information Economy Report 2017: Digitalization,
Trade and Development. (United Nations publication, Sales No. Sales No.
E.17.II.D.8, New York and Geneva).
[20]. UNCTAD (2019). Digital Economy Report 2019: Value Creation and
Capture: Implications for Developing Countries. (United Nations publication,
Sales No. Sales No. E.19.II.D.17, New York and Geneva).

(Bài đăng ấn phẩm in Tạp chí TT&TT Số 3 tháng 3/2021)

You might also like