You are on page 1of 15

CHƢƠNG 3

TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI


HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

“Tuổi thanh niên (từ 14, 15 đến 18 tuổi) là "thế giới thứ ba" theo nghĩa
đen của từ này, tồn tại giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn".

I.X. CÔN

I - NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ


CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Khái niệm tuổi thanh niên

Trong tâm lý học lứa tuổi, người ta định nghĩa tuổi thanh niên là giai
đoạn phát triển bắt đầu phát triển từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi
người lớn. Chính cái định nghĩa mà giới hạn thứ nhất là giới hạn sinh lý và giới
hạn thứ hai là giới hạn xã hội đã chỉ ra tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện
tượng. Có nhiều lý thuyết khác nhau về tuổi thanh niên.

Tâm lý học Mác-xít cho rằng, cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một
cách phức hợp, phải kết hợp quan điểm tâm lý học xã hội với việc tính đến
những quy luật bên trong của sự phát triển. Đó là một vấn đề phức tạp và khó
khăn, vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển lâm,
sinh lý cũng trùng hợp với các giai đoạn trưởng thành về mặt xã hội. B.D.
Annanhiev đã viết: "Sự bắt đầu trưởng thành của con người như là một cá thể
(sự trưởng thành về chất), một nhân cách (sự trưởng thành công dân), một chủ
thể nhận thức (sự trưởng thành trí tuệ) là một chủ thể lao động (năng lực lao
động) là không trùng hợp nhau về thời gian" (B.D.Annanhiev). Con người là
đối tượng của nhận thức. NXB “LGY” 1968, tr. 169). Do gia tốc phát triển trẻ
em ngày nay lớn nhanh hơn và đạt được sự tăng trưởng đầy đủ của mình sớm
hơn. Với hai, ba thế hệ trước, sự dậy thì được bắt đầu và kết thúc sớm hơn hai
năm. Các nhà sinh lý học phân chia quá trình này thành 3 giai đoạn: giai đoạn
trước dậy thì, dậy thì và sau dậy thì: Tâm lý học lứa tuổi thường gắn tuổi thiếu
niên với hai giai đoạn đầu, tuổi thanh niên bắt đầu cùng với giai đoạn thứ ba.

Do gia tốc phát triển mà các giới hạn của tuổi thiếu niên được hạ thấp.
Ngày nay tuổi thiếu niên được kết thúc ở 14 - 15 tuổi. Tương ứng như vậy tuổi
thanh niên cũng được bắt đầu sớm hơn... Nhưng nội dung cụ thể của thời kỳ
phát triển này được quyết định không đơn giản chỉ bởi tuổi, mà trước hết là
những điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên trong xã hội, khối lượng tri thức, kĩ
năng, kì xảo mà họ nắm bắt được, và một loạt những nhân tố khác phụ thuộc
vào những điều kiện xã hội đó). Ngày nay hoạt động lao động và hoạt động xã
hội ngày càng phức tạp, do đó thời kỳ chuẩn bị đã được kéo dài một cách đáng
kể. Thời gian con người chứa lao động. và học tập là chủ yếu càng kéo dài thì
sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng dấn chậm. Do đó mà có sự kéo dài
của thời kỳ tuổi thanh niên và tính không xác định của các giới hạn lứa tuổi.

Đối với đa số thanh niên thì tuổi thanh niên là thời kỳ từ 14, 15 tuổi đến
25 tuổi. Trong đó chia làm hai thời kỳ: Từ 14, 15 tuổi - 17, 18 tuổi: giai đoạn
đầu tuổi thanh niên (còn gọi là thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh).

Từ 17, 18 tuổi - 25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên.

Những phân tích trên cho thấy: tuổi thanh niên là một hiện tượng tâm lý
xã hội.

2. Đặc điểm cơ thể

Tuổi đầu thanh niên là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt thể lực,
nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát triển cơ thể của người lớn.
Tuổi thanh niên bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý.

Nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. Các em gái
đạt được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng tuổi 16, 17 ± 13
tháng), các em trai khoảng 17, 18 tuổi (±10 tháng). Trọng lượng của các em trai
đã đuổi kịp các em gái và tiếp tục vươn lên. Sức mạnh cơ bắp tăng rất nhanh.
Lực cơ của em trai 16 tuổi vượt lên gần gấp hai lần so với lực cơ của em lúc 12
tuổi...

Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc
bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Cấu trúc của tế
bào bán cầu đại não có những đặc điểm như trong cấu trúc tế bào não của người
lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của
vỏ não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân
tích, tổng hợp... của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập.

Đa số các em đã vượt qua thời kỳ phát dục. Theo hằng số sinh học người
Việt Nam (NXB Y học, 1975) thì: tuổi bắt đầu có kinh ở học sinh Hà Nội là
14,3 ± l,2; học sinh nông thôn là 15 ±3,4.

Nhìn chung thì đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, khoẻ
và đẹp. Đa số các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể như
người lớn.

3. Điều kiện xã hội của sự phát triển

Hoạt động của thanh niên ngày càng phong phú và phức tạp nên vai trò
xã hội và hứng thú xã hội của thanh niên không chỉ mở rộng về số lượng và
phạm vi, mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ở thanh niên ngày càng xuất hiện
nhiều vai trò của người lớn và họ thực hiện các vai trò đó ngày càng có tính độc
lập và tinh thần trách nhiệm hơn.

Ở gia đình thanh niên đã có nhiều quyền lợi và trách nhiệm của người
lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em một số vấn đề trong gia đình và các em
cũng biết quan tâm đến nhiều mặt sinh hoạt trong gia đình.

14 tuổi, các em đủ tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên cộng sản. Trong tổ
chức Đoàn các em có thể tham gia công tác tập thể, công tác xã hội một cách
độc lập hơn và có trách nhiệm hơn.
18 tuổi có quyền bầu cử, có chứng minh thư, có nghĩa vụ quân sự, nghĩa
vụ lao động. Tất cả các em đều suy nghĩ về việc chọn ngành nghề...

Thanh niên mới lớn có hình dáng người lớn, có những nét của người lớn
nhưng chưa phải người lớn. Thanh niên học sinh còn phụ thuộc vào người lớn,
người lớn quyết định nội dung và xu hướng chính của hoạt động của họ. Cả
người lớn và thanh niên đều nhận thấy rằng, các vai trò mà thanh niên mới lớn
thực hiện khác về chất so với vai trò của người lớn. Các em vẫn đến trường học
tập dưới sự lãnh đạo của người lớn, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về vật chất. Ở
trường và ngoài xã hội, thái độ của người lớn thường thể hiện tính chất hai mặt:
một mặt, nhắc nhở rằng họ đã là người lớn, đòi hỏi ở họ tính độc lập, ý thức
trách nhiệm và thái độ hợp lý... Mặt khác, lại còn đòi hỏi họ thích ứng với cha
mẹ, giáo viên...

Vị trí của thanh niên có tính chất không xác định (ở mặt này họ được coi
là người lớn, mặt khác lại không). Tính chất đó và những yêu cầu đề ra cho
thanh niên được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lý thanh niên. Vị trí
"không xác định" của thanh niên là một tất yếu khách quan. Người lớn phải tìm
cách tạo điều kiện cho việc xây dựng một phương thức sống mới phù hợp với
mức độ phát triển chung của thanh niên, bằng cách khuyến khích hành động có
ý thức trách nhiệm riêng của thanh niên và khuyến khích sự giáo dục lẫn nhau
trong tập thể thanh niên mới lớn.

II – HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Đặc điểm hoạt động học tập

Nội dung và tính chất của hoạt động học lập ở thanh niên học sinh khác
rất nhiều so với hoạt động học tập của thiếu niên. Sự khác nhau cơ bản không
phải ở chỗ nội dung học tập ngày một sâu hơn, mà là ở cho hoạt động học tập
của thanh niên học sinh đòi hỏi tính năng động và tính độc lập ở mức độ cao
hơn nhiều; đồng thời cũng đòi hỏi, muốn nắm được chương trình một cách sâu
sắc thì cần phát triển tư duy lý luận.

Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, các
em càng ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Do
vậy thái độ có ý thức của các em lối với học tập ngày càng phát triển.

Thái độ của thanh niên học sinh đối với các môn học trở nên có lựa chọn
hơn. Ở các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh
hướng nghề nghiệp. Cuối bậc trung học phổ thông các em đã xác định được cho
mình một hứng thú ổn định đối với một môn học nào đó, đối với một lĩnh vực
tri thức nhất định. Hứng thú này thường liên quan với việc chọn một nghề nhất
định của học sinh. Hơn nữa, hứng thú nhận thức của thanh niên học sinh mang
tính chất rộng rãi, sâu và bền vững hơn thiếu niên.

Thái độ học tập của thanh niên học sinh được thúc đẩy bởi động cơ học
tập có cấu trúc khác với tuổi trước. Lúc này có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn
(ý nghĩa thực tiễn của môn học đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của
các em), động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học, rồi mới đến
động cơ cụ thể khác…

Nhưng thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là, một mặt các em
rất tích cực học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã
chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ học để đạt
được điểm trung bình. Giáo viên cần làm cho các em học sinh đó hiểu được ý
nghĩa và chực năng của giáo dục phổ thông đối với mỗi một giáo dục chuyên
ngành.

Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định của các
quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của thanh niên học sinh
trong hoạt động học tập.
2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ

Ở thanh niên mới lớn, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá
trình nhận thức.

- Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát trở nên có mục
đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều khiển của
hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy
vậy, quan sát của thanh niên học sinh cũng khó có hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo
của giáo viên. Giáo viên cần quan tâm để hướng quan sát của các em vào một
nhiệm vụ nhất định, không vội vàng kết luận khi chưa tích luỹ đầy đủ các sự
kiện.

- Ở tuổi thanh niên học sinh, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo
trong hoạt động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý
nghĩa ngày một tăng rõ rệt (các em biết sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi
nhớ: tóm tắt ý chính, so sánh đối chiếu...). Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế
phân hoá trong ghi nhớ. Các em biết tài liệu nào cần nhớ từng câu từng chữ, cái
gì cần hiểu mà không cần nhớ... Nhưng một số em còn ghi nhớ đại khái, chung
chung, cũng có khi các em đánh giá thấp việc ôn tập tài liệu.

- Do cấu trúc của não phức tạp và chức năng của não phát triển; do sự
phát triển của các quá trình nhận thức nói chung, do ảnh hưởng của hoạt động
học tập mà hoạt động tư duy của thanh niên học sinh có thay đổi quan trọng.
Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo
trong những đối tượng quen biết đã được học ở trường. Tư duy của các em chặt
chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn. Đồng thời tính phê phán của tư duy cũng
phát triển... Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho học sinh lớn thực hiện các
thao tác tư duy toán học phức tạp, phân tích nội dung cơ bản của khái niệm trừu
tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả trong tự nhiên và trong xã hội. Đó là
cơ sở để hình thành thế giới quan.
Tuy vậy hiện nay số học sinh trung học phổ thông đạt tới mức tư duy đặc
trưng cho lứa tuổi như trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát
huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm
tính... Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ quan
trọng của giáo viên.

Tóm lại, ở tuổi thanh niên mới lớn những đặc điểm chung của con người
về mặt trí tuệ thông thường đã được hình thành và chúng vẫn còn được tiếp tục
hoàn thiện.

III – NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CHỦ YẾU


1. Sự phát triển của tự ý thức

Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của thanh niên mới lớn, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển tâm lý
của lứa tuổi thanh niên. Quá trình này rất phong phú và phức tạp, nhưng vẫn có
một số đặc điểm cơ bản.

Từ tuổi thiếu niên, các em đã bắt đầu tri giác những đặc điểm cơ thể của
mình một cách hoàn toàn mới và đến tuổi thanh niên các em vẫn tiếp tục chú ý
đến hình dáng bên ngoài của mình như vậy (hay soi gương, chú ý sửa tư thế,
quần áo hơn...). Hình ảnh về thân thể là thột thành tố quan trọng của sự tự ý
thức ở thanh niên mới lớn.

Sự hình thành tự ý thức ở lứa tuổi thanh niên là một quá trình lâu dài, trải
qua những mức độ khác nhau. Ở tuổi thanh niên quá trình phát triển tự ý thức
diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù riêng: Thanh niên có nhu cầu
tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm lâm lý của mình theo quan điểm về mục
đích cuộc sống và hoài bão của mình. Chính điều này khiến các em quan tâm
sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.

Đặc điểm quan trọng trong sự tự ý thức của thanh niên là sự tự ý thức của
họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động - địa vị mới mẻ trong tập
thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh buộc thanh niên mới lớn phải ý
thức được những đặc điểm nhân cách của mình. Các em hãy ghi nhật kí, so sánh
mình với nhân vật mà họ coi là tấm gương (thanh niên thường chú ý đối chiếu
mình với động cơ và rung động của họ nhiều hơn là với cử chỉ, hành vi họ như
ở thiếu niên).

Nội dung của tự ý thức cũng khá phức tạp. Các em không chỉ nhận thức
về cái tôi cửa mình trong hiện tại như thiếu niên, mà còn nhận thức về vị trí của
mình trong xã hội, trong tương lai (Tôi cần trở thành người như thế nào, cần
làm gì để tết hơn...). Thanh niên có thể hiểu rõ mình ở những phẩm chất nhân
cách bộc lộ rõ (lòng yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm...). Thanh niên còn có
thể hiểu rõ những phẩm chất phức tạp, biểu hiện những quan hệ nhiều mặt của
nhân cách (tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ...).

Thanh niên không chỉ đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ từng thuộc
tính riêng biệt, mà biết đánh giá nhân cách mình nói chung trong toàn bộ những
thuộc tính nhân cách.

Thanh niên không chỉ có nhu cầu đánh giá, mà còn có khả năng đánh giá
sâu sắc và tốt hơn thiếu niên về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của
những người cùng sống và của chính mình. Nhưng nhận thức người khác bao
giờ cũng đỡ khó khăn hơn là nhận thức bản thân. Tự đánh giá khách quan
không phải là dễ dàng. Thanh niên mới lớn thường dễ có xu hướng cường điệu
trong khi tự đánh giá. Hoặc là các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê
phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân cách mình - tỏ ra tự cao, coi thường
người khác.

Chúng ta phải thừa nhận là thanh niên mới lớn có thể có sai lầm khi tự
đánh giá. Nhưng vấn đề cơ bản là, việc tự phân tích có mục đích là một dấu hiệu
cần thiết của một nhân cách đang trưởng thành và là tiền đề của sự tự giáo dục
có mục đích. Do vậy khi sự tự đánh giá đã được suy nghĩ thận trọng, thì dù có
sai lầm, thì chúng ta cũng phải có thái độ nghiêm túc khi nghe các em phát biểu,
không được chế diễu ý kiến tự đánh giá của họ. Cần phải giúp đỡ thanh niên
một cách khéo léo để họ hình thành được một biểu tượng khách quan về nhân
cách của mình.

2. Sự hình thành thế giới quan

Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới
quan - hệ thống quan điểm về xã hội, về tự nhiên, về các nguyên tắc và quy tắc
cư xử...

Ở tuổi này, những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng một hệ
thống quan điểm riêng đã được hình thành (đặc biệt là sự phát triển của tư duy
lý luận, tư duy trừu tượng). Nhưng những cơ sở của thế giới quan đã được hình
thành dần dần từ rất sớm - hình thành ngay từ nhỏ. Suốt thời gian học tập ở phổ
thông, học sinh đã lĩnh hội được những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định,
thấy được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác... Dần dần những điều đó được ý
thức và được quy vào các hình thức, các tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi xác
định... Nhưng chỉ đến giai đoạn này, khi nhân cách đã được phát triển tương đối
cao, thì các em mới xuất hiện những nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc
hành vi đó vào một hệ thống hoàn chỉnh. Một khi đã có được hệ thống quan
điểm riêng thì thanh niên không chỉ hiểu về thế giới khách quan, mà còn đánh
giá được nó, xác định được thái độ của mình đối với thế giới nữa.

Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của
tuổi thanh niên học sinh.

Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng
thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ,
những quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài
người... Các em cố gắng xây dựng quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối
với các vấn đề xã hội, tư tưởng, chính trị, đạo đức. Chính nội dung các môn học
ở phổ thông trung học giúp cho các em xây dựng được thế giới quan tích cực về
mặt tự nhiên, xã hội.

Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận
thức, mà còn thể hiện ở phạm vi nội dung nữa. Học sinh mới lớn quan tâm
nhiều nhất đến các vấn đề liên quan đến con người, vai trò của con người trong
lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, nghĩa vụ
và tình cảm. Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của
thanh niên mới lớn. Họ thường đặt câu hỏi cuộc sống của mình có ý nghĩa xã
hội như thế nào? Tất nhiên việc trả lời câu hỏi này không đơn giản. Nội dung cụ
thể của câu hỏi do đạo đức xã hội, định hướng giá trị của cá nhân, quan hệ thực
tế và hoạt động của cá nhân học sinh quyết định, nó cũng còn do hệ thống tri
thức của học sinh về đời sống nói chung, về kinh tế nói riêng quyết định.

Tuy vậy, một bộ phận thanh niên chưa được giáo dục đẩy đủ về thế giới
quan. Thế giới quan của họ còn chịu ảnh hưởng của tàn dư tiêu cực của quá khứ
(say mê những sản phẩm “nghệ thuật” không lành mạnh, đánh giá quá cao cuộc
sống hưởng thụ...). Hoặc một bộ phận khác lại chưa chú ý đến vấn đề xây dựng
thế giới quan, sống thụ động...

3. Giao tiếp và đời sống tình cảm

a. Giao tiếp trong nhóm bạn

Tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi tuổi mang tính chất tập thể nhất. Điều
quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi, là cảm
thấy mình cần cho nhóm, có uy tín có vị trí nhất định trong nhóm. Trong các lớp
học dần dần xảy ra một sự "phân cực" nhất định - xuất hiện những người được
lòng nhất (được nhiều người lựa chọn nhất) và những người ít được lòng nhất.
Những em có vị trí thấp (ít được lòng các bạn) thường băn khoăn và suy nghĩ
nhiều về nhân cách của mình.
Ở lứa tuổi này quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so với quan hệ
với người lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn. Điều này do lòng khao khát muốn có vị
trí bình đẳng trong cuộc sống chi phối. Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt,
quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần dần cũng được thay thế bằng quan
hệ bình đẳng, tự lập.

Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, rỗi rãi, trong tiêu khiển, trong việc phát
triển nhu cầu sở thích thanh niên hướng vào bạn bè nhiều hơn là hướng vào cha
mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị sâu sắc hơn như chọn nghề, thế giới quan,
những giá trị đạo đức thì ảnh hưởng của cha mẹ lại mạnh hơn rõ rệt.

Sự mở rộng phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hoá hoạt động riêng của
thanh niên học sinh khiến cho số lượng nhóm quy chiếu của các em tăng lên rõ
rệt. Việc tham gia vào nhiều nhóm sẽ dẫn đến những sự khác nhau nhất định và
có thể xung đột về vai trò nếu cá nhân phải lựa chọn giữa các vai trò khác nhau
ớ các nhóm.

Trong công tác giáo dục cần chú ý đến ảnh hưởng của nhóm, hội tự phát ngoài
nhà trường. Nhà trường không thể quán xuyến toàn bộ cuộc sống của thế hệ
đang trưởng thành. Ta cũng không thể loại trừ dược các nhóm tự phát và các
đặc tính của chúng. Nhưng có thể tránh được hậu quả xấu của nhóm tự phát
bằng cách tổ chức hoạt động của các tập thể (nhóm chính thức) thật phong phú,
sinh động... khiến cho các hoạt động đó phát huy được tính tích cực của thanh
niên mới lớn. Vì vậy, tổ chức Đoàn có vai trò đặc biệt quan trọng.

b. Đời sống tình cảm

Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú và nhiều vẻ. Đặc
điểm đó được thể hiện rõ nhất trong tình bạn của các em, vì đây là lứa tuổi mà
những hình thức đối xử có lựa chọn đối với mọi người trở nên sâu sắc và mặn
nồng.
Ở tuổi thanh niên mới lớn nhu cầu về tình bạn tâm tình cá nhân được tăng
lên rõ rệt. Tình bạn sâu sắc đã được bắt đầu từ tuổi thiếu niên, nhưng sang tuổi
này tình bạn của các em trở nên sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu cầu cao hơn
đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng nhau và
sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau). Trong quan hệ với bạn các em
cũng nhạy cảm hơn: không chỉ có khả năng xúc cảm chân tình, mà còn phải có
khả năng đáp ứng lại xúc cảm của người khác (đồng cảm).

Tình bạn của thanh niên mới lớn rất bền vững. Tình bạn ở tuổi này có thể
vượt được mọi thử thách và có thể kéo dài suốt cuộc đời

Ở tuổi 15, 16 nam nữ thanh niên đều coi tình bạn là mối quan hệ quan
trọng nhất của con người. Bên cạnh tính bền vững, tình bạn của các em còn
mang tính xúc cảm cao. Thanh niên thường lý tưởng hoá tình bạn. Họ nghĩ về
bạn thường giống với điều mình mong muốn ở bạn hơn là thực tế. Sự quyến
luyến mạnh mẽ về mặt cảm xúc khiến các em ít nhận thấy những đặc điểm thực
tế ở bạn.

Ở thanh niên mới lớn, sự khác biệt giữa các cá nhân trong tình bạn rất rõ
rệt. Quan niệm của thanh niên về tình bạn và mức độ thân tình trong tình bạn có
sự khác nhau. Nguyên nhân kết bạn cũng rất phong phú (vì phẩm chất tốt ở bạn,
vì tính tình tương phản, vì có hứng thú sở thích chung...).

Một điều cần chú ý nữa là ở thanh niên mới lớn, quan hệ thanh nam và
thanh nữ được tích cực hoá một cách rõ rệt. Phạm vi quan hệ bạn bè được mở
rộng. Bên cạnh các nhóm thuần nhất, có khá nhiều nhóm pha trộn (cả nam và cả
nữ). Do vậy nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng cường. Và ở một số em đã
xuất hiện sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ, xuất hiện nhu cầu chân chính về
tình yêu và tình cảm sâu sắc. Đó là một trạng thái mới mẻ, nhưng rất tự nhiên
trong đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn; thanh niên mới lớn có giữ được
sự trong sạch cần thiết trong mối tình đầu hay không và có là bạn tốt của nhau
không, trước hết phụ thuộc vào giáo dục của gia đình và nhà trường.
IV – HOẠT ĐỘNG LAO ĐỘNG VÀ SỰ LỰA CHỌN NGHỀ
Hoạt động lao động tập thể có vai trò to lớn trong sự hình thành nhân
cách thanh niên mới lớn. Hoạt động lao động được tổ chức đúng đắn sẽ giúp các
em hình thành tinh thần tập thể, lòng yêu lao động, tôn trọng lao động, người
lao động và thành quả lao động, đặc biệt là có được nhu cầu và nguyện vọng lao
động.

Điều quan trọng là, việc lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành công việc
khẩn thiết của học sinh lớn. Càng cuối cấp học thì sự lựa chọn càng nổi bật. Các
em hiểu rằng cuộc sống tương lai phụ thuộc vào chỗ, mình có biết lựa chọn
nghề nghiệp một cách đúng đắn hay không. Dù có vô tâm đến đâu, thì thanh
niên mới lớn cũng phải quan tâm, có suy nghĩ trong khi chọn nghề. Việc quyết
định một nghề nào đó ở nhiều em đã có căn cứ. Nhiều em biết so sánh đặc điểm
riêng về thể chất, tâm lý, khả năng của mình với yêu cầu của nghề nghiệp, dù sự
hiểu biết của các em về yêu cầu của nghề nghiệp là chưa đầy đủ.

Hiện nay thanh niên học sinh còn định hướng một cách phiến diện vào
việc học tập đại học. Đa số các em hướng dần vào các trường đại học (hơn là
học nghề)... Tâm thế chuẩn bị bước vào đại học như thế sẽ dễ có ảnh hưởng tiêu
cực dối với các em, nếu dự định của các em không được thực hiện. Điều đó
cũng cho thấy các em (hoặc vô tình, hoặc cố ý) không chú ý đạt yêu cầu của xã
hội đối với các ngành nghề khác nhau và mức độ đào tạo của các nghề trong khi
quyết định đường đời.

Những điều đó phần lớn là do công tác hướng nghiệp của nhà trường và đoàn
thể còn thiếu sót.
V – MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC.
Để giáo dục thanh niên, trước hết cần chú ý xây dựng mối quan hệ tốt
giữa thanh niên và người lớn.

Quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau giữa người và người ở đất nước ta
hiện nay là điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tốt đẹp giữa thanh niên
mới lớn và người lớn. Tuy vậy vẫn khó tránh khỏi những xung đột nhỏ giữa
thanh niên và người lớn. Điều đó một phần do thanh niên mới lớn và người lớn
sống và phát triển ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước. Mặt khác. nó
phụ thuộc nhiều vào thái độ cửa cả hai phía đối với nhau, quan điểm của hai
phía về nhau.

Quan hệ thanh niên mới lớn và người lớn có thể tốt đẹp nếu người lớn
thực sự tin tưởng vào thanh niên, tạo điều kiện để họ được thoả mãn tính tích
cực, độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm
của thanh niên.

Người lớn giúp đỡ tổ chức Đoàn một cách khéo léo, tế nhị để hoạt động
của Đoàn được phong phú. hấp dẫn và độc lập: Người lớn không được quyết
định thay, làm thay trẻ. Nếu người lớn cứ “đỡ đầu” (làm thay...) thì các em sẽ
mất hứng thú và cảm thấy phiền toái khi có người lớn. Thái độ “đỡ đầu” quá
cặn kẽ của người lớn sẽ củng cố thanh niên tính trẻ con, tình cảm thờ ơ vô trách
nhiệm khi nói đến người lớn. Còn thanh niên nào quen với sự “đỡ đầu” thường
xuyên thì sẽ trở nên rụt rè, không dám quyết định không có khả năng nhận trách
nhiệm về mình, kể cả khi cần thiết. Người lớn cần tổ chức hoạt động của thanh
niên học sinh như thế nào đó để có thể lôi kéo được mỗi học sinh vào hoạt động
chung, kích thích được tinh thần trách nhiệm của tất cả các em, kích thích được
sự tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau của các em.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao nói "Tuổi thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội". Người
lớn cần chú ý vấn đề gì trong công tác giáo dục thanh niên mới lớn?

2. Nêu đặc điểm cơ bản của sự phát triển trí tuệ ở thanh niên mới lớn.
Nguyên nhân của các đặc điểm đó.

3. Đặc điểm của sự phát triển ý thức của tuổi thanh niên mới lớn ý nghĩa
của nó đối với sự phát triển nhân cách của thanh niên mới lớn?

4. So sánh đặc điểm quan hệ với bạn của tuổi thiếu niên và thanh niên
mới lớn.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

Lần thứ I. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh
trung học phổ thông. Từ đó rút ra những kết luận cần thiết trong tổ chức và điều
khiển hoạt động học tập ở lứa tuổi này.

Lần thứ II. Phân tích những đặc điểm nhân cách chủ yếu của lứa tuổi học
sinh trung học phổ thông. Nêu những vấn đề cần quan tâm trong việc giáo dục
nhân cách cho lứa tuổi này.

BÀI TẬP THỰC HÀNH

Dùng phương pháp trắc đạc xã hội đề tìm hiểu về quan hệ trong học tập
của lứa tuổi học sinh trung học phổ thông. Anh (chị) hãy:

- Xây dựng một phương pháp cụ thể (phiếu điều tra) để thu cứ liệu nhằm
mục đích tìm hiểu nêu trên.

- Với phiếu điều tra đó, giả định kết quả thu được liên 20 học sinh cùng
lớp (lập một biểu bảng).

- Mô tả kết quả thu được bằng biểu đồ.

You might also like