Professional Documents
Culture Documents
1. Đối tượng, nhiệm vụ, ý nghĩa của tâm lý học phát triển
1.1. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của TLH phát triển
Sau khi trở thành một khoa học độc lập, kết quả nghiên cứu của tâm lý học được
ứng dụng rộng rãi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó hình thành nên nhiều
chuyên ngành tâm lý học, nghiên cứu chuyên sâu về tâm lý con người ở từng giai đoạn
lứa tuổi hay trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau. Tâm lí học phát triển là một
trong số những chuyên ngành quan trọng của tâm lý học, hướng vào việc nghiên cứu sự
phát triển tâm lí và nguyên nhân của sự phát triển đó của con người trong suôt quá trình
sống. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học phát triển là sự phat triển tâm lý con người:
Nguồn gốc, động lực, cơ chế, qui luật, điều kiện của sự phát triển tâm lý con người với tư
cách là một thành viên của xã hội, qua các giai đoạn lứa tuổi.
Nghiên cứu đối tượng của mình, tâm lí học phát triển cũng tuân theo những
nguyên tắc, những cơ sở lí luận của những luận thuyết tạo nên phương pháp luận của tâm
lí học đại cương. Nhưng sự phát triển tâm lí lứa tuổi còn chịu sự tác động của những qui
luật riêng và có những đặc điểm đặc trưng nên nhiệm vụ của tâm lí học phát triển.
- Làm rõ nguồn gốc, động lực, cơ chế của sự phát riển tâm lý con người.
- Chỉ ra những qui luật, đặc điểm, điều kiện của sự phát triển tâm lý con người ở
từng giai đoạn phát triển.
- Xây dựng cơ sở khoa học cho quá trình giáo dục, tự giáo dục, công tác quản lý,
công tác xã hội....Góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận và thực tiễn của tâm lý
học.
1.2. Ý nghĩa TLH phát triển
Tâm lí học phat triển dựa trên triết học duy vật biện chứng. Các luận điểm triết học
vạch ra những qui luật chung nhất của sự phát triển các hiện tượng tự nhiên, xã hội và
khẳng định tâm lí, ý thức con người do xã hội quyết định. Sự hiểu biết các qui luật chung
giúp cho TLHPT có cách nhìn đúng đắn đối với sự phát triển tâm lí , làm rõ tâm lí, ý thức
và nhân cách con người được nảy sinh như thế nào, bằng con đường nào. Ngược lại
nghiên cứu quá trình nhận thức, điều kiện, qui luật phát triển tâm lí lại làm sáng tỏ bản
chất chung của hoạt động nhận thức của loài người và luận thuyết về sự hình thành và
phát triển tâm lí theo quan điểm duy vật biện chứng.
Tâm lí học phát triển dựa trên những tri thức về tâm lí con người do tâm lí học đại
cương cung cấp, đồng thời TLHPT lại cung cấp cứ liệu cho tâm lí học đại cương. Nhiều
hiện tượng, qui luật tâm lí của con người sẽ không thể hiểu được nếu không nghiên cứu
qui luật phát sinh của chúng. Có thể nói TLHPT là một phương pháp đặc biệt để nghiên
cứu tâm lí – phương pháp phát sinh mà nhờ nó các qui luật của tâm lí đại cương được xác
lập.
TLHPT thường xuyên sử dụng thành tựu giải phẫu sinh lí và bệnh học lứa tuổi,
nhất là những số liệu về sự phát triển của hệ thần kinh cấp cao của trẻ. Sự trưởng thành
và hoạt động bình thường của hệ thần kinh là điều kiện tối quan trọng của sự phát triển
tâm lí.
TLHPT là cơ sở để nhà giáo dục xây dựng nội dung, phương pháp, cách thức tổ
chức hoạt động giáo dục con người có hiệu quả cho từng lứa tuổi. Ngược lại những
phương pháp giáo dục trên cơ sở thành tựu của TLHPT không những đảm bảo cho sự
phát triển nhân cách con người đạt hiệu quả cao mà còn phát hiện ra những tiềm năng trí
tuệ và những chức năng tâm lí cao cấp khác ở mỗi lứa tuổi, biến những dự kiến tương lai
của con người thành hiện thực, tạo điều kiện cho sự phát triển mọi mặt của con người.
2.Phương pháp nghiên cứu của tâm lý học pháp triển
2.1. Những phương pháp đặc trưng
Là một chuyên ngành của Tâm lý học, TLHPT tuân theo nguyên tắc phương pháp
luận của tâm lý học đại cương và sử dụng những phương pháp nghiên cứu chung của
Tâm lý học như phương pháp quan sát, thực nghiệm, trắc nghiệm, điều tra bằng bảng
hỏi, trò chuyện. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của mình, TLHPT còn thực hiện một
số phương pháp đặc trưng.
+ Phương pháp nghiên cứu trẻ sinh đôi
Phương pháp nghiên cứu trẻ sinh đôi nhằm tìm hiểu vai trò của các yếu tố bẩm
sinh di truyền và môi trường đối với sự phát triển tâm lý con người. Hầu hết các nghiên
cứu đều chứng minh cả di truyền và môi trường đều có ảnh hưởng nhất định đến sự phát
triển tâm lý con người.
+ Phương pháp nghiên cứu tâm sinh lý
Phương pháp nghiên cứu tâm sinh lý là phương pháp đo lường những quan hệ
giữa các quá trình sinh lý và các phản ứng tâm lý của con người. Chẳng hạn, mối quan hệ
giữa nhịp tim với trải nghiệm tâm lý. Hoặc mối quan hệ giữa sóng điện của não với trạng
thái chú ý.
+ Phương pháp ghi chép dân tộc học
Phương pháp ghi chép dân tộc học là phương pháp nhà nghiên cứu tìm hiểu những
truyền thống, hệ giá trị truyền thống độc đáo và quá trình xã hội hóa của nền văn hóa hay
tiểu nền văn hóa bawngfc ách sống chung với các thành viên của nền văn hóa đó trong
thời gian khá dài để quan sát và ghi chép tỉ mỉ về họ.
Phương pháp này góp phần chứng minh ảnh hưởng của nền văn hóa đối với sự
phát triển tâm lý con người, tuy nhiên kết quả chỉ có thể áp dụng cho một dân tộc cụ thể
mà không thể khái quát hóa cho những bối cảnh hoặc những nhóm xã hội khác nhau.
3. Các cách thiết kế nghiên cứu trong tâm lý học phát triển
Quá trình thực hiện các phương pháp nghiên cứu được các nhà nghiên cứu theo
các hướng khác nhau
+ Thiết kế nghiên cứu theo chiều dọc
Nghiên cứu theo chiều dọc là loại nghiên cứu lặp đi lặp lặp lại một mẫu các đối
tượng nhiều lần vào nhiều thời điểm khác nhau trong thời gian dài, có thể trong nhiều
năm. Ví dụ, Lewis Terman đã chọn những trẻ em từ 2 đến 14 tuổi để nghiên cứu trí
thông minh. Nghiên cứu này đã tiến hành trong nhiều năm đến khi hầu hết các đối tượng
đã 16 tuổi. Ưu điểm nổi bật của nghiên cứu theo chiều dọc trẻ em được quan sát ở từng
độ tuổi, do vậy sự ổn định của các hành động, cách cư xử của mỗi cá nhân có thể được
chú ý và khẳng định một cách có cơ sở, hơn nữa có những vấn đề tâm lý trẻ em chỉ có thể
nghiên cứu bằng phương pháp này. Tuy nhiên nghiên cứu, nghiên cứu theo chiều dọc tốn
kém, mất nhiều thời gian, bị động.
+ Thiết kế nghiên cứu cắt ngang
Nghiên cứu theo chiều ngang là nghiên cứu sự phát triển của trẻ em ở độ tuổi khác
nhau tại cùng một thời điểm.
Ưu điểm của nghiên cứu theo chiều ngang là cho phép nhà nghiên cứu có ngay
đánh giá về sự thay đổi tâm lý của trẻ mà không cần phải đợi thêm nhiều năm nữa. Hầu
hết các nghiên cứu theo chiều ngang tập trung được số điểm số của từng đối tượng một
theo phương thức mà kết quả trung bình của hai hay nhiều nhóm trẻ được so sánh với
nhau. Nhờ vậy tiết kiệm được nhiều thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên nghiên cứu này
không thể rút ra kết luận về từng trẻ một và về các đặc điểm có thể quan sát ở một độ tuổi
có liên quan như thế nào đến các đặc điểm của độ tuổi khác. Mặt khác những thông tin cá
nhân không phải là trọng tâm trong phân tích dữ liệu, nên loại nghiên cứu này không thể
nghiên cứu các dạng phát triển hay mức độ ổn định của từng cá nhân.
+Thiết kế nghiên cứu nhóm kế tiếp
Thiết kế nghiên cứu nhóm kế tiếp là nghiên cứu kết hợp hai cách thiết kế nghiên
cứu theo chiều ngang và nghiên cứu theo chiều dọc. Ví dụ: nghiên cứu về hứng thú xem
ti vi thay đổi như thế nào qua các độ tuổi ở trẻ, người ta đã chọn hai nhóm trẻ 3 tuổi đến 5
tuổi và 5 tuổi đến 7 tuổi để quan sát trong thời gian hai năm.
Loại nghiên cứu này có ưu điểm là kết hợp được lợi ích của nghiên cứu theo chiều
dọc và nghiên cứu theo chiều ngang, cho phép người nghiên cứu thu thập được nhiều
thông tin trong khoảng thời gian ngắn, tiết kiệm được thời gian lại ít tốn kém.
+ Thiết kế nghiên cứu xuyên văn hóa là nghiên cứu đối tượng từ những nền văn
hóa khác nhau trên một hay nhiều bình diện của sự phát triển. Nghiên cứu theo hướng
này nhằm xem xét tính phổ quát của qui luât phát triển và chỉ ra sự phụ thuộc vào môi
trường văn hóa, xã hội, môi trường tự nhiên trong quá trình phát triển.
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ NGƯỜI
1. Sự phát triển thể chất và hoạt động của trẻ tuổi ấu nhi
1.1. Sự phát triển thể chất
Trẻ 1 tuổi trọng lượng cơ thể gấp 3 lần lúc mới sinh. Từ tuổi thứ hai trở đi, mức độ
tăng cân giảm dần.
Cấu trúc và chức năng của hệ thần kinh ngày càng hoàn thiện, khả năng phối hợp
các hệ cơ quan tốt hơn, trẻ đi được một cách độc lập.
Nhờ sự phát triển của hệ cơ, hệ xương và hệ thần kinh cùng với sự hướng dẫn của
người lớn, các hình thái vận động của trẻ hoàn thiện nhanh chóng, cuối năm thứ nhất một
số trẻ đã bắt đầu biết đi nhưng hầu hết phải sang năm thứ hai trẻ mới đi vững.
Đi thẳng đứng là hình thái vận động đặc trưng của con người. Đây là hình thái vận
động khó khăn đối với trẻ. Thời gian đầu trẻ mới chập chững, việc điều khiển cử động đi
chưa được hình thành, trẻ đi luôn mất thăng bằng, đầu chúi về phía trước, bước thật
nhanh. Những trở ngại trên đường đi đều làm trẻ sợ hãi, bối rối, hay ngã. Giai đoạn này
người lớn cần nâng đỡ, dìu dắt, động viên kịp thời.
Sau những thành công bước đầu, trẻ cảm thấy thích đi. Dưới sự hướng dẫn của
người lớn, động tác đi ngày càng tiến bộ, trẻ làm chủ được thân thể mình, bước đi mạnh
dạn hơn, các vận động được thực hiện không còn căng thẳng như trước kia.
Khi bước đi đã được tự động hóa trẻ bắt đầu thích làm phức tạp hóa bước đi của
mình như đi thụt lùi, đi xoay vòng, chạy, nhảy, leo trèo, đi dép người lớn v v . Thời gian
này người lớn cần tận dụng thời cơ để luyện tập cho trẻ những động tác đòi hỏi sự khéo
léo phức tạp.
Đi theo tư thế thẳng đứng là bước tiến cơ bản về mặt sinh học đồng thời là bước
tiến quan trọng trong việc xã hội hóa đứa trẻ.
- Biết đi làm khả năng phối hợp của chân, tay, tai, mắt ngày càng nhịp nhàng theo
những qui định của đối tượng hoạt động, cơ thể khỏe mạnh.
- Khả năng định hướng trong không gian phát triển, trẻ có thể ước lượng sơ bộ
khoảng cách giữa mình với đồ vật xung quanh, đồng thời thu thập được nhiều kinh
nghiệm trong cuộc sống.
- Biết đi kích thích trẻ hăng hái hoạt động, tìm tòi khám phá môi trường xung
quanh, phạm vi tiếp xúc mở rộng, trẻ độc lập, mạnh dạn trong hành động khám phá đồ
vật và quan hệ với mọi người xung quanh.
Tóm lại, biết đi là một bước trưởng thành của trẻ không chỉ về mặt sinh học, mà
quan trọng hơn là về mặt tâm lý, xã hội. Từ đây trẻ là một con người thực sự độc lập
trong việc chiếm lĩnh thế giới đồ vật và giao tiếp với mọi người. Để trẻ sớm biết đi một
cách vững vàng, cần thực hiện tốt quá trình chăm sóc sức khỏe với chế độ dinh dưỡng
khoa học và giúp trẻ luyện tập đúng cách.
1.2. Sự phát triển hoạt động của trẻ tuổi ấu nhi
1.2.1. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của tuổi ấu nhi
Đối với tuổi hài nhi, hoạt động của trẻ chỉ ở mức độ phản ứng hành vi, chưa đạt
đến mức độ hoạt động với tư cách là một phạm trù tâm lí. Trong quá trình tiếp xúc với đồ
vật trẻ đã có hành động khá phức tạp, nhưng chỉ dừng ở mức chơi nghịch vu vơ chưa
nhằm khám phá chức năng. Sang tuổi ấu nhi, hệ thần kinh, các giác quan và cơ thể phát
triển mạnh, kích thích trẻ tích cực vận động, sờ mó thao tác với đồ vật, Dần dần chính sự
hấp dẫn từ các thuộc tính của đồ vật lôi cuốn sự chú ý của trẻ, khiến trẻ hăng hái tìm tòi
khám phá mọi vật trong môi trường xung quanh, luôn chân luôn tay suốt ngày. Tiếp xúc
với bất kỳ đồ vật nào là trẻ hướng tới tìm hiểu chức năng của đồ vật, bắt chước cách sử
dụng đồ vật theo kiểu người (cầm thìa xúc cơm, cầm ly uống nước v v), do vậy hành
động của trẻ giống với hành động sử dụng công cụ của người lớn.
Dưới sự hướng dẫn của người lớn, hành động với đồ vật đã tạo ra sự phát triển
toàn diện đời sống tâm lí của trẻ ấu nhi.
- Trẻ lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm xã hội loài người chứa đựng trong thế giới
đồ vật, biết cách sử dụng đồ vật theo kiểu người.
- Hành động với đồ vật tạo ra sự phối hợp của chân, tay, tai, mắt, hình thành sự
vận động tinh khéo của đôi tay.
- Cảm xúc trí tuệ phát triển mạnh. Khi đã biết cách sử dụng một số đồ vật, định
hướng của trẻ vào môi trường xung quanh phát triển mạnh, mọi vật trong thế giới xung
quanh đối với trẻ đều mới lạ hấp dẫn. Gặp bất cứ đồ vật nào, trẻ đều tò mò khám phá,
tháo lắp, vặn mở. Những hành động này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển trí tuệ của
trẻ, cần duy trì phát triển. Tuy nhiên trong số đồ vật trẻ muốn khám phá có rất nhiều đồ
vật dễ vỡ, dễ gây nguy hiểm cho trẻ. Đây là mâu thuẫn giữa tính tích cực hoạt động của
trẻ với khả năng của các cháu. để giải quyết mâu thuẫn này, đồ chơi phải ra đời, tác giả
Nguyễn ánh Tuyết đã khẳng định : Đồ chơi đối với tuổi ấu nhi cần thiết giống như cuốc
cày với nhà nông, phòng thí nghiệm đối với nhà khoa học. Tuy nhiên trẻ hành động với
đồ vật thật có ý nghĩa hơn.
- Nhờ hoạt động với đồ vật, các chức năng tâm lí của trẻ phát triển mạnh, đặc biệt
là tri giác không gian, tư duy trực quan hành động làm tiền đề cho tưởng tượng phát triển.
- hành động với đồ vật còn làm cho ý thức của trẻ được hình thành và phát triển,
trẻ nhận ra những chuẩn mực hành vi và biết điều khiển hành vi theo đúng chuẩn mực.
1.2.2. Các loại hành động với đồ vật của tuổi ấu nhi
* Hành động công cụ
Hành động công cụ là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử dụng như
một công cụ để tác động lên vật khác. Chẳng hạn, dùng ly uống nước, dùng thìa xúc
cơm…
Công cụ là khâu trung gian giữa bàn tay và đối tượng hoạt động, là khí quan nhân
tạo làm tăng sức mạnh tự nhiên của con người, giúp con người thực hiện được những
hành động phức tạp mà nếu chỉ bằng tay không thì không thể thực hiện được.
Cấu tạo của công cụ qui định đặc điểm hành vi thao tác, chẳng hạn để đưa thức ăn
vào miệng, thao tác dùng thìa khác với thao tác dùng đũa. Do vậy khi hành động đòi hỏi
chủ thể phải chú ý tới cấu tạo của công cụ để điều chỉnh thao tác của đôi tay sao cho phù
hợp với cấu tạo của của công cụ.
Trẻ ấu nhi mới chỉ học cách sử dụng những công cụ đơn giản như dùng thìa xúc
cơm, dùng ly uống nước… Tuy nhiên trẻ chỉ nắm được hành động một cách đúng đắn khi
có sự hướng dẫn hệ thống của người lớn. Qúa trình lĩnh hội hành động sử dụng công cụ
của trẻ trải qua nhiều giai đoạn.
- Giai đoạn đầu, công cụ chỉ là sự kéo dài của đôi tay. Lúc này sự chú ý của trẻ chỉ
chỉ hướng về đối tượng mà không hướng về cấu tạo của công cụ để điều chỉnh thao tác,
vì vậy hành động không thành công. Quan sát trẻ cầm thìa xúc cơm trong những lần đầu
tiên ta thấy rõ điều này.
- Sang giai đoạn tiếp theo, trẻ bắt đầu chú ý tới quan hệ giữa công cụ và đối tượng,
có sự điều chỉnh thao tác của đôi tay, trẻ làm đi làm lại nhiều lần mới đạt kết quả. Khi
bàn tay của trẻ thích nghi đầy đủ với cấu tạo công cụ mới xuất hiện hành động công cụ
đích thực. Mặc dù vậy, hành động công cụ mà trẻ nắm được ở tuổi ấu nhi chưa phải là
hoàn toàn thành thạo, song trẻ đã nắm được nguyên tắc sử dụng công cụ, một trong
những nguyên tắc hành động cơ bản của con người, nhờ đó trong những trường hợp khác
nhau trẻ có thể tự mình sử dụng đồ vật nào đó.
Để trẻ nhanh chóng lĩnh hội hành động công cụ một cách đúng đắn, trong quá
trình chăm sóc trẻ, cô giáo và người lớn cần làm mẫu chậm để cho trẻ quan sát, đồng thời
hướng dẫn sự vận động của đôi tay, ngón tay sao cho phù hợp với cấu tạo của công cụ,
luôn nhắc nhở trẻ chú ý đến kết quả của hành động.
* Hành động thiết lập mối tương quan
Đó là hành động đưa hai hoặc nhiều đối tượng (hoặc các bộ phận của chúng) vào
những mối tương quan nhất định trong không gian để tạo nên hình dáng hoàn chỉnh của
đối tượng. Ví dụ hành động xếp hình ngôi nhà hay đoàn tàu…
Thiết lập mối tương quan là hành động khá phức tạp đối với tuổi ấu nhi, bởi vì
hành động này phải được điều chỉnh bằng chính kết quả thu được, nhưng trẻ lại chưa tự
mình tạo ra kết quả đó. Thời gian đầu trẻ thường xếp lung tung, vì vậy người lớn cần
hướng dẫn trẻ.
Sự lĩnh hội hành động thiết lập mối tương quan và ảnh hưởng của nó đối với sự
phát triển tâm lý của trẻ phụ thuộc vào cách hướng dẫn của người lớn. Cách tốt nhất là
dạy trẻ nhìn trước bằng mắt để lựa chọn đối tượng thích hợp theo một tương quan nhất
định, rồi tổ chức các hành động thiết lập tương quan cho đúng. Để trẻ tự thực hành những
thao tác, trong quá trình trẻ thực hiện, cô gợi ý để trẻ tự điều chỉnh hành động sao cho
phù hợp để tạo ra kết quả, cô không nên làm thay cho trẻ. Cách hướng dẫn này giúp trẻ
nắm được các phương thức hành động đúng, thực hiện được hành động trong những điều
kiện khác nhau, đồng thời làm phát triển mạnh tri giác không gian, trí nhớ, tư duy trực
quan hành động và trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
1.3. Đặc điểm phát triển hoạt động giao tiếp của tuổi ấu nhi
Nhờ sự trưởng thành về mặt sinh học và sự quan tâm của người lớn, giao tiếp của
trẻ ấu nhi có nhiều thay đổi.
Đối tượng giao tiếp của trẻ được mở rộng, trẻ được giao tiếp với nhiều người ở
nhiều độ tuổi với những khung cảnh không gian, thời gian khác nhau đã giúp trẻ cọ sát,
nhập tâm được nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống.
Nhu cầu hành động với đồ vật phát triển kéo theo nhu cầu giao tiếp với người lớn
phát triển, trẻ luôn hướng tới người lớn để được người lớn hướng dẫn cách hành động với
đồ vật. Giao tiếp giữa trẻ với người lớn ở tuổi này được gọi là giao tiếp “công việc”.
Trong quan hệ giao tiếp ý thức chưa phát triển, khả năng nhận ra mình chưa rõ
ràng, tính tự kỷ của trẻ rất cao, mới chỉ biết mình mà chưa biết người vì vậy trẻ hay
nhõng nhẽo, bắt mọi người phải chiều theo ý mình nhất là đối với người thân.
Trẻ biết chú ý đến bạn, nhưng chủ yếu vẫn chơi một mình, chơi cạnh nhau mà
chưa biết chơi cùng nhau. Vì vậy quan hệ với bạn cùng tuổi ở độ tuổi này thường xảy ra
nhiều xung đột.
Tính chất của các mối quan hệ giao tiếp có sự thay đổi. Khi giao tiếp với mẹ và
mọi người trong gia đình, trẻ thường được thỏa mãn tối đa mọi nhu cầu. Nhưng trong
quan hệ với mọi người ngoài xx hội trẻ không dễ dàng được thỏa mãn như trước nữa,
phải có những hành vi ứng xử khác nhau tuân theo những luật lệ, những yêu cầu người
lớn đặt ra. Điều đó tạo điều kiện cho ý thức được hình thành và phát triển nhanh chóng.
Chỉ có trong quan hệ giao tiếp, ngôn ngữ của trẻ mới được hình thành và phát
triển, ngôn ngữ phát triển lại tạo điều kiện cho quá trình giao tiếp với mọi người được dễ
dàng hơn, nội dung thông tin trẻ lĩnh hội được nhiều, tạo điều kiện cho các chức năng
tâm lý phát triển.
Giao tiếp luôn có ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành và phát triển tâm lý trẻ ấu
nhi, là điều kiện tiên quyết để trẻ lớn lên thành người. Nếu nhu cầu giao tiếp ở tuổi này
không được thỏa mãn (bị đói giao tiếp), trẻ có những biểu hiện của rối nhiễu hành vi
như : buồn rầu, sợ sệt, nhút nhát, thu mình lại hoặc giận dữ, chống đối. Thậm chí, trẻ có
những hành động bất thường như ỉa đùn, đái dầm… Hiện tượng này cần phải được khắc
phục nhanh chóng bằng sự quan tâm kịp thời của người thân, cô giáo và những người lớn
khác. Nếu không trẻ có nguy cơ rối loạn tâm lý thậm chí mắc bệnh tâm thần.
2. Sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ của trẻ ấu nhi
2.1. Sự phát triển nhận thức
* Nhận thức cảm tính
Nhờ hoạt động với đồ vật, tri giác không gian của trẻ ngày càng phát triển đầy đủ
và tinh vi.
Ở tuổi hài nhi sự tri giác của trẻ về đồ vật còn hết sức sơ sài, nhận thức của trẻ về
các thuộc tính của đồ vật còn mang tính ngẫu nhiên. Sang tuổi ấu nhi, trong quá trình học
cách sử dụng đồ vật và thiết lập mối tương quan, trẻ đã nhận ra một cách trọn vẹn về hình
dáng, vị trí, phương hướng của đồ vật (hành động định hướng bên ngoài). Dần dần trẻ đã
biết dùng mắt để lựa chọn những đối tượng, bộ phận cần thiết để hành động phù hợp
ngay mà mà không cần phải có hành động ướm thử như trước (hành động định hướng
bằng mắt). Nhờ vậy trẻ đã có thể hành động theo mẫu mà người lớn yêu cầu.
Vốn kinh nghiệm của trẻ tăng lên, ngôn ngữ và các chức năng tâm lí khác phát
triển, nhờ vậy tri giác của trẻ đã mang tính ý nghĩa. Trẻ đã phân biệt được những người
thân trong ảnh, gọi tên được những đối tượng quen thuộc trong quá trình tri giác.
Tri giác đặc trưng của tuổi ấu nhi là tri giác không chủ định. Trẻ chưa biết tri giác
theo một mục đích định trước, tri giác mang tính đại thể chung chung mà chưa có khả
năng tri giác tổng thể trên cơ sở phân tích từng bộ phận. Chẳng hạn trẻ nhanh chóng nhận
ra áo của mình trong nhiều bộ đồng phục của lớp, nhưng không thể lí giải được vì sao đó
là áo của mình.
Cùng với tri giác bằng mắt, tri giác bằng tai của trẻ phát triển mạnh. Ở tuổi thứ
hai, trẻ đã tri giác được tất cả âm vị của tiếng mẹ đẻ. Trong lĩnh vực âm nhạc trẻ đã có
khả năng tri giác được những âm thanh với độ cao khác nhau. Đến ba tuổi trẻ bắt chước
rất nhanh ngôn ngữ của người lớn và những bài hát đơn giản. Tuy nhiên khả năng này
còn tùy thuộc vào môi trường giao tiếp và điều kiện giáo dục.
Trẻ đã có khả năng tri giác về thời gian, song mới chỉ nhận ra những biểu tượng
thời gian đơn giản, gắn liền với sinh họat hàng ngày như sáng, tối, đêm v v.
Để tri giác của trẻ phát triển, trong quá trình chăm sóc giáo dục cần bảo vệ, giữ gìn
các giác quan cho các cháu, đồng thời tổ chức nhiều hoạt động vui chơi, cho trẻ tiếp xúc
với đồ vật có hình dạng, âm thanh, màu sắc đa dạng để rèn luyện độ nhạy cảm của giác
quan.
* Đặc điểm phát triển nhận thức lý tính
+ Đặc điểm phát triển tư duy
- Mầm mống của tư duy xuất hiện từ cuối một tuổi, biểu hiện trẻ đã biết sử dụng
những mối quan hệ có sẵn để đạt được mục đích hành động như kéo khăn trải bàn để lấy
được vật ở xa tầm tay để trên bàn. Theo quan điểm của Piaget mầm mống của tư duy ở
trẻ xuất hiện vào giai đoạn thứ 5 của thời kỳ giác động.
- Dưới sự hướng dẫn của người lớn, sang tuổi thứ hai trong quá trình hành động
với đồ vật trẻ đã biết thiết lập những mối quan hệ giữa các sự vật trong những điều kiện
mới, khi ấy tư duy mới thực sự được hình thành. Chẳng hạn, người lớn hướng dẫn trẻ lấy
gậy để khều quả bóng trong gầm ghế ra, dựa vào kinh nghiệm ấy, lần khác trẻ biết lấy
gậy khều một vật trên cao xuống.
Thời gian đầu, việc xác lập những mối quan hệ không có sẵn được thực hiện bằng
những hành động thực tế theo phương thức “Thử và có lỗi” nhiều khi ngẫu nhiên trẻ tìm
ra đáp số. Ví dụ : Sau nhiều lần bấm lung tung vào những bộ phận của điều khiển từ xa,
trẻ đã phát hiện được cách mở và tắt ti vi. Hoặc trẻ tháo tung các bộ phận của búp bê để
biết vì sao búp bê nhắm mắt được khi đặt nằm xuống.
Như vậy quá trình tìm hiểu thuộc tính bản chất và mối quan hệ của sự vật hiện
tượng ở trẻ là nhờ những hành động định hướng bên ngoài nên gọi là tư duy trực quan
hành động. Đây là loại tư duy xuất hiện sớm nhất trong quá trình phát triển cá thể. Trong
suốt tuổi ấu nhi loại tư duy này được phát triển mạnh nhờ hành động với đồ vật.
- Cuối tuổi thứ ba trên cơ sở tư duy trực quan hành động phát triển mạnh, tư duy
trực quan hình tượng bắt đầu hình thành. Nhưng chủ yếu trẻ vẫn giải quyết nhiệm vụ
bằng hành động thao tác cụ thể. Chỉ trong những tình huống đơn giản trẻ mới có khả
năng giải quyết tình huống bằng tư duy trực quan hình tượng.
- Các thao tác tư duy được hình thành và phát triển, tuy nhiên còn gắn liền với
những hành động thao tác cụ thể. Khả năng khái quát hóa của trẻ mới chỉ dựa vào dấu
hiệu bề ngoài. Đặc điểm này thể hiện rõ trong cách gọi tên đồ vật và sự nhận xét ngộ
nghĩnh của trẻ về thế giới xung quanh.
Muốn cho tư duy của trẻ phát triển, trong quá trình chăm sóc giáo dục cô giáo cần
tạo ra nhiều đồ chơi, đồ dùng cho trẻ thao tác hành động, kích thích trẻ định hướng vào
môi trường xung quanh, tích cực dạy trẻ tập nói, giúp trẻ hiểu và sử dụng những từ khái
quát.
+ Đặc điểm phát triển tưởng tượng
- Trên nền tảng vốn biểu tượng về thế giới xung quanh, tưởng tượng của trẻ bắt
đầu xuất hiện và phát triển từ năm hai tuổi, biểu hiện ở tính chủ định trong hành động của
trẻ được hình thành. Chẳng hạn trẻ cầm bút vẽ nguệch ngoạc khi được người lớn hỏi vẽ
gì đấy, trẻ trả lời là vẽ búp bê (Tuy chưa vẽ được búp bê nhưng câu trả lời của trẻ đã thể
hiện sự hình dung ra biểu tưởng của sản phẩm hành động).
- Vốn kinh nghiệm của trẻ về thế giới xung quanh chưa nhiều nên tưởng tưởng của
trẻ ấu nhi còn nghèo nàn, hình ảnh tưởng tượng còn thiếu hụt, méo mó, mang tính tái tạo
thụ động là chủ yếu.
- Sự liên tưởng, kết hợp các biểu tượng trong đầu còn mang tính vô thức nên hình
ảnh tưởng tượng của trẻ còn mang tính ngẫu nhiên, không hợp qui luật. Trẻ còn lẫn lộn
giữa những biểu tượng trong đầu với thế giới khách quan bên ngoài nên trong vui chơi trẻ
chưa biết nhập vai. Ví dụ : Được tham gia trò chơi “Mèo đuổi chuột”, một cháu 3 tuổi
đóng vai “Chuột” bị “Mèo” bắt được sợ quá đã khóc thực sự (cứ nghĩ mình bị “Mèo”cắn
thật).
Để cho tưởng tượng của trẻ phát triển, cô giáo và người lớn cần làm tăng vốn hiểu
biết cho trẻ về thế giới khách quan. Giao nhiệm vụ cụ thể, hướng dẫn trẻ biết hình dung
trước kết quả và phương thức hành động hành động. Cho trẻ xem tranh, kể nhữnng
chuyện cổ tích ngắn gọn, hấp dẫn.
* Đặc điểm phát triển trí nhớ
Nhờ hoạt động với đồ vật và mối quan hệ giao tiếp ngày càng phức tạp, hệ thần
kinh hoàn thiện ngày càng nhanh, tạo điều kiện cho trí nhớ phát triển.
+ Khối lượng biểu tượng trẻ tích lũy tăng lên đáng kể.
+ Trí nhớ đặc trưng của tuổi ấu nhi là nhớ không chủ định, trẻ dễ nhớ mau quên và
nhớ trực quan hành động, vì vậy trẻ có khả năng bắt chước rất nhanh những thao tác, việc
làm của người lớn.
+ Cuối tuổi ấu nhi, trí nhớ từ ngữ phát triển mạnh, trong quá trình giao tiếp với
người lớn, trẻ có khả năng ghi nhớ, giữ gìn và tái hiện đúng ngữ điệu những câu nói với
nội dung đơn giản, đồng thời vốn từ vựng trẻ tích lũy được tăng rất nhanh.
* Đặc điểm phát triển chú ý
+ Chú ý đặc trưng của tuổi ấu nhi là chú ý thụ động, trẻ thường hướng chú ý của
mình vào những đồ vật mới lạ, hấp dẫn, chưa biết làm chủ sự chú ý của mình.
+ Các phẩm chất chú ý của trẻ hoàn thiện nhanh, tuy nhiên còn nhiều hạn chế
- Khối lượng chú ý chưa nhiều, độ bền vững chú ý chưa cao. Trẻ mới có khả năng
chú ý vào đối tượng mới lạ, hấp dẫn từ 8 đến 10 phút.
- Trẻ chưa thể chú ý đồng thời vào 2 đối tượng trong cùng một thời điểm, dễ phân
tán chú ý nhưng lại chưa có khả năng di chuyển chú ý theo ý muốn của mình.
- Cuối tuổi ấu nhi, chất lượng chú ý tăng lên đáng kể, hướng chú ý được mở rộng,
phạm vi đối tượng được trẻ chú ý ngày càng nhiều. Đặc biệt trẻ đã tích cực hướng sự chú
ý của mình vào ngôn ngữ của người lớn nhằm nghe, bắt chước và đối thoại.
Với đặc điểm chú ý và trí nhớ của trẻ, trong quá trình chăm sóc giáo dục cô giáo và
người lớn cần sử dụng đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn. Lời nói truyền cảm, đồng thời cô
phải giao nhiệm vụ cụ thể trong các hoạt động cho trẻ, nhắc lại thường xuyên những điều
cần nhớ. Ngoài ra tổ chức tốt các hoạt động vui chơi phù hợp để rèn luyện những phẩm
chất chú ý và hình thành năng lực nhớ cho trẻ.
2.2.. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Hoạt động với đồ vật đã thúc đẩy nhu cầu giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ
của trẻ ấu nhi phát triển mạnh. Sự thỏa mãn nhu cầu này cùng với sự hoàn thiện nhanh
của các trung khu ngôn ngữ trên vỏ não đã làm cho ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh theo
hai hướng.
* Nghe hiểu lời nói
Do trình độ nhận thức của trẻ còn hạn chế, thời gian đầu trẻ chưa thể lĩnh hội các
từ biểu đạt đồ vật riêng, hành động riêng mà chỉ có thể lĩnh hội ngôn ngữ biểu đạt cả một
tình huống trọn vẹn. Chẳng hạn trẻ chỉ có thể hiểu được từ “tạm biệt” khi nhìn thấy người
lớn nói lời tạm biệt cùng với hành động vẫy tay và đi khỏi nơi đang nói chuyện. Do vậy
trong giao tiếp trẻ chưa phản ứng trực tiếp với lời nói mà phản ứng với toàn bộ tình
huống.
Sự kết hợp giữa lời nói với tình huống được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần trẻ
hiểu được lời nói mà không phụ thuộc vào tình huống cụ thể nữa. Sang năm thứ hai khả
năng hiểu lời nói mà không gắn với tình huống tăng lên đáng kể. Trong nhiều tình huống
giao tiếp, trẻ đã biết làm theo những điều người lớn yêu cầu như đưa đồ vật cho người
lớn, vẫy tay khi tạm biệt v v. Tuy vậy, việc hiểu ngôn ngữ của trẻ về cơ bản vẫn chưa thể
tách khỏi tình huống cụ thể.
Do sự hưng phấn của hệ thần kinh mạnh, ý thức chưa phát triển nên với trẻ hai
tuổi, lời nói có tác dụng khởi động hành động sớm hơn nhiều so với lời nói có tác dụng
kìm hãm hoạt động. Trẻ bắt đầu thực hiện hành động nào đó theo lời chỉ dẫn dễ dàng hơn
nhiều so với việc ngừng lại hành động mà người lớn yêu cầu hoặc cấm đoán.
Vốn kinh nghiệm tăng lên, đến 3 tuổi lời chỉ dẫn của người lớn bắt đầu điều chỉnh
hành vi của trẻ trong những điều kiện khác nhau. Trẻ không chỉ hiểu được những từ riêng
lẻ mà còn thực hiện được những hành động theo lời chỉ dẫn của người lớn. Trẻ thích nghe
chuyện, đọc thơ, biết hát và đọc thuộc nhiều bài thơ ngắn gọn, từ tuổi này trẻ bắt đầu biết
sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện cơ bản để nhận thức thế giới.
* Hình thành ngôn ngữ tích cực
Cùng với sự thông hiểu ngôn ngữ, trẻ ấu nhi rất tích cực học nói, nói suốt ngày.
Do nhu cầu hoạt động với đồ vật và giao tiếp ngày càng phát triển, trẻ muốn biết các loại
đồ vật và thích thú gọi tên chúng. Vì vậy trẻ hay đặt ra nhiều câu hỏi : Là cái gì? Cái gì
đây?... để được người lớn giải đáp nhờ vậy vốn từ của trẻ tăng nhanh và khả năng phát
âm ngày càng chuẩn.
Lời nói của trẻ ấu nhi không giống với lời nói của người lớn được gọi là ngôn ngữ
tự trị, trẻ gọi tên đồ vật không giống với tên gọi của chúng như người lớn đã nói. Chẳng
hạn trẻ gọi “lông mi” là “tóc mắt”, “chuối” là “chúi”…
Nguyên nhân của hiện tượng ngôn ngữ này là do :
- Người lớn gần giũ với trẻ nói như vậy, vì họ nghĩ rằng nói thế gần gũi với trẻ
hơn, trẻ dễ hiểu hơn.
- Do khả năng tri giác âm thanh của trẻ còn hạn chế. Bộ máy phát âm của trẻ chưa
chín muồi, trẻ chưa phát âm được chính xác, dẽ bị méo tiếng.
- Do vốn từ còn nghèo nàn, trẻ tự nghĩ ra một số từ để tiện giao tiếp.
Khả năng diễn đạt của trẻ ngày càng hoàn thiện: Khi bắt đầu biết nói, trẻ thường
nói câu một tiếng, dần dần câu nói của trẻ có 2 thành phần chủ yếu là chủ ngữ và vị ngữ.
Chẳng hạn “ăn cơm”, “Lấy bánh”, “Mẹ bế” v v. Lời nói của trẻ không ngừng hoàn thiện,
các thành phần và số lượng từ trong câu được tăng lên. Đến ba tuổi trẻ nói khá thành thạo
những câu đơn giản.
Do tư duy ngôn ngữ chưa phát triển nên lời nói của trẻ ba tuổi có cú pháp riêng,
thể hiện :
- Cấu trúc cú pháp trong lời nói của trẻ tương đương với trình tự tri giác của trẻ,
cái gì nhìn thấy trước thì nói trước.
- Cái gì cần thiết hay mong muốn tức thời trẻ thường đặt lên đầu câu. Do vậy có
hiện tượng trẻ hay nói ngược. Chẳng hạn “bú em bé”, “cháu bế ông”v v.
Cũng do trình độ tư duy ngôn ngữ còn hạn chế, trong khi nhu cầu giao tiếp với
mọi người ngày càng tăng, trẻ muốn nói nhiều điều thú vị, muốn thể hiện ý nghĩ của
mình nhiều hơn nhưng lại chưa có khả năng diễn đạt rõ ý. Do vậy ở trẻ 3 tuổi thường có
hiện tượng nói ngập ngừng, hoặc nói lắp. Trong quá trình giao tiếp người lớn không nên
tỏ thái độ nôn nóng, phải kiên trì nghe trẻ nói và giúp đỡ, hướng dẫn trẻ cách diễn đạt.
Xét theo giới tính, nhiều công trình nghiên cứu và thực tế đã chứng minh rằng bé
gái học nói nhanh hơn bé trai. Ngược lại bé trai học nói chậm hơn nhưng lại tỏ ra hiểu lời
của người khác khá tốt.
Tóm lại, ngôn ngữ của tuổi ấu nhi đang trong giai đoạn phát cảm, sự hoàn thiện
ngôn ngữ diễn ra nhanh ở tất cả các mặt : Phát âm, từ vựng, cấu trúc ngữ pháp. Có được
sự phát triển ấy là nhờ sự hoàn thiện nhanh của vỏ não, đặc biệt là các trung khu ngôn
ngữ, quan trọng hơn cả là mối quan hệ giao tiếp phong phú với mọi người. Vì vậy để
ngôn ngữ của trẻ phát triển nhanh, sự chuẩn mực trong ngôn ngữ của người lớn là rất cần
thiết.
3. Sự phát triển tiền đề nhân cách của trẻ ấu nhi
3.1. Sự phát triển tình cảm
Nhờ sự hoàn thiện của hệ thần kinh và sự quan tâm chăm sóc của người lớn, đời
sống tình cảm của trẻ ấu nhi phát triển phong phú với một chất lượng mới.
Sự biểu hiện của cảm xúc ngày càng đa dạng và mang tính ổn định hơn, song vẫn
mang tính vô thức là chủ yếu, trẻ chưa tự nhận ra mình yêu ai, ghét ai, mặc dù trẻ thể hiện
thái độ khá rõ rệt cảm xúc của mình với mọi người. Trẻ dễ bị lây lan tình cảm của người
khác.
Nhu cầu tình cảm của trẻ phát triển rất mạnh, trẻ luôn mong muốn mọi người yêu
thương, âu yếm dành tình cảm cho mình, sợ bị bỏ rơi, thích được người lớn khen ngợi…
Khi ý thức bắt đầu xuất hiện, đời sống tình cảm của trẻ có bước phát triển mới. Trẻ
nhận thức rõ được rung cảm của mình, biết thể hiện cảm xúc rõ rệt với những ngôn ngữ
mang sắc thái khác nhau, những lời khen, chê, khích lệ động viên hoặc ngăn cấm trách
phạt của người lớn.
Cuối tuổi ấu nhi những tình cảm cao cấp bắt đầu phát triển mạnh. Trẻ yêu thích cái
đẹp, thích xem tranh, nghe hát, phim hoạt hình, yêu quí những động vật non, hay tò mò
tìm hiểu thế giới xung quanh. Biết quan tâm yêu quí mọi người nhất là những người thân
trong gia đình, biết tự hào, xấu hổ trước sự đánh giá của người lớn. Tuy nhiên những đặc
điểm tình cảm này chỉ có được khi trẻ được sống trong môi trường an toàn, mọi người
dành tình yêu thương cho trẻ một cách đúng mức.
3.2. Sự phát triển ý thức và tự ý thức
Đời sống tâm lí của trẻ hài nhi hoàn toàn do vô thức điều khiển. Trong quá trình
giao tiếp thường xuyên với mọi người, trẻ được người lớn chăm sóc, hướng dẫn cách
hành động với đồ vật, cách so sánh đối chiếu hành vi của mình với những yêu cầu đặt ra,
dần dần ý thức và tự ý thức của trẻ được hình thành.
Quá trình hình thành ý thức diễn ra lâu dài và phức tạp. Nguồn gốc của ý thức bắt
nguồn từ vô thức. Ban đầu những xung lực bản năng kích thích hành vi của trẻ, trong quá
trình chăm sóc giáo dục, những hành vi vô thức được người lớn đưa vào chế độ sinh hoạt
ổn định, xây dựng thành thói quen, nếp sống theo một hướng phát triển, dần dần trở thành
chính thói quen nếp sống của trẻ. Trẻ nhận thức được ý nghĩa của hành vi ổn định và tự
giác thực hiện, khi ấy trẻ đã có ý thức thực sự. Ví dụ : Hành vi ăn, ngủ, vệ sinh của trẻ lúc
đầu là vô thức, về sau được người lớn đưa vào chế độ sinh hoạt ổn định (ngủ,ăn uống, vệ
sinh đúng giờ) và nâng cao tính phức tạp của hành vi (rửa tay trước khi ăn và sau khi đi
vệ sinh, khi ăn không cười đùa…). Những hành vi này được rèn luyện thành thói quen.
Đến khi trẻ nhận ra được ý nghĩa của thói quen hành vi (rửa tay để cho sạch sẽ không bị
đau bụng, cười đùa khi ăn là mất vệ sinh…) và tự giác thực hiện (không cần ai nhắc nhở
trẻ tự giác đi rửa tay và biết rõ ý nghĩa của hành vi rửa tay). Khi ấy trẻ đã có ý thức vệ
sinh sạch sẽ.
Sự hình thành ý thức không phải là phép cộng đơn giản của vô thức và thói quen,
nếp sống, mà nó là quá trình chuyển hóa phức tạp của sự vận động tích cực của bản thân
đứa trẻ trong một môi trường xã hội, trong quan hệ giao tiếp phức tạp theo chuẩn mực xã
hội.
Sự biểu hiện ý thức của trẻ ấu nhi
- Trẻ có khả năng làm chủ được hành vi đại, tiểu tiện của mình
- Tính chủ định trong quá trình nhận thức và hành vi bắt chước người
lớn được hình thành, trẻ biết hướng hành động của mình vào mực đích nhất định theo sự
hướng dẫn của người lớn.
- Trẻ dùng được những lời nói đơn giản để diễn đạt được ý muốn của mình trong
quan hệ với người khác.
Tuy đã hình thành nhưng tham gia điều khiển của ý thức còn rất mờ nhạt, hành vi
của trẻ ấu nhi về cơ bản vẫn do vô thức điều khiển. Khả năng kiềm chế còn rất yếu, hàng
động của trẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những yếu tố bên ngoài.
+ Tự ý thức là ý thức hướng vào chính bản thân mình thể hiện ở các mặt : Nhận
thức về mình, có thái độ đối với chính mình và biết điều khiển điều chỉnh mình.
- Trẻ em ở tuổi hài nhi chưa có khả năng nhận ra mình là một con người riêng biệt.
Bước vào tuổi ấu nhi trẻ còn trong tình trạng chưa xác định được bản thân mình
vẫn còn đồng nhất mình với người khác, thường xưng tên mình ở ngôi thứ ba giống như
người khác nói với mình.
- Đến 3 tuổi tự ý thức mới thực sự được hình thành thể hiện:
+ Trẻ biết tên mình, con ai, Nhận ra được bản thân mình khác với người khác, có
sơ đồ thân thể về mình trong đầu (qua hành động soi gương). Cảm nhận được những diễn
biến sinh lý của cơ thể (đói, khát, mệt, đau ở đâu).
+ Trẻ bắt đầu quan tâm tìm hiểu về bản thân mình, trước tiên là các bộ phận của
cơ thể như mắt, mũi, chân tay và những đặc điểm giới tính. Theo các nhà phân tâm học,
tuổi ấu nhi được gọi là thời kỳ giang dục. Trẻ thường có hành vi tò mò tìm hiểu những bộ
phận sinh dục của mình và tỏ ra khoái cảm mỗi lần đi đại, tiểu tiện. Đây là đặc điểm tâm
lý giới tính bình thường, đòi hỏi người lớn phải có cách ứng xử đúng trước hiện tượng
này của trẻ để tự ý thức phát triển lành mạnh.
+ Bên cạnh tìm hiểu cơ thể, trẻ còn muốn tìm hiểu về bản thân mình trong quá khứ
và có mong muốn về mình trong tương lai. Chẳng hạn trẻ thường hỏi “ Còn bé con có
được bú bình sữa như em không? Có hay khóc nhè không?”. Sự mong muốn của trẻ trong
tương lai thường chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi hoàn cảnh xung quanh, chưa có tính ổn
định.
Cuối ba tuổi, nhờ mối quan hệ giao tiếp ngày càng mở rộng, trẻ nhận thức về bản
thân mình ngày càng rõ hơn. Nhờ sự đánh giá của người về mình, bước đầu trẻ đã tự
đánh giá được hành vi của mình là ngoan hay chưa ngoan, sẵn sàng nhận lỗi khi mắc lỗi
hoặc cũng có thể đổ lỗi cho người khác hay cho đồ vật gây ra, không nhận trách nhiệm về
mình.
Nếu được giáo dục tốt, trẻ ở tuổi này biết tỏ ra buồn rầu mỗi khi bị chê bai, luôn
mong muốn được người lớn khen ngợi và cố gắng trong hành động để được khen. Nhu
cầu này là cơ sở làm nảy sinh lòng tự trọng, làm cho nhân cách phát triển theo chiều
hướng tốt.
3.3. Sự phát triển động cơ hành vi
Hành động của tuổi hài nhi chưa có động cơ thúc đẩy mà chịu ảnh hưởng trực tiếp
bởi những tác động bên ngoài nên người lớn dễ áp đặt chế độ sinh hoạt, dễ dàng thay đổi
đồ chơi cho trẻ.
Sang tuổi ấu nhi trí nhớ của trẻ phát triển, vốn kinh nghiệm trẻ tích lũy được ngày
càng nhiều. Trẻ thấy được vị trí của mình trong thế giới đồ vật và mọi người xung quanh
và nhận ra mối quan hệ đơn giản giữa quá khứ, hiện tại, tương lai, điều đó đã chi phối
hành vi của trẻ. Ở tuổi ấu nhi hành động của trẻ không chỉ ảnh hưởng bởi yếu tố bên
ngoài mà còn bị chi phối bởi cấu tạo tâm lý bên trong mới xuất hiện, đó chính là động cơ
hành vi.
Mới bắt đầu hình thành nên trẻ chưa thể có ngay được động cơ hoàn toàn đầy đủ
để điều khiển hành động như ở động cơ ở người lớn. Động cơ của trẻ chưa có tính xác
định và chưa được tổ chức lại thành hệ thống dựa trên trật tự ưu tiên về tầm quan trọng
nhiều hay ít. Thế giới nội tâm của trẻ mới đang tiến dần đến đến sự xác định rõ ràng.
Hành động của trẻ dù đã được thúc đẩy bởi ý muốn chủ quan và tình cảm nhưng ý
muốn và cảm xúc của trẻ lại nảy sinh từ hoàn cảnh trực tiếp bên ngoài. Vì vậy hành vi ở
tuổi này về cơ bản vẫn là hành vi mang tính bột phát, ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài
vẫn mạnh hơn những lời giải thích cũng như ý định ban đầu của trẻ. Chẳng hạn trẻ ăn no
rồi nhưng thấy bạn ăn lại ăn. Hoặc một trẻ khóc nhiều cháu dễ khóc theo v v.
Khi ý muốn của trẻ gắn liền với những biểu tượng đã có thì hành vi mới ít phụ
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Trẻ có cơ sở để phát triển sự điều khiển hành vi bằng lời nói,
nhưng sự điều khiển hành động bằng lời nói còn rất yếu ớt, trẻ thường không làm theo
đến nơi, đến chốn theo ý muốn ban đầu.
Cuối tuổi ấu nhi, đời sống tình cảm của trẻ phát triển mạnh, đặc biệt tình cảm đạo
đức đã trở thành yếu tố quan trọng của động cơ, thúc đẩy trẻ thực hiện nhiều hành vi đạo
đức tốt.
Mặc dù động cơ mới hình thành còn mong manh nhưng đã có tác dụng qui định
thái độ riêng của trẻ khi tiếp nhận những tác dộng bên ngoài kể cả tác động giáo dục. Trẻ
không còn dễ bảo như trước nữa, thái độ tiếp nhận của trẻ như thế nào là tùy thuộc vào
tác động đó đáp ứng đến chừng mực nào các nhu cầu và hứng thú của trẻ ở trẻ. Vì vậy
trong nhiều trường hợp tác động giáo dục của người lớn không chú ý đến đặc điểm này
lại gây ra một kết quả ngược lại. Chẳng hạn trẻ đang say mê với một đồ chơi, người lớn
yêu cầu trẻ nhường cho bạn khác, trẻ lại giữ thật chặt và không thèm quan tâm đến bạn.
Phải mất nhiều thời gian nữa trẻ mới hình thành được đặc điểm tâm lý có thể giúp
nó phối hợp các loại động cơ với nhau làm cho động cơ này phục tùng động cơ khác quan
trọng hơn.
4. Chuyển sang giai đoạn mới – Khủng hoảng của tuổi lên ba
Trẻ 3 tuổi đã đạt đến sự tích lũy đủ lớn trong các lĩnh vực vận động, nhận thức,
ngôn ngữ và các mối quan hệ giao tiếp để bước sang giai đoạn phát triển mới về chất tiếp
theo.
Tự ý thức xuất hiện trẻ nhận ra khả năng của mình, từ đó nảy sinh hiện tượng tâm
lý mới là tính độc lập. Trẻ muốn trở thành người lớn, muốn tự làm mọi việc theo ý mình,
không thích người lớn can thiệp, không nghe theo lời người lớn. Nhu cầu này nhiều khi
lấn át cả các loại nhu cầu khác đang phát triển ở trẻ, đây là dấu hiệu của sự trưởng thành.
Tuy nhiên khả năng thực tế của trẻ còn rất non nớt, trẻ không thể tự mình làm được mọi
việc theo ý mình (động dao đứt tay, động lửa phải bỏng). Đó là mâu thuẫn giữa tính độc
lập của trẻ với khả năng của các cháu. Do dễ xảy ra tai nạn khi hành động nên người lớn
thường cấm đoán trẻ, trong những trường hợp như vậy tính bướng bỉnh của tuổi lên ba
càng có dịp để phát triển. Trẻ tỏ ra bướng bỉnh hơn, chống đối lại người lớn, thậm chí
làm ngược với lời người lớn yêu cầu. Đó là những đặc trưng của sự khủng hoảng ở tuổi
lên ba.
Sự khủng hoảng của tuổi lên ba làm cho người lớn gặp khó khăn trong quan hệ với
trẻ. Thời gian của sự khủng hoảng dài hay ngắn và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển
nhân cách sau này của trẻ, hoàn toàn phụ thuộc vào cách giáo dục của người lớn. Nếu
người lớn không nhận thức đúng đặc điểm tâm lý của giai đoạn này, ra sức cấm đoán
hoặc trách phạt hay chiều theo ý trẻ, thời kỳ khủng hoảng sẽ kéo dài và ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Trẻ dễ trở thành con người lỳ lợm, bướng bỉnh, ích
kỷ bắt mọi người phải chiều theo ý mình. Nếu giáo dục đúng đắn, giai đoạn khủng hoảng
qua nhanh một cách nhẹ nhàng, tính độc lập của trẻ được phát triển thành nét tính cách
tốt, tạo tiền đề thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách ở những giai đoạn tiếp
theo.
Người lớn và cô giáo cần chú ý :
- Coi biểu hiện bướng bỉnh của trẻ là qui luật tất yếu của sự phát triển tâm lý, đánh
dấu sự chuyển giai đoạn phát triển của trẻ từ thời kỳ ấu nhi sang thời kỳ mẫu giáo.
- Để trẻ tự làm một số việc theo ý muốn, nếu việc ấy không nguy hiểm.
- Những việc không thể thỏa mãn theo yêu cầu của trẻ, cần thay thế bằng một trò
chơi đóng vai tương ứng, vừa phát triển được tính độc lập vừa đảm bảo an toàn cho trẻ,
- Muốn trẻ thay đổi hành vi cần dùng tình cảm để dụ dỗ.
- Không đánh mắng thô bạo nhưng phải nghiêm khắc để đưa trẻ vào nề nếp.
CHƯƠNG 6. SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ TRẺ EM TUỔI MẪU GIÁO