Professional Documents
Culture Documents
Giống như giai đoạn tuổi thiếu niên, giai đoạn tuổi thanh niên cũng xuất hiện như
một giai đoạn độc lập khi những đòi hỏi của xã hội về trình độ cũng như tay nghề
đối với người lao động ngày càng cao và phức tạp hơn. Đây là giai đoạn cuối cùng
của tự xác định bản thân và là giai đoạn dầu của sự phát triển nghề nghiệp. Các
chàng trai cô gái chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc sống thực sự trưởng thành. Chúng ta
sẽ cùng tìm hiểu khái quát về sự phát triển tâm lý giai đoạn lứa tuổi này.
1. Sự phát triển thể chất.
Sự phát triển về thể chất của con người đã đạt đến mức hoàn thiện ở tuổi thanh
niên. Não bộ hoat động nhanh, nhạy và đặc biệt chính xác so với các lứa tuổi khác.
Các yếu tố thể lực như: sức nhanh, sức bền, độ dẻo dai, linh hoạt đều phát triển
đỉnh cao, tạo điều kiện thuận lợi cho những thành công rực rỡ của thanh niên trong
các lĩnh vực hoạt động.
Theo một số nghiên cứu thì sức mạnh của tay, chân, cơ bắp con người có sức mạnh
và dẻo dai nhất vào khoảng 20 – 23 tuổi. Vì thế, không đáng ngạc nhiên khi các
vận động viên thể thao đạt thành tích đỉnh cao nhất của mình ở giai đoạn tuổi thanh
niên.
Tuy nhiên, thể chất của các thanh niên cũng rất khác nhau. Bên cạnh những người
khỏe mạnh cũng có những người hay ốm đau, bệnh tật. Sức khỏe kém bắt nguồn từ
thiếu hụt dinh dưỡng, lối sống không lành mạnh, ít tập luyện, làm việc quá sức,
hoặc những căn bệnh mãn tính xuất hiện thời kỳ trước.
Sự phát triển thể chất ở hai giới cũng rất khác nhau.
a. Nhìn chung nam khỏe hơn nữ. Chân tay nữ ngắn hơn nam, tổ chức cơ
bắp của nữ kém hơn nam, xương và khớp chi nhỏ hơn nam, phổi của
nam lớn gấp rưỡi nữ, nam trung bình có 4,5l máu, nữ có 3,6l máu,
40% trọng lượng cơ thể nam do cơ bắp tạo nên, còn ở nữ là 35%.
b. Những đặc điểm hình thể hấp dẫn của nam và nữ cũng khác nhau.
Theo truyền thống, nam có vai rộng, hông hẹp, cơ tay và chân khỏe
mạnh sẽ hấp dẫn phái nữ hơn, nữ có ngực và hông đầy đặn, eo thon
thì hấp dẫn và khéo nuôi con. Tuy nhiên, ở xã hội hiện đại, những
chàng trai không quá cơ bắp, cơ mặt thanh tú, thông minh, lãng mạn
được nhiều cô gái hâm mộ, còn các cô gái gầy thon, chân dài được coi
là xinh đẹp và hấp dẫn hơn.
=> Có thể nói vẻ đẹp cơ thể, sức nhanh, sức bền, độ dẻo dai, linh hoạt của
thanh niên luôn hấp dẫn ở mọi thời đại.
Tuổi thanh niên, đó là thời gian lựa chọn đường đi cho cuộc đời ⟶ Xuất hiện
những kế hoạch và mong ước thực hiện những kế hoạch đặt ra.
Từ nửa năm học cuối cùng của thời phổ thông, nhiều bạn trẻ đã trở nên căng thẳng
trước nhiệm vụ quan trọng là làm gì sau khi tốt nghiệp phổ thông: đi làm, học
nghề, hay tiếp tục học ở bậc cao hơn. Đa phần thanh niên chọn con đường học tiếp
tục ở bậc cao hơn.
Bên cạnh đó, một số cảm thấy cần đi làm ngay chẳng thể xin tiền bố mẹ mãi. Hay
một số khác cho rằng, bằng cấp cũng chẳng mang lại gì, tốt nhất là đi học một nghề
gì đó.
Những người chọn thi vào các trường cao đẳng, đại học cho rằng chương trình đại
học cung cấp cho họ những tri thức và kĩ năng cần thiết cho cuộc sống của người
trưởng thành, mở cánh cửa cho họ bước vào tấng lớp tri thức của xã hội ⟶ Điều
này đồng nghĩa với việc học sẽ có công việc yêu thích và đảm bảo. Tuy nhiên tiếp
tục học có nghĩa là tiếp tục sống phụ thuộc vào cha mẹ, ít kinh nghiệm thực tiễn
⟶ Điều mà nhiều thanh niên không mong muốn.
Nếu cha mẹ không ủng hộ việc học và không có điều kiện sẽ chọn con đường đi
làm bởi đi làm sẽ mang lại thu nhập ngay ⟶ Người thanh niên sẽ cảm thấy tự chủ
và thực sự trưởng thành. Ngoài ra còn mang lại kinh nghiệm mà những kỹ năng
thực tiễn khác. Và mặt trái của việc đi làm luôn là không có cơ hội nghề nghiệp để
lựa chọn, không có cơ hội phát triển bản thân và thu nhập thấp.
Nếu thanh niên nhận thức rõ và yêu thích một nghề nào đó thì việc học nghề cũng
rất phù hợp trong bối cảnh “thừa thầy, thiếu thợ” như ở Việt Nam hiện nay.
Đối với những nam thanh niên không là sinh viên các trường đại học sẽ được huy
động khi cần thiết để tham gia quân đội hay thực hiện nghĩa vụ quân sự khoảng 2
năm.
⇒ Dù là lựa chọn con đường nào thì sự rèn luyện nhân cách, việc xác định mục
tiêu phấn đấu rõ ràng, sự nỗ lực vươn lên, tính ham học hỏi đều rất cần thiết cho sự
thành công của mỗi người thanh niên.
3. Chọn nghề, tìm việc và học việc
Chọn nghề
Là một trong những vấn đề thực tiễn đầu tiên thanh niên cần giải quyết. Trên thực
tế nước ta hiện nay thanh niên hầu như chưa nhận thức đầy đủ về những lĩnh vực,
ngành nghề mình lựa chọn. Phần lớn chọn ngành nghề theo ý kiến gia đình hoặc
theo trào lưu xã hội. Thanh niên ít được làm quen thực sự với các ngành nghề trong
xã hội vì thế các em khá mù mờ về con đường nghề nghiệp.
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, vào đầu tuổi thanh niên (18 tuổi), phần đông
các em chưa hiểu biết đầy đủ về yêu cầu của nghề đối với người lao động, chưa
hiểu rõ về tố chất, năng lực của bản thân và đặc điểm thị trường hiện nay. Khi chọn
nghề đa số thanh niên chưa chủ động trong việc chọn nghề, chưa tích cực tìm hiểu
các điều kiện và nội dung công việc.
Tìm việc và học việc
Những thanh niên quyết định đi làm sau khi tốt nghiệp phổ thông gặp không ít khó
khăn trong quá trình tìm việc.
Hiện nay, người ta thường yêu cầu ứng viên phải có tay nghề, kinh nghiệm, sự kiên
trì, khả năng giao tiếp và kỹ năng xã hội tốt ⟶ Đây lại là những điểm yếu của
thanh niên mới tốt nghiệp. Thực tế cho thấy những thanh niên thiếu các kỹ năng xã
hội thường gặp khá nhiều rủi ro trong quá trình tìm việc (dễ dàng đồng ý với những
điều kiện lao động bấp bênh chỉ vì mãi không xin được việc hay phải rời gia đình
đến nơi xa để tìm việc).
Nhìn chung thanh niên có khả năng tiếp thu, lĩnh hội tri thức và kỹ năng nghề
nghiệp phức tạp nhất. Quan trọng là yêu thích nghề lựa chọn, ham học hỏi và rèn
luyện đạo đức nghề nghiệp. Vấn đề rèn luyện cái tâm cái đức trong bất kỳ công
việc gì bao giờ cũng là vấn đề quan trọng nhất đối với thanh niên. Bất cứ nghề nào
việc giữ chữ tín là điều quan trọng sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của
người làm nghề đó.
Như vậy, trong giai đoạn tuổi thanh niên, con người chọn nghề và học những tri
thức, kỹ năng, nguyên tắc đạo đức cơ bản của nghề. Khi tìm được việc làm rồi thì
thanh niên bắt đầu thích ứng với công việc và môi trường làm việc mới. Các phẩm
chất nhân cách, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp và kỹ năng xã hội là những yếu tố
quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng thích ứng với công việc mới của thanh
niên.
Nhờ loại giao tiếp này, thanh niên dần biết chấp nhận và tôn trọng bản thân.
Tình yêu
Tình yêu tuổi thanh niên chứa đựng trong mình cả tình bạn, đồng thời mức độ thân
tình cao hơn nhiều so với tình bạn thông thường.
Những ước mơ của tuổi thanh niên về tình yêu phản ánh trước hết trong các nhu
cầu xã hội về tình cảm ấm áp, sự thông hiểu, sự gắn bó tâm hồn, tính trách nhiệm
và cùng với nó là sự cuốn hút, hấp dẫn lẫn nhau về cơ thể.
Trong tình yêu của thanh niên thường xảy ra mâu thuẫn giữa nhu cầu tình cảm, sự
gắn bó yêu thương với những ham muốn tình dục.
Nhiều khi thanh niên cũng không hiểu tại sao yêu người này nhưng lại bị hấp dẫn
tình dục bởi người khác. Sự mâu thuẫn giữa tình yêu như một tình cảm cao đẹp với
nhu cầu tình dục thông thường xuất hiện là do một mặt, nhận thức xã hội, thẩm mỹ
và đạo đức ở thanh niên đã phát triển đến độ cao, cùng với sự mơ mộng và lãng
mạn đặc trưng của tuổi trẻ, các em gắn cho tình yêu một ý nghĩa thiêng liêng trong
sáng và cố gắng ứng xử đúng với ý nghĩa cao đẹp của mình.
Vấn đề tình dục ở tuổi thanh niên
Hiện nay, việc quan hệ trước hôn nhân đã không còn quá xa lạ một phần là do các
phương tiện truyền thông và phổ biến rộng các biện pháp tránh thai đã cởi mở hơn
khi nói về vấn đề này. Quan hệ tình dục tự do đã kéo theo hàng loạt vấn đề như
không sử dụng biện pháp tránh thai dẫn đến hậu quả có thai ngoài ý muốn và tăng
tỷ lệ nạo phá thai, gia tăng các căn bệnh lây nhiễm qua đường tình dục làm ảnh
hưởng đến sức khẻo và chất lượng mang thai sau này của phụ nữ.
Sự khác biệt giới trong thể hiện tình dục
Đa số nam thanh niên đều ý thức tương đối cụ thể và rõ ràng nhu cầu tình dục của
mình. Còn đối với nữ có nhiều khác biệt cá nhân: một số cô gái cũng có nhu cầu
tình dục nhiều như phái nam nhưng phần lớn phái nữ mong muốn được yêu
thương, quan tâm, săn sóc nhiều hơn là nhu cầu tình dục của bản thân.
→ Nhìn chung, thanh niên đã có định hướng khá rõ về những phẩm chất nhân cách
mẫu mực của nam giới và nữ giới. Những phẩm chất nhân cách truyền thống nam
tính cũng như nữ tính đang thay đổi ở xã hội hiện đại cũng làm thay đổi quan niệm
về những phẩm chất cần có của người bạn đời tương lai của thanh niên.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ tình dục sớm
● Giáo dục: Những thanh niên được đi học và được giáo dục bài bản thường
có nhu cầu tình dục muộn hơn so với những thanh niên học kém và không đi
học.
● Mối quan hệ gia đình: Nghiên cứu: tìm hiểu ảnh hưởng qua lại giữa mối
quan hệ cha mẹ - con cái với hành vi tình dục của thanh thiếu niên.
→ Kết quả các nghiên cứu cho thấy, những bạn trẻ có xu hướng quan hệ tình dục
sớm thường có mối quan hệ giao tiếp khá lỏng lẻo với cha mẹ. Mối quan hệ tốt với
cha mẹ sẽ là yếu tố giúp thanh niên kiềm chế tình dục, tránh không thực hiện
những quan hệ “sống thử”.
● Những yếu tố sinh học: Hiện nay, thanh thiếu niên bắt đầu cuộc sống tình
dục sớm hơn so với trước đây, có thể là do tuổi dậy thì bắt đầu sớm hơn.
Nhiều nghiên cứu cho rằng những người trưởng thành sớm thường bắt đầu
cuộc sống tình dục sớm hơn so với những người trưởng thành muộn. Tuy
vậy, không phải bao giờ cũng như vậy, ví dụ, mặc dù trẻ nam trưởng thành
về giới tính muộn hơn khoảng 2-3 năm so với nữ, nhưng họ lại có xu hướng
thử quan hệ tình dục sớm hơn nữ khoảng 1 năm.
6.2. Đời sống tình cảm của thanh niên sinh viên
Đây là giai đoạn tuổi mà thời kỳ phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm
cao cấp như tình cảm trí tuệ , tình cảm đạo đức (tình yêu quê hương đất nước, thái
độ đối với lao động, tình yêu thương con người), tình cảm thẩm mĩ (sự rung động –
cảm xúc bởi cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ
thuật), tình bạn, tình yêu. Đặc điểm của nó là có tính hệ thống và bền vững.
Hầu hết sinh viên biểu lộ sự chăm chỉ, say mê của mình đối với nghành học đã
chọn. Tình cảm trí tuệ thể hiện ở sự say mê tìm kiếm, mở rộng kiến thức. Họ học
tập không chỉ ở giảng đường và thư viện mà còn ở kho tàng tri thức nhân loại bằng
nhiều cách tự học khác nhau.
Ở lứa tuổi này tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ có chiều sâu hơn khi trình độ
nhận thức cao về văn hóa, xã hội không chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính (là sự nhận
thức ở giai đoạn đầu, con người sử dụng các giác quan để tác động vào sự vật
nhằm nắm bắt sự vật. Trước tiên các sự vật, hiện tượng tác động trực tiếp vào giác
quan của con người, nó phản ánh các thuộc tính riêng lẻ mà con người cảm nhận
bằng những cảm giác, cảm xúc) nữa mà có thể được lý giải, phân tích một cách có
cơ sở.
Tình bạn cùng giới và khác giới ở sinh viên cũng phát triển sâu sắc hơn về mặt
phát triển tâm hồn, hoàn thiện nhân cách của bản thân mình lên rất nhiều.
Tình yêu nam nữ ở sinh viên phát triển với một sắc thái mới. Mới ở mặt xã hội,
trình độ học vấn cao hơn và nhân cách phát triển toàn diện.Tình yêu nam nữ ở sinh
viên rất đẹp, lãng mạn và có trách nhiệm.
VD: có thể cùng nhau ôn bài ở thư viện, cùng nhau chở nhau về mỗi buổi tan học,
cùng nhau ăn những món ăn vặt…
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều sinh viên mơ mộng, mạo hiểm với những thứ mới,
không có trách nhiệm trong tình yêu.
VD: bị nhiệm bệnh về đường tình dục, nạo phá thai do thiếu kiến thức về các biện
pháp phòng tránh về tình dục và an toàn sức khỏe sinh sản. Hậu quả về những hành
vi này gây ảnh hưởng rất lớn về tinh thần như là trầm cảm, stress sau khi chia tay
nguy hiểm có thể dẫn đến suy nghĩ là tự tử lẫn sức khỏe như có thể ảnh hưởng
hoặc khó khăn đến việc khó có thể mang thai cho sau này.
6.3. Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên
Định hướng giá trị là một mặt cơ bản trong đời sống tâm lý của thanh niên nói
chung và sinh viên nói riêng. Là những giá trị được chủ thể nhận thức và đánh giá
cao. Có ý nghĩa định hướng, điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của
chủ thể để vươn tới những giá trị đó.
Có tính bền vững tương đối, không bất biến theo thời gian và hoàn cảnh, thời gian.
Phát triển mạnh ở cuối tuổi thiếu niên, đầu tuổi thanh niên, khi con người đứng
trước việc chọn hướng đi cho cuộc đời. Những giá trị truyền thống của mỗi dân tộc
Việt Nam được hình thành và phát triển từ trong mỗi gia đình về lòng yêu nước,
yêu độc lập, tự do, coi trọng học vấn, công danh, sống tình nghĩa… qua các câu
chuyện kể về cổ tích, các câu ca dao của ông bà cha mẹ.
Trong xã hội hiện nay, tuy vẫn đi theo định hướng giá trị truyền thống cơ bản, song
cũng có nhiều biến đổi. Do hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục cũng như khả năng
tự phấn đấu rèn luyện khác nhau mà mỗi sinh viên lại phát triển theo những cách
khác nhau.
a. Sinh viên tiếp tục được gia đình chu cấp đầy đủ và nhiệm vụ chính của họ
hằng ngày vẫn là đến lớp và học bài đầy đủ, không quan tâm đến nghề
nghiệp hay tương lai vì đã được ba mẹ lo hoặc có người quen giúp đỡ.
b. Sau khi đỗ đại học, sinh viên có tâm trạng “xả hơi”. Họ hưởng thụ tối đa
cuộc đời tự do của tuổi trẻ. Các sinh viên này không có được tri thức chuyên
sâu và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết.
c. Ngoài việc học, họ còn rất quan tâm đến các hoạt động xã hội và các mối
quan hệ giao tiếp với thầy cô, bạn bè và những người khác. Nhiều người kết
hợp vừa học vừa làm thêm.
d. Họ rất quan tâm đến nghề nghiệp tương lai của mình. Họ rất nghiêm túc
trong việc học, thường xuyên hỏi các anh chị năm trên và thầy cô về cách
học, cách ôn thi và phương pháp học để có thể đạt được điểm tốt ở bậc đại
học.
….
Thực tế cho thấy, những sinh viên có định hướng giá trị đúng đắn thường có những
kế hoạch phát triển phù hợp, có mục tiêu phấn đấu rõ ràng, có phẩm chất đạo đức
tốt.
Gia đình và xã hội nhất thiết phải chú trọng việc rèn luyện nhân cách, giáo dục
định hướng gia strij cho sinh viên. Bản thân mỗi sinh viên cũng nên tự rèn luyện
nhân cách, tự phát triển và tự giáo dục bản thân để trở thành người có ý thức, có
trình độ, có phẩm chất đạo đức và lập trường tư tưởng vững vàng.