Professional Documents
Culture Documents
- Theo các nhà tâm lý học, bộ phận cấu thành đầu tiên của sự trưởng
thành là sự trưởng thành về mặt tâm lý. Dấu hiệu đặc trưng của sự trưởng
thành này là khả năng giải quyết các mâu thuẫn và các vấn đề xã hội một
cách tích cực. Từ khoảng 23 - 40 tuổi, con người đứng trước những lựa
chọn và quyết định quan trọng của cuộc đời, đến cuối giai đoạn này thì
những người trưởng thành trẻ tuổi đã có nhân cách ổn định, có gia đình,
đã khẳng định bản thân trên con đường sự nghiệp và có vị trí nhất định
trong xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi dân tộc khác nhau
có mốc trưởng thành khác nhau.
=> Vì vậy, không thể đưa ra một mốc tuổi trưởng thành chung cho các
nền văn hóa, hoặc ở cùng một nền văn hóa trong các giai đoạn lịch sử
khác nhau.
TRÍ NHỚ
Các nhà nghiên cứu thấy rằng: Dạng trí nhớ thị giác và thính giác trong
trí nhớ ngôn ngữ ngắn hạn ở người trưởng thành biến đổi nhiều nhất.
● Từ 18 – 30 tuổi: Sự phát triển trí nhớ thính giác trong trí nhớ ngôn
ngữ ngắn hạn đạt chỉ số cao nhất.
● Từ 31 – 40 tuổi: giảm nhanh.
🡺 Có mối liên hệ mật thiết giữa sự biến đổi các chức năng trí nhớ với
tính chất hoạt động của con người: Những người hoạt động trí tuệ
tích cực thường có chỉ số phát triển các chức năng trí nhớ cao hơn.
(Theo Petanova E.I., 2002)
TƯ DUY
● Đặc trưng cơ bản nhất của tư duy của những người tuổi trưởng
thành là khả năng tích hợp cao nhưng dạng tư duy khác nhau:
▪ Tư duy hình tượng
▪ Tư duy logic
▪ Tư duy thực tiễn
▪ Tư duy lý thuyết.
⇨ Tạo nên tính toàn diện, giúp con người thích ứng cao với môi
trường xã hội phức tạp. Có tính linh hoạt đặc biệt của người đầu
tuổi trưởng thành trong việc sử dụng các dạng tư duy và chuyển
● Nghiên cứu của D. Wechsler:
▪ Từ 19 – 30 tuổi: Trí tuệ của người trưởng thành tiếp tục phát
triển suốt thời gian khá dài.
▪ Mốt số chức năng trí tuệ có thể đạt đỉnh điểm vào khoảng 40
tuổi, ví dụ trí tuệ cảm xúc, một số khác giảm sút sau 30 tuổi,
ví dụ trí tuệ vận động.
▪ So sánh tổng thể các chỉ số trí tuệ của nhóm thanh niên (18 –
19 tuổi) và nhóm đầu tuổi trưởng thành (25 – 34 tuổi): Nhóm
đầu tuổi trưởng thành cao hơn.
⇒ Kết quả này không giống với ý kiến của nhiều nhà nghiên
cứu trước đó cho rằng trí tuệ của con người đạt đỉnh cao
vào giai đoạn tuổi thanh niên.
🡺 Như vậy, khi con người có những điều kiện thuận lợi để phát triển
tư duy thì trí tuệ cũng sẽ không ngừng phát triển cả trong giai đoạn
tuổi trưởng thành.
NGÔN NGỮ
Sự phát triển tư duy của con người luôn đi song song với sự phát triển
ngôn ngữ .
Ngôn ngữ của người trưởng thành khác biệt rõ rệt với ngôn ngữ của
chính họ trong các giai đoạn phát triển trước đó không phải ở số lượng ,
mà là ở chất lượng .
● Nghiên cứu của E. Harke: Nhóm học sinh thường dùng các cấu
trúc câu đơn , còn nhóm những người trưởng thành thường dùng
cấu trúc câu phức với 2 , 3 hoặc 4 thành phần .
● Nghiên cứu D.B. Broomley: Các chức năng ngôn ngữ tiến bộ dần
từ 30 - 35 tuổi và đạt đỉnh điểm sau 40 - 45 tuổi.
⇨ Như vậy , ngôn ngữ không hề dừng lại ở tuổi thanh niên , mà
ngày càng phát triển ở tuổi trưởng thành.
CHÚ Ý
Khi đến tuổi trưởng thành, không chỉ tư duy và ngôn ngữ của họ có
sự biến đổi về chất, các quá trình nhận thức khác cũng có sự biến đổi
như vậy.
● Theo L.N. Phomenko: Trong độ tuổi này tính bền vững và sự tập
trung của chú ý không hề thay đổi . Các chỉ số khối lượng , sự di
chuyển và tính chọn lọc của chú ý phát triển dần từ 18 đến 33 tuổi,
đạt đỉnh cao vào những năm từ 20 đến 33 tuổi .
● Có sự khác biệt khá lớn về biểu hiện các tính chất của chú ý ở
những cá nhân khác nhau ở tuổi trưởng thành . Nguyên nhân do
những đặc điểm cá nhân, tiếp đến là tính chất các lĩnh vực hoạt
động mà cá nhân thường xuyên tham gia .
Kết luận: Sự phát triển nhận thức, trí tuệ của con người tuổi trưởng
thành diễn ra trong mối liên hệ chặt chẽ với sự hình thành nhân cách
của họ, các quy luật phát triển hoạt động nhận thức của con người
cũng có ảnh hưởng lớn tới quá trình hình thành nhân cách, vì chính
nhận thức giúp con người hình quan điểm sống, thế giới quan, nhân
sinh quan của mình.
4. Các mối quan hệ tình cảm giai đoạn tuổi trưởng thành
- Theo Erikson, nhiệm vụ quan trọng nhất ở tuổi trưởng thành là tìm được
bản sắc của mình và thiết lập các mối quan hệ tình cảm gần gũi.
- Mối quan hệ tình cảm gần gũi: ổn định, gắn bó với người khác, mang lại
sự thỏa mãn lẫn nhau. Hai người vừa hòa quyện với nhau làm một nhưng
vẫn giữ được bản chất riêng.
- Không chỉ là sự gần gũi về thể xác, mà theo Erikson, khả năng tạo lập
mối quan hệ gần gũi còn là khả năng quan tâm, chia sẻ với người khác
toàn bộ bản thân mà không sợ đánh mất mình.
- Ngược lại, cô đơn (trạng thái khi con người không có ai để quan tâm,
chia sẻ) khi không có khả năng đạt đến sự hòa quyện với người khác.
- Nguyên nhân: có thể do không biết chấp nhận người khác, bản sắc cá
nhân quá yếu dẫn đến dễ dàng đánh mất bản thân.
- Đặc điểm các mối quan hệ tình cảm gần gũi của người trưởng thành:
tình bạn, tình yêu, tình cảm cha mẹ - con cái.
4.1. Tình bạn
- Định nghĩa: Mối quan hệ tình thân dựa trên sự chân thành, cởi mở, sự
tin tưởng lẫn nhau, trung thành và có nhiều sở thích chung, quan hệ bạn
bè thường vô tư, hào hiệp, con người cảm thấy hài lòng nếu làm được
điều tốt lành cho bạn mình.
- Mục đích: Tình bạn là mối quan hệ đa mục đích
▪ Công việc
▪ Tình cảm gắn với sự tha mãn trong giao tiếp với nhau
▪ Học hỏi
▪ Đạo đức, hướng đến sự hoàn thành nhân cách lẫn nhau
▪ Có thể là mục đích thực dụng nào đó
Tất cả những mục đích đó trong cuộc sống thực tiễn luôn đan xen lẫn
nhau, hoà quyện và bổ sung cho nhau.
- Đặc trưng: Sự thấu hiểu nhau sâu sắc ngay cả khi không cần nói nhiều.
- Vị trí: Chiếm vị trí trung gian giữa sự quen biết và tình yêu.
- Nguyên tắc:
▪ Sự bình đẳng
▪ Sự tôn trọng
▪ Sự hiểu biết và tương trợ giúp đỡ nhau
▪ Sự tin tưởng và lòng trung thành
Chỉ cần một trong những nguyên tắc trên bị phá vỡ, có thể dẫn đến sự
tan vỡ tình bạn.
- Nội dung giao tiếp:
▪ Chuyện riêng tư là chính hoặc thể hiện ý kiến riêng của mình về
những gì xảy ra xung quanh.
▪ Những vấn đề cả hai quan tâm, có ý nghĩa với từng người.
- Trong giao tiếp thân tình, bạn bè nên giữ phép lịch sự nhất định, quan
tâm nhau, không xúc phạm nhau bởi những câu nói không thận trọng,
những hành động vô ý.
- Tình bạn mang tính thân thiết và sâu sắc hơn nhiều so với sự quen biết
hay sự thân thiện.
- Tình bạn kém thân tình, có lý trí hơn, nghiêm khắc hơn so với tình yêu
và có những nguyên tắc ứng xử theo tiêu chuẩn, nghi lễ nhất định.
- Nội dung và hình thức giao tiếp trong quan hệ bạn bè ngày càng phong
phú cùng với sự phát triển nhân cách ngày càng cao của những người
bạn.
4.2. Tình yêu
- Tình bạn giữa những người khác giới dần dần phát triển thành tình cảm
sâu sắc hơn, đó là tình yêu (gắn bó con người 1 cách bền lâu)
- Tình yêu:
▪ Tình cảm cấp cao chỉ có ở người
▪ Đòi hỏi sự nổ lực và cố gắng để hướng tới sự hoàn hiện
- Tình yêu chân chính: chứa đựng lòng bao dung, trách nhiệm, sự trân
trọng, tôn trọng nhân cách của nhau, khám phá để hiểu và hòa quyện tâm
hồn với nhau. Tình yêu hướng tới sự quan tâm đến người khác, quan tâm
đến cuộc sống và sự phát triển của người mình yêu.
- Con người khi yêu sẽ mang niềm hạnh phúc và những phẩm chất cao
đẹp nhất của tình yêu: lòng nhân hậu, tình người ấm áp, lòng nhiệt tình,...
cho tất cả người xung quanh
- Lý thuyết của Sternberg về tình yêu (tam giác tình yêu): Mô tả sự phức
tạp thường gặp khi yêu, ông cho rằng tình yêu có 3 yếu tố cấu thành:
▪ Tình thân/ thân mật: là cảm giác gàn gũi và gắn bó với người yêu
▪ Sự say mê: sự lôi cuốn, hấp dẫn về ngoại hình, thể xác và dẫn đến
sự thỏa mãn về mặt tình dục
▪ Tính trách nhiệm/ tận tụy: là cảm xúc khiến đối phương chọn ở lại
bên bạn và cùng hướng đến những mục tiêu chung
- Mối liên kết của 3 yếu tố với nhau có thể tạo ra những hình thức, cấp độ
và tính chất khác nhau của các mối quan hệ tình cảm:
Các yếu tố cấu thành
Các dạng tình yêu
Tình thân Sự say mê Trách nhiệm
5.2. Sự phát triển con người với tư cách là thành viên của gia
đình
- Gia đình luôn chiếm vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với mỗi con
người. Mỗi người trưởng thành thường đóng vai trò nhất định trong gia
đình mình và đảm nhiệm các nhiệm vụ, nghĩa vụ gia đình tương ứng.
- Quá trình hình thành cặp vợ chồng và sự phát triển của các mối
quan hệ vợ chồng là một phần chủ yếu trong sự phát triển của người
trưởng thành. Mỗi gia đình đều trải qua chu kỳ cuộc sống gia đình với các
sự kiện hoặc các giai đoạn quan trọng của nó:
▪ Giai đoạn 1: tách khỏi gia đình cha mẹ.
▪ Giai đoạn 2: kết hôn, thích ứng và điều chỉnh các mối quan hệ
với người bạn đời hoặc với những người họ hàng nội ngoại.
▪ Giai đoạn 3: Sinh con đầu lòng (hình thành gia đình riêng hoặc
chuyển sang thời kỳ làm cha mẹ).
▪ Ngoài ra còn có các giai đoạn quan trọng khác trong chu kỳ sống
của gia đình: đứa con đầu lòng đi học, sinh đứa con tiếp theo, đứa con lớn
rời khỏi gia đình, chồng hoặc vợ ốm nặng hay chết...
● KẾT HÔN
- R. Centers, 1975, khẳng định rằng một số nhu cầu (nhu cầu tình
dục và nhu cầu thuộc vào nhóm nhất định) có vai trò quan trọng nhất
trong việc thúc đẩy con người lựa chọn bạn đời.
- B. Murstein, 1982, cho rằng mỗi người khi lựa chọn vợ, chồng đều
mong muốn có được một người như ý. Những ưu khuyết điểm của người
khác được “khảo sát” trong quá trình tìm hiểu để xác định xem có nên
tiếp tục các mối quan hệ nữa hay không.
- Goldrick, 1988, cho rằng sự hình thành cặp nam nữ cũng như quá trình
tìm hiểu lẫn nhau là sự phát triển một cấu trúc mới. Nhiệm vụ xác định lại
ranh giới giữa họ với nhau và với những người xung quanh có ý nghĩa
quyết định trong việc hình thành cặp nam nữ, nếu xác lập được các mối
quan hệ mới và thỏa mãn thì sẽ tiến dần tới hôn nhân hay các quan hệ
chính thức.
5.3. Sự phát triển con người với tư cách là chủ thể của hoạt
động lao động
- Có thể nói, công việc quyết định lối sống, hoàn cảnh vật chất, thể diện,
thái độ và các giá trị của chúng ta. Đúng ra thì công việc phải là tác nhân
của sự tăng trưởng và phát triển, công việc có thể đem lại niềm vui, sự
thoả mãn và góp phần vào việc tự xác định bản thân.
- Có thể hình dung cuộc sống của con người dưới dạng chu kỳ nghề
nghiệp:
▪ Bắt đầu từ những suy nghĩ và lo lắng về tương lai
▪ Lựa chọn nghề nghiệp
▪ Chuẩn bị kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp
▪ Quá trình lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp đã lựa chọn
▪ Kết thúc công việc và nghỉ hưu.
- Các yếu tố như điều kiện kinh tế xã hội, quê quán, khả năng trí tuệ, các
khả năng chuyên môn và giới tính, hoàn cảnh và trách nhiệm trước gia
đình có tác động rất nhiều lên việc lựa chọn nghề nghiệp.
- Khi những người trẻ tuổi mới bước vào công việc, họ có thể phải trải
qua trạng thái khủng hoảng tinh thần (căng thẳng, stress). Họ sẽ bị vỡ
mộng mọi tưởng tượng mà khi họ còn được ngồi trên giảng đường đại
học hay các trường dạy nghề. Khi mới vào nghề, họ thường bị những
người đã làm lâu năm giao cho những công việc máy móc năng nề, buồn
tẻ, không đúng với năng lực của mình.
- Những suy nghĩ như người thành đạt trong xã hội và có thu nhập cao
không hề giống như họ tưởng tượng. Thêm vào đó là việc hoà đồng với
mọi người nơi làm việc cũng rất khó khăn. -> hiện thực này gây ra sự
chán nản, tâm trạng hoang mang, căng thẳng, bực tức trong giai đoạn đầu.
- Tuy nhiên, giai đoạn này sẽ dần dần chuyển sang quá trình học hỏi,
vươn lên và cuối cùng là quá trình làm việc độc lập
- Levinson, 1978 đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của người hướng dẫn.
Đó là những người có kinh nghiệm và giàu lòng nhân ái, họ giúp những
bạn trẻ nắm được các giá trị và yêu cầu nghề nghiệp cần thiết.
- Khi các nhà nghiên cứu hỏi những người trưởng thành về công việc của
họ. Thường có hai loại câu trả lời:
🟒 Nhóm câu trả lời thứ nhất thường tập trung vào: những đặc điểm
của công việc, khả năng chuyên môn cần thiết để hoàn thành công
việc, ý nghĩa công việc, sự am hiểu nghề nghiệp, những thành quả
lao động đặt được.
⇨ Đó là các yếu tố bên trong của công việc
🟒 Nhóm câu trả lời thứ hai thường tập trung vào: các khoản tiền
thưởng, tiền lương, tiện nghi nơi làm việc, giờ giấc làm việc,
những người lãnh đạo, các chương trình nâng cao trình độ, an
dưỡng, các quan hệ thân thiết, khả năng thăng tiến
⇨ Đó là các yếu tố bên ngoài của công việc
- Những người may mắn làm các công việc có nhiều yếu tố bên trong
thường hài lòng với công việc hơn, họ hay chia sẻ về động lực và ý nghĩa
của công việc đó nhiều hơn.
- Các mối quan hệ bạn bè thường là yếu tố bên ngoài rất quan trọng của
công việc.
- Các mối quan hệ này tạo nên sự chia sẻ động viên về tình cảm => là một
trong những nguyên nhân tại sao những người đi làm việc ở ngoài gia
đình thường có sức khoẻ tâm lý và thể chất tốt hơn so với những người
lao động tại nhà.
- Mặc dù còn rất nhiều người lao động chỉ để kiếm tiền, song song đó
cũng có những người khác làm việc vì đam mê, sở thích, để phát triển bản
thân.
- Cũng có nhiều người không đặt công việc lên hàng đầu, mà tìm sự cân
bằng giữa gia đình, công việc cũng như các lợi ích và sở thích cá nhân.
6. NHỮNG NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN CỦA CON NGƯỜI
TUỔI TRƯỞNG THÀNH
Người trưởng thành là người có sự chín muồi vể cả ba mặt: Sinh lý,
xã hội và tâm lý. Giai đoạn này con người cần phải có những quyết
định cũng như hành động độc lập trong cuộc sống của bản thân mình.
Đây là thời kì vô cùng quan trọng trong cuộc đời mỗi con người.
Trong lịch sử phát triển tâm lí học đã có nhiều nghiên cứu về mục
tiêu cơ bản trong cuộc sống của người trưởng thành. Dưới đây là 3
quan điểm tiêu biểu:
1. HAVINGUAR:
TUY NHIÊN
● Hoàn cảnh nền kinh tế, văn hoá, xã hội của con người ngày
càng phát triển và ở mỗi khu vực, quốc gia, dân tộc lại có những
yếu tố kinh tế, văn hoá xã hội khác nhau nên tính ứng dụng của
các quan điểm của Havinguar không cao và không phù hợp với
tất cả mọi người .
🡺 Ví dụ : Hiện nay có một số lượng lớn thanh niên đến 30 tuổi vẫn
sống phụ thuộc vào gia đình, hoặc ở những nơi có nền kinh tế, văn
hoá xã hội phát triển thanh niên có xu hướng kết hôn muộn, còn ở
một số nơi ( đặc biệt là ở các vùng nông thôn ) do sự nghèo nàn,
lạc hậu, vẫn còn giữ hủ tục “ tảo hôn ” nên những nhiệm vụ chọn
vợ, chọn chồng, bắt đầu cuộc sống gia đình có thể được đẩy lên
sớm hơn vào tuổi thanh niên.
2. THEO ERIKSON
Chủ đề chính trong cả cuộc đời con người là sự tìm kiếm cái bản sắc.
● Bản sắc (Identity) là tổ hợp các biểu tượng bền vững của con người
về bản thân, về vị trí của mình tron gthe61 giới và trong các mối
quan hệ xã hội; là ý thức về cái Tôi với những phẩm chất riêng độc
đáo, thể hiện thống nhất ở tình cảm, nhận thức và hành vi con
người.
Erikson chia quá trình phát triển đời người thành 8 giai đoạn trong đó
có 3 giai đoạn liên quan đến người trưởng thành. Sự phát triển của mỗi
giai đoạn liên quan chặt chẽ với việc thực hiện thành công hay không
thành công nhiệm vụ của giai đoạn trước.
● Giai đoạn 5 – Định hình cái tôi và Bối rối về vai trò (Stage 5 –
Identity vs. Confusion):
▪ Giai đoạn thứ năm trong quá trình phát triển tâm lý xã hội diễn ra trong
những năm tháng tuổi teen đầy xáo trộn. Giai đoạn này đóng một vai
trò thiết yếu trong sự phát triển cảm nhận về định hình (bản dạng) cái
tôi, bản dạng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên hành vi và sự phát triển của
toàn bộ cuộc sống sau này.
▪ Trong suốt tuổi vị thành niên, trẻ khám phá sự tự lập và hình thành
cảm nhận về bản thân. Những người nhận được sự khích lệ và củng cố
phù hợp sẽ vượt qua giai đoạn này với sự cảm nhận mạnh mẽ về bản
thân, cảm giác tự lập và chủ động kiểm soát. Những người vẫn còn
không chắc chắn về những niềm tin và ham muốn của mình sẽ cảm
thấy bất an và bối rối về bản thân cũng như tương lai.
● Giai đoạn 7 – Kiến tạo giá trị và Đình trệ (Stage 7 – Generativity
vs. Stagnation):
▪ Trong suốt những năm tháng trưởng thành, chúng ta tiếp tục vun đắp
cuộc sống, tập trung vào sự nghiệp và gia đình.
▪ Người thành công trong giai đoạn này sẽ cảm thấy mình đang chủ
động đóng góp cho thế giới qua các hoạt động ở nhà và ở cộng đồng.
Những người không thể đạt được kỹ năng này sẽ cảm thấy mình
không có ích và không gắn kết với thế giới.
▪ Chăm sóc là phẩm chất đạt được khi vượt qua giai đoạn này thành
công. Tự hào về những thành tích của bản thân, nhìn con cái trưởng
thành mỗi ngày và hình thành một cảm nhận về sự thống nhất với bạn
đời là những thành tích quan trọng đạt được trong giai đoạn này.
🡺 Vấn đề xác định bản sắc trải dài trong suốt quá trình trưởng thành:
thành công và tự tin vào bản thân hoặc thất bại và mơ hồ về vai trò.
Nhiệm vụ quan trong nhất ở tuổi trưởng thành là xác định rõ bản
sắc riêng và thiết lập các mối quan hệ thân tình.
3. THEO LEVINSON
D.Levinson đã tiến hành một cuộc điều tra lớn ở Mỹ về sự phát
triển của những người trưởng thành.
Theo ông và các đồng nghiệp, để đạt được độ trưởng thành chân
thực, con người phải giải quyết bốn nhiệm vụ phát triển sau đây: Xác
định khát vọng; Tìm người hướng dẫn; Xây dựng sự nghiệp; Thiết lập
các mối quan hệ thân tình.
Xác định khát vọng
Khát vọng là những mục tiêu, ước mơ, những hình ảnh lý tưởng mà
con người muốn vươn tới.
Khi bước vào tuổi trưởng thanh, mỗi người đều có những mong
muốn nhất định. Có người mong muốn trở thành ngôi sao điện ảnh, có
người ước minh trở thành một doanh nhân, một chinh trị gia, một cô
giao, một nhà báo, một phi công. Có người mong muốn được học đại
học, được giâu có, được nổi tiếng, tài giỏi,…
Con người không thể đạt được ngay những khát vọng của chinh
minh. Tuy nhiên, thông qua việc xác định khát vọng và thực hiện nó,
con người tìm thấy được động cơ, hứng thú để làm việc, học tập và có
ý chí quyết tâm trong công việc cũng như trong cuộc sống.
Tìm người hướng dẫn
Sự giúp đỡ của những người có kinh nghiệm có thể đóng vai trò
quan trọng trên bước đường theo đuổi khát vọng của những người
trưởng thành trẻ tuổi. Người hướng dẫn, người thầy có thể làm cho các
bạn trẻ cảm thấy tự tin, chia sẻ và tán đồng những ước mơ của họ,
đồng thời có thể truyền đạt các kiến thức và kinh nghiệm đã được tích
lũy và kiểm nghiệm trong cuộc sống và nghề nghiệp của minh.
Tuy vậy, chức năng chủ yếu của người hướng dẫn là biến mối quan hệ
thầy trò trở thành mối quan hệ giữa những người trưởng thành bình
đẳng.
⇨ Nhìn chung, các bạn trẻ đều có xu hướng tìm cho minh một
hoặc nhiều người hướng dẫn để có thể học hỏi. Người hướng
dẫn không chỉ là người có kinh nghiệm trên con đường nghề
nghiệp, mà còn có thể là những người am hiểu trong các linh
vực như: tinh yêu, hôn nhân, gia đinh và đối nhân xử thế trong
các mối quan hệ xã hội nói chung.