You are on page 1of 112

Chuyên đề 4.

Giáo viên với công tác tư vấn học sinh


trong trường THCS

Nguyên tắc giảng dạy và học tập


“ I hear, I forget
I see, I remember
I do, I understand”

• Thông qua hoạt động và giao tiếp của chủ thể kl

Ленин сказал: "Учиться,


учиться u учиться!"

Tìm hiểu thực tế


Thầy, cô cảm nhận gì về những hình ảnh sau?
ĐỀ DẪN
Hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, của quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự hội nhập của các nền văn hóa đã tác động đến mọi
tầng lớp trong xã hội. Trong đó, sự tác động mạnh mẽ nhất nhằm vào giới trẻ, đặc biệt
là học sinh, sinh viên. Bên cạnh những học sinh, sinh viên ưu tú thì cũng không ít học
sinh, sinh viên có những biểu hiện đáng lo ngại trong tư tưởng đạo đức, lối sống cũng
như trong học tập. Do nhận thức còn non kém nên một số học sinh, sinh viên chưa có
ý thức rèn luyện bản thân, tu dưỡng đạo đức, xây dựng cuộc sống lành mạnh. Lối sống
hưởng thụ, sống thử, sống gấp … một số học sinh, sinh viên coi đó là sự văn minh,
hiện đại. Chính lối sống ích kỉ, vô trách nhiệm với gia đình và xã hội của một số học
sinh, sinh viên đã tạo cho họ một cách nhìn thiển cận, nông cạn nên khi gặp những
khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống họ ít tỉnh táo để tháo gỡ mà nhiều khi hành
động mù quáng. Những biểu hiện trong đời sống tâm lý của một số học sinh, sinh viên
như trên là đáng lo ngại. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân quan trọng nhất là
do sự tư vấn tâm lý học đường chưa thật sự được chú trọng. Các em thiếu “người bạn,
người thầy” để chia sẻ, giúp các em định hướng đúng về các lĩnh vực trong cuộc sống,
giúp các em vượt qua những khó khăn; giải quyết những vướng mắc tâm lý trong tình
bạn, tình yêu, trong mối quan hệ với những người xung quanh. Vì vậy, tư vấn - tham
vấn tâm lý học đường là rất cần thiết và quan trọng bên cạnh công tác chuyên môn.
Việc áp dụng những kiến thức tâm lý hiện đại vào các lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt
là tư vấn tâm lý học đường là một yêu cầu không thể thiếu. Tư vấn tâm lý học đường
giúp học sinh, sinh viên có khả năng đối mặt với những khó khăn, vượt qua những
khủng hoảng tâm lý đồng thời định hướng cho họ về các lĩnh vực của cuộc sống. Việc
thành lập phòng tư vấn tâm lý học đường ở các trường học là rất cần thiết và quan
trọng bên cạnh công tác chuyên môn của ngành giáo dục. Năm 2005 Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã chủ trương ‘’Các Sở GD&ĐT căn cứ vào tình hình cụ thể, có văn bản
hướng dẫn các trường THCS, THPT, TCCN, các trường ĐH, CĐ, trường THCN
thuộc các bộ, các ngành… nếu trước đây chưa có tiến hành công tác tư vấn hãy tổ
chức thí điểm rút kinh nghiệm và có bước hoàn thiện tiếp theo ». Chỉ thị số
9971/BGDĐT-HSSV của Bộ Giáo dục và Đào tạo « Triển khai công tác tư vấn cho
học sinh, sinh viên » đã tạo được hành lang pháp lý cho sự phát triển công tác tư vấn
học đườngTuy nhiên, thực tế các cơ sở tư vấn tâm lý trên cả nước hiện nay còn rất
khiêm tốn so với nhu cầu.
Tóm lại:
Tâm lý học đường là một chuyên ngành của Tâm lý học, đang phát triển mạnh
trên thế giới với mục đích trợ giúp về tâm lý, sức khỏe, giáo dục và các vấn đề nảy
sinh trong đời sống xã hội cho học sinh, giáo viên, phụ huynh và các tổ chức trong và
ngoài nhà trường. Ở Việt Nam tâm lý học đường đang được các nhà tâm lý học, các
nhà quản lý giáo dục quan tâm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy hoạt động tư vấn
học đường chưa mang tính hệ thống và chưa đáp ứng được nhu cầu tư vấn tâm lý ngày
càng cao trong học đường. Do đó, cần bồi dưỡng những kiến thức tư vấn học đường
cho giáo viên, một mặt để trợ giúp học sinh, mặt khác phát triển hoạt động tư vấn tâm
lý học đường.
Với tư cách GV bộ môn, GVCN, Giáo viên là người làm việc thường xuyên với
Học sinh và cũng là người có tương tác nhiều nhất với HS tại trường học. Vì thế, GV
bộ môn,GVCN cũng là người sẽ phát hiện được những khó khăn bất thường của HS
không chỉ về vấn đề nhận thức mà cả cảm xúc, hành vi hay thể chất. GV bộ môn,
GVCN sẽ giúp đỡ để học sinh ứng phó một cách lành mạnh trước những khó khăn
này. HS sẽ được tư vấn để tự giải quyết các rắc rối trong tình bạn, tình bạn khác giới,
mối quan hệ với cha mẹ, thầy cô.
Vì vậy 24//12//17 bộ GD& ĐT yêu cầu mỗi trường thành lập tổ tư vấn tâm lý .
- Mục tiêu
• Trang bị cho thầy giáo, cô giáo những kiến thức và kỹ năng cơ bản và sơ khởi
về tâm lý học đường.
• Giúp các thầy giáo, cô giáo có thể can thiệp cho học sinh THCS ở cấp độ đầu
tiên.
• Giới thiệu học sinh đến với chuyên gia tâm lý, các trung tâm bảo trợ xã hội
(nếu cần).
- Khái niệm trẻ em và vị thành niên
• Trẻ em:
+ Việt Nam: Dưới 16 tuổi.
+Công ước Quốc tế về trẻ em: Dưới 18 tuổi.
• Vị thành niên: Từ 10 – 18 tuổi.
Học sinh THCS ở giai đoạn đầu và giữa lứa tuổi vị thành niên
1. Ví trí và đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THCS
1.1 Vị trí, ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý tuổi thiếu niên
- Lứa tuổi thiếu niên bao gồm những trẻ em từ 11, 12 đến 14, 15 tuổi đang theo học
lớp 6 đến lớp 9 trường THCS, đây là thời kỳ phức tạp và quan trọng nhất trong quá
trình phát triển của mỗi cá nhân.
- Là thời kỳ chuyển tiếp từ thời thơ sang tuổi trưởng thành. Sự chuyển tiếp tạo nên
nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù về mọi mặt ở thời kỳ này.
- Sự chuyển tiếp đã làm hình thành những cấu tạo mới về chất trong tất cả các mặt:
Sự biến đổi của cơ thể, của tự ý thức, của quan hệ xã hội, học tập, lao động... đã
làm xuất hiện những nhân tố mới của sự trưởng thành như: Tính tích cực xã hội
mạnh mẽ của bản thân nhằm chiếm lĩnh chuẩn mực và giá trị xã hội, xây dựng
quan hệ với người lớn và bạn bè, thay đổi bản thân theo những ý định và mục tiêu
riêng.
- Sự hình thành cái mới diễn ra không đồng đều giữa các cá nhân khác nhau và cũng
không đồng đều giữa các mặt trong một cá nhân, điều này liên quan đến hoàn cảnh
sống và hoạt động khác nhau của trẻ.
Là tuổi khó khăn đối với giảng dạy và giáo dục
1.2. Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lý tạo ra sự bối rối
 Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẽ nhưng không cân đối.

Cụ thể:

Nữ: Nam:
• Ngực phát triển. • Cơ quan sinh dục phát triển.
• Lông phát triển rõ rệt ở nhiều bộ phận cơ • Lông ( nách, chân...), râu phát triển.
thể: Bộ phận sinh dục, nách, chân, tay. • Hiện tượng “mộng tinh”, “giấc mơ ướt”.
• Phát triển chiều cao nhanh từ 10 – 15 tuổi. • Đạt được sự tối đa về chiều cao.
• Có kinh nguyệt. • Giọng nói: vỡ giọng
 Sự phát triển của hệ tim mạch cũng không cân đối, thể tích tim tăng nhanh, tim to
lơn, hoạt động mạnh hơn, mạnh máu lại phát triển chậm hơn.. Do vậy: lóng
ngóng,vụng về (Đứng vỡ nồi,,,)
 Hoạt động thần kinh cấp cao của tuổi thiếu niên cũng có những đặc điểm riêng biệt
o Qúa trình hưng phấn chiếm ưu thế, sự ức chế phân biệt bị kém đi, hưng phấn có
tính lan toả hơn.
Do vậy ở tuổi thiếu niên các em không làm chủ được cảm xúc của mình. Các em
dễ bực tức, cáu kỉnh, mất bình tĩnh...
o Ngôn ngữ của trẻ thay đổi. Nói chậm hơn, ngập ngừng rất ngại nói câu dài, Do
vậy hay nói “cộc lốc”, “nhát gừng”
- Hiên tượng dậy thì
Trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể
của tuổi thiếu niên .Đây là hiện tượng tự nhiên ,diễn ra theo quy luật sinh học và chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội , nhưng đối với trẻ đây là lần đầu tiên
xuất hiện hiện tượng này lại là vấn đề cần có sự chuẩn bị ,hướng dẫn, nhất là các em
gái.
Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động, tuổi dậy thì của HS gái vào khoảng 12 – 14 tuổi,
HS nam khoảng 14 – 15 tuổi
Sự dậy thì và những chuyến biến trong cơ thể có ý nghĩa lớn đối với sự nảy sinh
những cấu tạo tâm lý mới, như:
+ Sự nảy sinh “Cảm giác người lớn”
+ Sự phát dục đem lại nhiều mới mẻ, ngỡ ngàng trong đời sống (thay đổi không theo ý
muốn như mụn chứng cá đúng lúc mong muốn có khuôn mặt sang sủa nhất, có thay
đổi làm các em ngượng ngùng như mộng tinh hay kinh nguyệt; có thay đổi cần phải
che dấu như tự khám phá cơ thể, thích quan tâm đến người khác giới), xuất hiện
những cảm giác, rung động tình cảm mới lạ.
1.3. Sự thay đổi điều kiện sống
- Trong gia đình vị trí của các em có sự thay đổi, được xem như là một thành viên
tích cực của gia đình, được tham gia lao động, được bàn bạc, trao đổi về một số
công việc gia đình.
- Ở nhà trường và xã hội cũng có nhiều thay đổi, hoạt động học tập và hoạt động xã
hội có thái độ tích cực và độc lập hơn, nhu cầu giao tiếp phát triển, sự hiểu biết xã
hội được mở rộng..
1.4 Những bất đồng trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn
- Ở tuổi thiếu niên xuất hiện cảm giác “mình là người lớn”, các em có cảm giác sẵn
sàng làm người lớn.
- Cảm giác là người lớn thể hiện các em quan tâm đến hình thức, cử chỉ, phẩm chất
tâm lý, trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức và bộc lộ quan điểm,
lập trường riêng, đòi hỏi đối sử bình đẳng như người lớn (hạn chế quyền hạn của
người lớn, mở rộng quyền hạn của mình, tuy nhiên không phải người lớn nào cúng
dễ dàng chấp nhận.
- Nguyện vọng được tin tưởng và độc lập, bình đẳng với người lớn thúc đẩy các em
tích cực hoạt động, chấp nhận những yêu cầu về đạo đức, hành vi của người lớn.
Mặt khác, nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống lại những yêu cầu của
người lớn, dễ chạm tự ái khi người lớn chăm sóc tỉ mỉ, ít chú ý đến ý kiến riêng
của các em.
- Kỳ vọng và yêu cầu cao của cha mẹ gây áp lực .làm các em lo lắng, sống khép kín,
có ý định tự sát, bỏ nhà ra đi
- Trong tình cảm của thiếu niên đôi khi tồn tại những mâu thuẫn. Thái độ
ứng xử không nhất quán, không thể lường trước được
Ví dụ: Đối với em nhỏ này thì yêu thương quý mến, nhưng với em nhỏ khác thì doạ
nạt, trêu chọc, lúc muốn mẹ âu yếm vỗ về, lúc lại xấu hổ, lúc yêu thương kính trọng
cha mẹ lúc lại cho lỗi thời, chẳng hiểu gì.. Với người già khi thì tận tình giúp đỡ,
nhưng có lúc lại trêu chọc, làm trò...
***Nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa thiếu niên với người lớn:
 Người lớn không thay đổi thái độ đối với thiếu niên vì cho rằng:
+ Thiếu niên còn là học sinh nên phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế.
+ Cha mẹ vẫn giữ vai trò giáo dục đối với các em.
+ Bản thân các em còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, dáng dấp, hành vi, trong
tính cách...
 Người lớn nhận thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không
hợp lý.
 Một số cha mẹ mặc dù rất tôn trọng và tạo điều kiện độc lập cho thiếu niên nhưng
không thể từ bỏ thói quen chăm sóc, điều khiển tỉ mỉ sinh hoạt của các em.
 Những hành vi tương ứng nảy sinh ở trẻ: xa lánh người lớn, không tin tưởng người
lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu
một cách có ý thức với những yêu cầu, đánh giá, nhận xét của người lớn. Tác động
giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
***Kết luận :
 Phải hiểu được những đặc điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi thiếu niên, nhất là
những đặc điểm trong đời sống tình cảm, giao tiếp của các em với người lớn.
 Người lớn phải xây dựng được mối quan hệ với thiếu niên trên cơ sở tôn trọng và
bình đẳng, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau.
 Sự hợp tác giữa thiếu niên với người lớn cho phép người lớn đặt các em vào vị trí
mới
 Vị trí của người giúp việc và người bạn trong những công việc khác nhau. Đồng
thời, bản thân người lớn phải thực sự gương mẫu và là người bạn tin cậy của các
em nhưng cũng cần thấy thiếu niên vẫn cần sự hướng dẫn thường xuyên của người
lớn.
1.5. Giao tiếp của thiếu niên với bạn
Giao tiếp của thiếu niên với bạn là hoạt động chủ đạo ở lúa tuổi này.
Nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển mạnh là một đặc điểm quan trọng ở lứa tuổi
thiếu niên. Phạm vi ban đầu rộng nhưng chưa bền vững, dần dần thiếu niên gắn bó
trong một phạm vi hẹp hơn - nhóm bạn. Quan hệ với bạn của thiếu niên phong phú và
phức tạp hơn, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học:
+ Quan hệ có sự lựa chọn mức độ gần gũi, thân tình.
+ Thiếu niên coi bạn là quan hệ riêng của cá nhân và có quyền độc lập trong quan hệ
với bạn, không muốn người lớn can thiệp vào chuyện bạn bè của mình.
+ Nhu cầu giao tiếp với bạn lớn đến nỗi vượt lên trên cả hoạt động học tập, sao nhãng
giao tiếp với người thân.(thường bị bạn klichs động (14/12/17 hs trường nguyễn Hữu
Thọ trèo cột điệnbị bỏng 42%, thường nghe lời bạn hơn cha mẹ , thầy cô nên khó
quản lý)
- Nội dung giao tiếp: những nhận xét, băn khoăn về dáng vẻ bên ngoài, tình cảm ý
nghĩ tâm tư của bản thân, quan hệ của mình với người khác và cả quan hệ của mọi
người với nhau.Giao tiếp với bạn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển nhân cách của
tuổi thiếu niên.
Có thể nảy sinh các vấn đề như : hiểu nhầm,bị tẩy chay,bị bạo lực học đường
như bị ức hiếp16,7 % (bắt chép bài ,làm bài cho bạn) ,bị hù dọa 35.4% (dọa bị bo xì,
bị đánh), không nhận được sự trợ giúp cuả bạn bè khi gặp khó khăn10,2%
Cách giải quyết: 46,5% buồn; 3% đánh bạn; 23,25% chọn cách giãi bày, nói lại
Người lớn cần thừa nhận, tôn trọng và hướng dẫn, kiểm tra giao tiếp của thiếu
niên một cách tế nhị. Những vướng mắc trong giao tiếp bạn bè không được tháo gỡ
kịp thời sẽ gây ra rối loạn tâm lý như căng thẳng, buồn phiền, có hành vi chống đối,
hung tính, tự sát.
- Trong giao tiếp bạn bè xuất hiện sắc thái mới với bạn khác giới - những xúc
cảm giới tính.
- Sự phát dục đã kích thích thiếu niên quan tâm đến người khác giới, làm xuất hiện
những cảm xúc giới tính, mong các bạn khác giới chú ý đến mình và ưa thích
mình. Tự ý thức phát triển mạnh mẽ khiến thiếu niên nhanh chóng nhận thức được
đặc điểm giới tính của mình. Thiếu niên bắt đầu biểu hiện quan tâm lẫn nhau, ưa
thích nhau, các em quan tâm đến vẻ ngoài của mình:

+ Đối với nam giới, lúc đầu còn có tính chất tản mạn, biểu hiện bằng phương thức
đặc thù của trẻ con như xô đẩy, trêu chọc các bạn nữ...
+ Đối với nữ giới tuy không hài lòng về những hành vi của các em nam, nhưng các
em ý thức được động cơ của những hành vi đó nên không bực tức, giận dỗi.
+ Về sau quan hệ này được thay đổi, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút nhát, e
thẹn,... thậm chí được che giấu bằng thái độ thờ ơ, giả tạo, ‘‘khinh bỉ’’ đối với người
khác giới. Xuất hiện các nhóm hỗn hợp (nam và nữ), hứng thú với người bạn học khác
giới có ý nghĩa không nhỏ đối với sự phát triển nhân cách của các em. Đây là một
động lực tự hoàn thiện bản thân của từng thiếu niên.
- Quan hệ với bạn khác giới cũng có thể dẫn đến việc đua đòi, chơi bời, đầu óc bị
phân tán, kết quả học tập và công tác bị giảm sút.
Đây là tình cảm trong sáng, tuy vậy cũng có em bị cuốn hút vào con đường “yêu
đương”.
Tóm lại: Những biểu hiện đặc trưng nếu khủng hoảng độ tuổi không được
giải quyết
• Trở nên lầm lỳ ít nói, xa lánh người lớn.
• Thái độ bất cần, tạo sự “khác biệt”
• Có những hành vi lệch chuẩn, gây hấn, vi phạm pháp luật…
• Bế tắc… và có thể dẫn đến tự tử
Kết luận :
- Người làm công tác giáo dục cần can thiệp tế nhị, khéo léo, không nên can thiệp
“thô bạo” đối với các em. dùng các biện pháp bạo lực, áp đặt đối với các em.
- Nên tổ chức hoạt động tập thể phong phú, hấp dẫn để giúp trẻ hiểu biết lẫn nhau
vô tư, trong sáng.

2. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh THCS
2.1. Hoạt động học tập trong trường THCS
- Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Nhưng được xây dựng lại một cách cơ
bản.
- Động cơ học tập rất phong phú đa dạng nhưng chưa bền.
- Thái độ học tập rất khác nhau: Từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm đến lười
biếng thơ ơ, thiếu trách nhiệm.
- Phương thức lĩnh hội khái niệm từ chỗ có kỹ năng học tập độc lập , có nhiều cách
học đến chưa có kỹ năng học tập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng
chữ.
- Hứng thú học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt với một lĩnh vực tri thức nào đó đến
hoàn toàn không có hứng thú...
Vì vậy, tài liệu học phải súc tích, gắn với cuộc sống của hs, tạo cho học sinh
nhu cầu tìm hiểu tài liệu và giúp các em có cách học phù hợp.
2.2 Phát triển trí tuệ của học sinh THCS;
Sự phát triển trí tuệ của tuổi thiếu niên thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp từ tính chất
không chủ định sang tính chất có chủ định. Tính chất không chủ định không giảm đi,
tính chất chủ định phát triển mạnh. Tính chất chuyển tiếp được thể hiện ở tất cả các
quá trình nhận thức.
a) Tri giác
Tri giác của trẻ có trình tự, có kế hoạch hơn, khi tri giác SV- HT các em đã có
khả năng phân tích,tổng hợp.
b) Trí nhớ:
Trí nhớ của các em dần dần mang tính chất của một quá trình được điều khiển,
điều chỉnh và có tổ chức. Trong trí nhớ các em thiết lập được mối liện hệ phức tạp
hơn( lien tưởng lien môn), gắn tài liệu với tài liệu cũ, có khả năng ghi nhớ ý nghĩa, ghi
nhớ lâu hơn, chính xác hơn. Mặt khác ghi nhớ còn tính mâu thuẫn, tuy có khả năng
ghi nhớ có ý nghĩa nhưng các em vận tuỳ tiện trong ghi nhớ, khi gặp khó khăn lại từ
bỏ việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa hiểu đúng về ghi nhớ máy móc.
Giáo viên cần chú ý giúp các em kết hợp cả hai cách ghi nhớ; Giải thích cho
các em rõ sự cẩn thiết của sự ghi nhớ chính xác những định nghĩa , những quy luật.(
Thiếu một từ nào đó thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa); Dạy phương pháp
ghi nhớ chính xác biết tách ý để làm điểm tựa, biết lập dàn bài, biết ôn tập..Dạy cách
trình bày chính xác nội dung bài theo cách diễn đạt của mình
c) Chú ý:
Chú ý có chủ định phát triển rõ rệt, mặt khác những những ấn tượng và rung
động mạnh mẽ, phong phú khiến cho chú ý không bền vững.
 Chú ý của các em có tính lựa chọn, nhưng sự lựa chọn lại phụ thuộc vào tính chất
của đối tượng và hứng thú đối với đối tượng ấy.
 Có khả năng tập trung vào các vấn đề cần thiết và hứng tú, khối lượng chú ý, khả
năng di chuyển chú ý tăng rõ rệt.
Cần tổ chức giờ học có nội dung đòi hỏi học sinh hoạt động tích cực.
d) Tư duy
- Tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ, tư duy hình ảnh cụ thể vẫn tiếp tục phát
triển và giữ vai trò quan trọng.
- Mức độ và chất lượng tư duy trừu tượng không được hình thành như nhau ở
mỗi thiếu niên.
- Tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, biết lập kuận giải quyết vấn đề
một cách có căn cứ. Đôi khi tư duy của các em còn nghi ngờ, tranh cãi không
có căn cứ, bứơng bỉnh.
KL: Từ những đặc điểm trên, người lớn cần chú ý: Phát triển tư duy trừu tượng cho
thiếu niên để làm cơ sở cho việc lĩnh hội các khái niệm khoa học trong học tập.
3. Tư vấn học đường cho học sinh THCS
3.1.Tư vấn học đường là một hoạt động khá mới mẽ đối với nền giáo dục Việt
Nam. Do xuất hầu hết đều hiểu đơn giản :
Tư vấn học đường = tư vấn tâm lý + hướng nghiệp
Tư vấn theo từ điển Từ Hán Việt NXB KHXH 2007, trang 507 có nghia là: “Góp
ý kiến về những vấn đề hỏi đến nhưng không có quyền quyết định”
Tư vấn cung cấp thông tin, kiến thức chỉ ra điều hay lẽ phải, những hiện tượng
khoa học, đạo lý, luật pháp, thông tin cần thiết về một vấn đề mà người được tư
vấn chưa rõ.
Sự khác nhau giữa tham vấn tâm lý và tư vấn tâm lý?
Tư vấn và tham vấn có những nét khác biệt khá cơ bản.
Tham vấn Tư vấn

Là cuộc nới chuyện mang tính cá nhân Tư vấn là cuộc nói chuyện giữa một
giữa NTV với một hoặc vài người đang “chuyên gia” về một lĩnh vực nào đó
cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn với một hoặc nhiều người đang cần lời
hoặc thách thức trong cuộc sống khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực ấy (Tư
vấn pháp luật, tư vấn tài chính…).

Tham vấn là một tiến trình gồm nhiều Quá trình tư vấn có thể diễn ra trong
cuộc nói chuyện nhằm giúp thân chủ sáng một buổi nói chuyện. Người tư vấn giúp
tỏ vấn đề, xác định khả năng và thế mạnh thân chủ bằng cách đưa ra những lời
của bản thân, từ đó xem xét các giải pháp khuyên về mặt chuyên môn, cho TC
khả thi nhằm đưa ra lựa chọn tối ưu nhất biết những quyết định họ cho là phù
hợp nhất đối với tình huống của TC

Ngoài kiến thức chuyên môn về tâm lý, Nhà tư vấn có kiến thức sâu trong một
NTV cần có kiến thức cơ bản trong nhiều lĩnh vực nhất định, và có khả năng
lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, pháp luật, sức truyền đạt kiến thức đó đến TC của
khỏe…Kỹ năng cơ bản của nhà tham vấn mình.
là lắng nghe, khai thác vấn đề, cảm xúc
của TC.

N - ?
Nhà tâm lý học đường là một nhà sư phạm được cấp bằng đào tạo về tư vấn
học đường với những kỹ năng chuyên biệt để hỗ trợ việc học, nhu cầu phát triển cá
nhân, xã hội và nghề nghiệp của học sinh.
Ở các nước phát triển, nhà tâm lý học đường (School Psychologist) là thành
phần không thể thiếu trong hệ thống trường học. Nhiệm vụ chính của họ là giúp học
sinh thành công trong học tập, xã hội và đời sống tình cảm. Ngoài ra họ còn phối hợp
với giáo viên, phụ huynh, các nhà chuyên môn khác nhằm tạo môi trường học tập an
toàn, lành mạnh cho tất cả học sinh.
Tư vấn tâm lý trong trường học đòi hỏi nhà trường phải có người thầy
giỏi về tâm lý giáo dục, luôn sẵn sàng và giỏi kỹ năng lắng nghe, chia sẻ, làm cho
nhà trường trở thành thân thiện, trở thành nơi học sinh cảm thấy hứng thú trong học
tập, trong quan hệ thầy trò, bạn bè, hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học. Dạng tư
vấn thường được sử dụng trong trường học:
- Tư vấn tâm lý: là quá trình nhà tư vấn vận dụng những tri thức, phương pháp và
kỹ thuật tâm lý học nhằm hỗ trợ giúp đối tượng được tư vấn nhận ra chính mình
để thay đổi hành vi, thái độ, tự tái lập lại thế cân bằng tâm lý của bản thân ở trình
độ cao hơn.
- Tư vấn GD: là quá trình tư vấn mà nhà tư vấn sử dụng các phương pháp giáo dục
nhằm can thiệp, phòng ngừa, hỗ trợ HS trong quá trình phát triển
- Tư vấn hướng nghiệp Chủ yếu cung cấp thông tin, giúp người trẻ tuổi định
hướng tương lai, giúp người trưởng thành chọn lựa, chuyển đổi nghề cho phù
hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội. Một nhu cầu cần được đáp ứng khẩn thiết
trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa của thế giới. -Tập trung vào các vấn đề hướng
nghiệp, chọn nghề
3.2. Vai trò của tư vấn học đường
Hiện nay, ở nước ta chưa có chương trình đào tạo chuyên ngành về tâm lý học
đường, đã tạo ra một lỗ hổng trong lĩnh vực tổng quan và giáo dục chuyên sâu.
Trong môi trường học đường, tư vấn học đường sử dụng những kiến thức tâm lý học
và các kỹ năng tư vấn nhằm giúp trường học giải quyết những vấn đề sau:
- Hỗ trợ học sinh giải quyết những khó khăn trong việc phát triển nhân cách, năng
lực và kỹ năng học tập, định hướng nghề nghiệp, lối sống lành mạnh, các mối
quan hệ liên nhân cách và những rối loạn cảm xúc và nhân cách.
- Hỗ trợ phụ huynh trong việc quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái, phát triển
mối quan hệ với nhà trường một cách tích cực, phát hiện những khó khăn của con
cái và phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục.
- Hỗ trợ giáo viên và những thành viên khác trong nhà trường trong việc giao tiếp
và tiếp cận với học sinh, kịp thời phát hiện những nhu cầu và những vấn đề cần sự
can thiệp của nhân viên tư vấn.
- Hỗ trợ nhà trường trong việc hoạch định các chiến lược giáo dục toàn diện cho
học sinh, cách thức phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục, cách thức tổ
chức các hoạt động nhằm phát triển và ngăn ngừa các hành vi nguy cơ trong
trường học của học sinh.
- Phối hợp với các tổ chức liên quan trong việc hỗ trợ và can thiệp trong trường
hợp học sinh có những vấn đề liên quan đến những hoạt động bên ngoài như các
vấn đề pháp luật, các vấn đề về bệnh tâm lý… Lưu giữ hồ sơ những học sinh có
những vấn đề về tâm lý để có thể sử dụng trong những trường hợp cần thiết sau
này.
- Tư vấn học đường sẽ giúp các bậc cha mẹ hiểu và có những giải pháp phù hợp
với những vấn đề tâm lý của con mình.
3.3. Mục tiêu tư vấn học đường
 Mục đích chung của tư vấn học đường là giúp những học sinh có những vấn đề
nan giải tìm được giải pháp cho vấn đề và tự học sinh có thể tự tin thực hiện giải
pháp đó của mình, và giúp an tâm học tập. Có được những trạng thái tâm lý tốt,
tránh được những suy nghĩ cực đoan, những cảm xúc tiêu cực và những hành vi
nông nổi dẫn tới những hậu quả nặng nề, đáng tiếc có thể xảy ra cho học sinh do
học sinh không có được sự tư vấn cần thiết, kịp thời và đúng đắn của một
chuyên viên tư vấn học đường
 Mục tiêu:
- Biết được đối tượng của mình đang có những ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực như thế
nào, đang lâm vào một hoàn cảnh có vấn đề nan giải và phải giúp đối tượng thay
đổi cách suy nghĩ cũng như giảm bớt những cảm xúc tiêu cực đó càng sớm càng
tốt.
- Giúp đối tượng cảm thấy thoải mái và tin cậy khi trò chuyện với chuyên viên về
vấn đề của mình
- Giúp đối tượng hiểu biết nhiều hơn và đúng hơn về bản thân và hoàn cảnh của
mình, nhận định và đánh giá đúng thực chất và mức độ của vấn đề nan giải đang
tồn tại và chấp nhận nhìn thẳng vào vấn đề để giải quyết nó.
3.4. Nội dung tư vấn học đường;
Theo công văn số 9971/BGD7ĐT-HSSV về việc triển khai công tác tư vấn cho
HSSV
Nội dung tư vấn học đường tập trung vào các vấn đề hướng nghiệp, chọn nghề
và thông tin tuyển sinh, tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới, quan hệ
giao tiếp ứng xử với gia đình (cha mẹ cãi nhau, ly thân, ly hôn, đối xử không công
bằng) giáo viên, bạn bè ( chiếm số lượng nhiều nhất), phương pháp học tập, tham gia
các hoạt động xã hội ... và các vấn đề khác. Như vậy nội dung tư vấn học đường rất
phong phú, đa dạng, nhưng cũng rất phức tạp, nhạy cảm, thiết thực gắn liền với đời
sống tâm lý của học sinh.
Tư vấn học đường còn chia theo cấp học: Tư vấn học đường bậc tiểu học;
Tư vấn học đường bậc trung học cơ sở ; Tư vấn học đường bậc phổ thông trung học
(cao đẳng đại học)
 Tư vấn học đường bậc tiểu học

Tư vấn học đường bậc tiểu học cung cấp cho tất cả học sinh trong trường dưới
hình thức tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm học sinh, tư vấn gia đình những thông tin, tư
liệu và giúp đỡ, lắng nghe từ chuyện học tập, đến định hướng tương lai. Trong tư vấn
tiểu học, tư vấn viên quan sát trẻ trong lớp học, trong vui chơi, hợp đồng trao đổi với
thầy giáo, phụ huynh học sinh cùng đánh giá về những sức khỏe, sự thành tựu,
những khó khăn có vấn đề, cùng những nhu cầu tối thiết riêng biệt của bé, tham gia
với nhà trường đảm bảo khả năng học tập của bé là phù hợp về mặt chương trình và
nhu cầu phát triển; luôn tiếp xúc cung cấp thông tin về tình hình thực tế được đánh
giá một cách khoa học và hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển, phát huy những ưu
điểm, những nguồn lực tiềm ẩn của học sinh. Điều này rất quan trọng khi trẻ chuyển
từ tiền học đường vào trường tiểu học và từ trường tiểu học sang trường trung học cơ
sở.
 Tư vấn học đường bậc trung học cơ sở
Tư vấn học đường cấp trung học cơ sở cũng như tư vấn học đường cấp tiểu học,
nhưng nhiều chuyên đề được nhấn mạnh khai thác các nguồn lực tự thân của học
sinh, của gia đình và xã hội, giúp học sinh học tập, giải quyết vấn đề chọn ban, phân
luồng học sinh định hướng chọn nghề, chọn trường phổ thông trung học, trường
nghề, trường trung học nghề, trung học chuyên nghiệp, nhắm tới trường cao đẳng,
đại học. Nói chung tư vấn học đường ở cấp học này chú trọng tư vấn học tập, tư vấn
tình cảm và nhất là tư vấn hướng nghiệp (bao gồm tư vấn tâm lý và hướng dẫn thông
tin hướng nghiệp). Giúp học sinh định hướng vào loại hình trường lớp tiếp theo sau
trung học cơ sở hay định hướng nghề nghiệp liên quan đến các tiêu chí yêu cầu đầu
vào của trường nghề, đến khả năng tài chính, kể cả thông tin tìm việc, thông tin về
các chương trình học việc tại các công ty, xí nghiệp, cơ quan có nhu cầu. Giúp học
sinh hiểu biết các vấn đề kinh tế xã hội, những vấn đề liên quan đến hành vi, nhân
cách cá nhân để dễ dàng tìm việc; Chú trọng các vấn đề tư vấn bảo vệ và phát triển
học sinh, động viên và đẩy mạnh sự trưởng thành của học sinh về mặt nhân cách,
quan hệ xã hội, và tinh thần, khả năng học tập, giúp cho chúng hiểu biết, thực hành
tốt kỹ năng sống, vượt qua những khó khăn trở ngại trước khi bị rơi vào tệ nạn (
uống rượu, thuốc lá, ma túy…), vào sự thất bại. Giúp trẻ thoát khỏi sự lạm dụng từ
trong gia đình, hoặc do người ngoài gây hại…
3.5 Những hình thức tư vấn học đường có thể là
- Tư vấn trực tiếp mặt đối mặt giữa người tư vấn và cá nhân từng học sinh (tư vấn
cá nhân)
- Tư vấn nhóm
Để tư vấn nhóm có hiệu quả, cần chú ý:
• Không chia sẻ cảm nghĩ hay kinh nghiệm của bản thân về vấn đề của HS. Cần
tập trung vào các thành viên trong nhóm.
• Khuyến khích sự chia sẻ tích cực; khuyến khích sự suy nghĩ, tìm tòi; khuyến
khích các em mạnh dạn biểu lộ cảm xúc, sự thông cảm,....
• Chú ý không ép buộc bất kỳ HS nào nếu các em không muốn tham gia .
• Cần bảo đảm bí mật các thông tin HS chia sẻ.
• Vừa chủ động, vừa khách quan lắng nghe trong chia sẻ của HS.
• Cần đánh giá từng biểu hiện tiến bộ của HS
- Tư vấn gián tiếp: Qua điện thoại, Qua thư, Qua mạng internet
3.6. Những nguyên tắc củatư vấn trường học
Nguyên tắc số 1: Lắng nghe và tôn trọng
Lắng nghe, tôn trọng là HS sẽ được chia sẻ bất cứ điều gì mình muốn, chúng
tôi không đánh giá đúng hay sai và hoàn toàn chấp nhận và tôn trọng quan điểm cũng
như chính con người bạn.
Nguyên tắc số 2: Bảo mật thông tin
Tư vấn tâm lý luôn tôn trọng sự riêng tư của mỗi người vì vậy cam kết mọi
vấn đề học sinh chia sẻ sẽ được giữ bí mật. Cụ thể:
- Trong trường hợp học sinh tự mình tới phòng tư vấn, mọi vấn đề học sinh chia sẻ
với nhà tư vấn sẽ được giữ bí mật.
- Chỉ tiết lộ thông tin của học sinh với những người có trách nhiệm (phụ huynh học
sinh, cố vấn…) trong ba trường hợp sau: 1) Học sinh đang có ý định gây hại cho
bản thân hoặc gây nguy hiểm cho người khác ; 2) Học sinh đồng ý chia sẻ thông
tin với những người liên quan để được hỗ trợ tốt hơn; 3) Học sinh báo cáo về việc
đang bị đe dọa.
- Trong trường hợp học sinh được chuyển tới phòng tư vấn bởi cha mẹ, thầy cô,
chúng tôi sẽ trao đổi với người đại diện này và những người có liên quan những
thông tin khái quát về quá trình tư vấn nhằm phối hợp trợ giúp học sinh tốt hơn.
Nguyên tắc số 3: Cung cấp giải pháp
HS không chỉ được lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ mà còn được cung cấp những
thông tin mới cập nhật cũng như trao đổi để tìm ra các giải pháp cho những tình
huống cụ thể đang gặp phải.
Nguyên tắc số 4: Làm việc theo qui trình
Thực hiện theo quy trình năm bước khép kín, đảm bảo tính khoa học và tính
bảo mật. Quy trình chung như sau:
- Phỏng vấn trực tiếp người phát hiện vấn đề (phụ huynh, học sinh, giáo viên)
- Gặp người cần tư vấn và mở hồ sơ tư vấn
- Sau 2-3 buổi gặp người cần tư vấn, tư vấn viên lên kế hoạch tư vấn (số buổi, tần
suất, những hỗ trợ cần thiết) và trao đổi với phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm.
- Đánh giá mỗi buổi tư vấn và giữ liên hệ thường xuyên với phụ huynh và giáo
viên (chủ nhiệm và bộ môn) đối với đối tượng tư vấn là học sinh.
- Kết thúc ca tư vấn, đánh giá ca và kế hoạch theo dõi tiếp theo.
3.7.Một số nội dung cơ bản của tư vấn học đường ở trường THCS, liên hệ thực
tế Thứ tự các mối quan tâm của HS theo nghiên cứu gần đây:
- Gia đình: chiếm tỉ lệ 35%, với nhiều thắc mắc có phần nghiêm trọng.
- Cảm nghĩ về bản thân và các giá trị sống 25%
- Chuyện học hành, hướng nghiệp 21%
- Tình bạn, tình yêu 17% ( Phần phụ lục)
Một số rối loạn tâm lý của thiêu niên: Biểu hiện và giải pháp (Giáo án điện tử)
• Vấn đề 1: Trầm cảm
Dấu hiệu:
 Các hành vi vô thức bộc lộ ra bên ngoài như ( quên mất kỉ luật, không tuân
thủ/chống đối…)
 Các hành vi tội phạm ( lấy trộm…)
 Hành vi vô trách nhiệm
 Học tập ở trường kém, lưu ban
 Tách ra khỏi gia đình và bạn bè, dành nhiều thời gian một mình
 Dùng rượu và các chất kích thích.
Hậu quả
 Gây ra các vấn đề ở trường học: Học không tập trung, bỏ học…
 Bỏ nhà; Lạm dụng rượu và ma tuý; Tự trọng thấp; Nghiện Internet; Các hành
vi liều lĩnh; Bạo lực
Hỗ trợ
 Thấu hiểu;
 Khuyến khích các hoạt động thể chất;
 Khuyến khích các hoạt động XH;
 Duy trì can thiệp; Dạy trẻ các kỹ năng;
 XD hệ thống liên lạc giữa gia đình và nhà trường;
 Học về trầm cảm.
• Vấn đề 2: Tự tử
Dấu hiệu
 Nói hoặc đùa về việc tự tử
 Nói về chết một cách tích cực hoặc lãng mạn hoá việc chết
 Viết chuyện, thơ về cái chết
 Tham dự các hành vi liều lĩnh hoặc có rất nhiều lần bị tai nạn, tự làm đau bản
thân…
 Cho đi những vật sở hữu có giá trị
 Nói tạm biệt với bạn bè, gia đình
 Không chú ý đến hình thức, vẻ ngoài…
 Tìm vũ khí, thuốc hoặc những dụng cụ, các cách thức khác có hại cho bản thân
• Vấn đề 3: Rối loạn lo âu
Dấu hiệu
 Sợ hãi, lo lắng quá mức, cảm giác bất an và có xu hướng thận trọng, cảnh giác
quá mức
 Sống thu mình, phụ thuộc, quá dè dặt, kìm chế hoặc quá cảm xúc
 Thường trải qua các triệu chứng đau cơ thể: chuột rút, đau bụng, đau đầu, mệt
mỏi, khó chịu…
Hậu quả:
 Không học, không chơi thể thao và các hoạt động XH
 Sống phụ thuộc, cầu toàn, thiếu tự tin
 Rối loạn xúc cảm, rối loạn ăn uống
 Hình thành cảm xúc tự tử, hoặc tham gia các hành vi tự hủy hoại bản thân
 Sử dụng chất kích thích
• Vấn đề 4: Chống đối – không tuân thủ
Dấu hiệu
 Mất bình tĩnh
 Thường xuyên cãi nhau với người lớn
 Chủ động phớt lờ hoặc từ chối việc thực hiện theo các yêu cầu của người lớn,
cố ý ngây bực mình cho người khác
 Đổ lỗi cho người khác
 Quá nhạy cảm, hay khó chịu về người khác
 Thường xuyên tức giận, bực bội, có thái độ thù hằn, cay độc
Hỗ trợ
 Chú ý tích cực và khen ngợi để củng cố những hành vi được khen ngợi
 Phớt lờ những hành vi không phù hợp nhưng không nghiêm trọng
 Đưa ra những chỉ dẫn ngắn gọn, rõ ràng
 Thiết lập một hệ thống thưởng qui đổi ở nhà
• Vấn đề 5: Gây hấn
Dấu hiệu
 Bắt nạt, uy hiếp, đánh nhau
 Sử dụng vũ khí
 Có biểu hiện độc ác về thể chất với người khác hoặc động vật
 Trộm cắp tài sản, phá hoại tài sản, cố ý gây thiệt hại về tài sản cho người khác
Hỗ trợ
 Phạt nhẹ, kết hợp tham vấn
 Đưa ra các chương trình thay đổi cách suy nghĩ tiêu cực ở trẻ
 Giúp trẻ những cách thức để tự mình phân tán những ấm ức đang hiện hữu
 Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp và thấu cảm
• Vấn đề 6: Rối loạn hành vi
Dấu hiệu
 Độc ác với người và động vật
 Phá hoại tài sản lừa đảo hay trộm cắp
 Vi phạm nghiêm trọng các luật lệ
Hỗ trợ
Rối loạn hành vi là một rối loạn có nội hàm lớn nên không thể dễ can thiệp có
hiệu quả chỉ bằng một liệu pháp đơn lẻ. Nó phải là một chiến lược toàn diện kết
hợp giữa phòng ngừa các vấn đề hành vi tiền học đường và các chương trình can
thiệp tâm lý.
• Vấn đề 7: Phạm tội, phạm pháp
Dấu hiệu
 Bốc đồng, hiếu chiến, ngạo ngược dễ bị kích động
 Thường xuyên phá luật, bất chấp sự an toàn của bản thân và người khác
 Hay bị bắt giữ, thiếu sự ăn năn hối hận
 Xâm hại tài sản của người khác
 Bỏ học, bỏ nhà tham gia vào các băng nhóm
 Nghiện ma túy và các chất kích thích khác
Hỗ trợ
 Cải thiện sức khỏe tâm thần và thể chất
 Tuyên truyền, giáo dục
 Phổ biến pháp luật và những giá trị XH tích cực
• Vấn đề 8: Lạm dụng rượu và chất kích thích
Dấu hiệu
 Thường xuyên buồn ngủ, ngáp vặt
 Cáu kỉnh vô cớ
 Thường xuyên xin tiền với số lượng lớn
 Trộm cắp vặt
 Tiêu tiền quá mức
Hỗ trợ
 Theo dõi, quan sát thường xuyên
 Quản lý tốt các mối quan hệ
 Kết hợp nhiều lực lượng XH để cùng quản lý và giáo dục
 Dùng các biện pháp tư vấn tâm lý
4. Tư vấn định hướng phân luồng và hướng nghiệp ở trường THCS
Trong chương trình giáo dục hướng nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định
Tư vấn hướng nghiệp là một nội dung quan trọng nhằm giúp học sinh chọn
hướng học, chọn nghề phù hợp. Tùy điều kiện từng nơi, học sinh có thể được tư
vấn bởi những cán bộ tư vấn hướng nghiệp tại các Trung tâm Kĩ thuật Tổng hợp -
Hướng nghiệp hoặc Trung tâm Tư vấn Hướng nghiệp, cũng có thể được tư vấn bởi
giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên hướng nghiệp tại trường. Tuy nhiên, hiện nay lực
lượng làm tư vấn hướng nghiệp còn nhiều bất cập, vừa rất thiếu về số lượng, vừa
yếu về kiến thức, kĩ năng tư vấn. Trong khi đó, số lượng học sinh có nhu cầu được tư
vấn hướng nghiệp lại rất cao, nhất là khối học sinh cuối cấp Trung học cơ sở và
Trung học phổ thông. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có chuyên ngành đào tạo
về hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp.
4.1. Khái niệm tư vấn hướng nghiệp
Tư vấn hướng nghiệp được hiểu là hệ thống những biện pháp tâm lí, giáo dục và
một số biện pháp khác được chuyên viên tư vấn hướng nghiệp, thầy/cô giáo hướng
nghiệp, cán bộ Hội Phụ nữ hoặc cha mẹ HS sử dụng nhằm phát hiện, đánh giá sở
thích nghề nghiệp, khả năng về thể chất, trí tuệ của HS, sinh viên hoặc con em trong
gia đình; đối chiếu các khả năng thực có của mỗi em với những yêu cầu của bậc học
cao hơn hoặc những yêu cầu của nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến
nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội. Từ đó, đưa ra lời khuyên về việc lựa chọn
hướng học tập, chọn nghề có cơ sở khoa học.
GHIỆP
Tùy theo đối tượng và nhu cầu, tư vấn hướng nghiệp có thể là:
PHẦN I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP

- Tư vấn hướng học để giúp các em lựa chọn ban, ngành học, trường học phù
hợp ở bậc học cao hơn,
- Tư vấn chọn nghề để giúp các em lựa chọn ngành nghề và cơ sở đào tạo
nghề vừa phù hợp với nguyện vọng, sở thích, khả năng nghề nghiệp của các
em, vừa phù hợp với hoàn cảnh gia đình và nhu cầu nhân lực của địa phương,
xã hội.
4.2. Mục đích
Phát hiện và giúp các em đánh giá đúng sở thích nghề nghiệp, khả năng
của bản thân; hiểu rõ hơn yêu cầu của nghề và nhu cầu lao động của xã hội.
Góp phần xác định con đường tiếp tục phát triển nhân cách và sự phù hợp
nghề của các em trong tương lai.
Làm tốt TVHN sẽ góp phần thiết thực giúp các em đạt được các năng lực
hướng nghiệp trong Khung phát triển nghề nghiệp, phát huy được tối đa năng lực,
sở trường của bản thân trong quá trình học văn hóa, đào tạo nghề và hoạt động
nghề nghiệp sau này.
4.3. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp nói chung là phát triển các năng lực hướng
nghiệp của các em học sinh. Các năng lực này được chia theo 3 khu vực,
- Nhận thức bản thân;
- Nhận thức nghề nghiệp;
- Xây dựng kế hoạch nghề nghiệp.
o Công tác tư vấn hướng nghiệp chú trọng đến các nhiệm vụ chủ yếu sau:
o Phát hiện và đánh giá được những sở thích và khả năng nghề nghiệp hiện có
của các em;
o Làm sáng tỏ mức độ sẵn sàng về tâm lí cũng như những hiểu biết thực tế
đối với nghề nghiệp mà các em định chọn;
o Đưa ra lời khuyên cho các em về việc chọn hướng học, chọn nghề phù hợp;
o Khuyến khích, động viên các em tự giáo dục, rèn luyện và phát triển những
khả năng trong bảng năng lực hướng nghiệp của học sinh.
Bảng 1: Năng ự h ớ ệp cần có của HS
CHUNG VỀ TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP
Khu Vực A: Nhận Năng lực 1
thứ bản thân Xây dựng kiến thức về bản thân trong bốn lĩnh vực: sở thích,
khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp; và dùng kiến thức
này cho việc hướng nghiệp suốt đời.
Năng lực 2
Hiểu được hoàn cảnh của mình trong bối cảnh gia đình,
cộng đồng, Việt Nam và thế giới; và dùng kiến thức này cho
việc hướng nghiệp suốt đời.
Năng lực 3
Xác định được mong muốn, ước mơ, hy vọng và mục tiêu đời
mình; và dùng kiến thức này cho việc hướng nghiệp suốt đời.

Khu vực B: Nhận Năng lực 4


thứ ề ệp Xây dựng kiến thức về các ngành học, các trường nghề,
trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại
học ở trong và ngoài nước; và dùng kiến thức này cho quyết
định chọn ngành học, trường học sau khi hoàn thành
chương trình học lớp 9, lớp 12.
Năng lực 5
Xây dựng kiến thức về nghề, các cơ quan, công ty, doanh
nghiệp trong và ngoài nước; và dùng kiến thức này cho
quyết định chọn nghề và nơi làm việc (công ty, cơ quan, nhà
máy, v.v.) trong tương lai.
Năng lực 6
Đánh giá được vai trò của thông tin cũng như sử dụng thông
tin trong việc quyết định nghề nghiệp.
Khu vực C: Xây Năng lực 7
dự kế oạ Xác định mục tiêu nghề nghiệp.
Năng lực 8
ề ệp Hoạt động ngoại khóa và tham gia phục vụ cộng đồng để tạo
thêm cơ hội nghề nghiệp.
Năng lực 9
Lập kế hoạch và từng bước thực hiện kế hoạch nghề nghiệp.
4.4.Phân loại tư vấn hướng nghiệp
Có 2 loại: tư vấn sơ bộ và tư vấn chuyên sâu.
Tư vấn sơ bộ đơn giản, dễ thực hiện, không đòi hỏi phải có thiết bị, phương
tiện kĩ thuật mà chỉ cần NTV có những hiểu biết nhất định về sở thích nghề nghiệp,
khả năng của NĐTV, về yêu cầu của một số ngành nghề và nhu cầu nhân lực. Tư vấn
sơ bộ giúp NĐTV tự trả lời được 3 câu hỏi:
o Bản thân có thích nghề đó không?
o Bản thân có khả năng làm nghề đó không?
o Xã hội, địa phương có cần nghề đó không?
Nếu là tư vấn hướng học thì giúp NĐTV tự trả lời được 2 câu hỏi:
o Bản thân có thích học ban, trường đó không?
o Bản thân có khả năng học ban, trường đó không?

Tư vấn chuyên sâu phức tạp hơn nhiều, cần có chuyên gia tư vấn được đào tạo để
có kiến thức sâu, rộng như tâm lí học lứa tuổi, tâm lí học lao động, tâm lí học nghề
nghiệp, tâm lí học trẻ khuyết tật, kiến thức về thế giới nghề nghiệp, yêu cầu của nghề,
kiến thức nhân cách (như động cơ, hứng thú, khuynh hướng, năng lực nghề nghiệp),
thông tin về kinh tế, về nhu cầu phát triển nhân lực của các ngành nghề trong nền
kinh tế quốc dân và địa phương… nước ta chủ yếu là tư vấn sơ bộ, tư vấn chuyên sâu
hiện nay còn rất hiếm
4.5.Các điều kiện để thực hiện tư vấn hướng nghiệp thành công
Để thực hiện công tác hướng nghiệp, người tư vấn phải có kiến thức nhất
định về hệ thống giáo dục, về thế giới nghề nghiệp.
Có kỹ năng thu thập thông tin về nhu cầu nhân lực và thị trường lao động-
việc làm;
Kỹ năng tạo mối quan hệ tốt đẹp với học sinh, với những học sinh cần ra
đời sớm, hoặc tự bương chải tiếp tục học, với các cơ quan, công ty cần lao động và
nhiều kiến thức kỹ năng khác liên quan đế phát triển nhân cách học sinh và phát
triển nghề nghiệp địa phương.
4. 6. Các kĩ năng tư vấn hướng nghiệp
Sáu kĩ năng tư vấn hướng nghiệp
4.6.1 Hành vi quan tâm
a. Mục đích, ý nghĩa
- Hành vi quan tâm là bước đầu tiên và quan trọng nhất giúp thiết lập mối quan
hệ giữa NTV với NĐTV.
- Chỉ khi nào NTV thực hiện tốt hành vi quan tâm thì khi đó NĐTV mới thật sự
tin tưởng và mở lòng chia sẻ tâm tư, nguyện vọng với NTV.

b. Cách thực hiện


Hành vi quan tâm được thể hiện ở vẻ mặt, giọng nói, ngôn ngữ cơ thể (dáng
người, cách ngồi, ánh mắt) và sự lắng nghe. Hành vi quan tâm cần được duy trì
thường xuyên và điều chỉnh cho phù hợp với giới tính, độ tuổi, dân tộc và những
đặc điểm khác của NĐTV.
Trong hành vi quan tâm, điều quan trọng nhất là kĩ năng lắng nghe.
Trong thực tế thường có 3 cách nghe:
Nghe chủ động: Người nghe dừng mọi suy nghĩ và các hoạt động khác,
chỉ tập trung lắng nghe một cách cẩn thận, chăm chú để có thể tóm tắt được
những điều vừa nghe được.
Nghe thụ động: Người nghe lơ đãng, thường bỏ qua những chi tiết cụ thể,
chỉ nhớ các ý chính và nhớ không chính xác.
Nghe với định kiến: Người nghe áp đặt ý kiến chủ quan của mình vào những
điều nghe thấy và thường hiểu sai vấn đề.
Người làm tư vấn hướng nghiệp cần phải nghe chủ động. Muốn vậy, trước
khi bắt đầu cuộc tư vấn, NTV cần chuẩn bị tinh thần, gạt hết những lo lắng hay suy
nghĩ khác ra khỏi đầu, chỉ toàn tâm toàn ý lắng nghe NĐTV trò chuyện.
Sau đây là những điểm cần lưu ý khi thực hiện kĩ năng lắng nghe:

NÊN KHÔNG NÊN


• Tập trung lắng nghe • Giả vờ lắng nghe
• Bình tĩnh và kiên nhẫn • Liên tưởng đến bản thân
• Sử dụng ngôn ngữ, cử chỉ tích cực • Suy nghĩ cách trả lời hoặc tìm cách giải
• Giao tiếp bằng ánh mắt, luôn tỏ thái độ quyết vấn đề
tôn trọng, đồng cảm và thể hiện tâm thế • Tranh luận hoặc cắt ngang lời NĐTV
muốn nghe • Kết luận vội vàng hoặc đưa ra nhận xét
• Tập trung vào cảm xúc của NĐTV mang tính chủ quan
• Không tìm cách giải quyết vấn đề khi • Đưa ra lời khuyên khi NĐTV chưa hoặc
đang lắng nghe và không tỏ thái độ phán không yêu cầu
xét • Luôn nhìn vào đồng hồ hoặc giục
• Đặt câu hỏi để kiểm tra lại thông tin NĐTV kết thúc
nghe được
• Khuyến khích NĐTV tự giải quyết vấn
đề của họ

4.6.2. Kĩ năng đặt câu hỏi


a. Mục đích, ý nghĩa
Kỹ năng đặt câu hỏi của NTV sẽ giúp NĐTV thành thật nói ra những suy
nghĩ của bản thân; qua đó, NTV hiểu rõ hơn về NĐTV cũng như khẳng định
được cảm xúc và mâu thuẫn của họ.
b. Cách thực hiện
Tùy trường hợp, NTV có thể sử dụng các loại câu hỏi như:
Câu hỏi mở
Câu hỏi đóng
*Câu hỏi mở: bắt đầu bằng câu hỏi: Vì sao? khi nào? cái gì? bằng cách nào? ở
đâu?
Sử dụng câu hỏi mở để thu thập các thông tin về việc chọn hướng học, chọn
nghề của NĐT
o Vì sao em thích con mình trở thành bác sĩ?
o Anh/chị có biết người học ngành Y cần những tố chất và đam mê gì không?
o Vì sao con thích nghề tổ chức sự kiện?
o Con có biết người làm nghề này cần những tố chất và đam mê gì không?

*Câu hỏi đóng: thường bắt đầu bằng từ “Có phải...?”


Câu hỏi đóng cho câu trả lời cụ thể nhưng không đưa thông tin tỉ mỉ, chi tiết và chỉ
dùng khi muốn xác nhận lại thông tin.
Ví dụ: Có phải là con muốn làm một nghề kiếm được nhiều tiền trong tương lai
không?

PHẦN II. CÁC KỸ NĂNG VÀ LIỆU PHÁP TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP


Câu hỏi đóng không tạo ra một môi trường giao tiếp thoải mái. Do vậy, NTV chỉ nên
đặt câu hỏi này trong trường hợp cần thiết.
4.6.3 Kĩ năng phản hồi cảm xúc
a. Mục đích, ý nghĩa
Kĩ năng phản hồi cảm xúc giúp cho NTV tập trung lắng nghe hơn, hiểu rõ hơn cảm
xúc của NĐTV.
- Thường được áp dụng trong trường hợp câu chuyện có chiều hướng trở
nên bế tắc và NTV muốn có hướng mới cho buổi trò chuyện.
b. Cách thực hiện
Phản hồi cảm xúc được thực hiện qua 2 bước:
Bước 1: Quan sát để biết được tâm trạng của NĐTV (đang buồn, lo, bức xúc, xúc
động,…)

Bước 2: Phản hồi cảm xúc bằng cách sử dụng câu hỏi mở hoặc câu hỏi đóng để
biết được mình đã hiểu NĐTV ở mức độ nào
Ví dụ về phản hồ cảm xúc bằng câu hỏi mở:
Hồi nãy, khi nhắc về về ngành chế tạo ô tô, con có vẻ lo lắng? Vì sao vậy?
Ví dụ về phản hồi cảm xúc bằng câu hỏi đóng:
Có phải là con đang rất lo lắng cho việc chọn nghề tương lai của mình khôn
6.4.4. Kĩ năng đối mặt
a. Mục đích, ý nghĩa
Kĩ năng đối mặt giúp NTV hiểu rõ cảm xúc của NĐTV, làm cho cuộc nói
chuyện tránh được tình trạng đi vào “ngõ cụt”.
Thường được áp dụng khi xuất hiện mâu thuẫn trong câu chuyện của NĐTV.
Nếu sử dụng kĩ năng này quá sớm trong buổi nói chuyện sẽ bị phản tác
dụng vì có thể NĐTV sẽ không cởi mở với NTV nữa. Nhưng nếu NTV không dám sử
dụng kĩ năng đối mặt trong những trường hợp cần thiết thì NĐTV dễ bị nguy cơ tiếp
tục chìm trong những ảo tưởng về bản thân hay nhầm vấn đề.
b. Cách thực hiện
- NTV phải xác định được mâu thuẫn trong lời nói, hành động của NĐTV, giúp họ đối
diện với mâu thuẫn này và cùng tìm cách giải quyết.
- Các bước xác định và giải quyết mâu thuẫn bao gồm:
Bước 1: Quan sát lời nói, hành động để nhận ra sự mâu thuẫn (tức là không đồng
nhất) của NĐTV trong lời nói, hành vi, cảm xúc và ý nghĩ.
Ví dụ 1:
Trong khi nói chuyện, cha mẹ nhận thấy con nói rằng đã tìm hiểu rất kĩ về ngành
Viễn thông; nhưng trong suốt cuộc nói chuyện, cha mẹ không thấy con nói gì về
quá trình tìm hiểu ngành Viễn thông mà chỉ thấy con nói đi nói lại câu “nghe bạn
này nói, nghe bạn kia nói…”
Chỉ ra sự mâu thuẫn
PHẦN II. CÁC KỸ NĂNG VÀ LIỆU PHÁP TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP

Ví dụ2 “Mặc dù con nói con đã tìm hiểu thông tin về ngành
Viễn thông rất kĩ càng, nhưng từ lúc bắt đầu nói chuyện đến bây giờ, mẹ chỉ nghe
con dùng cụm từ “bạn con nói” rất nhiều lần. Vậy, ngoài thông tin từ bạn, con còn
tìm thông tin từ nơi nào khác?”
Bước 3. Cùng với NĐTV tìm cách:
Đối diện
Giải quyết
Sống chung với mâu thuẫn
Sử dụng kĩ năng đối mặt không phải để ép NĐTV thay đổi ý kiến hay quan điểm mà
là để họ hiểu rõ hơn về bản thân, về những mâu thuẫn và khúc mắc mà họ chưa
nhận thấy. Từ đó, họ có thể tự đưa ra quyết định dựa vào nhận thức bản thân.
4.4.5. Kĩ năng tập trung
a. Mục đích, ý nghĩa
Kĩ năng tập trung giúp sắp xếp các vấn đề theo thứ tự ưu tiên nhằm giải quyết
vấn đề quan trọng nhất trước, sau đó mới đến vấn đề ít quan trọng hơn.
Được áp dụng trong trường hợp NĐTV có nhiều vấn đề cần làm rõ và giải
quyết trước khi đưa ra quyết định chọn hướng học, chọn nghề.
b. Cách thực hiện
Khi TVHN, cần tập trung vào bản thân trước, rồi mới đến vấn đề; tiếp theo là hoàn
cảnh gia đình và bối cảnh xã hội.
Ví dụ: Sau 30 phút trò chuyện NTV nhận ra vấn đề quan trọng nhất không phải là
NĐTV và con chưa biết nên chọn ngành học, trường nào để theo học, mà là mâu
thuẫn trong gia đình. NTV đã phân tích với NĐTV: “Theo như những gì tôi nghe
được từ anh, vấn đề nổi lên hiện nay là mâu thuẫn trong gia đình. Theo kinh
nghiệm của tôi, để có được một quyết định hướng nghiệp tốt thì trước hết, các
thành viên trong gia đình phải thực sự hiểu nhau và tôn trọng ý kiến của nhau. Vì
vậy, ngay sau đây, tôi nghĩ anh nên nói rõ hơn về những lý do tạo ra mâu thuẫn
trong gia đình, sau đó chúng ta mới bắt đầu thảo luận về vấn đề hướng nghiệp.
Anh nghĩ sao?”
4.4.6. Kỹ năng phản hồi ý tưởng
a. Mục đích ý nghĩa
Kĩ năng phản hồi ý tưởng giúp NTV kiểm tra xem mình đã hiểu đúng các ý tưởng
của đối tượng
Trong sáu kĩ năng TVHN, hành vi quan tâm và kĩ năng đặt câu hỏi là hai kĩ năng
quan trọng nhất vì giúp NTV mới thiết lập được mối quan hệ tốt với NĐTV, làm cho
NĐTV có cảm giác được cảm thông, tin tưởng để từ đó mở lòng tâm sự, chia sẻ. Hơn
nữa, có thực hiện tốt hai kĩ năng này, NTV mới nắm bắt được cảm xúc, ý tưởng và
những điểm mấu chốt trong câu chuyện, từ đó lựa chọn và sử dụng các kĩ năng
khác cho phù hợp
Phần phụ lục
Phần này cung cấp thông tin bổ sung để tham khảo và sử dụng, bao gồm:
Phụ lục 1. Các lí thuyết cơ bản về hướng nghiệp
Phụ lục 2. Phiếu Trắc nghiệm sở thích (phần 1 và phần 2)
Phụ lục 3. Bảng các nhóm Tính cách theo lí thuyết mật mã Holland
Phụ lục 4. Bộ Trắc nghiệm nhóm sở thích và nghề nghiệp phù hợp
Phụ lục 5. Bộ Trắc nghiệm nhóm khả năng và nghề nghiệp phù hợp
Phụ lục 6. Giới thiệu cổng thông tin điện tử: Em chọn nghề gì?
PHỤ LỤC 1. CÁC LÍ THUYẾT CƠ BẢN VỀ HƯỚNG NGHIỆP
1. LÍ THUYẾT CÂY NGHỀ NGHIỆP
Lí thuyết cây nghề nghiệp là lí thuyết cơ bản nhất trong hướng nghiệp.
a. Nội dung chủ yếu
Khi chọn bất cứ một ngành nghề học nào, mỗi người đều phải dựa vào sở thích ề
ệp, k ả năng (hay còn là năng ự ) thự có, cá tính và giá trị của bản thân mình,
6

tức là dựa vào “rễ” của cây nghề nghiệp. Nếu một người quyết tâm theo đuổi ngành nghề
học phù hợp với “rễ” thì sau khi tốt nghiệp sẽ có nhiều khả năng thu được những “quả
ngọt” trong nghề nghiệp. Họ sẽ có nhiều cơ hội tìm việc tốt, dễ dàng được tuyển dụng
vào vị trí thích hợp, môi trường làm việc tốt, lương cao, được nhiều người tôn trọng...
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

Ngoài các yếu tố trên, còn cần phải có những yếu tố khác như nhu cầu sử dụng lao động,
các kĩ năng tìm kiếm việc làm, kinh nghiệm ngoài lớp học, tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp…
Nhưng quan trọng nhất, mang tính quyết định nhất vẫn là quyết định chọn ngành nghề học
dựa vào “rễ” cây nghề nghiệp.
b. Ý nghĩa của mô hình lí thuyết cây nghề nghiệp
Trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp, việc tìm hiểu bản thân để biết rõ sở thích, khả năng,
cá tính và giá trị nghề nghiệp của chính mình là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Càng
hiểu rõ về bản thân, càng có cơ sở khoa học vững chắc để chọn nghề phù hợp với “rễ”, tránh
được tình trạng chọn nghề theo “quả”, chọn nghề cảm tính, theo lời khuyên của người khác
hoặc theo trào lưu chung.

Hình 1. Mô hình lí thuyết cây ề ệp


2. LÍ THUYẾT MÔ HÌNH LẬP KẾ HOẠCH NGHỀ

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

Hình 2. Mô hình lập kế oạ ề

a. Nội dung chủ yếu


Lập kế hoạch nghề là công việc rất quan trọng cần phải làm trước khi chọn nghề. Điều
này giúp mỗi người biết trước được các công việc, cách tiến hành và thời gian cần thiết để
tiến hành từng công việc một cách chủ động, hiệu quả.
Lập kế hoạch nghề được thực hiện qua 7 bước: 3 bước tìm hiểu và 4 bước hành động.
* Ba bước tìm hiểu
B ớc 1: Tìm ểu bản thân
Tìm hiểu bản thân là tìm hiểu về sở t í ề ệp, k ả năng, cá tính và giá trị. Đây là
bước đầu tiên và quan trọng nhất khi con bạn chọn ngành, nghề học.
Có thể thực hiện bước này bằng nhiều cách khác nhau như: tìm hiểu khả năng và kết quả
học tập các môn học; tham gia các hoạt động ở nhà trường, gia đình và cộng đồng; làm các
phiếu trắc nghiệm về sở thích, khả năng, cá tính, giá trị nghề nghiệp… Chỉ khi nào các em hiểu
được bản thân mình thì khi đó mới có thể quyết định chọn ngành nghề học dựa vào “rễ” cây nghề
nghiệp (xem hình 3. Mô hình lí thuyết cây nghề nghiệp). Thực tế cho thấy, không phải ai cũng
phù hợp với con đường học hành và không phải người thành công là nhất thiết phải có bằng
đại học hay cao đẳng. Do đó, trong quá trình tìm hiểu ngành nghề cho con, các bậc cha mẹ
trước hết cần nhìn nhận, đánh giá đúng năng lực thực tế của con mình để xem con có đủ
sức thi vào đại học hoặc theo học ngành nghề mong muốn hay không. Nếu không thi vào
đại học thì có thể hướng cho con theo học trường cao đẳng, trường trung cấp nghề hoặc
trường dạy nghề.
B ớc 2: Tìm ểu t ị tr tuyể dụ
Tìm được công việc làm phù hợp và ổn định là mong ước của HS khi học xong ngành nghề.
Nhưng điều này tùy thuộc rất nhiều vào nhu cầu sử dụng lao động của ngành, nghề mà con
bạn theo học. Nói cách khác, là tùy thuộc vào thị trường tuyển dụng lao động của ngành,
nghề đó.
Vì vậy, các bậc cha mẹ cần tìm hiểu thị trường tuyển dụng để biết:
Các công việc đang có nhu cầu sử dụng lao động ở tại địa phương, quốc gia và quốc
tế;
Những nghề có tiềm năng phát triển trong tương lai;
Các yêu cầu và đòi hỏi của nghề
Những ngành nghề nào càng cần tuyển dụng nhiều lao động thì những người học xong
ngành nghề đó càng dễ có cơ hội xin việc làm hoặc tự tạo việc làm cho bản thân. Ví dụ:
Trong thời gian vừa qua và những năm sắp tới, ngành Du lịch _ Khách sạn _ Nhà hàng có xu
hướng phát triển mạnh ở nước ta, nhất là những vùng có tiềm năng du lịch cao như Đà
Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết, Nghệ An, Quảng Ninh… Vì vậy, những em học ngành này ra
trường thường dễ có việc làm hoặc tự tạo được việc làm cho bản thân (như mở công ty du
lịch tư nhân, nhà hàng, quán cơm, quán cà phê…).
B ớc 3: Tìm ểu các yếu tố ảnh h ở ế việc ngành h c, tr h c và

Việc lựa chọn và theo đuổi
ngành nghề không chỉ phụ thuộc
vào yếu tố chủ quan của bản thân
người đó mà còn chịu tác động
của nhiều yếu tố khách quan như
hoàn cảnh gia đình, xã hội...
Các em thanh thiếu niên rất dễ
bị dao đ bởi ý kiến của người xung
quanh, bao g ồ m:
Bạn bè; Thầy cô;
Cha mẹ, người thân;
Báo chí, đài phát thanh, truyền
hìn
Mạng xã hội (Facebook)...
Do đó, trong giai đoạn này,
nhận biết đầy đủ về những tác
động và mức độ của tác động sẽ
giúp con bạn sáng suốt, kiên định
và bình tĩnh hơn trong quyết định
chọn ngành nghề.
*Bốn bước hành động
Sau khi hoàn tất ba bước tìm hiểu về bản thân, thị trường tuyển dụng và các yếu tố ảnh hưởng
đến việc chọn nghề của con, các bậc cha mẹ hãy bắt đầu bốn bước hành động sau:
B ớc 1: Xác ị mụ tiêu ề ệp
Mục tiêu nghề nghiệp là cái đích mà mỗi người đặt ra cho hoạt động nghề nghiệp tương lai,
bao gồm mục tiêu gần và mục tiêu xa. Mục tiêu gần là ngành, nghề mà mỗi người chọn học
tại một cơ sở đào tạo nghề nào đó. Mục tiêu xa là tìm được công việc mong muốn sau khi ra
trường.
Cho dù là mục tiêu gần hay mục tiêu xa cũng cần phải thỏa mãn những điều kiện cơ bản
sau:
1. Ngành, nghề chọn học phải phù hợp với sở thích nghề nghiệp và khả năng của bản
thân.
2. Ngành, nghề chọn học phải phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động ở địa phương, trong
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

khu vực hoặc trong nước.


3. Ngành, nghề và trường chọn học phải phù hợp với hoàn cảnh và khả năng kinh tế của gia
đình.
B ớc 2: Ra quyết ị ề ệp
Đây là bước quyết định sẽ theo học ngành gì, làm nghề gì trên cơ sở các thông tin đã tìm
hiểu.
B ớc 3: Thự ệ quyết ị ề ệp
Ở bước này, cần hướng cho các em chuẩn bị những bước cần thiết như: Chuẩn bị làm
hồ sơ thi vào trường đã chọn;
Nỗ lực học tập để thi đầu vào;
Chuẩn bị vào học tại trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề hay trường nghề đã
đăng kí theo học (cũng có thể là chuẩn bị tốt tâm thế, kế hoạch để sẵn sàng đi lao động nếu
như không có khả năng đi học tiếp sau khi tốt nghiệp THCS hoặc THPT).
B ớc 4: Đánh giá
Bước này được thực hiện sau khi các em đã tham gia hoạt động nghề nghiệp một thời gian.
Điều này nhằm giúp các em xem xét việc quyết định nghề nghiệp:
Có thực sự phù hợp với bản thân hay không;
Có đúng hướng không.
Từ đó, các em có định hướng cho việc thực hiện bước kế tiếp để đảm bảo đạt được mục tiêu
và sự phát triển nghề nghiệp của mình
b. Ý nghĩa của lí thuyết mô hình lập kế hoạch nghề
Cần thiết phải lập kế hoạch nghề nghiệp vì chọn nghề cả một cuộc hành trình lâu dài với
nhiều công việc phải làm, từ tìm hiểu bản thân, tìm hiểu thị trường tuyển dụng, tìm hiểu các
yếu tố tác động đến việc xác định mục tiêu, ra quyết định, thực hiện quyết định và đánh giá
quyết định nghề nghiệp.
Một điểm quan trọng trong bước này là không nên ảo tưởng hay mơ mộng xa vời thực tế,
không phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của gia đình.
Ví dụ sau sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về 3 bước tìm hiểu, 4 bước hành động trong mô hình lập kế
hoạch nghề và ý nghĩa của lí thuyết này:
3 bước tìm hiểu:
1. Tìm hiểu bản thân: Bân là con trai lớn trong một gia đình dân tộc thiểu số ở vùng cao của
tỉnh Quảng Nam nhưng Bân rất thích những công việc đòi hỏi sáng tạo và thích làm việc với

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


máy móc. Ngay từ khi còn học ở trung học cơ sở, bản thân Bân và cha mẹ em đã nhận thấy
em rất có khả năng và hứng thú trong lĩnh vực sửa chữa, cải tiến công cụ lao động và các máy
móc, vật dụng trong gia đình.
2. Tìm hiểu thị trường tuyển dụng: Được thầy/ cô hướng dẫn, Bân đã tìm hiểu và biết được nghề
Cơ khí không những phù hợp với sở thích, khả năng của bản thân mà còn là nghề được nhiều
công ty, doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng. Mặt khác, có chuyên môn và vốn liếng, người
học nghề này ra có thể mở được xưởng cơ khí nhỏ tại địa phương để sản xuất, sửa chữa máy
móc, cải tiến công cụ lao động. Từ những thông tin như vậy, Bân tiếp tục tìm hiểu thông tin về
các trường nghề, trung tâm dạy nghề, trường trung cấp nghề (TCN), trường cao đẳng (CĐ),
trường đại học (ĐH) có đào tạo nghề Cơ khí để sau khi tốt nghiệp phổ thông có thể đăng kí
theo học. Bân đã trao đổi những thông tin này với cha mẹ và nói với cha mẹ mơ ước lớn nhất
của mình là sau này sẽ được theo học tại trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng để trở thành kĩ sư
cơ khí.
3. Tìm hiểu yếu tố tác động/ảnh hưởng: Cha mẹ nói với Bân rằng: “Cha mẹ rất ủng hộ mong
muốn của con nhưng con cũng biết đấy, thu nhập của cả nhà mình chỉ trông chờ vào nương
lúa, con trâu và mấy con lợn, con gà. Ngoài ra, chẳng có nguồn thu nhập nào khác. Khó
khăn lắm con ạ”. Bản thân Bân cũng nhận thấy cha mình vài tháng nay không được khỏe,
thỉnh thoảng phải đi bệnh viện. Nhà Bân còn một đứa em trai đang học tiểu học. Hoàn cảnh
kinh tế của gia đình Bân thực sự là còn khó khăn.
4 bước hành động:
1. Xác định mục tiêu nghề nghiệp: Sau khi thực hiện 3 bước tìm hiểu, Bân xác định mục tiêu
nghề nghiệp của mình là theo học nghề Cơ khí.
2. Ra quyết định nghề nghiệp: Bân luôn ước mơ sẽ trở thành kĩ sư cơ khí. Nhưng sau khi tìm
hiểu và biết rõ hoàn cảnh gia đình của mình, Bân quyết định sau khi tốt nghiệp THCS sẽ đăng
kí học nghề Cơ khí tại trường Cao đẳng Nghề kĩ thuật công nghệ Dung Quất, nơi có tiếp nhận
đào tạo HS trình độ tốt nghiệp THCS. Bân và cha mẹ của Bân được biết, trường này vừa đào
tạo nghề, vừa dạy văn hóa. Những em có hoàn cảnh khó khăn còn được nhà trường hỗ trợ tiền
học và sinh hoạt phí. Khi tốt nghiệp, em vừa được cấp bằng tốt nghiệp trung cấp nghề để đi
làm, vừa được nhận bằng tốt nghiệp trung học phổ thông. Ngay sau khi nhận bằng, Bân sẽ
xin đi làm ở Khu Công nghiệp Dung Quất hoặc xưởng cơ khí nhỏ gần nhà để phụ giúp gia
đình. Sau này, nếu có điều kiện, Bân sẽ tiếp tục thực hiện ước mơ của mình là thi vào trường
Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Cha mẹ Bân đã khuyến khích, ủng hộ quyết định của Bân.
3. Thực hiện quyết định nghề nghiệp: Trong khi còn đang học ở trường THCS, cùng với việc
tiếp tục học tốt các môn văn hóa, Bân sẽ đăng kí học nghề Cơ khí ở Trung tâm Kĩ thuật Tổng
hợp - Hướng nghiệp của huyện để tìm hiểu thêm về nghề này. Cha mẹ Bân luôn động viên,
khuyến khích em theo đuổi ước mơ nghề nghiệp của mình.
4. Đánh giá: Bước này sẽ được thực hiện sau khi Bân thực hiện kế hoạch theo học nghề Cơ
khí ở Trường Cao đẳng nghề Kĩ thuật công nghệ Dung Quất. Nếu quyết định nghề nghiệp của
Bân là đúng đắn thì trong suốt thời gian học nghề, Bân sẽ luôn cảm thấy hứng thú học tập,
yêu thích các môn học trong nghề cơ khí và đạt được thành tích tốt. Còn nếu trong thời gian
học, Bân cảm thấy nghề này không phù hợp như mình đã nghĩ, thì em sẽ lập lại quy trình, bắt
đầu từ 3 bước tìm hiểu, để có một định hướng phù hợp trong tương lai.
3. LÍ THUYẾT HỆ THỐNG
a. Nội dung chủ yếu
Mỗi người là một cá thể sống trong một hệ thống phức tạp, đa dạng và chịu ảnh hưởng từ
nhiều yếu tố khác nhau.
Ở mức độ cá nhân, những ảnh hưởng ấy đến từ bên trong, gồm: khả năng, sở thích, cá
tính, giá trị, tuổi tác, giới tính, sức khỏe…
Ở mức độ xã hội, những ảnh hưởng ấy là cha mẹ, các thành viên khác trong gia
đình, bạn bè, truyền thông, mạng xã hội…
Ở mức độ môi trường xã hội, những tác động, ảnh hưởng ấy là: vị trí địa lí, hoàn
cảnh kinh tế _ xã hội, toàn cầu hóa…
Sự tác động của từng yếu tố chủ quan và khách quan đối với quyết định chọn nghề
của mỗi người không như nhau vì nó còn tùy thuộc vào từng thời điểm, nhận thức, điều kiện,
khả năng và phản ứng của mỗi người trước từng yếu tố.
Ví dụ: Do ảnh hưởng của yếu tố giới, nên vẫn có sự khác nhau trong định hướng
chọn nghề cho các em gái và em trai. Nhiều bậc cha mẹ nói rằng họ không thấy có bất kì
rào cản của vấn đề giới trong khi hướng nghiệp cho con. Mặc dù họ không phản đối quyết
định của con trai hay con gái mình nhưng trong thực tế, bất bình đẳng giới vẫn ẩn hiện
trong quan niệm truyền thống của nhiều bậc cha mẹ như: ưu tiên con trai học ở bậc học cao
hơn; mong muốn con trai lựa chọn làm việc trong lĩnh vực kĩ thuật _ công nghệ, quân đội,
quản trị kinh doanh. Đối với con gái thì định hướng chọn nghề nghề dạy học, các nghề trong
ngành y, ngành dịch vụ (nấu ăn, cắt may, cắt uốn tóc, thẩm mĩ, nhà hàng…), ngành tài chính,
ngân hàng… và ít chọn những nghề trong các lĩnh vực kĩ thuật như điện, điện tử, cơ khí, xây
dựng hoặc nghề đòi hỏi có trình độ quản lí cao. "Nếu tôi có con gái, tôi muốn cháu trở thành
giáo viên hoặc y tá vì con gái không có sức khỏe tốt bằng con trai. Hơn nữa con gái nên làm
những nghề cho phép mình có thời gian chăm sóc gia đình và con cái." (Ông Phạm Tường Chi,
thôn Thành Mỹ, xã Tam Phước, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam).
Tuy nhiên, hiện đã có nhiều em nữ tham gia vào các lĩnh vực nghề nghiệp tưởng như
chỉ dành cho nam giới (cảnh sát giao thông, xây dựng, quân đội, lái xe…) và có nhiều em
nam tham gia vào lĩnh vực tưởng chừng như chỉ có phụ nữ mới làm (nấu ăn, thiết kế thời trang
và cắt may, cắt uốn tóc, thẩm mĩ, giáo viên mầm non và tiểu học, hộ lí…).
b. Ý nghĩa của mô hình lí thuyết hệ thống
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

Việc chọn nghề không chỉ phụ thuộc vào yếu tố chủ quan mà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của các yếu tố khách quan. Vì vậy, trước khi ra quyết định chọn nghề, cùng với việc tìm hiểu
bản thân, cần phải tìm hiểu các yếu tố khách quan có tác động đến bản thân, đặc biệt là
hoàn cảnh gia đình, nhu cầu tuyển dụng lao động của xã hội và các yêu cầu, đòi hỏi của
nghề.
Ví dụ dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn mô hình lí thuyết hệ thống trong hướng nghiệp:
Ông bà Lanh có cô con gái rất yêu thích ngành Tài chính và có năng khiếu để học ngành
này. Gia đình ông bà có đủ điều kiện cho con gái theo học Trường Đại học Tài chính hoặc Học
viện Ngân hàng ở Hà Nội. Nhưng, ông bà Lanh và con gái rất phân vân vì hiện nay, kinh tế
toàn cầu đang trong tình trạng khó khăn. Ngành Tài chính _ Ngân hàng ở Việt Nam cũng bị
ảnh hưởng, dẫn đến việc sinh viên ngành này ra trường rất khó kiếm việc làm. Truyền thông
trong nước cũng đưa tin nhiều về việc dư thừa nhân lực trong ngành Tài chính _ Ngân hàng.
Vì vậy, ông bà Lanh và con gái quyết định tìm hiểu thêm những vấn đề liên quan trước khi
ra quyết định. Sau một thời gian tìm hiểu kĩ càng, ông bà Lanh thấy rằng, nếu con gái ông
bà yêu thích và có năng khiếu trong ngành Tài chính _ Ngân hàng vẫn có thể chọn con
đường theo học ngành này được bởi những lí do sau:
Thứ nhất, ngành Tài chính ở Việt Nam nhìn chung là thừa nhân lực, nhưng các công ty đa
quốc gia và các văn phòng đại diện công ty nước ngoài vẫn rất cần nhân lực giỏi trong lĩnh
vực này.
Thứ hai, con gái của ông bà Lanh thật sự yêu thích và có năng khiếu về ngành Tài chính. Đây
là yếu tố cơ bản giúp con gái ông bà Lanh có động lực để học tập đạt kết quả cao trong
quá trình học đại học.
Thứ ba, học ngành Tài chính không có nghĩa là chỉ có thể làm trong lĩnh vực tài chính sau
khi tốt nghiệp. Nếu thực sự giỏi, con gái của ông bà Lanh có thể áp dụng kiến thức và kĩ năng
học được từ ngành này vào nhiều công việc khác như nghiên cứu thị trường, kinh doanh bất
động sản, kế toán, thuế, v.v...
Cuối cùng, trong thời gian học, con gái của ông bà Lanh có thể rèn luyện thêm những kiến
thức, kĩ năng khác để làm tăng thêm khả năng tuyển dụng của bản thân như học thật giỏi
tiếng Anh, giỏi vi tính, làm việc bán thời gian để tích lũy kinh nghiệm, thực tập ngắn hạn và
tham gia những hoạt động khác.
Những thông tin trên đã được ông bà Lanh trao đổi, chia sẻ với con gái. Sau khi phân tích, ông
bà Lanh nói với con gái rằng, con hãy suy nghĩ, tìm hiểu thêm cho kĩ để tự mình ra quyết
định theo học hay không theo học ngành Tài chính. Điều này rất quan trọng vì việc chọn
ngành học, chọn nghề sẽ được con gái của ông bà quyết định khi đã có đầy đủ thông tin
cần thiết và được sự đồng thuận của cha mẹ.
Trong thời đại toàn cầu hóa nền kinh tế như hiện nay, ở nước ta sẽ không có một ngành nghề

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


nào mãi mãi là “nóng” và cũng không có một ngành nghề nào hoàn toàn không cần phải
tuyển lao động. Việc quyết định học một ngành nghề nào đó không nên chỉ dựa vào xu hướng
chung vì không ai biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra do sự thay đổi nhanh chóng về nhu cầu
sử dụng lao động của các ngành nghề trong xã hội. Thay vào đó, một quyết định dựa vào hiểu
biết bản thân hay hoàn cảnh gia đình sẽ vững vàng hơn.
Đối với giới trẻ toàn cầu, đặc biệt là HS Việt Nam, cha mẹ và thầy cô có ảnh hưởng rất lớn tới
quyết định nghề nghiệp của các em. Trong khi đó, chính các bậc cha mẹ và thầy cô lại dễ bị
tác động bởi thông tin trên đài, báo, truyền hình... Vì vậy, khi hướng nghiệp cho con, bạn nên
tích cực tìm hiểu để biết rõ những tác động này, nhất là những tác động trực tiếp đến
quyết định nghề nghiệp của con cũng như những hệ quả mà những tác động ấy nhằm
giúp con bạn ra quyết định nghề nghiệp thích hợp nhất.
4. LÍ THUYẾT NGẪU NHIÊN CÓ KẾ HOẠCH
a. Nội dung chủ yếu
Theo lí thuyết này, sự may mắn hay ngẫu nhiên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình xây
dựng kế hoạch nghề nghiệp của mỗi người. Tuy nhiên, sự may mắn ấy không đến một cách tự
nhiên mà là những thành quả do ta gieo mầm từ trước, nay thu hoạch được.
Bạn hãy đọc câu chuyện có thật của cô giáo Đinh Thị Bích Nga, Nhà giáo ưu tú, Hiệu
trưởng Trường THCS Võ Thị Sáu, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam để hiểu rõ hơn nội dung chủ
yếu của lí thuyết này:
Cách đây đã lâu, ở lớp cô Nga chủ nhiệm có một HS nam rất thích thể thao và luôn đạt điểm
cao ở môn Thể dục. Em rất tích cực tham gia các cuộc thi thể dục thể thao do trường, huyện,
tỉnh tổ chức và luôn đạt giải trong các cuộc thi đó. Tuy nhiên, khả năng học các môn văn hóa
của em lại rất bình thường. Điểm số các bài kiểm tra, bài thi các môn học chỉ đạt được điểm 5,
điểm 6. Thậm chí có môn chỉ được điểm 4. Khi học đến lớp 9, em HS đó đã gặp cô Nga và tâm
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

sự với cô là không biết có nên tiếp tục học THPT để thi vào đại học không vì khả năng học các
môn văn hóa của em chỉ ở mức trung bình. Hoàn cảnh gia đình em cũng khó khăn. Hiểu rõ khả
năng, sở thích của em HS đó, cô Nga đã khuyên em nên đăng kí thi vào trường năng khiếu thể
dục thể thao. Về nhà, em HS này đã kể lại cuộc trò chuyện của mình với cô giáo và nói với
cha mẹ mong muốn đăng kí thi vào trường năng khiếu thể dục thể thao. Cha mẹ đã đồng ý và
ủng hộ quyết định của con vì cha mẹ em cũng thấy rất rõ sở thích, khả năng của con mình.
Hiện nay, em HS giỏi thể dục thể thao của cô giáo Nga ngày nào đã trở thành một vận động
viên nổi tiếng, đoạt được nhiều huy chương ở các cuộc thi trong nước và quốc tế. Em luôn
cảm thấy hạnh phúc trong con đường nghề nghiệp đã chọn.
Nếu được gặp vận động viên nổi tiếng trong câu chuyện trên và hỏi em về con đường
nghề nghiệp, chắc chắn em đó sẽ trả lời: Điều may mắn nhất là em có được cô giáo chủ
nhiệm đã hiểu được khả năng, sở thích và đưa ra lời khuyên quý báu và cha mẹ ủng hộ đối
với quyết định hướng đi của mình. Nhưng trong trường hợp này, có thật sự hoàn toàn là sự
may mắn không nếu em HS đó không học tốt môn Thể dục, nếu không tham gia các cuộc thi
thể dục thể thao và đạt được nhiều thành tích tốt. Ngoài ra, nếu em HS đó không có năng
khiếu thể dục và không khổ công luyện tập thì em có được thành công như vậy hay không?
Do đó, ta có thể nói: Em HS lớp cô Nga chủ nhiệm quả thật rất may mắn, nhưng điều may mắn
ấy không tự nhiên có mà nó là thành quả của những hạt đã được gieo mầm trong suốt
quá trình em học ở trường phổ thông.
b. Ý nghĩa của lí thuyết ngẫu nhiên có kế hoạch
Sự may mắn là yếu tố tác động tích cực đến kế hoạch nghề nghiệp tương lai của mỗi
người. Tuy nhiên, sự may mắn không đến một cách tự nhiên mà nó là hệ quả của
những việc làm tốt, những nỗ lực trong quá khứ, hiện tại và cả những nhận thức đúng về bản
thân để tìm ra hướng đi.
Con bạn học giỏi hay không, đó chưa phải là yếu tố quyết định tất cả. Điều quan trọng nhất
đối với con bạn bây giờ là nỗ lực học tập, tham gia các hoạt động phù hợp với khả năng, chủ
động, tích cực làm nhiều việc tốt cho mọi người xung quanh, vững vàng vượt qua các khó
khăn, rào cản trong cuộc sống cũng như học tập.
5. LÍ THUYẾT VỊ TRÍ ĐIỀU KHIỂN
a. Nội dung chủ yếu
Lí thuyết vị trí điều khiển đưa ra 2 quan điểm sống:

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


(1) Cuộc đời của mỗi người là do chính bản thân người đó làm chủ và điều khiển. Do đó, họ
có toàn quyền làm chủ cuộc sống, làm chủ suy nghĩ, nội tâm của mình.
(2) Cuộc đời của mỗi người là do vận mệnh đã sắp đặt sẵn và điều khiển. Do đó, họ luôn
cho rằng mình có làm gì cũng không thay đổi được số mệnh và thường để người khác hoặc
hoàn cảnh làm chủ vận mệnh của họ.
Có thể khái quát 2 quan điểm của lí thuyết vị trí điều khiển trong sơ đồ sau:

Hình 4. Sơ ồ minh lí thuyết vị trí ều k ể


b. Ý nghĩa của lí thuyết vị trí điều khiển
Có rất nhiều chuyện xảy đến trong cuộc đời mỗi người mà chúng ta không có khả năng
tránh né hay điều khiển được. Ví dụ: ta sinh ra trong gia đình kinh tế khó khăn hay khá giả;
sinh sống ở một quốc gia giàu có hay chậm phát triển; tai nạn đột nhiên xảy đến khi đang đi
ngoài đường... Nhưng, ta có toàn quyền quyết định cách ta phản ứng lại khi những chuyện
ấy xảy ra. Nếu ta có phản ứng một cách tích cực thì sẽ đem lại kết quả tích cực và ngược
lại. Nói cách khác, chúng ta không điều khiển được ngoại cảnh hay những yếu tố khách
quan, nhưng có khả năng 100% điều khiển được nội tâm mình. Vì vậy, ta có khả năng tự
làm chủ vận mệnh của mình.
Lí thuyết vị trí điều khiển liên quan chặt chẽ với lí thuyết ngẫu nhiên có kế hoạch đã được giới
thiệu ở trên và cho rằng cuộc đời không có sự may mắn đến một cách tình cờ, mà chỉ đến
khi chúng ta tạo điều kiện cho nó xảy ra.
Sau đây là một số câu chuyện có thật chứng minh cho lí thuyết ngẫu nhiên có kế hoạch và lí
thuyết vị trí điều khiển.
PHẦN PHẦN PHỤ LỤC

Câu chuyện thứ nhất: Dịch giả Nguyễn Bích Lan sinh năm 1976 tại Hưng Hà _ Thái Bình.
Năm 13 tuổi, Bích Lan mắc bệnh nan y loạn dưỡng cơ, cô đã phải nghỉ học năm lớp 8. Nhưng
cô đã không gục ngã, không đầu hàng mà đã vươn lên để chiến thắng số mệnh nghiệt ngã.
Được sự giúp đỡ, động viên, khuyến khích của cha mẹ, cô đã tự mày mò học tiếng Anh. Trong
6 năm liền, mỗi ngày cô đã dành ra 6 tiếng để tự học tiếng Anh. Sau đó, cô mở lớp dạy tiếng
Anh “lớp học cây táo” tại nhà. Trong vòng 5 năm, cô đã dạy tiếng Anh cho 200 học trò, giờ
đã có người tốt nghiệp đại học và giúp cô dịch sách. Khi bệnh loạn dưỡng cơ biến chứng
sang tim, không thể đi đứng được, phải nằm liệt giường trong căn phòng nhỏ, Bích Lan đã
chuyển sang dịch các tác phẩm văn học nước ngoài. Hiện nay, cô là dịch giả của nhiều tác
phẩm văn học đã được xuất bản. Năm 2010, Bích Lan nhận giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà
văn Việt Nam cho tác phẩm Triệu phú ổ chuột và trở thành hội viên Hội Nhà văn. Bích Lan còn
viết và cho xuất bản tự truyện Không thể gục ngã,
đồng thời là dịch giả bộ tự truyện Cuộc sống
không giới hạn và Đừng bao giờ gục ngã của Nick
Vujicic. Cô nói rằng, đối với cô, 3 chìa khóa của sự
thành công là: lòng yêu đời, sự kiên nhẫn và niềm
tin rằng dù có thách thức đến đâu cũng không
thể mạnh bằng sức mạnh của con người.
Câu chuyện thứ hai: Nick Vujicic sinh ngày
4/12/1982 tại Melbourne, Australia. Anh là một
người bị tật nguyền từ nhỏ. Khi sinh ra Nick đã
không có cả tay lẫn chân. Bố mẹ anh đã gần như
ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng
thương của mình chào đời nhưng chính họ lại là
những người tận tình chăm sóc và giúp anh phát
triển như một đứa trẻ bình thường.
Từ khi 18 tháng tuổi, Nick đã được bố dạy bơi. Năm6 tuổi, Nick làm quen với máy vi tính và
giờ đây anh có thể dùng bàn chân bé tẻo teo có hai ngón nhỏ xíu của mình gõ máy tính với
tốc độ 43 từ/phút. Anh cũng học đá bóng, bơi lội thậm chí là một tay lướt sóng rất cừ. Đã có
những lúc anh cảm thấy chán chường vì bị bạn bè ở trường chế giễu, bắt nạt, nhưng với sự
giúp đỡ của gia đình và bạn bè, anh đã vượt qua tất cả trở ngại đó. Nick bắt đầu những bài
diễn thuyết của mình từ năm anh 17 tuổi tại các nhà thờ. Cho tới thời điểm hiện tại, ở độ tuổi
31 anh đã đi qua 47 nước để diễn thuyết. Những bài diễn thuyết của anh đã làm lay động
trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới bởi lòng nhiệt thành và những câu chuyện cảm động.
Chúng đã mang tới cho các bạn trẻ niềm hi vọng vào cuộc sống, nghị lực vươn lên nghịch
cảnh. Năm 1990, Nick vinh dự nhận giải thưởng "Công dân trẻ nước Úc" cho những nỗ lực của
mình.
Năm 23 tuổi, anh lấy bằng cử nhân thương mại với chuyên môn kế hoạch tài chính và kế
toán. Không có tay nhưng anh có thể chạm tới trái tim hàng triệu người. Không có chân, Nick
vẫn đi tới khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Hiện tại, Nick là Chủ tịch và là CEO của tổ chức quốc
tế Life Without Limbs, là giám đốc công ty Attitude Is Altitude, đồng thời là một diễn giả có sức
truyền cảm lớn nhất và đặc biệt nhất hành tinh. Cuốn sách Life without limits (Cuộc sống không
giới hạn) là cuốn sách đầu tay của Nick kể về những nỗ lực của anh trong suốt những năm
qua. Cuốn sách đã được hàng triệu độc giả trên thế giới đón nhận và hiện đã được dịch và phát
hành tại Việt Nam11. Trong thời gian từ 23 _ 26/ 5/ 2013, Nick Vujicic đã đến Việt Nam và đã

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


diễn thuyết trước hàng chục vạn khán giả ở Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội. Nhìn
thấy Nick và nghe câu chuyện của Nick, mỗi người hiểu rõ hơn về Cuộc sống không giới hạn
và Đừng bao giờ gục ngã mà Nick Vujicic đã viết trong bộ tự truyện của mình.
Câu chuyện thứ ba: Đây là câu chuyện về nhà tỉ phú người Hồng Kông LiKa-Sing, người giàu nhất
châu Á với tổng tài sản lên tới 29,7 tỉ đô la Mĩ (tương đương trên 600 nghìn tỉ đồng Việt Nam).
Năm 12 tuổi, ông phải bỏ học để đi làm vì cha mắc bệnh nặng. Ông đã nỗ lực phấn đấu vươn lên
không biết mệt mỏi. Từ một công nhân, ông đã dần dần được thăng chức thành người quản lí
nhà máy nhựa. Năm 22 tuổi, có chút vốn liếng, ông đứng ra lập công ty riêng. Đến nay, việc
kinh doanh của ông trải dài trên nhiều lĩnh vực, từ viễn thông, vận tải đến công nghệ sinh học
với đội ngũ nhân viên tại 52 quốc gia12.
Câu chuyện thứ tư: Bạn tôi có hai người con trai, chẳng may chồng chị mất sớm từ khi con chị
còn nhỏ. Chị một mình nuôi dạy con khôn lớn. Đến nay, người con trai lớn của chị đã tốt
nghiệp Trường Đại học Bách khoa và đang làm việc cho một công ty lớn. Riêng cháu thứ hai
nhất quyết không thi vào đại học mặc dù sức học của cháu vào loại khá. Mẹ cháu cũng mong
muốn cháu thi vào đại học. Ngay từ khi học THCS, cháu đã thể hiện rõ năng khiếu đồ họa trên
máy vi tính và có đam mê thực sự đối với công việc này. Cháu nói với mẹ rằng, sau khi tốt
nghiệp THPT, cháu muốn được học một khóa nghiệp vụ về đồ họa trên máy tính của Trường
Đại học FPT, sau đó đi làm luôn. Hiểu rõ khả năng và niềm đam mê của con, chị vui vẻ đồng ý
với quyết định của con, không bắt con thi vào đại học nữa. Cháu đã làm họa sĩ thiết kế đồ họa
đầy triển vọng cho VCTV Việt Nam với mức lương trên 10 triệu/tháng.
Các câu chuyện có thật trên giúp chúng ta hiểu rõ hơn lí thuyết vị trí điều khiển, đồng thời
cũng cho thấy, học đại học không phải là con đường duy nhất đem đến vinh quang, sự nghiệp
cho mỗi người. Vấn đề quan trọng nhất là mỗi người hãy tự làm chủ bản thân mình, phản
ứng tích cực trước những sự cố xảy ra ngoài ý muốn để tìm ra con đường đi đúng đắn nhất
cho bản thân.
6. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP
Mô hình chìa khóa xây dựng kế hoạch nghề

Hình 5. Mô hình chìa khóa xây dự kế oạ ề nghi


Sơ đồ trên được tạo ra dựa trên lí thuyết mô hình lập kế hoạch nghề và lí thuyết cây nghề
nghiệp. Như đã đề cập đến ở phần lí thuyết “Mô hình lập kế hoạch nghề nghiệp” NĐTV giúp
con hoàn tất ba bước tìm hiểu, gồm:
Xây dựng nhận thức bản thân xem con thích gì và giỏi gì
Tìm hiểu các ngành học ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề hay trường nghề phù
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

hợp với sở thích và khả năng con mình; tham khảo xem học xong các ngành ấy sẽ làm nghề
gì, và nghề nghiệp đó có vai trò như thế nào trong thị trường tuyển dụng/lao động hiện tại và
tương lai
Các tác nhân hoặc yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành, nghề của con
Sau đó NĐTV bắt đầu giúp con làm bốn bước hành động, gồm:
Xác định mục tiêu nghề nghiệp, tức là xác định xem sẽ làm công việc gì trong tương lai
Ra quyết định : học ngành gì? ở trường nào?
Hành động: chuẩn bị hồ sơ đăng kí dự tuyển vào trường và ngành học mình đã chọn. Đánh giá
xem quyết định của con có đúng không sau khi dự tuyển, tham gia học, suốt thời gian học
và tìm hiểu thêm về lĩnh vực con chọn, v.v.
Mô hình này sẽ giúp NĐTV mường tượng được những bước cần làm trước khi lập kế
hoạch nghề nghiệp, và hoàn tất chúng trong suốt quá trình hướng nghiệp để ra quyết định
chọn ngành, chọn nghề.
Đây cũng là một công cụ tốt để NTV tự đánh giá xem khả năng tư vấn hướng nghiệp của mình
có đạt hiệu quả trong việc giúp NĐTV định hướng nghề nghiệp hay chưa. Một kế hoạch
nghề nghiệp rõ ràng sẽ là minh chứng tốt nhất cho quá trình HN hiệu quả.
Trên đây là một số lí thuyết cơ bản về hướng nghiệp. Hiểu rõ những lí thuyết hướng nghiệp sẽ
giúp NTV vững tin hơn trong cuộc hành trình hướng nghiệp cùng NĐTV. Những lúc thấy
bối rối, bế tắc trong công tác HN, bạn hãy quay lại đọc kỹ và nghiên cứu những lí thuyết
này vì đây là nền móng của quá trình xây dựng công trình HN của mỗi người.
PHỤ LỤC 2
PHIẾU TRẮC NGHIỆM SỞ THÍCH (Phần 1)
Đánh dấu X vào ô vuông trước mỗi câu mà bạn thấy phù hợp với mình. Đừng suy nghĩ quá nhiều khi lựa chọn câu trả lời. Thời gian
hoàn thành : 20 phút. Mỗi ô được đánh dấu sẽ tính là 1 điểm, không phải điểm cao là làm giỏi mà phải lựa chọn theo đúng suy
nghĩ bản thân.

□ Tôi tự thấy mình là người khá về các môn thể thao. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi là người yêu thích thiên nhiên. được đánh dấu X và
□ Tôi là người hay tò mò về thế giới xung quanh mình (thiên nhiên, không gian, những sinh vật sống). viết số tổng bên
□ Tôi là người độc lập. dưới.
□ Tôi thích sửa chữa đồ vật, vật dụng xung quanh tôi.
□ Tôi thích làm việc sử dụng tay chân (làm vườn, sửa chữa nhà cửa).
□ Tôi thích tập thể dục.
□ Tôi thích dành dụm tiền. Nhóm Kĩ thuật
□ Tôi thích làm việc cho đến khi công việc hoàn thành (không thích bỏ dở việc).
□ Tôi thích làm việc một mình.
□ Tôi là người rất hay để ý tới chi tiết và cẩn thận. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi tò mò về mọi thứ. được đánh dấu X và
□ Tôi có thể tính những bài toán phức tạp.

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


viết số tổng bên
□ Tôi thích giải các bài tập toán. dưới.
□ Tôi thích sử dụng máy tính.
□ Tôi rất thích đọc sách.
□ Tôi thích sưu tập (đá, tem, tiền đồng).
□ Tôi thích trò chơi ô chữ. Nhóm Nghiên cứu

□ Tôi
Tôi thích họctạo.
rất sáng các môn khoa học.

□ Tôi
Tôi thích
thích những thách
vẽ, tô màu và thức.
sơn.
Cộng số điểm ở các ô
được đánh dấu X và
□ Tôi có thể chơi một nhạc cụ. viết số tổng bên
□ Tôi thích tự thiết kế quần áo cho mình hoặc mặc những thời trang lạ và thú vị. dưới.
□ Tôi thích đọc truyện viễn tưởng, kịch và thơ ca.
□ Tôi thích mĩ thuật và thủ công.
□ Tôi xem rất nhiều phim. Nhóm Nghệ thuật
□ Tôi thích chụp hình mọi thứ (chim, người, cảnh đẹp).
□ Tôi thích học một ngoại ngữ.
□ Tôi thích hát, đóng kịch và khiêu vũ.
□ Tôi rất thân thiện. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi thích chỉ dẫn hoặc dạy người khác. được đánh dấu X và
□ Tôi thích nói chuyện trước đám đông. viết số tổng bên dưới.
□ Tôi làm việc rất tốt trong nhóm.
□ Tôi thích điều hành các cuộc thảo luận.
□ Tôi thích giúp đỡ những người gặp khó khăn. Nhóm Xã hội
□ Tôi chơi các môn thể thao có tính đồng đội.
□ Tôi thích đi dự tiệc.
□ Tôi thích làm quen với bạn mới.
□ Tôi thích làm việc với các nhóm hoạt động xã hội tại trường học, nhà thờ, chùa, phường, xóm, hay cộng đồng.
□ Tôi thích học hỏi về tài chính (tiền bạc). Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi thích bán các sản phẩm (kẹo, bút viết...). được đánh dấu X và
□ Tôi nghĩ mình thuộc dạng nổi tiếng ở trường. viết số tổng bên dưới.
□ Tôi thích lãnh đạo nhóm và các cuộc thảo luận.
□ Tôi thích được bầu vào các vị trí quan trọng trong nhóm hoặc câu lạc bộ trong và ngoài nhà trường.
□ Tôi thích có quyền và thích ở vị trí lãnh đạo.
□ Tôi muốn sở hữu một doanh nghiệp nhỏ.
□ Tôi thích tiết kiệm tiền. Nhóm Quản lí
□ Tôi thích làm việc cho tới khi công việc hoàn tất.
□ Tôi thích mạo hiểm và tham gia các cuộc phiêu lưu mới.
□ Tôi thích gọn gàng và ngăn nắp. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi thích phòng của tôi thường xuyên gọn gàng và ngăn nắp. được đánh dấu X và
□ Tôi thích sưu tầm các bài báo về các sự kiện nổi tiếng. viết số tổng bên
□ Tôi thích lập những danh sách các việc cần làm. dưới.
□ Tôi thích sử dụng máy tính.
□ Tôi rất thực tế và cân nhắc mọi chi phí trước khi mua một thứ gì đó.
□ Tôi thích đánh máy bài tập của trường lớp hơn là viết tay.
□ Tôi thích đảm nhận công việc thư ký trong một câu lạc bộ hay nhóm.
□ Khi làm toán, tôi hay kiểm tra lại bài làm nhiều lần. Nhóm Nghiệp vụ
□ Tôi thích viết thư.
PHIẾU TRẮC NGHIỆM SỞ THÍCH (Phần 2)
Làm phần 1 trước khi làm phần 2. Từ kết quả của phần 1, viết số điểm của ba nhóm cao nhất xuống dưới đây. Nếu bạn có hai hay
ba phần bằng nhau thì cũng không sao. Đây là kết quả sở thích của bạn. Hãy dùng kết quả trắc nghiệm sở thích của bạn để tìm hiểu
bạn có tính cách gì và một số công việc phù hợp với bạn nhất.
Hãy gạch dưới chân những nghề mà bạn thấy thích ở cột bên phải

Nhóm sở thích của bạn:

Tổng số cao nhất Tổng số cao thứ hai Tổng số cao thứ ba

Nhóm Kĩ thuật Nghề nghiệp bạn thích


là những người có tính thực tế.

Những ai có khả năng như Vận hành máy, cơ khí ứng dụng, bảo trì và sửa chữa ô tô, thiết Kĩ sư ô tô.
một vận động viên thể thao bị điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện- điện tử , tin Kĩ sư chế tạo máy.
hoặc có khả năng như một học, xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng Kĩ sư ngành tự động hóa.
thợ máy, thích làm với những thủy sản, mộc dân dụng, mộc mĩ nghệ, nấu ăn, làm vườn và Kĩ sư nông, lâm, ngư nghiệp.
vật cụ thể, máy móc, dụng chăm sóc cây xanh, cắt may, thêu, đan, móc, kĩ thuật phòng Kĩ sư thiết kế cảnh quang đô thị,
cụ, cây cối, con vật, hoặc các lab, lái xe , lái tàu, công nghệ thông tin… y tá điều dưỡng… công trình công cộng, kĩ sư công
hoạt động ngoài trời. Các công việc hoạt động thuộc nhóm kĩ thuật có từ công nghệ may, kĩ sư công nghệ thông
nhân bậc 2/7, 3/7, công nhân kĩ thuật trình độ trung cấp tin, bác sĩ…
nghề...được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, các trường trung Các công việc này được đào tạo tại
cấp nghề, trung tâm kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp của các trường đại học và cao đẳng
địa phương. trên toàn quốc.

Nhóm Nghiên cứu là Nghề nghiệp bạn thích


những người thích tìm tòi,
khám phá, điều tra.
Những ai thích quan sát, tìm Lập trình viên, kĩ thuật viên y tế, kĩ thuật viên phòng thí
Nhà sinh vật học.
tòi, khám phá, học hỏi, điều nghiệm, chăn nuôi, thú y, kỹ thuật viên phục hồi răng, Nha sĩ/Dược sĩ.
tra, phân tích, đánh giá hoặc chuyên viên nghiên cứu thị trường, chuyên viên nghiên cứu Kĩ sư phần mềm.
giải quyết vấn đề. các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội… Nhà khảo cổ học.
Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, Nhà hóa học/vật lí học/địa lí học,
các trường trung cấp nghề, các trung tâm kĩ thuật tổng hợpnhà nghiên cứu (địa chất, sử, dân
_ hướng nghiệp của địa phương. Các ngành nghề này cũng tộc học..), bác sĩ, giảng viên đại học,
được đào tạo trực tiếp tại đơn vị tuyển dụng sau một thời thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học
gian thực hành và làm việc trực tiếp tại đơn vị đó. tự nhiên và khoa học xã hội…
Các công việc này được đào tạo tại
các trường đại học, cao đẳng và các
học viện trên toàn quốc.
Nhóm Nghệ thuật
là những người có sở thích Nghề nghiệp bạn thích
thẩm mĩ, sáng tạo.
Những ai có khả năng nghệ Thiết kế đồ họa, phóng viên, thợ chụp ảnh, ca sĩ, diễn viên Giám đốc quảng cáo.
thuật, sáng tác, trực giác và (điện ảnh, kịch, chèo, cải lương, tuồng…) thợ thủ công mĩ Kĩ sư thiết kế đồ họa.
thích làm việc trong các tình nghệ (chạm khắc gỗ, thêu tranh, làm đồ gốm sứ, chạm kiến trúc sư, giáo viên dạy kịch, nhà
huống không có kế hoạch bạc…), nhà báo, bình luận viên, dẫn chương trình, người văn, họa sĩ, nhạc sĩ, kĩ sư thiết kế
trước như dùng trí tưởng mẫu, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ, nhà thơ, đạo diễn, chuyên mẫu, giảng viên văn học…
tượng và sáng tạo. viên trang điểm, thiết kế thời trang, chăm sóc cây kiểng, Các công việc này được đào tạo tại
cắm hoa, tỉa rau củ, làm hoa… các trường đại học, cao đẳng và các
Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, học viện, nhạc viện trên toàn quốc.
các trường trung cấp nghề, các trung tâm kĩ thuật tổng
hợp - hướng nghiệp, hội Liên hiệp phụ nữ, nhà văn hóa
của địa phương.

Nhóm Xã hội
là những người thích Nghề nghiệp bạn thích
hoạt động xã hội.
Những ai thích làm việc cung Nhà hoạt động xã hội, y tá cộng đồng, dược tá, nhân viên Giáo viên các cấp, tư vấn viên, bác
cấp hoặc làm sáng tỏ thông các công ty du lịch, hướng dẫn viên du lịch, huấn luyện viên, sĩ, dược sĩ, luật sư, bác sĩ khoa
tin, thích giúp đỡ, huấn tư vấn hướng nghiệp, dịch vụ khách hàng, cán bộ xã hội, tâm thần, thần kinh, chuyên gia
luyện, chữa trị hoặc chăm sóc cán bộ Hội phụ nữ, nhân viên khách sạn/ resort., nhân viên tâm lý, chuyên gia tư vấn học
sức khỏe cho người khác; có bảo hiểm… đường, chuyên gia tư vấn bất động
khả năng về ngôn ngữ. Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, sản…
các trường trung cấp nghề, các trung tâm kinh tế kỹ thuật Các công việc này được đào tạo tại
tổng hợp và hướng nghiệp, hội Liên hiệp Phụ nữ, nhà văn các trường đại học, cao đẳng và các
hóa của địa phương. học viện, trên toàn quốc.
Nhóm Quản lí
là những người có sở Nghề nghiệp bạn thích
thích kinh doanh, lãnh
đạo, thuyết phục người
khác.

Những ai thích làm việc với Công an, quân đội, quản trị kinh doanh, kĩ thuật hệ Quản lí khách sạn, giám đốc tín
những người khác, có thống thông tin, quản trị mạng, chủ doanh nghiệp, dụng, giám đốc ngân hàng, sĩ
khả năng tác động, thuyết chủ đại lý kinh doanh, chuyên viên PR , quản lí khách quan công an, sĩ quan quân đội,
phục, thể hiện, lãnh sạn, bếp trưởng khách sạn cao cấp, kế toán … chánh án, viện kiểm sát nhân
đạo hoặc quản lí các mục Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy dân, quản lí giáo dục các cấp,
tiêu của tổ chức, các lợi ích nghề, các trường trung cấp nghề, các trường trung kế toán trưởng.
kinh tế. cấp cảnh sát, trung cấp quân sự, các trung tâm kĩ thuậtCác công việc này được đào tạo
tổng hợp - hướng nghiệp, Hội Liên hiệp phụ nữ, nhà tại các trường đại học, cao
Nhóm Nghiệp vụ văn hóa của địa phương. đẳng và các học viện, trên
là những người thích Nghề nghiệp bạn thích toàn quốc.
nguyên tắc, làm việc với
con số, báo cáo hoặc
làm việc với máy móc
được sắp đặt trật tự.
Những ai thích làm việc với Kế toán, thanh tra các ban ngành, thủ thư, thư kí, nhân Cử nhân các ngành ngân hàng,
dữ liệu, con số; có khả viên lưu trữ, nhân viên văn phòng, chuyên viên thuế, tài chính, hành chánh tổng
năng làm việc văn phòng, thủ quỹ, kế toán viên, tiếp tân, bưu điện, nhân viên hợp, tổ chức cán bộ, giáo viên,
thống kê; thực hiện các ngân hàng… Các ngành nghề trên được đào tạo tại kiểm toán viên, nghiên cứu
công việc đòi hỏi chi tiết, các cơ sở dạy nghề, các trường trung cấp nghề, các viên, luật sư, công an hình sự…
tỉ mỉ, cẩn thận hoặc làm trung tâm kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, Hội Các công việc này được đào tạo
theo hướng dẫn của Liên hiệp Phụ nữ, nhà văn hóa của địa phương. tại các trường đại học, cao
người khác. đẳng và các học viện, trên
toàn quốc.
PHỤ LỤC 3 CÁC NHÓM TÍNH CÁCH THEO LÍ THUYẾT MẬT MÃ HOLLAND

1. NHÓM KĨ THUẬT
K ểu thự tế ụ t ể _ thao tác kĩ thuật (ký hiệu KT)
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm kĩ thuật có sở thích và khả năng khám phá, sử dụng máy móc, làm
những công việc sử dụng thao tác tay chân như các ngành nghề thuộc về cơ khí, ô tô, điện, tin
học hoặc các ngành nghề đòi hỏi sự khéo léo của tay chân như thể thao, nấu nướng, chăm sóc cây
xanh, thủ công mĩ nghệ...
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
 Thực tế _ cụ thể.
 Thể lực tốt _ suy nghĩ thực tế.
 Tư duy, trí nhớ tốt.
 Say mê, nghiêm túc thực hiện các quy trình kĩ thuật.
 Sáng tạo, khéo tay, tỉ mỉ.
 Năng lực chú ý vững vàng.
 Thị lực tốt.
 Trí tưởng tượng không gian tốt.
 Phản ứng cảm giác/ vận động nhanh, chính xác.
 Chịu đựng trạng thái căng thẳng.
 Kiên trì, nhạy cảm.
 Khí chất thần kinh ổn định.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Các công việc liên quan đến điều khiển máy móc, đồ vật hoặc chăm sóc, bảo vệ vật nuôi,
cây trồng; làm việc ngoài trời, đòi hỏi sự khéo léo chân tay khi sử dụng các công cụ, máy móc
hoặc trong hoạt động thể thao.
Nghề phù hợp điển hình: chăm sóc cây _ con, điều khiển, sử dụng, sửa chữa máy móc,
nghề thủ công, huấn luyện viên thể hình, cảnh sát, cứu hoả…
Chống chỉ định của những công việc trên. (Chống chỉ định trong nghề nghiệp có nghĩa là
không nên làm nghề thuộc nhóm này nếu người nào đó bị mắc các tật hoặc bệnh mà nghề không
“chấp nhận” như các tật hoặc bệnh kể trên.)
 Dị ứng dầu mỡ, hóa chất.
 Lao, hen, hẹp van tim, viêm thận.
 Loạn thị, loạn sắc, mù màu.
 Run tay và mồ hôi quá nhiều.
 Tâm lí không ổn định.
3. Các ngành nghề đào tạo
Vận hành máy, chế tạo máy, cơ khí ứng dụng, tự động, bảo trì và sửa chữa ô tô, thiết bị
điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện _ điện tử , tin học, xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng
rừng, nuôi trồng thủy sản, mộc dân dụng, mộc mĩ nghệ, thể thao, nấu ăn, làm vườn và chăm sóc
cây xanh, may mặc, thêu nghệ thuật, đan, móc, làm hoa, điêu khắc, nhân viên kĩ thuật phòng
lab, tài xế, lái tàu…
Điện, cơ khí, ô tô, công nghệ thông tin, kĩ thuật nấu ăn, kĩ thuật cảnh quan và môi
trường, kĩ thuật chăm sóc cây cảnh, may dân dụng, may công nghiệp, kĩ thuật làm vườn, kĩ thuật
nuôi trồng thủy sản…
ẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

Các công việc hoạt động thuộc nhóm kĩ thuật có từ công nhân bậc 2/7, 3/7, công nhân
kĩ thuật trình độ trung cấp nghề, kĩ sư thực hành, chế tạo, sản xuất, kiểm tra, điều khiển hệ
thống, gia công, chế biến cơ _ hóa _ điện _ điện tử, ô tô, đầu bếp…
Hiện nay, tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm Kĩ thuật tổng hợp _
hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp nghề, trung cấp chuyên
nghiệp, các trường cao đẳng nghề, đại học vùng và Trung ương.
3. NHÓM NGHỆ THUẬT
K ểu sáng tạo tự do _ văn h c _ ệ thuật (ký hiệu NT)
1. Đặc điểm

Những người ở nhóm nghệ thuật rất thích và có khả năng làm việc thiên về tính chất nghệ
thuật như văn chương, vẽ, thiết kế mĩ thuật, đạo diễn, nghệ sĩ…

Đây là dạng nghề đang phát triển mạnh theo nhu cầu xã hội. Cùng trong nhóm này là các
nhà văn, các biên kịch, nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ…

Khả năng của người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Sáng tạo _ Tự do:

 Sáng tạo, linh hoạt và thông minh. Kiên trì, nhạy cảm.
 Tinh thần phục vụ tự nguyện.
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

 Có tính tưởng tượng không gian và nhận biết tốt hình dạng vật thể. Có khả năng sống
thích ứng.
 Diễn tả ngôn từ lịch sự, rõ ràng.

 Hiểu biết về lịch sử, văn hóa, chính trị.

2. Môi trường làm việc tương ứng

Sáng tác trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, thủ công mĩ nghệ; biểu
diễn văn hóa, nghệ thuật, dẫn chương trình.

Nghề phù hợp điển hình: viết văn, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nghệ sĩ biểu diễn (nhạc, kịch, hát múa.),
hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc hay nhà thiết kế mẫu, giảng viên văn học…

C ố ỉ ị : Bệnh lao, truyền nhiễm. Dị tật, nói ngọng, điếc.

3. Các ngành nghề đào tạo

Nhà văn, kiến trúc sư, họa sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên (điện ảnh, kịch, chèo, cải lương, tuồng…)
thợ thủ công mĩ nghệ (chạm khắc gỗ, thêu tranh, làm đồ gốm sứ, chạm bạc…), nhà báo,
bình luận viên, dẫn chương trình, người mẫu, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ, đạo diễn, chuyên
viên trang điểm, thiết kế thời trang, kiến trúc sư…

Hiện nay,cótất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật tổng
hợp _ hướng nghiệp của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp, các trường đại
học vùng và đại học trên toàn quốc.
4. NHÓM XÃ HỘI
K ểu linh hoạt quảng giao _ phụ vụ xã ộ (ký hiệu XH)

1. Đặc điểm
Những người ở nhóm xã hội có sở thích và có khả năng làm việc, giao tiếp người với người,
thích đi đây, đi đó. Cùng trong nhóm này là giáo viên, tư vấn viên, bác sĩ, luật sư...
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
 Quảng giao _ Linh hoạt:
 Có khả năng tổng kết, quy nạp, diễn dịch.
 Biết lắng nghe, lắng nghe tích cực, có phản hồi.
 Sáng tạo, linh hoạt, thông minh.
 Tuyệt đối tôn trọng ý kiến thân chủ.
 Năng lực chú ý vững vàng.iên trì, nhạy cảm.
 Lịch thiệp.

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


 Thần kinh vững mạnh, tự kiềm chế tốt.
 Tôn trọng mọi người.
 Sức khỏe tốt, bền bỉ.
 Có tính sáng tạo.
 Tinh thần phục vụ tự nguyện.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Làm các công việc trong môi trường mang tính xã hội cao, thường xuyên giao tiếp với người
khác hoặc có nhiều cơ hội giúp đỡ, huấn luyện, chỉ dẫn người khác.
Nghề phù hợp điển hình: sư phạm, y khoa, dược khoa, luật sư, tâm lí – giáo dục, du lịch, xã hội
học…
C ố ỉ ị ố vớ nhữ ắ các bệ sau:
 Lao.
 Thiếu máu.
 Tâm thần không ổn định. Bệnh truyền nhiễm.
3. Các ngành nghề đào tạo
Giáo viên các cấp, tư vấn viên, bác sĩ, dược sĩ, y tá, dược tá, nhân viên các công ty du lịch,
hướng dẫn viên du lịch, luật sư, huấn luyện viên, tư vấn hướng nghiệp, dịch vụ khách hàng,
cán bộ xã hội, cán bộ Hội Phụ nữ, nhân viên khách sạn/ Resort...
Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật tổng hợp _
hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp và
các trường đại học vùng và Trung ương.
5. NHÓM QUẢN LÍ
K ểu chủ ộ uy quyề _ dự ệp quản lí (ký hiệu QL)

1. Đặc điểm
Những người ở nhóm quản lí có sở thích và khả năng làm việc thiên về ra lệnh cho người
khác và lãnh đạo một nhóm người hay cả một tập thể lớn. Nghề thuộc nhóm này mang tính
chất quản lí như công an, sĩ quan, quản trị kinh doanh, kĩ thuật công nghệ, quản lí chuyên
nghiệp, điều hành hoạt động hệ thống có tầm cỡ ảnh hưởng rộng lớn với nhiều con người,
nhiều vấn đề ở cấp kinh tế, vĩ mô.
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
 Chủ nghĩa - Uy quyền:
 Nhà quản trị theo quan niệm mới, tránh đặc quyền, độc quyền.
 Trí tuệ là một quyền lực.
 Tính cách cương nghị, biểu hiện từ vóc dáng đến tư thế đi đứng, ăn nói.
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

 Là người có kĩ năng sống: hài hòa, thích ứng, sáng suốt, tỉnh táo, có hệ thần kinh
vững , bình tĩnh xét đoán tình hình, đối tượng, có trí nhớ tốt, tập trung sâu, bền vững.
Đòi ỏ phải có các kĩ năng:
 Kiến tạo tổ chức.
 Xây dựng giá trị mới cho tổ chức.
 Tạo ra động lực hoạt động.
 Không ngừng tự giáo dục và giáo dục thuộc cấp, xây dựng tổ chức học tập.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Môi trường làm việc mang tính chất quản lí, lãnh đạo, ra lệnh cho người khác và thực hiện các
chức năng:
 Điều hành chung.
 Chủ trì sản xuất.
 Điều phối thông tin, chiến lược giao tiếp.
 Giám sát từng giai đoạn; trợ giáo.
 Tạo điều kiện hòa hợp và hội nhập.
Nghề phù hợp điển hình: nhà lãnh đạo, chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành, hiệu trưởng,
luật sư…
3. Các ngành nghề đào tạo
Công an, sĩ quan quân đội, quản trị kinh doanh, kĩ thuật công nghệ, chủ doanh nghiệp,
chuyên viên PR (pi-a), quản lí khách sạn, bếp trưởng khách sạn cao cấp, quản lí giáo dục
các cấp…
Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật tổng hợp _
hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp,
các trường đại học vùng và đại học trên toàn quốc.
6. NHÓM NGHIỆP VỤ
K ểu thận tr g, ề ếp _ ệp vụ quy ủ (ký hiệu NV)

1. Đặc điểm
Những người ở nhóm nghiệp vụ có sở thích và có khả năng làm việc ở văn phòng, làm các
công việc sổ sách như các ngành nghề về văn thư, hành chính, tài vụ, bưu điện, tiếp tân....
Nhóm nghề này đòi hỏi phải có hoạt động giao tiếp với nhiều người, với nhiều công việc, có
nghiệp vụ, được huấn luyện từ trung cấp đến đại học trong doanh nghiệp, trong hoạt động
phục vụ công cộng…
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
 Nền nếp _ thận trọng
 Lĩnh hội diễn tả ngôn từ lịch sự, hấp dẫn, rõ ràng.

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


 Thận trọng nhưng nhanh nhẹn.
 Ứng xử kịp thời, siêng năng.
 Hiểu biết về lịch sử, chính trị, văn hoá, nghệ thuật…
 Hiểu rõ người đối thoại.
 Làm việc ngăn nắp, điều độ, không nhầm lẫn.
 Có trí nhớ tốt.
 Tự tin, biết điều tiết, kiềm chế.
 Có khả năng hoạt động độc lập.
 Giỏi ngoại ngữ và tâm lí ứng xử.
 Xử lí thông tin tốt.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Môi trường làm việc mang tính chất giao tiếp sự việc với nhiều người, nhiều công việc, đòi
hỏi có tính nghiệp vụ như lưu trữ văn thư, kế toán, tài chính, tín dụng…
Nghề phù hợp điển hình: nhân viên ngân hàng, kế toán, thư kí văn phòng, biên tập viên…
C ố ỉ ị : Bệnh lao, bệnh truyền nhiễm. Dị tật, nói ngọng, điếc.
3. Các ngành nghề đào tạo
Thư kí, nhân viên lưu trữ, thư viện, nhân viên văn phòng, chuyên viên thuế, thủ quỹ, kế toán
viên, tiếp tân, bưu điện, nhân viên ngân hàng…
Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại trung tâm kĩ thuật tổng hợp_ hướng
nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp và các
trường đại học vùng, Trung ương

PHỤ LỤC 4
BỘ PHIẾU TRẮC NGHIỆM KHẢ NĂNG VÀ NGHỀ NGHIỆP
Quản lí, lãnh đạo và kinh doanh

Sáng tạo

Làm việc sử dụng tay

Giúp đỡ người khác

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


Làm việc với số liệu

Nghiên cứu và giải quyết vấn đề


PHỤ LỤC 5
BỘ PHIẾU TRẮC NGHIỆM KHẢ NĂNG VÀ NGHỀ NGHIỆP
Tôi chơi thể thao khá tốt.
Tôi có khả năng dùng tay để sửa chữa đồ vật rất tốt.
Tôi thích làm việc ngoài trời và sử dụng tay để chế tạo đồ vật.
Tôi thích nhìn thành quả của công sức mình.

Tôi giải những bài toán khá tốt.


Tôi có khả năng học và hiểu những vấn đề phức tạp.
Tôi khá giỏi trong việc tìm kiếm thông tin.
Tôi độc lập trong tư tưởng và tò mò về những thứ xung quanh mình.

Tôi khá giỏi trong việc sáng tạo ra những thứ mới.
Tôi khá giỏi trong việc nghĩ ra những ý tưởng mới, và làm cho mọi thứ
trở nên đẹp hơn.
Tôi có khiếu trong việc chơi dụng cụ âm nhạc hay nghe nhạc.

Tôi khá giỏi trong việc lắng nghe những vấn đề của người khác.
Tôi khá giỏi trong việc hiểu cảm xúc của người khác.
Tôi khá giỏi trong việc làm người khác cảm thấy thoải mái và hạnh
phúc.
Tôi thích giúp người khác. Bạn bè thường tâm sự với tôi khi họ buồn.

Tôi tự tin.
Tôi khá giỏi trong việc nói chuyện trước đám đông.
Tôi khá giỏi trong việc lãnh đạo người khác.
Bạn bè thường hỏi ý kiến của tôi, lắng nghe tôi, và nghe theo lời tôi
khuyên.

Tôi rất đúng giờ.


Tôi làm việc với số liệu khá tốt.
Tôi khá giỏi trong việc để ý chi tiết.
Tôi khá giỏi trong việc sắp xếp sự việc.

PHỤ LỤC 6
GIỚI THIỆU CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ: EM CHỌN NGHỀ GÌ?
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cổng thông tin điện
tử (Portal) được hiểu như là một trang web mà từ đó, người sử dụng có thể dễ dàng truy xuất
các trang web và các dịch vụ thông tin khác trên mạng máy tính là nguồn cung cấp mọi thông
tin về văn hóa, kinh tế, xã hội cập nhật nhất, nhanh nhất, nhiều nhất, đồng thời nó cũng
giúp cho mọi người kết nối với nhau một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Trong thời gian qua, VVOB Việt Nam đã hỗ trợ cho các tỉnh tham gia chương trình hướng
nghiệp cổng thông tin điện tử http://www.emchonnghegi.edu.vn (có thể gọi là cổng thông
tin “em chọn nghề gì”)
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC

Dưới đây là một vài nét về cổng thông tin điện tử này
1. Cơ chế hoạt động
Cổng thông tin này được xây dựng nhằm xuất bản thông tin và liên kết các thông tin về
hướng nghiệp. Nội dung chính của cổng thông tin là hệ thống các liên kết tới các địa chỉ đã có
sẵn trên Internet và được nhóm thành các chủ đề khác nhau liên quan tới các hoạt động
hướng nghiệp của học sinh, giáo viên, tư vấn viên và cha mẹ.
Người dùng có thể đóng góp đường link theo các tiêu chí được công bố trên cổng thông tin.
Tuy nhiên, đường link này chưa xuất hiện trên cổng thông tin cho tới khi người quản trị cho
phép hiển thị.
Địa chỉ của cổng thông tin này là: http://www.emchonnghegi.edu.vn
2. Nội dung
Cổng thông tin “Em chọn nghề gì?” có những nội dung chính sau:
Cổng thông tin
Đây là phần chính của cổng thông tin bao gồm 11 nhóm vấn đề liên quan tới thông tin và các
hoạt động hướng nghiệp: 1.1. Việc tìm người; 1.2. Nghề nghiệp; 1.3. Thị trường lao động; 1.4.
Sự đa dạng và các cơ hội công bằng; 1.5. Doanh nghiệp; 1.6. Giáo dục và đào tạo; 1.7. Tự đánh
giá; 1.8. Luật Lao động và các quy định; 1.9. Gương sáng thành đạt; 1.10. Tin tức diễn đàn; 1.11.
Giải trí.
Mỗi nhóm vấn đề được chia tách thành các chủ để nhỏ và là nơi chứa các đường liên kết. Trang

PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC


này còn là nơi đăng tải các thông tin, sự kiện liên quan tới chương trình hướng nghiệp và
là nơi công bố tiêu chí lựa chọn đường liên kết và cho phép người sử dụng đóng góp liên
kết mới cũng như báo các đường liên kết không còn tồn tại.
Người dùng
Nội dung trang này định hướng sử dụng cổng thông tin cho HS, giáo viên, cha mẹ trên các
phương diện: Khi nào? Tại sao? Thông tin gì? Như thế nào?
Về chúng tôi
Nội dung trang này giới thiệu về tổ chức VVOB Việt Nam và chương trình hướng nghiệp của
VVOB giai đoạn 2011 _ 2013.
Liên hệ
Nội dung trang này giới thiệu địa chỉ liên hệ của tổ chức và thành viên thuộc VVOB trong
chương trình hướng nghiệp. Trang này cũng cho phép người dùng gửi email tới chương
trình về các đề xuất, yêu cầu liên quan tới chương trình, liên quan tới hoạt động hướng
nghiệp.
Tin tức
Nội dung trang này giới thiệu các tin tức, sự kiện trong khuôn khổ chương trình hướng
nghiệp cũng như các sự kiện, thông tin hướng nghiệp trong phạm vi quốc gia.
Tài liệu
Trang này cung cấp hệ thống các tài liệu liên quan tới hoạt động hướng nghiệp được phát
triển bởi chương trình.
Trên đây là một số nội dung chính của cổng thông tin điện tử "em chọn nghề gì" do VVOB hỗ trợ
các tỉnh tham gia chương trình hướng nghiệp xây dựng và liên kết. Bạn có thể truy cập bất cứ
lúc nào để tìm những thông tin, công cụ trong quá trình giúp con bạn hướng nghiệp. Ngoài ra,
bạn có thể chia sẻ những kinh nghiệm giúp con hướng nghiệp, những câu chuyện nghề
nghiệp, những thông tin liên quan đến hướng nghiệp qua cổng thông tin điện tử này để làm cho
nội dung của cổng thông tin này ngày càng phong phú và hữu ích.
Câu hỏi bài tập, thảo luận
Câu 1. Thầy (cô) trải qua thời vị thành niên như thế nào? thầy (cô) có nhận thấy
điều này ở học sinh mình không? thầy (cô) đáp trả lại nhu cầu này của trẻ như thế
nào?
Câu 2. Liệt kê những khó khăn tâm lý thường gặp ở thiếu niên?
Câu 3. Trong quá trình công tác thầy (cô) đã gặp tình huống nào để lại kỷ niệm sâu
sắc nhất thầy (cô) đã tư vấn và xử lý ntn?
Câu 4. Phân biệt tình bạn – tình yêu –tình người
Câu 5. Cách thể hiện tình cảm của bản thân với người khác (Trong 1 phút)
Câu 6. Những biểu hiện của học sinh thường thấy khi không được bạn khác giới “để
ý”?Cách nào tốt nhất tạo nên sự hấp dẫn của bản thân?
Câu 7. Sau dạy hết tiết 5 ở lớp chủ nhiệm 9D, cô giáo H cho học sinh về. Khi cô giáo
ra đến cổng thì chợt nhớ mình còn quên quyển sách trong ngăn bàn trên lớp. Cô quay
lại thì bắt gặp hai học sinh của cô còn ở trong lớp và đang thể hiện “tình yêu với nhau
– ôm hôn”. Nếu bạn là cô giáo đó, bạn sẽ ứng xử như thế nào trong tình huống này.
Câu 8. Thầy (cô) hãy nêu các kỹ năng tư vấn tâm lý
Thực hành một số tình huống Tư vân
PHẦN I: GIA ĐÌNH: CON CÁI VỚI CHA MẸ
1.Nói dối không hẳn xấu?
Cháu thất vọng về ba cháu lắm cô ạ. Thỉnh thoảng ba hay nói dối mẹ. Có
những chuyên xảy ra, có cháu và ba cùng chứng kiến, nhưng sau đó mẹ hỏi thì ba lại
kể không đúng sự thật. Cháu trách thì ba bảo, nói dối không hẳn xấu, nhưng nói dối
như thế nào để không biến mình thành kẻ lừa dối, mà chỉ là tránh nói những sự thật,
ảnh hưởng không tốt đến tâm lý, tình cảm người thân của mình. Ba nói dối vì ba
không muốn mẹ buồn, nghĩ ngợi. Ba cháu nói vậy có phải là bao biện không cô?
Đôi lúc ta bắt buộc phải nói sai sự thật để người thân không buồn. Ví dụ như lỡ
mất một số tiền, hay người thân lâm bệnh hiểm nguy và họ chịu không nổi sự thật.
Nhưng theo kiểu cháu nói, hình như ba cháu dối mẹ cháu một cách có “hệ thống”. Cô
nghĩ điều đó không nên, nhất là trong trường hợp ba hay anh em cháu có thiếu sót với
mẹ. Như thế cũng là đánh giá thấp mẹ cháu (cho rằng mẹ yếu ớt) và đặt mẹ ra ngoài
vòng bí mật của gia đình. Khi nói dối trở thành một thói quen, cho dù ở mức độ nào
cũng không tốt. May là cháu nhận thấy vấn đề.
2. Thiếu trung thực… tạm thời
Cháu học giỏi các môn xã hội, nhưng không giỏi các môn tự nhiên. Cháu
không có hứng thú với những môn học này và thường rất chật vật mới đạt điểm trung
bình. Ba mẹ thuê gia sư về dạy kèm cho cháu, cháu cũng khá hơn chút đỉnh. Gần đây,
ba cháu “chỉ đạo” cho cô gia sư là dạy cháu ôn lại kiến thức cũ, học và giải trước
bài mới, làm thay cháu những bài tập về nhà để giúp nâng cao điểm cho cháu.
Cô gia sư có vẻ không vui, cô khuyến khích cháu tự làm những bài tập ấy, có
cô kèm cặp. Đến lượt ba cháu không vui, ba bảo cô nhận tiền lương ba trả mà trái lời
ba. Cô nói với cháu: “Cô không muốn dạy em sự thiếu trung thực!”. Bây giờ cháu
phải làm thế nào hả cô? Mình thiếu trung thực tạm thời, rồi khi vượt qua thời điểm
khó khăn, mình sẽ trung thực trở lại thì đâu ảnh hưởng nhiều hả cô?
Cô đồng quan điểm với cô gia sư của cháu, vì cô ấy giúp cháu có kiến thức
thật. Theo cô, nếu cháu có điểm trung bình, khỏi thi lại mà kiến thức là của cháu thì
tốt hơn. Sự trung thực là đức tính cần thiết của một con người, không thể lúc có, lúc
không. Từ thiếu trung thực trong chuyện nhỏ có thể dẫn đến thiếu trung thực trong
việc lớn. Dân dà, nó trở thành tính cách con người, có thể sẽ gây ra những hậu quả rất
đáng tiếc.
Cô cũng mừng vì cháu nhận ra vấn đề, nhưng thật tội nghiệp cho cháu vì phải
ở trong thế… “kẹt”. Cháu cứ xử sự theo cách mà cháu thấy là phù hợp nhất vào thời
điểm này. Nhưng cô mong cháu giữ xác tín rằng, sự trung thực là điều quý nhất trên
đời. Có khi mang tiếng là không vâng lời người lớn những giữ được những giá trị
riêng của mình cũng đáng quý.
3.Nên xét lại từ “hy sinh”
Đôi khi cháu ước mơ được đến một đảo hoang vào đó để sống một mình,
không lo âu, suy nghĩ không bị áp lực học hành.. Cháu chẳng mấy khi được thảnh
thơi, lúc nào cũng học, rảnh một tí là học, học võ, piano, vẽ… ba mẹ muốn cháu trở
thành thiên tài thì phải. Còn cháu chỉ muốn làm một người bình thường, không ai chú
ý càng tốt.
Ba mẹ luôn nói hy sinh vì con”, dành dụm, nhịn ăn để chúng cháu được học
hành. Nhưng ba mẹ không biết rằng, chúng cháu dù không thích, nhưng cũng hy sinh
vì ba mẹ, chịu khó học tất cả những gì người lớn muốn. Trong khi cháu đôi lúc chỉ
muốn sống cho mình, vì mình. Cô thấy chúng ta nên nghiêm túc xét lại từ “hy sinh“
không?
Cô nhận khá nhiều thư tương tự như thư của cháu. Cha mẹ nào cũng muốn con
mình hoàn hảo và thành đạt trong cuộc sống. Nhưng điều mà mỗi chúng ta cần chính
là hạnh phúc. Hạnh phúc là làm được điều chúng ta mong muốn, là sống có ý nghĩa,
sống có ích theo cách riêng của mình. Không phải có thật nhiều tiền hay làm ông to
bà lớn là hạnh phúc.
Cha mẹ cháu cũng như nhiều cha mẹ khác bị cuốn hút bởi trào lưu chung hiện
nay, muốn con thực hiện ước mơ mà trước kia mình không đạt được. Và không ít cha
mẹ đã nghĩ con mình như cái máy, bắt chúng làm cái này cái kia theo ý mình.
Họ nghĩ rằng như vậy là thương con, họ quên rằng con cái cũng có những ước
mơ, nhu cầu, năng khiếu và sở thích riêng. Chữ hy sinh dùng ở đây cũng đúng, nhưng
không phải vì con mà vì mình.
Cháu nên lấy hết can đảm để tâm tình với cha mẹ. Cô hy vọng ba mẹ sẽ hiểu
tâm tư, nguyện vọng của cháu.
4.Cháu giống như… cây kiểng
Hồi còn nhỏ, cháu là thằng bé vui tươi, sinh động. Còn bây giờ, cháu như một người
câm điếc. Nhà cháu có hai chị em, gia đình khá giả. Chúng cháu ở trong khu nhà kín
cổng cao tường, đi học và về nhà đều được cha mẹ đưa đón, chẳng có phút vào tự do
mà giao du với bạn bè. Đi đâu ba mẹ cũng đưa đi, mua gì chỉ việc yêu cầu là có.
Cháu không được chạy nhảy, đá banh, đạp xe. Tuổi này mà cháu không biết xài tiền.
Ba mẹ bảo chúng cháu sướng, muốn gì có đó nhưng cháu chỉ muốn đi nhà sách một
mình cũng không được. Nói chuyện với cha mẹ thì lúc nào cũng nghe những lời răn
đe, giảng đạo đức.
Cháu không còn niềm vui nào khác là giam mình vào phòng riêng, lên mạng
chơi game, cháu chít với bạn bè… Riết rồi cháu cũng chẳng có nhu cầu nói chuyện,
gặp gỡ ai vì chẳng biết nói gì… Khi ấy, ba mẹ lại bảo cháu là “vụng về, nhạt
nhẽo”… cháu không hỏi cô “cháu phải làm sao?”, mà cháu chỉ muốn tâm sự với cô
thôi, để cô nói trên báo cho ba mẹ cháu và những ai như ba mẹ cháu rút kinh
nghiệm…
Cô rất thông cảm với hoàn cảnh hiện tại của cháu và cũng phần nào hiểu được
biện pháp “giữ gìn” con của ba mẹ cháu. Cuộc sống, xã hội đang phát triển với tốc độ
nhanh, mang đến nhiều thành quả, tiến bộ lẫn những yếu tố nguy cơ. Ba mẹ sợ cuộc
sống phức tạp khiến cháu dễ hư, ảnh hưởng bạn bè không tốt, nên đã “giữ” con theo
kiểu cách ly cho “chắc ăn” mà không lường hết những hệ quả tai hại.
Tuổi của cháu cần bạn bè, cần giao tiếp, từng bước cọ xát với thực tế muôn
mặt của cuộc sống để hình thành kinh nghiệm, tạo được sức đề kháng để phát triển,
trưởng thành.
Cháu lựa lúc thuận tiện để bày tỏ với cha mẹ về tâm tư của mình, thật thẳng
thắn và chân thành trên cơ sở nội dung như đã bộc bạch với cô. Hy vọng cha mẹ cháu
sẽ nhận ra sự sai lầm trong cách nuôi dạy con của mình.
Cô cũng mong các bậc phụ huynh sẽ đọc thấy tâm sự này của cháu, mong các
vị trao đổi với nhau thêm. Nhưng cũng đề nghị các cháu đang ở trong trường hợp
giống vậy, đừng chịu đựng một cách thụ động. Sống như vậy, ngộp chết và trở thành
cây kiêng như cô đã từng nói. Hãy “phản kháng hòa bình và êm dịu” bằng cách khéo
léo, tế nhị bày tỏ với cha mẹ tâm tư của mình.
5.Thèm được… nghèo!
Cô ơi, nếu nhìn từ bên ngoài, đúng ra cháu chẳng có lý do gì để buồn phiền,
thế mà giờ đây cháu đang chán sống. Mới 16 tuổi mà cháu chẳng thấy cuộc sống
tươi đẹp chút nào. Nhà cháu giàu có, ba mẹ cháu là người có đa vị, chị em cháu
được học ở trường quốc tế… So với các bạn, cháu quả thuật lợi, sung sướng, thế mà
cháu lại cảm thấy rất buồn.
Ba mẹ cháu thành đạt, nổi tiếng nhưng suốt ngày bận rộn, về nhà thỉ mệt mỏi,
ít trò chuyện với con cái. Chị cháu là sinh viên năm thứ hai, bận học, có những mối
quan tâm khác với cháu, nên hai chị em ít nói chuyện với nhau. Cháu thấy rất cô đơn
cô ạ. Cháu thèm được như các bạn nghèo, mặc áo vá, làm việc cực khổ phụ cha mẹ
để cảm thấy mình có ích, được yêu thương. Cháu chỉ còn biết đọc sách, xem phim để
chạy trốn cuộc sống thực tại.
Cô chia sẻ nỗi chán chường của cháu. Cô càng buồn hơn khi nhận được nhiều
thư của các bạn trẻ khác “muốn thành con nhà nghèo” như cháu. Do bị cuốn hút vào
chuyện làm ăn, nhiều bậc cha mẹ nghĩ rằng cung phụng cho con vật chất là đủ. Họ
không ngờ, họ đang “bỏ đói” con mình. Mà suy dinh dưỡng về… tinh thần, cảm xúc,
có thể để lại di chứng suốt đời. Có bao giờ cháu nhẹ nhàng đặt vấn đề với cha mẹ và
chị không? Cô nghĩ cháu nên thử. Biết đâu cha mẹ không hay biết gì về suy nghĩ của
cháu.
Tuy nhiên, cô muốn nhắc cháu một chuyện. Tâm lý lứa tuổi của cháu dễ buồn
chán, dễ cảm thấy cô đơn. Do đó, yếu tố chủ quan cũng dễ tác động.
Nhưng có một điều làm cô vui mừng là cháu mong muốn “thấy mình có ích”.
Làm điều có ích thật ra chính là nguồn vui lớn nhất. Nếu không làm được gì cho cha
mẹ, cháu hãy hướng về những trẻ em nghèo, mồ côi, khuyết tật hay nạn nhân chất
độc màu da cam. Các em ấy chắc chắc không chỉ cô đơn hơn cháu mà còn thiếu thốn
về vật chất, có khi đau đớn vẻ thể xác nữa. Lắm khi chỉ một cái vuốt ve, một cuộc trò
chuyện thân tình sẽ đem lại cho các em niêm vui lớn. Cháu hãy tìm tới các phong
trào tình nguyện của giới trẻ để tham gia. Cô nghĩ cha mẹ sẽ không phản đối nếu
cháu làm việc này.
Hãy lăn xả vào hoạt động xã hội thay vì “chạy trốn cuộc sống”, chắc chắn cháu
sẽ tìm được niềm vui. Chúc cháu can đảm lên.
6.Không được chơi
Cháu đang sống chung với gia đình cô chú để tiện việc học hành. Cô chú của
cháu rất hà khắc, không cho cháu xem tivi, đồ chơi, tham dự sinh thật bạn bè… Cháu
biết cô chú quan tâm, sợ cháu lo ra không chuyên tâm học hành, nhưng như thế bất
công quá.
Cháu biết học là quan trọng nhất, nhưng không lẽ chỉ học mà không vui chơi,
giải trí? Cô chú cũng phải cho cháu gặp gỡ, vui với bạn bè vào các, ngày nghỉ, sinh
nhật hoặc lễ hội chứ? Ba mẹ cháu lại đồng tình với cô chú cháu buồn bức quá. Theo
cô, cháu phải làm sao để giải quyết chuyện này?
Cô chia sẻ nỗi bức xúc của cháu. Học sinh, sinh viên cần vui chơi giải trí, gặp
gỡ bạn bè để thư giãn sau những giờ học căng thẳng. Như cô chú của cháu thì hơi
quá. Nhưng cô hỏi thật nhé: cháu có điều gì khiến người lớn phải khắt khe dữ vậy?
Cái nick name của cháu làm cô nghĩ cháu hơi lãng mạn, khiến cha mẹ cháu lo
âu khi cháu ở xa. Nhưng thật ra, người ta có thể nhốt người nào đó trong cái rọ chứ
không thể nhốt tâm hồn họ.
Cháu nên khéo léo đặt lại vấn đề với cha mẹ, hứa và chứng minh với họ là
cháu sẽ không sai phạm. Cô nghĩ, có thể quyết định của cô chú xuất phát từ cha mẹ
cháu.
Cháu nên nhờ một người lớn trong gia đình can thiệp và giải thích rằng, cách
làm này gây ức chế tâm lý cho cháu, không có lợi cho việc học hành.
7. Vì sao người ta thích con trai hơn?
Cô ơi người ta nói nhiều về bình đẳng giới, Việt Nam mình cũng đạt được
nhiều thành tích về bình đẳng giới: phụ nữ có được nhiều quyền trong cuộc sống, sự
nghiệp, học tập nhưng vẫn chịu nhiều thiệt thòi. Chưa có nhiều phụ nữ giữ những
chức vụ quan trọng trong chính phủ. Trong các doanh nghiệp, bệnh viện, cơ quan, số
phụ nữ đứng đầu cũng không nhiều. Trong các gia đình, người phụ nữ vẫn “dưới cờ”
chồng.
Trong gia đình cháu, mẹ cháu giỏi hơn ba cháu, chức vụ cao hơn, thu nhập
cao hơn nhưng vẫn là “tiểu đội phó”. Ba mẹ yêu quý anh trai hơn cháu, vì đó là
người “nối dõi tông đường”… Cần bao nhiêu năm nữa để những điều bất công trên
thay đổi, hay chúng ta phải chấp nhận vì đó là “văn hóa phương Đông”.
Mối quan tâm của cháu rất đúng. Mặc dù vai trò và vị trí của phụ nữ Việt Nam
khá nổi bật so với các nước đang phát triển khác ít có nước nào mà Nhà nước có
chính sách, chủ tượng cụ thể về sự tiến bộ của phụ nữ như ở Việt Nam. Nhưng theo
cô, sở dĩ ta đi chậm vì chủ trương xuất phát từ lãnh đạo nam giới và mang tính chính
trị nhiều hơn. Khía cạnh văn hóa chưa được chú trọng đây đủ và cũng chưa xuất hiện
những phụ nữ Việt Nam lỗi lạc đứng ra đấu tranh cho nữ quyền.
Bạo lực đối với phụ nữ còn nhiều và thật đáng kinh ngạc khi ở một nước tưởng
chừng tiến bộ như Việt Nam, gần đây, sự mất cân bằng giới tính lại được báo động.
Có bào thai nữ bị giết từ trong bụng mẹ, thế mới thấy văn hóa ăn sâu trong tâm khảm
con người đến mức nào. Người ta thích con trai vì khái niệm nối dõi tông đường vẫn
còn có ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại.
Sự tiến bộ còn chậm cũng chính vì một bộ phận chị em phụ nữ an phận, cam
chịu sự thiệt thòi. Nhưng một cách khách quan, đó là do họ chưa được độc lập về
kinh tế. Phải làm gì? Trước tiên, phải giúp tất cả các bé gái đều được đến trường, kế
đó là làm sao cho mọi phụ nữ đều có nghề phải giáo dục cho phụ nữ ở mọi lứa tuổi sự
tự tin và biết đòi hỏi những quyền chính đáng của mình.
Phụ nữ Việt Nam phải có được cơ hội tìm hiểu các trào lưu về bình đẳng giới
trên thế giới. Các ngành học như “Giới và phát triển” cũng phải được các bạn nữ trẻ
Việt Nam lưu tâm nhiều hơn.
8.Trọng nữ khinh nam?
Thưa cô, gia đình cháu có hai anh em, cháu 16 tuổi và em gái 12 tuổi. Dù là
con trai duy nhất, nhưng cháu cảm thấy ba mẹ không yên thương cháu như yêu
thương em gái. Ba mẹ hay rầy la cháu, cháu muốn mua gì đi chơi đâu… cũng bị ba
mẹ xét nét. Trong khi em gái cháu thì nhõng nhẽo, lười biếng, muốn gì được nấy.
Nhiều khi cháu thật buồn. Người ta thường nói trọng nam khinh nữ, nhưng nhà
cháu thì ngược lại. Khi cháu phản ứng thì ba mẹ lại bảo: “Không đáng mặt đàn ông,
không nhường em thì lớn lên cũng không nhường nhịn và coi trọng phụ nữ. Cô coi có
bất công không?
Theo cô, trong một xã hội văn minh thì không nên có sự bất bình đẳng hay bên
trọng bên khinh theo bất cứ hướng nào. Từ trước tới nay, “trọng nam khinh nữ” là
căn bệnh trầm kha mà toàn thế giới đã và đang chung sức đẩy lùi. Thực tế, vấn đề
này vẫn tồn tại Trên bình diện pháp luật, đa số các nước đã có được sự bình đẳng
giới. Nhưng trên bình diện văn hóa, thì ngay cả ở các nước phát triển, phụ nữ vẫn
chịu nhiều thiệt thòi.
Chuyện diễn ra trong gia đình cháu không phải là vấn đề giới mà là vấn đề
tuổi. Có lẽ đây đơn thuần là: ai nhỏ thì được cưng nhiều hơn. Cháu thuộc phái
“mạnh”, lại là “anh trai”, nên ba mẹ trông đợi ở cháu nhiều hơn. Thay vì hãnh diện,
cháu có thể hiểu lầm là ba mẹ bất công. Cô không nghĩ cháu ganh tỵ, nhưng chắc
chắn là cháu đã không tránh khỏi cảm giác bực bội, quay ra phản đối cha mẹ, gây
căng thẳng trong gia đình…
Vì cháu xem đây là vấn đê “trọng nữ khinh nam”, nên ba mẹ mới trả lời như
vậy. Theo cô, cháu không nên quan trọng hóa vấn đề và tỏ ra “ga lăng” với em gái
một chút, làm gương cho em, giúp đỡ em vì mình là anh. Cả nhà và chính cháu sẽ vui
hơn. Chúc cháu can đảm thay đổi.
9.Sao người lớn không thương yêu trẻ em?
Bác Hồ từng nói “Trẻ em như búp trên cành…”, là Bác mong muốn người lớn
hãy yêu thương trẻ em hơn. Rồi báo chí, mọi người đều được tuyên truyền là “hãy
quan tâm chăm sóc trẻ em”… Thế mà gần đây cháu thấy trẻ em bị đánh đập, bóc lột,
thật chí bị giết chết bởi chính thầy cô cha mẹ mình… Vì sao người lớn lại dã man thế
hả cô? Liên hệ bản thân, cháu cũng thấy cha mẹ rất yêu thương cháu, nhưng mỗi khi
giận dữ vì cháu phạm lỗi gì đó, mẹ cháu la mắng và còn rủa: “Mày chết đi cho tao
rảnh nợ”, ”Biết mày hư đốn vậy tao bóp mũi chết khi mày mới ra đời”… những lời
này làm cháu tủi thân và khủng hoảng tinh thần ghê gớm. Chúng cháu còn nhỏ (cháu
học lớp 9 rồi) sống phụ thuộc, không bảo vệ được mình, nếu thầy cô, cha mẹ cũng
không thương yêu thì ai bảo vệ chúng cháu?
Có một sự thật: Việt Nam là nước thứ hai đã ký kết vào Công ước về Quyền
trẻ em, nhưng vào thế kỷ 21 này, nhiều người lớn vẫn có những hành động thô bạo,
dã man với trẻ em. Ở các nước tiên tiến, cha mẹ đánh con mà bi phát hiện phải ra tòa,
nói chi đến những hành động thô bạo gây tổn thương sâu sắc cho trẻ.
Thời đại đã thay đổi nhiều mà cha mẹ không theo kịp, thiếu những hiểu biết
tâm lý xã hội càn thiết để giáo dục con cái. Mặt khác, với cuộc sống đày áp lực hiện
nay, ai cũng bị stress nên không còn làm chủ được mình. Mẹ cháu cũng vậy, nói với
con những lời không hay là bà cũng bi căng thẳng và thiếu kiềm chế, chứ không hẳn
là mẹ cháu ghét bỏ con, nguyền rủa con. Chắc hẳn lúc bình tĩnh bà sẽ hối hận. Cháu
lựa lúc mẹ con vui vẻ, trò chuyện với mẹ, nói ra mong muốn của cháu, muốn được
mẹ thương yêu, chăm sóc, dịu dàng. Phần nữa, cháu ráng ngoan, học giỏi, làm cho
mẹ vui lòng. Con cái ngoan ngoãn cũng là yếu tố quan trọng để cha mẹ dịu đi những
căng thẳng, mệt nhọc ngoài cuộc sống xã hội.
10.Nên tâm sự với bạn hay mẹ?
Cô ơi ba mẹ chỉ có mình coi là con gái, con có hai anh trai nữa. Ba mẹ cưng
con nhưng giữ gìn con quá và hơi nghiêm khắc, khiến càng ngày con càng thấy khó
nói chuyện và tâm sự với ba mẹ. Nhất là lúc này con mới có bạn trai, tình yêu của
chúng con cũng lúc này lúc khác. Mẹ đôi khi cũng cố gắng tìm hiểu, hỏi han để nghe
con tâm sự, nhưng con ngại ngần, con chỉ thích tâm sự với bạn, hỏi bạn về kinh
nghiệm yêu đương, nhưng bạn cũng trẻ như con, nhiều khi nó cũng non nớt, bốc
đồng, xúi con làm những điều không hay?
Giữa cha mẹ và con cái có một “khoảng cách” tâm lý là bình thường. Nhất là
khi con ở tuổi mới lớn có những ý kiến riêng, những suy nghĩ thầm kín không muốn
cho người lớn biết. Còn cha mẹ thì lo nơm nớp, sợ chuyện không hay xảy ra cho con,
nên đôi khi vụng về. Nhưng không thể phủ nhận cha mẹ lo cho con chỉ vì thương
con.
Ai trong chúng ta, nhất là tuổi trẻ cũng thích tâm sự với bạn đồng lứa. Cháu ý
thức rằng bạn đôi khi cũng “non nớt, xúi cháu làm điều không hay”. Do đó ý kiến của
bạn chỉ mang tính tham khảo thôi. Nói đúng hơn, bạn là chỗ dựa về mặt tình cảm.
Ngày nay có những văn phòng tham vấn tâm lý, nếu gặp khó khăn, cháu có thể
tới đó để được soi sáng thêm. Cháu cũng có thể chia sẻ với một người thân tin cậy,
như cô, dì hay cô giáo ở trường. Hơn hết, cháu nên cố gắng gần gũi và hiểu mẹ hơn,
làm cho mẹ hiểu cháu hơn. Vì không chỗ nào tốt hơn để gửi gắm tâm tình như gia
đình.
11.Xài mỹ phẩm là… xấu?
Hôm qua con bị mẹ la một trận vì tội “còn nhỏ mà xài mỹ phẩm” dù con chỉ
bôi một tí son trước khi đi học. Từ chuyện son phấn, mẹ la sang tội ăn mặc se sua,
đua đòi, rồi mẹ cảnh báo: từ những chuyện xấu như vậy, con đường dẫn đến bệnh
viện… nạo thai rất gần. Con giận mẹ vội vàng kết luận, xúc phạm con. Con năm nay
15 tuổi rồi, con có diện một chút cũng được mà. Ai chằng muốn mình xinh đẹp hơn.
Me con cũng xài mỹ phẩm quá trời. Cô cho con biết, ở tuổi con, xài mỹ phẩm có
được không?
Cháu cũng nên thông cảm với mẹ, vì mỗi thời mỗi khác mà có nhiều người lớn
không thay đổi kịp với sự biến chuyển của xã hội. Cô còn nhớ cách đây hơn 50 năm,
khi đi ra nước ngoài, không những cô bị sốc với những cô gái còn trẻ trang điểm
sớm, mà cả với những bà già mặc những màu sặc sỡ và uốn tóc ngắn. Vì trong trí óc
cô hỏi đó già là để tóc dài, búi tóc và mặc các màu sậm. Nhưng rồi cô cũng quen.
Mẹ cháu và nhiều người lớn khác không có điêu kiện thích nghi với thời thế,
đã vậy còn la mắng (thay vì nhẹ nhàng với con cái) thì phản tác dụng. Dù sao cháu
cũng nên thông cảm với mẹ vì bà là sản phẩm của một thời đã qua.
Không có quy định đạo đức hay pháp lý nào xác định tuổi trang điểm. Mọi thứ
phụ thuộc vào từng cá nhân trong hoàn cảnh nhất định. Ví dụ, nếu trong lớp có nhiều
bạn thoa son thì mình cũng làm là bình thường, còn nếu một mình cháu có “sáng
kiến” này thì hơi… khác người! Đi chơi thì lại khác. Nhưng quan trọng là các nguyên
tắc thẩm mỹ: tự nhiên và giản dị. Và cái đẹp phải từ bên trong, ví dụ như dinh dưỡng
tốt, tránh stress thì da đẹp. Tâm hồn thanh thản lộ ra nét mặt vui tươi. Quan trọng hơn
hết là cái duyên, sự dí dỏm, sự khôi hài xuất phát từ một trí tuệ thông minh nhạy bén.
Cái đẹp bên ngoài chỉ thu hút sự quan tâm, cái duyên mới là nét đẹp lâu bền.
Đối với tuổi 15, sự trẻ trung là dễ thương nhất, nếu mỹ phẩm làm mình già đi
thì nên tránh.
Đó là một số nguyên tắc chung. Tùy cháu quyết định.
12.Mẹ coi cháu như con nít
Cháu là con trai một lên bị cha mẹ giữ gìn thái quá: không cho đi chơi nhiều,
kiểm soát cháu đi đâu, làm gì, chơi với ai. Điều đó cũng không sao, nhưng đôi khi
cháu cảm thấy nghẹt thở vì tình thương cha cha mẹ. Ai đời cháu lớn rồi mà vẫn chưa
biết đi xe gắn máy, mẹ vẫn phải chở cháu đến trường. Trước mặt bạn bè, cả bạn gái,
mẹ cũng ôm ấp âu yếm cháu như từ lên ba, khiến cháu rất mắc cỡ.
Đôi khi cháu lẩn tránh, phàn nàn về những thể hiện tình cảm trên thì mẹ khóc
lóc, nói cháu bất hiếu, không thương mẹ. Cô có đồng ý là mình thương người nào đó
thì nên để người ta được hạnh phúc, vui vẻ cảm nhận tình thương đó không?
Cô hoàn toàn đồng ý với cháu, nhưng cũng hiểu phân nào hoàn cảnh của cháu:
con một lại là con trai! Chức năng của gia đình là giúp cho trẻ trở thành những người
lớn tự lực, độc lập. Nhưng không ít phụ huynh, nhất là các bà mẹ quên điều này. Họ
ước gì “con chỉ mãi lên ba” để nựng nịu, ôm ấp. Đây là sai lầm của nhiều bậc cha mẹ.
Nhiều bạn trai lập gia đình không hạnh phúc chỉ vì bị mẹ đeo bám, can thiệp sâu vào
đời sống riêng tư. Không ít người vợ trẻ phải ly dị vì lý do này.
Ở tuổi cháu, cách thể hiện tình cảm của mẹ cháu có lẽ hơi thái quá. Khi cháu
lập gia đình, có thể mẹ cháu sẽ rất khổ vì cảm giác bị mất con, thậm chí có thể làm
khổ cháu. Đợi đến chừng đó thì quá muộn. Ngay từ bây giờ, cháu hãy trở thành
người đàn ông che chở cho mẹ, giúp đỡ mẹ công việc trong nhà, quan tâm đến sức
khỏe của mẹ… nghĩa là biểu lộ tình cảm với mẹ nhưng khác đi. Mẹ sẽ yên tâm hơn.
Bù lại, cháu dứt khoát yêu cầu được đi học một mình, đi xe ôm hay xe buýt cũng
được. Mặt khác, cháu cũng nên từ chối khéo léo cách thể hiện tình cảm hơi quá trớn
của mẹ, nhưng luôn luôn nhẹ nhàng lễ phép với mẹ.
Cháu cũng nên tìm hiểu xem, mẹ có bi hụt hẫng về tình cảm không mà dồn hết
cảm xúc cho cháu vậy?
13. “Bóng” của người khác
Bạn của mẹ cháu có con lớn hơn cháu một tuổi, chị ấy học rất giỏi nên mẹ hay
kể và tâm tắc khen. Tự năm là 12, cháu đã đặt mục tiêu phải đạt kết quả học tập cao
hơn chị ấy, cháu đã đạt được và đậu vào trường đại học mong muốn. Nhưng mẹ vật
so sánh, điển hình là trong kỳ thi Anh văn vừa qua, dù điểm của cháu cao hơn, mẹ
vẫn khen chị ấy giỏi (vì chị không học lớp chuyên như cháu).
Giờ cháu nhận ra mình đang ganh đua với chị, chứ không còn xem chị như
tấm gương để học tập. Mỗi người có khả năng khác nhau, làm sao để cháu thoát khỏi
cái bóng của chị ấy?
Mẹ cháu có ý tốt khi muốn “kích” để cháu luôn cố gắng học tập Tuy nhiên,
theo các nhà khoa học, so sánh con mình với một đứa trẻ khác, thậm chí với anh chị
em là điều cấm kỵ. Vì mỗi đứa trẻ có nhân cách, khả năng và giá trị riêng của mình.
Trẻ phải phát triển vì chính nó, chứ không phải như “cái bóng” của người khác. Bị
làm “cái bóng”, trẻ sẽ mất tự tin và không còn ý thức về giá trị bản thân – nền tảng
cho một nhân cách lành mạnh.
Nhiều cha mẹ quên rằng, chính sự khen thưởng, động viên thay vì rầy la hay so
sánh, mới làm trẻ tiến bộ. Có so sánh chăng là giúp trẻ tự so sánh mình ở các giai
đoạn khác nhau.
Cháu đừng quan tâm đến chị ấy nữa, cũng không cần ganh đua. Trong học tập,
cũng như trong công việc, cháu hãy vượt lên chính mình là đã thành công. Cô mong
ngày nào đó, mẹ cháu gặp một nhà tâm lý giáo dục để được giải thích về sai lầm của
mình.
14. Có phép mầu nào…
Thưa cô, ba mẹ con sẽ chia tay nhau. Con ra tòa mà chưa có câu trả lời sẽ ở
với cha hay mẹ. Ba bảo con chọn ai thì ba cũng tôn trọng, nhưng tốt nhất là con nên
ở với mẹ. Con ở với mẹ cũng được, nhưng lại thương ba không ai chăm sóc, ba buồn.
Ba con rất hiền, tốt. Mẹ con cũng vậy, nhưng tự nhiên hay người không yêu nhau nữa
và không muốn sống chung nữa. Ai cũng bảo yêu con, mà lại nỡ để con phải lựa
chọn, là sao? Cô ơi, có phép màu nào làm cho ba mẹ yêu nhau trở lại, gia đình con
đầm ấm, hạnh phúc như xưa?
Cô rất thông cảm với hoàn cảnh của cháu, nhưng có lẽ không nên trông cậy
một phép màu nào. Có một thực tế mà cháu cũng thấy rõ cha mẹ cháu không còn yêu
nhau, không muốn sống chung với nhau nữa. Điều này cũng không phải là “tự nhiên”
mà có quá trình và lý do của nó, chắc ba mẹ không thể nói hết cùng cháu. Nhưng
chắc chắn cả ba và mẹ đều yêu thương cháu.
Khi quyết định chia tay nhau, ngoài những mất mát thương tổn của bản thân,
điều mà cha mẹ day dứt nhất vẫn là các con sẽ thế nào. Nhiều bậc cha mẹ thương
con, vì con mà đã hy sinh hạnh phúc riêng của mình để cho con có cha, có mẹ. Đây
lại là một bi kịch khác. Có cha, có mẹ mà không còn yêu nhau, không hạnh phúc thì
con cái cũng chẳng vui, cuộc sống cũng không đầm ấm. Theo cô, con gái ở với mẹ là
hợp lý và không có điều gì cấm cháu thường xuyên đi thăm và chăm sóc ba.
Cháu nên suy nghĩ một cách thực tế và chấp nhận hiện trạng để chuẩn bị một
giai đoạn mới trong cuộc sống. Mong mỏi cái không thể có chỉ làm cho cháu không
yên tâm thôi. Chúc cháu mạnh mẽ để vượt qua giai đoạn khó khăn này.
15.Tình yêu là gì?
Cháu nhĩ mãi mà vẫn không hiểu, thật ra tình yêu là gì? Cháu muốn nói tình
yêu trai gái ấy. Người ta nói tình yêu kỳ diệu, có thể thay đổi con người, thậm chí thế
giới, nhưng cháu không tin. Cháu nghĩ rằng, tình yêu chỉ là một cảm giác, cảm tính
rất cá nhân, đôi khi do người ta tưởng tượng rồi gọi tên như vậy. Điều này giải thích
tại sao người ta yêu nhau đắm đuối, tưởng có thể chết được – như ba mẹ cháu rồi
cũng hai người ấy có ngày lại thù ghét nhau, nói về nhau chả ra gì. Ý kiến cô thế
nào?
Chắc cháu đang thất vọng về người lớn. Cô rất thông cảm với cháu. Tình yêu
tự thân nó rất đẹp, nếu không có nó, thế giới khó có thể tồn tại. Người người sống
hạnh phúc nhờ tình yêu, và tình yêu đã làm được những điều tốt đẹp cho xã hội.
Tuy nhiên, tình yêu không chỉ gồm những cảm xúc dễ chịu mà còn cần sự
thông cảm và tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau. Tình yêu không loại trừ đau khổ.
Có lẽ ba mẹ cháu “yêu chưa tới”, chưa hiểu biết về nhau, hoặc chính bản thân họ đã
sai lầm khi đến với nhau. Tình yêu của ba mẹ cháu chưa đủ mạnh để có thể giúp nhau
tự hoàn thiện và cảm hóa nhau.
Thời nay các cặp vợ chông có thể ly hôn, nhưng lẽ ra họ phải làm điều này một
cách lịch sự, trong sự tự trọng và tôn trọng lẫn nhau. Đối với con cái, thái độ tiêu cực
của cha mẹ là một nỗi đau lớn.
Nhưng thôi, dù sao cha mẹ cháu cũng không còn hiểu nhau. Phận cháu nên rút
bài học từ đây, cố gắng sống tích cực để có tương lai và hạnh phúc.
16. “Xúi” cha mẹ… bỏ nhau
Ba mẹ cháu đang lục đục, có nguy cơ bỏ nhau cô ạ. Hai người hay cãi cọ, bất
đồng. Cuộc sống gia đình cháu căng thằng và buồn lắm. Cháu và hai đứa em không
yên tâm học hành vì cứ sợ ba mẹ bỏ nhau. Chúng cháu yêu cả ba và mẹ, nhưng
không thể chịu được nếu ba mẹ cứ tiếp tục thế này.
Cháu vừa nảy sinh ý định, tập hợp các em lại, hỏi ý kiến, xem có đồng “xúi”
ba mẹ bỏ nhau không. Tuy buồn, nhưng nhà cửa yên ổn, chúng cháu không phải
chứng kiến sự nặng nềề mà ba mẹ gánh chịu. Nhưng nếu ba mẹ đồng ý bỏ nhau thì
chúng cháu rất dễ bị chia lìa. Cháu nên làm thế nào hả cô?
Cô rất thông cảm với hoàn cảnh của cháu hiện nay. Không gì đau khổ bằng
việc cha, mẹ, hai người mình yêu lại phải xa nhau và mình phải xa một trong hai
người. Nhiều cặp vợ chồng không còn yêu nhau nữa nhưng không dám ly hôn vì sợ
con thiếu cha hay thiếu mẹ. Tuy nhiên, đối với nhiều bạn trẻ như các cháu thì thà cha
mẹ ly dị, hơn là sống trong bầu không khí nặng nề, căng thẳng.
Các cháu cứ hội ý nhau rồi cho cha mẹ biết các cháu chấp nhận sự chia tay của
họ, chứ không nên “xúi ba mẹ bỏ nhau”. Vấn đề là, nếu cha mẹ ly hôn, cần có sự sắp
xếp êm đẹp, để các cháu ở với một người thì vẫn được gặp gỡ người kia. Ở phương
Tây, người ta ly dị khá văn minh, nghĩa là không nói xấu nhau, đối xử với nhau như
những người bạn và để các con đi qua đi lại một cách bình thường.
Có bao giờ ba mẹ cháu đi gặp một nhà tham vấn tâm lý để được giúp đỡ giải
quyết vấn đê một cách xây dựng chưa? Biết đâu ánh sáng sẽ lóe lên.
17. Mẹ có người yêu
Cô ơi ba mẹ cháu ly hôn khi cháu còn nhỏ. Cháu sống với mẹ. Ba cháu đã có
gia đình từ lâu, còn mẹ vẫn ở vậy nuôi cháu, dù có nhiều người ngỏ lời muốn lập gia
đình với mẹ. Bây giờ cháu đã học THPT, mẹ cũng ở tuổi 40 rồi. Cháu yêu mẹ lắm,
mẹ là tất cả đối với cháu.
Nhưng gần đây có mặt chú làm cứng cơ quan mẹ hay đến nhà. Cháu thấy chú
cũng được chú yêu mẹ lắm, nhìn là cháu biết ngay, vì chú rất quan tâm, chăm sóc
mẹ. Mẹ cũng có cảm tình với chú, nói rằng nếu cháu vui và đồng ý thì mẹ sẽ lập gia
đình tới chú, còn không thì mẹ ở vậy. Nhìn mẹ nhiều năm cô đơn, cháu rất thương.
Nhưng nghĩ mẹ lấy chồng, cháu lại muốn khóc. Cháu phải làm sao đây hả cô?
Cháu nên thông cảm với mẹ, 40 tuổi vẫn còn trẻ và ai cũng có nhu cầu tình
cảm. Mẹ cháu xứng đáng được bù đắp cho mười mấy năm cô đơn một mình nuôi
con. Nếu cháu thấy chú đó là người tốt thì nên để họ đến với nhau. Chắc chắn mẹ vẫn
yêu thương cháu như thường.
Thử tưởng tượng, nếu vài năm nữa, khi cháu có người yêu, chắc mẹ cháu cũng
sẽ không ngăn cản. Lúc đó cháu sẽ theo tiếng gọi của tình yêu hay từ chối để ở với
mẹ suốt đời?
Cô rất thông cảm nỗi buồn của cháu, nhưng nếu sống ích kỷ, ta cũng sẽ không
hạnh phúc. Chúc cháu có quyết định đúng!
18 Giữa cha và mẹ
Ba mẹ chia tay khi cháu còn rất nhỏ. Me cháu rất buồn về sự tan vỡ này vì vẫn
còn yêu ba cháu. Ba cháu đã có gia định mới và họ có vẻ hạnh phúc. Mẹ kế cũng tỏ
ta quan tâm đến cháu. Điều này làm mẹ cháu càng thêm buồn khổ. Cháu được hưởng
tất cả những điều tốt đem nhất từ mẹ nhưng cũng lãnh… những ưu phiền của mẹ từ
mối quan hệ với ba.
Mẹ không thích nói về ba, thường chì chiết, nói xấu ba với cháu. Đôi khi mẹ
còn gây khó không cho ba và cháu gặp nhau. Do đó nhiều lúc cháu phải lén lút gặp
ba, và không muốn mẹ buồn. Có lần mẹ biết đã rất giận dữ, hận thù xuống đầu cháu,
nói là cháu “phản bội”. Cháu buồn lắm cô ạ. Theo cô cháu nên làm gì bây giờ?
Cô rất thông cảm với nỗi khổ của cháu. Cháu hỏi phải làm gì? Hay thương yêu
cả cha lẫn mẹ một cách công bằng và thẳng thắn. Ở các nước, sau khi ly hôn, người
ta xem nhau như bạn bè và không có chuyện tranh giành con. Hơn hết là không có
chuyện nói xấu người kia với con. Vết thương của mẹ cháu chưa lành, càng để lâu
càng có hại cho mẹ và cực cho cháu. Cháu nên dỗ mẹ đi trị liệu tâm lý ở các trung
tâm tư vấn. Cháu cũng có thể nhờ một người thân đáng tin cậy nói chuyện với mẹ,
nếu người đó quan tâm đến mẹ và có hiểu biết.
19.Con theo ai
Ba mẹ con hay cãi nhau, vì hai người không thống nhất phương pháp giáo dục
con cái. Ví dụ mẹ muốn con học nhiều, ít đi chơi, sợ con hư, trong khi ba thoáng hơn,
lại muốn con học vừa phải, được đi chơi, giải trí. Me khắt khe, ba gần gũi, nhẹ
nhàng.
Có lần mẹ mắng và tát vào mặt con vì con đi chơi về trễ, ba đã quát mẹ và chút
xíu nữa đánh mẹ vì mẹ “quá đáng”. Hai người đã cãi nhau, mẹ yêu cầu ba không
can thiệp mỗi khi mẹ đang dạy con, nếu không con sẽ coi thường mẹ. Nói thật là con
cũng thương ba hơn, muốn xin cái gì sợ mẹ từ chối, con thường xin ba. Nhiều khi con
cũng bối rối không biết nên theo ba hay theo mẹ, vì có khi hai người ra hai lệnh trái
nhau.
Cả ba lẫn mẹ cháu hành động như vậy vì họ thương cháu và muốn điều tốt nhất
cho cháu. Có điều giữa họ có sự khác nhau do quá trình lớn lên, kinh nghiệm sống…
Tuy nhiên, họ khác nhau cũng có cái hay vì nếu cả hai đều quá khắt khe hay quá dễ
dãi cũng không tốt cho cháu. Cô thấy mẹ cháu sáng suốt khi phân tích tình hình, cho
nên vấn đề không phải là nên theo ai mà tự cháu nên quyết định thế nào là hợp lẽ
phải. Cô tin rằng cháu có khả năng làm điều này.
Một điều không nên làm là lợi dụng tình hình để gây mâu thuẫn giữa cha mẹ.
Cháu nên cố gắng sống thế nào để gia đình ngày càng hòa hợp và hạnh phúc hơn.
Biết đâu cháu có thể trở thành tác nhân hòa giải. Lẽ ra cháu phải yêu cha mẹ đồng
đều, nhưng nếu có yêu ba hơn chút xíu cũng không sao. Nhưng đừng dựa vào ba để
gây khó khăn cho mẹ.
20.Yêu mẹ hơn ba
Cháu đang học lớp 8, ba mẹ cháu rất yêu thương cháu, cháu cũng yêu cả hai
nhưng cháu yêu mẹ hơn. Me nghiệt khắc nhưng mẹ luôn lo lắng cho chúng cháu. Ba
thì dễ dãi, hay chiều chuộng con, chúng cháu biết là ba mềm yếu hay mè nheo, bắt
nạt ba. Xin mẹ cái gì không được, chúng cháu lại xin ba. Điều này làm mẹ rất giận.
Ba mẹ luôn cãi nhau vì “dạy o ợ u”. Gần đây, ba cháu lại đổi tính, cố
tình nghiêm khắc với chúng cháu theo yêu cầu của mẹ cháu, điều này làm chúng
cháu bực mình, vì biết ba chỉ ra oai thế thôi (nhưng nhiều khó chúng cháu cũng bị ba
cho ăn roi ra trò). Theo cô, chúng cháu nên đối xử với ba thế nào đây?
Giáo dục con cái thật khó, vì người ta chỉ có thể giáo dục người khác bằng
nhân cách của mình. Mà nhân cách này được hình thành ngay từ nhỏ qua giáo dục gia
đình. Có thể xem ba cháu như là một “nạn nhân” của giáo dục gia đình. Không gì
đáng tiếc bằng sự thiếu thống nhất giữa cha mẹ trong giáo dục con cái, nó tạo “kẽ hở”
để trẻ lợi dụng.
Cô khen sự phân tích sáng suốt của cháu, điều này chứng tỏ rằng các cháu rất
biết điều gì nên hay không nên làm. Do đó cô hy vọng các cháu nên thương ba hơn;
đừng lợi dụng sự yếu đuối của ba để gây thêm khó khăn, và giúp ba hành xử đúng
bằng cách không “thu hút” những trận đòn không cần thiết.
Cô hy vọng đây là bài học quý giá nhất cho cháu, khi cháu làm cha.
Tư vấn cho cha mẹ
21. Có nên mời thầy dạy kèm?
Tôi có hai con, lúc học cấp 1, các cháu học rất giỏi, không cần cha mẹ kèm
cặp hay mời thầy dạy thêm. Nhưng nay một cháu lên cấp II, một cháu lên cấp III, kết
quả học tập kém hơn trước, tuy vẫn là học sinh khá. Các cháu bảo càng học lên cao,
bài vở càng nhiều, càng khó. Nhà bên có mời gia sư dạy kèm riêng cho con họ, theo
chị, tôi có nên mời thầy và dạy kèm cho các cháu, vì bụt chùa nhà không thiêng, cha
mẹ khó kèm con học?
Thông thường nếu các cháu học khá, nhất là biết tự giác học bài, làm bài,
không cần cha mẹ hay thầy cô nhắc nhở, thì cũng chẳng cần cho các cháu học thêm
làm gì. Càng không nên vì không lẽ “nhà bên” có gia sư thì nhà mình cũng phải làm
theo. Tuy nhiên, nếu anh muốn yên tâm thì cũng có thể mời thầy, không phải để “dạy
thêm” cái mới mà giúp các cháu biết cách tự tổ chức để học và làm bài tốt hơn.
22.Có nên cho con tiền tiêu vặt?
Thưa chị, tôi có hai con, một cháu học lớp ba, một cháu học lớp một. Mỗi sáng
để học tôi thường cho cháu lớn 3.000đ đế cháu ăn quà vặt trong trường, vì cháu bảo
các bạn trong lớp đều được cha mẹ cho tiền, nhiều bạn còn được cho 10.000đ–
20.000đ. Cháu nhỏ tôi không cho tiền, nhưng mỗi chiều đón cháu, tôi đều mua quà
cho cháu ăn ngay trong sân trường.
Một chị bạn của tôi thì lại phản đối, bảo nên cho con tiền vì chúng còn nhỏ,
quà vặt lại mất vệ sinh. Một chị khác lại bảo nên cho và tập cho con tiêu tiền bắt đầu
tư tiền quà vặt, vì các cháu cũng cần biết giá từ đồng tiền, mua bán… Ý kiến chị thì
sao?
Đúng là phải tập cho con xài tiên để biết giá trị của đồng tiền. Điều này không
đơn giản là cho con tiền để ăn quà vặt mà còn dạy con biết xài đúng, biết tiết kiệm và
biết chia sẻ nữa. Lớn một chút thì chỉ cho con biết cách làm ra tiền. Ởc nước tiên tiến,
học sinh, sinh viên đi làm thêm để có tiền tiêu vặt. Ví dụ như đi bán báo, phụ phát thư
các mùa lễ, bán hàng, làm ở bệnh viện…
Với cháu học lớp một, nếu cháu không đòi do bắt chước bạn bè thì không nhất
thiết phải mua quà vặt cho cháu làm gì, thức ăn ở ngoài có thể không an toàn. Đối với
cháu lớn, cứ mỗi ngày xài 3.000đ như cái máy thì cháu cũng không học được gì. Chị
có thể cho cháu 10.000đ cho ba ngày để cháu tập “lên kế hoạch” chi tiêu và bỏ ống
tiết kiệm. Thỉnh thoảng vẫn có thể thưởng tiền và khuyến khích cháu để dành, để
mua món gì đó cháu thích. Chị có thể giao tiền để cháu đi mua đồ cho gia đình hay
cho bản thân cháu. Miễn sao cháu biết tính toán, không làm mất tiền.
Lên cấp II, cấp III, nếu có chỗ nào làm bán thời gian, hay trong kỳ hè, chị nên
khuyến khích cháu đi làm. Vì phải lao động, trẻ mới biết giá trị của đồng tiền.
Chị đừng quên khuyến khích cháu chia sẻ với các bạn nhỏ bất hạnh hơn mình.
23. Có nên cho con sử dụng điện thoại di động
Con trai tôi đang học lớp 9. Từ năm học lớp 7, tôi đã cho cháu sử dụng điện
thoại di động (ĐTDĐ), để cha mẹ liên hệ khi đưa đón đi học mỗi ngày. Gần đây, thấy
số tiền trả mỗi tháng tăng hơn trước nhiều, tôi hơi lo ngại. Tôi và ba cháu tranh cãi
có nên cho con tiếp tục sử dụng ĐTDĐ hay không, nhưng chưa thống nhất. Chồng tôi
nói, học sinh cấp II chưa cần phải sử dụng điện thoại riêng, hơn nữa sẽ có nhiều
nguy cơ: lưu hình sex vào điện thoại, dùng điện thoại tán gẫu không cần thiết, tốn
tiền, ảnh hưởng đến học tập… ý kiến chị thì sao?
Thà ngay từ đầu chị đừng cho cháu xài ĐTDĐ, chứ đột nhiên bây giờ không
cho nữa thì rất khó giải thích. Những điều làm chị lo âu lẽ ra chị phải dự trù từ lâu, vì
ngày càng lớn, cháu sẽ có nhiều thay đổi và thích làm theo bạn bè. Không cần ĐTDĐ
cháu cũng có thể tán gẫu, xem hình sex bằng những phương tiện khác.
Vấn đê không phải là “cho hay cấm”, vì cấm cũng không được, mà nên giúp
con em chúng ta có sức đề kháng với những tiêu cực này. Làm sao? Đó là giúp chúng
có những đam mê sáng tạo, có giá trị như âm nhạc, văn học nghệ thuật, thể thao…
Khi trẻ tự làm được những điều sáng tạo thì trẻ rất hãnh diện, tự tin và say mê. Nếu
trong giáo dục gia đình, cháu ý thức được vẻ giá trị bản thân, cháu sẽ không bị bạn bè
rủ rê một cách dễ dàng. Đó là khi chị tin tưởng và trao đổi với con như một người
lớn, nói thẳng những điều chị muốn nói và cho phép con được tranh luận. Đó là luôn
luôn khen con khi con làm việc tốt, nhưng cũng không ngại chỉ cho con những điêu
chưa tốt.
Nhiều cha mẹ không sẵn sàng trao đổi thẳng thắn với con và bi kịch nằm ở chỗ
này.
24. Con yêu, khó dạy
Tôi lập gia đình sớm, 18 tuổi đã có con. Nay con gái tôi 17 tuổi đang học tới 9
đã có bạn trai. Không phải bạn thông thường mà là bạn – người yêu, không chỉ có
một mà năm, sáu người.
Tôi rất phiền muộn vì con dành thời giờ để hẹn hò, chat chít với bạt hơi nhiều.
Khuyên nhủ thì cháu vâng, dạ rồi vẫn chứng nào tật nấy. La mắng, cấm đoán thể
cháu cãi lại, có khi hỗn láo vặn lại tôi: “Mẹ sinh con năm 18 tuổi, vậy mẹ lấy chồng
năm 17, có phải là mẹ đã yêu năm 16 – còn sớm hơn cả con nữa”. Thú thật, tôi chỉ
muốn cho cháu một bạt tai nhưng đánh con lại chứng tỏ mình bất lực. Mong chị góp
ý tôi nên làm thế nào?
Không nghe chị nói về cha hay anh chị em của cháu. Vì nuôi nhiều con dễ hơn
là nuôi con một. Chị cũng đừng quá quan trọng hóa vấn đề khi cho rằng cháu đang
vướng vào chuyện yêu đương cùng lúc với… 5, 6 người, hơn nữa cháu còn rất trẻ,
những “mối tình” ở tuổi này chưa phải là tình yêu thật sự mà chỉ là thích nhau, hơn
bạn bè một tí.
Theo tôi, chị nên gần gũi, tâm sự với con để tìm hiểu tâm tư, các mối quan hệ
của cháu để hóa giải dần dần, không thể dạy trẻ bằng mệnh lệnh và lý thuyết thiếu
thuyết phục. Ngay cả cháu “vận dụng” chuyện mẹ yêu sớm, lấy chồng sớm để “phản
biện”, chị cũng nên hóa giải bằng cách: “Chính vì mẹ yêu sớm, lấy chồng sớm và trải
qua những khó khăn trong thực tế cuộc sống mà mẹ có kinh nghiệm và cơ sở để
khuyên con đừng vướng vào chuyện yêu đương quá sớm, không có lợi”.
Tuy nhiên, chị cũng cố gắng bình tĩnh và kiên trì, vì tuổi teen rất khó hướng
dẫn. Làm sao cho cháu cảm thấy chi là người bạn thật của cháu.
25.Con tôi đua đòi
Dạo này còn tôi rất đua đòi, nó quan tâm nhiều đến tóc tai ăn mặc, hay soi
gương, ngắm vuốt và kết thân với vài bại trai. Chẳng có gì đáng nói nếu cháu không
nhuộm tóc xanh đỏ, ăn mặc dị hợm, nhố nhăng. Chúng tôi la rầy thì nó cãi, báo thời
đại giờ đã khác, ba mẹ thuộc thế hệ trước nên khắt khe, miễn nó vẫn học giỏi, sống
tôi thì chẳng đáng chê trách. Rằng, mẹ cũng diện, cung son phấn, nó cũng thấy
không đẹp, nhưng nó… tôn trọng nên không chê, thế mẹ cũng không nên… xâm phạm
quyền tự do của con cái. Tôi bất lực quá, chẳng biết phải làm sao…
Hình như ngày nay, nhiều gia đình, nhất là những gia đình khá giả, ít quan tâm
giáo dục con về những giá trị tinh thần ngay từ bé. Đó là những nét đẹp của lòng vị
tha, của tình bạn, tình yêu thiên nhiên, tinh thần phục vụ xã hội… và giúp các cháu
xây dựng khiếu thẩm mỹ trên cơ sở cái đẹp về tinh thần. Tuổi teen hiện nay rất quan
tâm và coi trọng thời trang. Nếu khi còn nhỏ các cháu thích văn chương, nghệ thuật,
âm nhạc… thì gu thẩm mỹ của chúng cũng chững chạc hơn. Nếu cháu học giỏi và mê
học… thì thời trang chỉ là mối quan tâm phụ. Nếu cháu được cha mẹ hướng sự quan
tâm đến những lĩnh vực khác, như tham gia công tác xã hội, từ thiện, giúp trẻ em
nghèo… thì chuyện thời trang lặt vặt lại càng không có ý nghĩa gì.
Hiện con chị đang bị lôi cuốn vào cơn sốt “sành điệu”, tôi nghĩ la rầy cháu sẽ
không hiệu quả. Chị nên bao dung và nhẹ nhàng khuyên giải cháu, dần hóa giải, vì đó
cũng là do thiếu sót khi ta chưa tập trung giáo dục nhân cách cho các cháu. Chị nên
nghĩ ra những hoạt động vui, có ích mà mẹ con có thể cùng làm trong gia đình, để
gần gũi nhau hơn. Rồi từ từ hướng dẫn cháu.
PHẦN II. BẠN TRẺ SUY NGHĨ VỀ GIÁ TRỊ SỐNG, NÓI VỀ MÌNH,
TÌM BẢN SẮC CỦA MÌNH
1.Thế nào là đẹp?
Người ta cứ nói tốt gỗ hơn tốt nước sơn, “cái nết đánh chết cái đẹp”… cháu
cũng đồng ý vậy, qua thực tế, nhiều khi cháu lại nghĩ, thà tốt nước sơn còn hơn. Cô
thấy đấy, để xử việc, nếu mình đáp ứng được yêu cầu công việc, lại đep sẽ dự được
chọn hơn. Nếu nết trung bình, nhưng đẹp, cao ráo thì vẫn có nhiều chàng trai theo
đuổi hơn. Mẹ cháu bảo “mẹ thấy con rất đẹp vì con tự tin, con biết quan tâm chăm
sóc người khác, con hiền thảo với cha mẹ…”. Mẹ cháu nói vậy thôi vì mẹ nào chẳng
thấy con đẹp. Cháu cũng băn khoăn: cái đẹp thật sự của coi người nằm ở đâu?
Đúng là dáng dấp bên ngoài luôn gây ấn tượng cho người đối diện. Người ta
hay ngoảnh lại nhìn một người đẹp.
Nhưng có lẽ cháu còn trẻ, chưa có kinh nghiệm sống nên kết luận hơi vội. Thật
ra, ước mơ của người con gái không chỉ dừng lại ở chỗ được nhiều chàng trai theo
đuổi mà còn trở thành một người vợ, một người mẹ hạnh phúc. Để đạt điều này, sắc
đẹp không đủ, cần có nết na, tính đảm đang, tinh thần trách nhiệm. Thật ra, ngay ở
giai đoạn đầu tìm hiểu, những người đẹp nhưng không có duyên, đầu óc rỗng tuếch
cũng dễ bị các chàng trai “bái bai” sớm.
Còn chuyện đẹp dễ xin việc làm như cháu nói có lẽ được áp dụng cho một số
nghê đặc thù như người mẫu, tiếp viên, MC… nhiều hơn. Nhưng cháu thấy không,
phần lớn các cuộc thi sắc đẹp lớn đều đặt nặng phân thi ứng xử. Trí tuệ thấp sẽ khó
thành hoa hậu.
Nếu nhận định của cháu được áp dụng đại trà thì các công ty xí nghiệp sẽ thua
lỗ nặng. Ngày nay, phỏng vấn tuyển dụng là một khoa học, một nghệ thuật. Người
phỏng vấn có cách để tìm hiểu giá trị thật của ứng viên, không dễ bị đánh lừa bởi sắc
đẹp.
Vì vậy, theo cô, câu nói của người xưa vẫn còn nguyên giá trị.
2.Đẹp vẫn hơn?
Thưa cô, người ta cứ bảo “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, “vẻ đẹp tâm hồn có giá
hơn vẻ đẹp bề ngoài”… nhưng cháu thấy thực tế khác hẳn. Ai cũng thích nhìn người
đẹp, người đẹp dễ thành công hơn. Thú thật là cháu trông khá xinh cô ạ. Nhưng mẹ
cháu lúc nào cũng nhắc chở cháu phải lo học hành, phải nết na, biết nữ công gia
chánh…
Nhìn các cho người mẫu hoa hậu nhiều cho học vấn chẳng đến đây vậy mà
một bước lên đỉnh, chẳng cần phải phấn đấu gì… Thế thì việc gì cháu phải chọc công
phấn đấu, để rồi có khi giỏi quá, lại chẳng lấy được chồng. Cô thấy cháu nghĩ vậy có
đúng không?
Mục đích, lý tưởng sống, cả cuộc đời của cháu chỉ có bấy nhiêu thôi sao? Con
người sinh ra chỉ đẹp thể hình chưa đủ, mà còn phải làm đẹp cho cuộc sống. Nhà kiến
trúc kia để lại cho đất nước những công trình mà khách du lịch không thể không ghé
qua để trầm trồ; nhà thơ hay nhạc sĩ nọ để lại những câu thơ, bài hát mà nhiều thế hệ
không thể quên; Mẹ Tê–rê–sa ốm yếu được cả thế giới biết đến vì đã cứu vớt hàng
vạn người nghèo trên đường phố… Xung quanh ta có những tấm gương khiêm tốn,
âm thầm của những bạn trẻ tình nguyện đi giúp trẻ em bất hạnh, hàng ngàn sinh viên
đang bận rộn đưa đón, tìm nhà trọ cho học sinh ở tỉnh lên thành phố chuẩn bị thi đại
học. Và cô nghĩ họ đang hạnh phúc vô cùng. Cái đẹp tinh thần này chính là động lực
nuôi sống nhân loại và giúp nó đi lên mãi mãi.
Cháu không thấy được giá trị của “vẻ đẹp tâm hồn”, vì cháu chưa vươn xa hơn
thực tế hằng ngày. Chẳng lẽ người đẹp thành công hơn vì được nhiều người nhìn?
Theo cháu, lên sân khấu đã là đỉnh cao của vinh quang sao?
Một người chỉ đẹp mặt, đẹp chân, đến tuổi già cũng tàn phai.Người đẹp tinh
thần (theo nghĩa khiêm tốn như vị tha, rộng lượng, có duyên) sẽ được chiêm ngưỡng
suốt đời. Ai có được cả hai cái đẹp thì tốt. Nhưng theo cô, cái đẹp tinh thần không có
nếp nhăn… và nó càng ngày càng tỏa sáng hơn.
Cháu đáng lo học cao không lấy được chồng. Quan trọng là cháu biết vận dụng
kiến thức của mình như thế nào để giúp ích cho đời.
3.Đẹp thì đừng… thông minh?
Cô ơi, bạn bè trong lớp cháu nói, nửa đùa nửa thật: “Cậu đã không đẹp lại
phải “tội” thông minh, bọn con trai chả thích”. Đám con gái lại mách nhau kinh
nghiệm: “Muốn đám con trai thích thì đừng tỏ ra giỏi giang, thông minh. Nếu lỡ
thông minh rồi thì phải giả vờ ngu. Đẹp và ngốc dễ có hạnh phúc hơn”.
Chẳng lẽ thông mình lại là nhược điểm. Cháu nói chuyện với mẹ thì mẹ bảo,
thực tế trong xã hội cũng có một số quan điểm… không thông minh như vậy, con
chẳng nên buồn. Nếu thông minh thật sự thì đừng xử sự như người … ngốc, mà hãy
toả sáng để thu hút những người đàn ông thông minh. Mẹ cháu nói vậy để an ủi cháu
hay mẹ cháu là người tự tin và hiểu biết một cách thông minh?
Trên khắp thế giới có một quan niệm lỗi thời về phụ nữ nhưng lại rất phổ biến
như người Pháp có câu châm ngôn “Sois belle et tais–toi” (Chỉ cân em đẹp và đừng
mở miệng). Cho đến ngày nay vẫn còn không ít nam giới chỉ muốn coi phụ nữ như
một món đồ chơi, một con búp bê dễ thương thôi.
Tuy nhiên, không biết họ muốn vậy để chơi đùa, chọc ghẹo, lợi dụng hay cưới
làm vợ. Thực tế cũng cho thấy, hình như những người đàn ông đã “rinh” những con
búp bê xinh đẹp này làm vợ thì không ít người hối tiếc vì thật ra họ cần những người
phụ nữ thông minh, hay ít nhất là đảm đang để làm chủ ngôi nhà và làm người mẹ tốt
cho con của họ.
Người đàn ông nào bị vợ giả vờ “ngu” thật đáng tội nghiệp vì chính họ
không… thông minh lắm nên bị người ta “xí gạt”. Nhưng cô đã gặp những phụ nữ đã
phải giả vờ “ngư' như vậy, vì xã hội vẫn còn nam giới chưa thật sự chấp nhận sự bình
đẳng giới.
Câu trả lời của mẹ cháu thật tuyệt vời, cháu phải hãnh diện với một người mẹ
như vậy. Vai trò của phụ nữ ngày nay không chỉ để trưng trong tủ kiếng mà còn góp
phần xây dựng gia đình và xã hội hiện đại. Sự thông minh là cần thiết cho cả nam và
nữ để cùng nhau xây dựng xã hội, giáo dục những công dân thông minh. Tuy nhiên,
thông minh không phải là lên mặt lên mày ra vẻ ta đây. Thông minh cộng với khiêm
tốn, hòa đồng chính là cái duyên có giá trị hơn cái đẹp rất nhiều. Sắc đẹp bên ngoài
chỉ gây chú ý và thu hút nhất thời. Cái duyên mới cầm giữ sự yêu mến, tôn trọng mãi
mãi.
4.Khiếm khuyết của người hoàn hảo
Thưa cô,
Trong lớp cháu có một bạn đẹp trai, học rất giỏi, tính tình vui vẻ, được nhiều
bạn gái yêu mến, theo đuổi. Mọi người đánh giá bạn khá hoàn hảo. Trong nhiều bạn
gái, bạn có vẻ “kết” cháu hơn cả và thường nói gần xa là bạn yêu mến cháu.
Nhìn chung, cháu có cảm tình với bạn nhưng còn một điều hơi e ngại. Đó là
bạn có thái độ xa cách với người nghèo khổ. Những chuyến công tác xã hội, bạn
cũng tham gia nhưng có lẽ bàng quan, sợ đụng chạm vào trẻ khuyết tật. Cháu thất
vọng bạn về điều này cô ạ. Một người thiếu tình thương, sự quan tâm và đồng cảm
với người có hoàn cảnh khó khăn thì không thể là người hoàn hảo và cũng khó thành
người chồng, người cha có trách nhiệm, phải không cô?
Cô rất tán thành cách suy nghĩ của cháu. Một nhân cách đẹp và hoàn hảo
không chỉ gồm ngoại hình, trí thông minh hay sự giao tiếp khéo mà trên hết là có một
triết lý sống đẹp. Không thể sống đẹp khi chỉ nghĩ tới bản thân mà thiếu quan tâm đến
người khác, nhất là những người bất hạnh, thiệt thòi. Bạn trai đó về sau vẫn có thể có
trách nhiệm với con cái, nhưng những đứa trẻ có khi lại học ở ông bố tính ích kỷ và
sống xa rời những người nghèo, người khó khăn.
Tình yêu chỉ đẹp và vững chắc khi đôi bên cùng chia sẻ những giá trị sống tích
cực và tốt đẹp. Sự tôn trọng vì những đức tính tốt của nhau cũng hết sức quan trọng.
Nếu cháu là người quan tâm đến xã hội mà người chồng tương lai không chia sẻ thì
buồn lắm.
Trước mắt ta dễ bị thu hút bởi những cái “bên ngoài”, nhưng những giá trị
nhân văn mới thật quan trọng. Cháu nên nhìn kỹ lại chuyện của mình, tiếp tục quan
sát, hy vọng thời gian sẽ giúp cháu có quyết định.
5.Tại sao có người hẹp hòi?
Trong lớp, cháu là học sinh giỏi, chăm chỉ và hòa đồng với bạn bè. Cháu được
nhiều bạn yêu mến. Nhưng kể từ khi cháu được bầu làm lớp phó học tập, được giải
thưởng Olympic môn Văn, thường xuyên được cô chủ nhiệm nhờ giúp một số công
việc trên lớp – cô rất yêu mến cháu – thì một số bạn có vẻ không ưa cháu, và nói
cạnh khóe là cháu nịnh nọt cô chủ nhiệm để được là trò cưng. Cháu buồn lắm cô ạ.
Lúc này cháu tránh gần gũi cô chủ nhiệm, không thân mật như trước đây để các bạn
bớt ghen tỵ và móc ngoéo cháu. Sao con người hẹp hòi và đáng chán vậy cô?
Chuyện xảy ra với cháu là chuyện bình thường trong cuộc sống. Rồi đây khi ra
đời cháu còn sẽ gặp những thử thách lớn hơn nữa. Và nếu sự thành công của cháu
mang tính kinh tế, cuộc đấu tranh sẽ còn ác liệt hơn nhiều.
Tuy nhiên, mọi sự cũng chỉ tùy thuộc vào cách suy nghĩ và hành động của
cháu thôi. Khi nào mình nổi quá cũng gây sự chú ý Một ngôi sao dù không cố ý mà
lóe sáng quá thì vô tình cũng làm cho các ngôi sao khác mờ đi. Sự ganh ghét là một
đặc tính của con người. Miễn sao tâm hồn mình được thanh thản khi không cố tình
làm cho người khác buồn.
Cô còn nhớ một người bạn hồi ở trung học. Chị học rất giỏi. Điểm của chị ấy
hơn xa điểm của người đứng thứ nhì trong lớp. Ai cũng thương chị. Có lẽ do chị rất ý
tứ: hòa nhã và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Cháu ý tứ, bớt thân thiện với cô chủ
nhiệm là tốt. Cháu cứ cố gắng thân thiện với mọi người hơn nữa và sẵn sàng giúp đỡ
các bạn rồi từ từ họ sẽ quên chuyện ganh ghét với cháu. Một thái độ khiêm tốn sẽ
giúp mọi người dễ gần gũi với cháu.
6.Hơi quậy, nhưng mà… tốt
Cô Oanh ơi, cháu là học sinh hơi cá biệt, có nghĩa là đôi khi cũng chưa ngoan,
nói chuyện trong lớp, nghịch phá, bị thầy cô nhắc nhở. Trong lớp cháu cũng có một
nhóm quậy, bướng bỉnh, thỉnh thoảng bỏ học và rủ rê cháu.
Hôm qua, nhóm này bỏ học, bị cô chủ nhiệm nhắc nhở, các bạn bực mình rủ
nhau “gài bẫy” cô. Các bạn phân công cháu lấy đinh đâm thủng bánh xe cô. Nhưng
cháu không chịu bị các bại dọa “cho mày thân tàn ma dại”. Cháu định nói cho cô
biết vì thương cô, thấy cô dạy dỗ chúng cháu cực khổ quá rồi, nhưng cháu cũng hơi
sợ bị chúng nó trả thù. Cháu phải làm gì để cô không sao mà cháu cũng an toàn hả
cô?
Cháu giỏi lắm, biết nhận là mình hơi quậy, chưa ngoan là tốt rồi. Để vừa an
toàn cho mình, vừa bảo vệ cô giáo, cháu nên gặp thầy cô hiệu trưởng hay giám thị,
hoặc một thầy cô mà cháu tin tưởng để trình bày sự thật. Hay cháu nói thẳng với cô
chủ nhiệm cũng được, miễn sao giấu tên cháu. Điều quan trọng là phòng ngừa
chuyện xấu xảy ra. Nếu ngăn chặn được thì nhà trường không nên dùng biện pháp
quá mạnh đối với nhóm này, mà từ từ tìm những biện pháp ôn hòa để cảm hóa.
Còn cháu, bề ngoài cứ vui vẻ nhưng tìm cách tách khỏi nhóm bạn xấu đó. Tuy
nhiên, nếu từ bên trong cháu cảm hóa được các bạn thì càng tuyệt.
7.Cháu không thích… Tết
Cô ơi nhà cháu nghèo lắm, chỉ đủ cơm ăn ngày hai bữa. Trẻ con đứa nào cũng
thích Tết vì được ăn món ngon, mặc áo mới, được lì xì… nhưng cháu không thích Tết,
vì nhà cháu buồn lắm, ăn uống như ngày thường, không có áo mới. Ba mẹ không qua
nhà ai chơi và cũng không cho chúng cháu sang nhà hàng xóm, vì người ta lì xì cho
chúng cháu mà ba mẹ không có tiền lì xì lại con cháu của họ cũng kỳ. Cháu tủi thân
lắm cô ạ. Ngày nào đó cuộc sống của cháu có tốt hơn không?
Cô rất thông cảm và rất thương cháu, cũng như hàng triệu trẻ em khác không
có Tết như cháu. Điều này nhắc nhở rằng xã hội ta vẫn còn khoảng cách rất lớn giữa
giàu – nghèo.
Nhưng cháu ơi, cháu đừng quên rằng “nhà giàu cũng khóc”. Nếu cháu đọc mục
tư vấn trong mấy số trước thì cháu đã biết có những bạn cảm thấy mình như bị “cầm
tù” trong sự sung túc. Ở đời này mọi thứ đều tương đối. Hạnh phúc không nằm ở chỗ
ta nghèo hay giàu mà ở chỗ cuộc sống của ta có ý nghĩa hay không.
Cháu hỏi liệu “ngày nào đó cuộc sống của cháu có tốt hơn không?”. Có tin
chắc là có, và yếu tố quyết định duy nhất chính là ở cháu mà thôi. Mới sáng nay cô
nhận được bức thư của một doanh nhân thành đạt xuất thân từ một đứa trẻ nghèo,
phải đi giúp việc nhà từ bé. Ông tự mày mò học chữ, học nghề rồi vươn lên và thành
công. Trong hoàn cảnh hiện nay, cháu thấy buồn là đúng, nhưng mai này nhìn lại,
cháu sẽ thấy khác và tự hào rằng mình đã vươn lên từ nghèo khó.
Bây giờ điều quan trọng nhất là cháu ráng học cho giỏi. Cô cũng đề nghị cháu
nên liên hệ với Hội phụ nữ địa phương để nhờ giới thiệu xin cấp học bổng Nguyễn
Thị Minh Khai để cháu đỡ vất vả, nhọc nhằn trong học hành. Cô chúc cháu, cha mẹ
và anh em cháu một cái Tết đầm ấm trong gia đình. Cháu cũng nên nghĩ tới những
đứa trẻ không chỉ nghèo mà còn không có được vòng tay của cha mẹ để hưởng sự ấm
cúng, thiêng liêng của ngày Tết.
8.Ghen với thầy, cô
Cả lớp cháu đều quý cô chủ nhiệm. Cô xinh đẹp, dịu dàng, vui vẻ, tế nhị và đặc
biệt dạy văn rất hay. Nhiều bạn trong lớp cháu xem cô là thần tượng, cảm thấy đi học
vui là nhờ có cô. Vậy mà tự dưng có thông tin cô và thầy dạy toán lớp bên … yêu
nhau. Chúng cháu cảm thấy hơi thất vọng, vì chúng cháu không thích thầy toán,
trông thầy chẳng xứng với cô.
Hình như chúng cháu cũng … ghen hay sao mà có hôm cả lớp “lạnh tanh” đến
nỗi cô phải hỏi: “Các em có điều gì không bằng lòng cứ nói, sao không chú ý nghe
giảng…?”. Một nhóm bạn trong lớp đang bàn mưu tính kế “phá” mối tình của thầy,
cô. Làm thế có hỗn láo và ác độc không cô?
Yêu quý cô giáo nhưng các cháu không có quyền xen vào hay phá đám chuyện
riêng tư của cô, dù đó là người mà các cháu thần tượng? Chỉ nhìn thầy toán từ bên
ngoài, không có cơ sở để các cháu đánh giá hoặc nhìn nhận đúng đắn về thầy. Chỉ có
cô giáo của các cháu mới biết được những điểm tốt đẹp của thầy. Họ là bạn hay là
người yêu, đó là chuyện của họ, các cháu nên tôn trọng thay vì có suy nghĩ hay hành
động vô đoán, dễ làm tổn thương thầy cô.
Nếu cô yêu hay lập gia đình với thầy, cô văn còn đó, vẫn tiếp tục giảng dạy các
cháu. Thôi, các cháu hãy dẹp bỏ cái ghen tuông trẻ con đi nhé! Cố gắng học giỏi, vui
vẻ, tiếp tục thương mến cô giáo của mình. Và ngày cưới cô, cả lớp nhớ tặng thầy cô
một món quà ý nghĩa, dễ thương nhé.
9.Chỉ vì thích được khen…
Cháu là học sinh lớp 6. Trường cháu quy định học sinh nào nhặt được đồ vật
hay tiền bạc, nộp lại cho thầy cô thì sẽ được khen, thưởng điểm. Tuần rồi, cháu hai
lần lượm được tiền trong sân trường, một lần 20.000đ và một lần 5.000đ, cháu nộp
cho cô giám thị, cháu được khen và thường điểm. Cháu thích lắm, về kể với mẹ, mẹ
bảo rất vui và tự hào khi cháu ngoan và thật thà. Cháu lại càng sung sướng.
Sáng nay cháu lấy cắp tiền 10.000 trong túi mẹ, định vào trường nộp cho cô
giám thị để được khen. Nhưng rủi mẹ cháu bắt được tra hỏi làm cháu phải khai thật.
Mẹ cháu giận lắm, mẹ khóc nữa và bảo sẽ vào trường làm việc với Ban giám hiệu.
Cháu lo lắng và xấu hổ quá cô ạ, cháu có nên van xin mẹ đừng làm thế không cô?
Nếu là mẹ cháu, cô cũng khóc luôn? Vì không có gì xấu cho bằng sự thiếu
trung thực. Làm như cháu là hai lần phạm tội: tội ăn cắp và tội gian dối. Lời khen
cũng tốt, nhưng nó phải xuất phát từ những hành động đúng đắn cơ. Lớn chút xíu
nào, cháu sẽ thấy sự dối trá hại đến mức nào. Ví dụ như người ta chạy chọt để có
điểm cao, mua bằng cấp để chạy quyền chạy chức… mà không có năng lực thật để
phục vụ xã hội thì hại biết mấy. Xã hội ta đang rất khổ sở vì chuyện này. Mới có chút
xíu mà cháu đã bị lây bệnh thành tích của xã hội rồi.
Cháu nên xin lỗi mẹ thật nhiều, hứa với mẹ là sẽ không bao giờ làm vậy nữa và
xin mẹ không nên nói với nhà trường, vì có thể sự xấu hổ sẽ gây mặc cảm cho cháu.
10.Cháu đang có “vấn đề”
Cháu đang có vấn đề nghiêm trọng về giới tính cô ạ. Cháu nghĩ là cháu thích… con
trai. Lúc còn học lớp 3, lớp 4, cháu và thích chơi với bạn gái, nhiều bạn gái cũng
mến cháu nhưng hai năm gần đây, cháu lại ngại gần gũi, thân quen với bạn gái. Là
con trai, chúng cháu giống nhau, dễ hiểu nhau, con gái phức tạp mà khó chịu lắm cô
ạ.
Người ta bảo con trai lớn đến mức nào đó sẽ có xúc cảm giới tính khi gần gũi
phụ nữ, nhưng cháu chẳng có cảm giác ấy, hay là cảm giác ấy chỉ đến với người
mình yêu? Cô có nghĩ là cháu bị “pê-đê” không?
Theo lời kể của cháu, cô thấy cháu không những không có gì “nghiêm trọng”
mà nói chung là cháu không có “vấn đề” nào hết. Ở một giai đoạn phát triển nào đó,
con trai không quan tâm đến hay có khi còn “ghét” con gái mà chỉ thích chơi với con
trai. Chuyện này hoàn toàn bình thường và tùy thuộc vào từng cá nhân. Có bạn 12–
13 tuổi đã để ý tới người khác phái, có bạn trễ hơn.
Không có vấn đê, vì cháu chỉ thích “chơi” với con trai thôi chứ không bị thu
hút bởi người đồng giới tính về tình yêu hay tình dục, là biểu hiện của “pê–đê” hay
“đồng tính”.
Đúng như cháu nói, cháu sẽ có cảm xúc giới tính khi cháu gặp người con gái
mà mình thích.
Cháu nên yên tâm học hành và đừng nghĩ đến chuyện đó nữa.
11.Con trai “mau nước mắt”
Là con trai nhưng cháu rất dễ xúc động, thỉnh thoảng buồn hay cảm thương
chuyện gì, cháu cũng chảy nước mắt. Ba cháu hay chế giễu “con trai mà mít ướt”,
bạn cháu thì bảo chắc cháu có vấn đề giới tính, nữ tính hơi nhiều. Cháu nghĩ là con
người thì cảm xúc buồn, khổ là giống nhau, nhưng vì sao con trai lại phải giấu, đè
nén đi, mặc cảm và xấu hổ nếu bộc lộ cảm xúc? Trong khi nếu cố gắng đè nén thì
cháu, nhận thấy mình trở nên khô cứng, vô cảm. Chẳng lẽ như thế lại đàn ông và tốt
hơn hả cô?
Cô rất thông cảm với cháu. Trời sinh ra mỗi người một kiểu, muốn đổi cũng
không được. Tính nhạy cảm của cháu cũng là bẩm sinh. Nó có cái hay của nó. Ví dụ
như dễ cảm thông với người đau khổ để giúp đỡ, dễ phát hiện nhu cầu của người
xung quanh để chia sẻ… Nhưng dĩ nhiên tính “mau nước mắt” hơi bất lợi cho một
người con trai như cháu.
Tuy nhiên theo cô, cháu không nên dùng biện pháp tiêu cực là “đè nén” cảm
xúc mà có cách làm tích cực hơn. Đó là tập luyện và phát huy những đức tính của
người đàn ông như mạnh mẽ, sẵn sàng bảo vệ người khác, quyết đoán, không do dự
khi phải lựa chọn trong cuộc sống… Chơi thể thao để tăng cường sức khỏe và có vóc
dáng mạnh mẽ. Tập tính khôi hài để cười và học cười nhiều hơn khóc.
PHẦN III. CHUYỆN HỌC HÀNH, HƯỚNG NGHIỆP
1. Ám ảnh điểm số
Cháu đang học lớp chín, là học sinh giỏi từ bậc tiểu học đến giờ. Đầu năm học
này, cháu bị bệnh do học tập căng thẳng, lo âu nhiều và suy nhược thần kinh nên
phải nghỉ học. Hiện cháu đã điều trị được ba tuần, bệnh có thuyên giảm. Cháu rất
muốn đi học lại nhưng cứ nghĩ đến việc vào lớp là cháu lại chán nản, mệt mỏi, đau
khổ vì mạc cảm bệnh hoạn, sợ kết quả học tập sút giảm, sợ thua kém bạn bè.
Ba mẹ cũng khuyên cháu để sang năm học lại. Năm lớp bảy cháu cũng đã nghỉ
học một năm vì bệnh, nếu nghỉ thêm một năm nữa thì việc học sẽ bị kéo dài, trong khi
ba mẹ đã lớn tuổi, các em thì còn nhỏ. Xin cô cho cháu lời khuyên.
Cháu học giỏi nhưng tiếc là lại vướng vào bệnh lo âu, suy nhược thần kinh.
Công việc trí óc không phù hợp với tình trạng sức khỏe hiện nay của cháu. Nếu bệnh
chưa khỏi hẳn mà cháu đã đi học lại thì có khi bệnh sẽ tái phát, càng mất thêm thời
gian. Cháu lại đau khổ, mặc cảm hơn.
Theo cô, học chữ thật giỏi chưa phải là tất cả và cũng chưa chắc sẽ thành công
ở đời. Có lẽ cháu nên theo học một nghề cụ thể; biết đâu cháu có hoa tay hay khiếu
kinh doanh thì sao? Học nghề cụ thể cháu sẽ ít bị lo âu, nhất là cháu không bị ám ảnh
bởi điểm số Sau vài năm, làm việc, có tiền giúp ba mẹ, cháu sẽ nhận thức được giá trị
của mình và không còn lo âu nữa. Khi đã giải thoát khỏi sự ám ảnh của điểm số, cháu
có thể học chữ trở lại theo dạng bổ túc, lần này cháu không còn học vì điểm số mà
học để biết và để sống.
Dù gì, điều quan trọng nhất vẫn là chữa bệnh, không nên để nó kéo dài. Trong
khi chữa bệnh, cháu đừng nằm nhà mà đi học nữ công gia chánh hay hội họa để phát
hiện tài năng của mình, hoặc để thư giãn.
2.Để học tiếng Anh hiệu quả
Em rất yêu thích tiếng Anh, nhưng học hoài vẫn cứ… quên. Có lẽ em chưa có
phương pháp học tốt. Xin cô cho biết, có cách học nào tốt cho vốn từ vựng và cả ngữ
pháp làm thế nào để nhớ lâu? Em có còn học ở những trung tâm dạy tiếng Anh nổi
tiếng, đắt tiền hay không? Liệu tự học có tiến bộ không?
Thành công hay không trong ngoại ngữ là do phương pháp dạy và học. Người
ta còn dùng chữ “sinh ngữ”, có nghĩa là tiếng nói “sống”: học ngoại ngữ thì phải nói.
Cái hạn chế thường thấy ở nước ta là có những thầy cô dạy ngoại ngữ là không
“nói” được, không giao tiếp thông thường được Các bạn thường học bằng mắt và đầu
(cố đọc rồi nhớ) thay vì tai và miệng (nghe và nói). Một từ mà em “xài” (nghĩa là nói
ra) vài ba lần em sẽ nhớ ngay. Còn cứ làm thinh cố nhớ thì không hiệu quả mà mệt óc
nữa.
Em nên học với thái độ của em bé: cứ nghe rồi bắt chước. Cứ hồn nhiên nói ra
điều mình cần. Đừng quá đắn đo trúng trật. Em chọn vài bài hát tiếng Anh ưa thích,
học thuộc rồi hát cho vui nhà vui cửa. Các tiệm sách có bán loại sách gọi là
“simplified En–glish” (tiếng Anh đơn giản hóa) tóm tắt những tiểu thuyết hay chỉ với
số lượng từ vừa phải và dễ hiểu nhất. Em đọc cho biết chuyện, khỏi cần tra cứu từng
chữ.
Để thực hành nghe, em cũng có thể nghe thời sự Việt Nam đọc bằng tiếng Anh
trên TV, hình ảnh sẽ giúp em hiểu nội dung (nghe nhìn) mà có thiếu vài chữ cũng
không sao. Em cũng nên xem phim tiếng Anh không có phụ đề Việt ngữ để tập nghe,
hiểu một cách tổng hợp.
Cũng không cần tới những trường quá đắt tiền, cô có biết một thanh niên thực
hành bằng cách hướng dẫn du lịch tình nguyện và nhờ đó đã nói vanh vách. Vấn đề là
dạn nói. Chúc em thành công.
3.Cháu có dở hơi?
Chúng cháu bàn với nhau về chuyện sẽ chọn ngành vào. Một số bạn chọn
công nghệ thông tin, số khác lại chọn Bách khoa, Y, Quản trị kinh doanh… Riêng
cháu chọn thi vào Đại học Sư phạm. Các bạn chế giễu bảo cháu dở hơi. Họ nói rằng,
nghề giáo thời nào cũng là nghề nghèo đói, lận đận, sao cháu không thi vào những
trường thời thượng mà lại cho nghề giáo.
Cháu lại nghĩ khác, ngay nghề các bạn chọn, một thời được coi là thời thượng
thì nay cung đã nhiều hơn cầu, chẳng dễ tìm việc, nhiều SV ra trường bị thất nghiệp.
Trong khi nghề giáo của má cháu, dạy môn kinh tế chính trị (một thời bị coi là hạng
ruồi) thì nay lại thu nhập cao, chạy show như ca sĩ ngôi sao. Vấn đề là làm nghề yên
thích, hợp với khả năng mình, phải không cô?
Chọn một nghề không nên chỉ nghĩ đến tình thời thượng, khả năng tìm việc
làm hay lương bổng. Trong một xã hội phát triển, tất cả các ngành nghề đều cần thiết
và luôn có sự chênh lệch về thu nhập. Tuy nghiên, điều chúng ta mong muốn nhất
trong cuộc đời là hạnh phúc, mà hạnh phúc không phải là có nhiều tiền hay được
nhiều vinh quang. Hạnh phúc là khi ta làm được điều mình muốn và ưa thích. Cái gì
mình thích và phù hợp với năng khiếu thì mình sẽ làm giỏi. Làm giỏi thì được khen
ngợi, đề cao và điều này đem lại cho ta sự tự tin, niềm vui to lớn.
Tiền không còn là quan trọng nhất, vì trong một xã hội tiến bộ, thu nhập ở bất
cứ nghề nào cũng đủ sống. Và khi ta làm thật giỏi, trở thành chuyên gia thì sẽ được
mời mọc nhiều, thu nhập tăng. Má cháu chạy show vì bà có năng lực. Và cô biết một
số người trong lãnh vực khoa học xã hội có thu nhập cao nhờ tài năng của họ.
Cô mong rằng cháu thích nghề giáo không chỉ vì yêu mẹ và muốn bắt chước
mẹ, mà vì cháu hiểu sứ mạng cao cả của nghề này. Chúc cháu lựa chọn đúng.
4.Chỉ yêu thích, chưa đủ!
Cháu và ba mẹ đang chiến tranh lạnh, kể từ khi cháu nói với ba là cháu sẽ thi
vào trường cao đẳng Sân khấu và Điện ảnh, trong khi ba mẹ muốn cháu thi vào Đại
học Kinh tế hoặc Y. Cháu yêu thích nghệ thuật và muốn thử sức mình ớ lĩnh vực này,
nhưng ba mẹ lại bảo cháu dại, yên bình không muốn lại muốn nghèo khổ. Đâu phải
ai trong giới nghệ thuật cũng đói nghèo, quan trọng là mình sống như thế nào, phấn
đấu ra sao, hết lòng và đi đến tận cùng đam mê của mình. Cô thấy cháu nghĩ thế có
đúng hay là “lý thuyết” như ba mẹ cháu nói?
Cháu không sai, vì con người chỉ thành đạt khi làm được công việc mà mình
ưa thích và có năng khiếu, chỉ hạnh phúc khi làm được việc mình muốn làm và thích
thú. Khi quyết tâm đi vào lĩnh vực sân khấu, cháu đã đánh giá năng khiếu của mình
đầy đủ chưa? Có những dấu hiệu thực tế nào bảo đảm là cháu sẽ thành công?
Sự yêu thích mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ. Đây là
một lĩnh vực đòi hỏi phải có năng khiếu, và để thành đạt còn phải hội đủ nhiều điều
kiện khác. Nhưng cô hy vọng rằng sự quyết tâm “đi đến tận cùng” của cháu sẽ giúp
cháu thành công.
Cha mẹ cháu lo cũng phải. Nhưng cháu dám làm phải dám chịu. Đừng để cha
mẹ tốn kém về chuyện “phiêu lưu” của mình.
Chúc cháu thành công.
5.Cháu nên học nghề nào?
Cháu học hết lớp 9 thì phải nghỉ học vì hoài cảnh gia đình khó khăn. Từ tỉnh
Vĩnh Phúc, cháu vào TP.HCM tìm việc mong kiếm tiền giúp đỡ gia đình. Hiện cháu
phụ việc rửa chén bát cho một nhà hàng, tiền lương hàng tháng cháu dành dụm gửi
về cho gia đình. Một thân một mình ở nơi xa lạ, không người thân, bạn bè, nhiều lúc
cháu buồn hay đau bệnh, tủi thân cháu cũng khóc nhiều nhưng sau đó luôn cố gắng
làm việc.
Dù khó khăn, cực nhọc nhưng cháu luôn ước mơ được đi học trở lại. Cháu
muốn ôn thi để vào trường trung cấp nghiệp vụ du lịch nhưng vô trường này đòi hỏi
phải có ít nhất một ngoại ngữ, nên cháu đang dành tiền học thêm tiếng Anh. Cháu
cũng băn khoăn, ở hoàn cảnh cháu có nên mơ cao xa thế không?
Cô rất mến phục sự kiên trì và ý chí vươn lên của cháu. Với một thái độ tích
cực như vậy, chắc chắn cháu thành công. Cháu yên tâm ôn luyện tiếng Anh để rồi thi
vào trường du lịch.
Cháu cứ ước mơ, miễn ước mơ nằm trong tầm với của cháu. Còn theo ngành
nghề nào thì tùy theo sở thích và khả năng của cháu. Công việc tương lai phải phù
hợp với cá tính và năng khiếu của cháu thì cháu mới thành công và đi xa hơn. Cháu
cứ phấn đấu từng bước, luyện ngoại ngữ và nên nhớ rằng kiến thức tổng quát cũng rất
quan trọng. Có giờ rảnh, cháu nên đọc thêm sách báo để luôn nâng cao trình độ.

TÌNH BẠN, TÌNH YÊU


1. Bạn trai và bạn gái
Là coi gái nhưng cháu chỉ thích chơi với bạn trai vì bạn trai không nhiều
chuyện, không ganh tỵ, hay chìu cháu. Một số bạn trai trong lớp mến cháu và chúng
cháu là bạn thân của nhau. Những bạn gái khác có vẻ ganh tỵ, nói cạnh khóe là cháu
“rù quến trai”, rằng “chơi với con trai rồi cũng thành… con trai”… Điều ấy làm
cháu cũng e ngại. Cháu chưa có tình cảm, tình yêu trai gái mà chỉ đơn thuần là bạn
bè thôi. Cháu có nên tránh chơi với các bạn trai, chỉ kết thân với các bạn gái? Cháu
sợ rủi mà cháu cũng thành con trai thì chết…
Theo cô, trên đời này điều gì thái quá cũng làm mất cân bằng và không tự
nhiên. Thái độ của cháu không có gì đáng phê phán nhưng có thể dẫn tới hai hậu quả:
1. Chỉ chơi với con trai riết cháu sẽ trở nên mạnh bạo, ồn ào giống “tụi nó” và
đánh mất cái duyên con gái.
2. Tự cô lập mãi với bạn gái cũng không hay. Chính cháu cũng đã thấy không
ổn trong việc này.
Cháu sẽ sống chung với phụ nữ suốt đời, chẳng lẽ tránh họ hoài? Ngoài ra,
chuyện “ganh tỵ nói nhiều”, không phải bẩm sinh mà do thói quen trong xã hội. Và
điều này có thể sửa chữa được. Nếu cháu chơi với bạn gái với tính của con trai là
không nhiều chuyện, ganh tỵ thì tốt lắm, vì như thế sẽ giúp các bạn bớt tật xấu.
Cháu cũng có nói là thích con trai vì được chúng nuông chìu. Có lẽ chính điều
này làm cho các bạn khó chịu. Có lửa mới có khói Bớt lập dị, sống hòa đồng sẽ tốt
hơn cháu à!
2.Chỉ “tốt” với một người!
Cháu có đứa bạn gái học cùng là rất thân. Chúng cháu đều học giỏi, rất
thương mến nhau. Đối với cháu bạn rất quan tâm, ân cần và tốt bụng. Bạn chia sẻ
với cháu mọi buồn vui trong cuộc sống, cháu cần gì bạn đều giúp, rất nhiệt tình.
Những đều làm cháu khó hiểu là trong khi rất tốt với cháu thì bạn lại khó chịu, khắt
khe với các bạn khác, và đôi khi hơi ích kỷ, ít nhường nhịn mọi người. Đều này làm
cháu thất vọng, cháu nghĩ một người tốt, chân thành là tốt với tất cả mọi người, một
cách tự nhiên, chứ không phải chỉ tốt với một người. Cô thấy cháu nghĩ vậy có đúng
không?
Cháu là người có óc nhận xét tinh tế. Người tốt, phải tốt với mọi người chứ
không chỉ với một người. Là bạn tốt, cháu nên giúp cô ấy mở lòng mình ra, biết đau
xót với người thiệt thòi, đau khổ. Thiếu gì chuyện để quan tâm: nạn nhân bão lụt,
động đất ở Myanmar, Trung Quốc; trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS… Cháu hãy rủ bạn
quyên góp cho các cuộc cứu trợ, đi thăm trẻ em nạn nhân chất độc màu da cam, trẻ
khuyết tật v.v…
Là bạn thân, cháu có thể nhẹ nhàng góp ý cho bạn ấy về những hành động, lời
nói làm người khác buồn chẳng hạn.
Làm bạn là giúp nhau sống tốt hơn. Nếu bạn ấy không đón nhận sự giúp đỡ của
cháu, có nghĩa là bạn ấy chưa phải là người bạn thật.
3.Bắt cá sáu tay
Cháu 15 tuổi xinh đẹp. Cháu chưa đến tuổi yêu đương, chưa là người lớn phải
không cô? Nhưng thực sự cháu đang gặp một thử thách lớn. Hiện tại có sáu người
yêu cháu, các anh ấy đều lớn hơn cháu một, hai tuổi, học giỏi và rất đẹp trai, được
nhiều bạn gái thích. Cháu rất ngưỡng mộ tính cách của các anh ấy và cháu đang
đứng giữa… sáu đường, không biết nên chọn ai.
Cháu biết cháu chưa đủ lớn để có người yêu, nhưng các anh ấy cứ theo đuổi,
làm cháu bối rối và khó xử, bạn bè thì ganh ghét vì có nhiều “cái đuôi” theo. Bắt cá
hai tay đã khó chấp nhận chẳng lẽ cháu lại bắt cá… sáu tay? Xin cô chỉ cháu cách
giải quyết tốt nhất.
Giữa cháu và sáu người bạn trai kia chưa thật sự là tình yêu. Đó chỉ là sự thu
hút giữa những người khác phái ở tuổi mới lớn. Sắc đẹp bên ngoài của cháu hay sự
học giỏi và đẹp trai của các bạn chưa phải là những yếu tố bảo đảm một tình yêu
đúng nghĩa. Bởi yêu nhau là bước khởi đầu để một đôi nam nữ tiến tới hôn nhân, xây
dựng gia đình hạnh phúc… và qua đó góp phần xây dựng xã hội. Mà điều này đòi hỏi
sự chín chắn, tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh cho nhau. Đây là những giá trị tinh
thần chỉ hình thành qua thời gian, mà các cháu lại còn quá trẻ.
Sở dĩ cháu chưa biết chọn ai trong họ vì ở cháu chưa hình thành những giá trị
tinh thần mà cô vừa kể. Nói cho cùng, các bạn ấy cũng là trẻ con như cháu.
Các cháu cứ chơi với nhau như bạn bè và khoan nghĩ tới chuyện yêu đương. Vì
chưa đủ chín chắn để biết mình và biết người, mà đùa cợt với tình yêu, có thể dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng. Cháu cũng động nên chủ quan rằng có sắc đẹp là có tất
cả. Sắc đẹp chỉ đóng vai phụ trong cuộc sống và lắm khi nó dẫn đến thất bại khi
người khác phái chỉ bị thu hút bởi bề ngoài của cháu. Có khi vì nó mà cháu quên trau
dồi những đức tính khác, bảo đảm cho hạnh phúc đích thực.
4.Cháu có nên “cho”?
Thưa cô, cháu 16 tuổi và đang yêu cô ạ. Anh ấy học cùng trường, trên cháu
hai lớp. Anh ấy học giỏi, đẹp trai, dễ thương. Chúng cháu thích nhau thật lòng, đi
đâu cũng có nhau. Dù chưa nói lời yêu nhưng chúng cháu và bạn bè cùng lớp đều
nghiễm nhiên cho là một cặp đẹp đôi. Bạn cũng tử tế, đứng đắn, thường mời cháu
đến nhà chơi. Gia đình bạn cũng quý mến cháu. Nói chung là cháu yêu bạn nhưng
chỉ không thích một điều: bạn hay đòi cháu thể hiện tình yêu bằng cách làm “chuyện
ấy” nhất là những khi chỉ có hai đứa với nhau trong phòng riêng nhà bạn. Cháu có
nên cho bạn hay giữ cho mình, để chứng tỏ tình yêu?
“Chuyện đó” rất quan trọng khi người ta yêu nhau, nhưng trong tình yêu không
chỉ có chuyện đó? “Không cho là không yêu”! Bộ cháu không theo dõi báo chí để
thấy đây là điệp khúc muôn thuở của những chàng trai ích kỷ, hơi “thô sơ”, hay hát
để dụ khi những bạn gái nhẹ dạ để rồi… chàng cao chạy xa bay và nàng phải nạo phá
cái bào thai vô tội… cháu có biết Việt Nam mình đứng hàng top 5 toàn cầu về tỷ lệ
trẻ vị thành niên phá thai?
Cháu mới 16 tuổi, nghĩa là chưa đủ chín để quyết định. Sự thiếu chín chắn của
cháu biểu hiện qua sự đánh giá anh ta là “đứng đắn”, trong khi anh ta chỉ muốn lợi
dụng cháu. Cháu đừng vì sợ “bạn giận” rồi làm chuyện dại dột. Cháu cũng đừng thử
vì tò mò để rồi phải trả một giá quá đắt.
Cháu dám đòi hỏi anh ta chứng tỏ tình yêu với cháu bằng một minh chứng
khác là sự tôn trọng cháu không? Nếu anh ta đáp ứng được chừng đó mới là tình yêu.
Nếu không và anh ta bỏ cháu thì là một điều đáng mừng, vì thật ra anh ta không yêu
cháu. Cháu còn rất trẻ, sẽ có cơ hội gặp nhiều bạn trai khác và chắc chắn cháu sẽ gặp
những người không chỉ khăng khăng đòi “chuyện ấy” ở cháu. Chúc cháu bình tĩnh và
suy nghĩ chín chắn.
Tham khảo
Những câu hỏi thường gặp ở phòng Tư vấn học đường

v ự u ữ t v t v t v t ?
Tham vấn là một tiến trình tương tác giữa nhà tham vấn (NTV) và thân chủ
(TC) – người đang có vấn đề, khó khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ nhằm giúp TC
chấp nhận thực tế của mình, xác định tiềm năng bản thân từ đó tự giải quyết vấn đề
của mình.
Tâm lý là một ngành khoa học khá mới mẻ ở VN, chính vì vậy hiện nay nước
ta vẫn chưa thống nhất về việc sử dụng khái niệm tham vấn hay tư vấn tâm lý. Tuy
nhiên giữa tư vấn và tham vấn có những nét khác biệt khá cơ bản.

Tham vấn Tư vấn

Là cuộc nới chuyện mang tính cá nhân Tư vấn là cuộc nói chuyện giữa một
giữa NTV với một hoặc vài người đang “chuyên gia” về một lĩnh vực nào đó với
cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn một hoặc nhiều người đang cần lời
hoặc thách thức trong cuộc sống khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực ấy (Tư
vấn pháp luật, tư vấn tài chính…).

Tham vấn là một tiến trình gồm nhiều Quá trình tư vấn có thể diễn ra trong
cuộc nói chuyện nhằm giúp thân chủ một buổi nói chuyện. Người tư vấn giúp
sáng tỏ vấn đề, xác định khả năng và thế thân chủ bằng cách đưa ra những lời
mạnh của bản thân, từ đó xem xét các khuyên về mặt chuyên môn, cho TC biết
giải pháp khả thi nhằm đưa ra lựa chọn những quyết định họ cho là phù hợp
tối ưu nhất nhất đối với tình huống của TC

Ngoài kiến thức chuyên môn về tâm lý, Nhà tư vấn có kiến sâu trong một lĩnh
NTV cần có kiến thức cơ bản trong vực nhất định, và có khả năng truyền đạt
nhiều lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, pháp kiến thức đó đến TC của mình.
luật, sức khỏe…Kỹ năng cơ bản của nhà
tham vấn là lắng nghe, khai thác vấn đề,
cảm xúc của TC.
N - ?
Nhà tâm lý học đường là một nhà sư phạm được cấp bằng đào tạo về tư vấn
học đường với những kỹ năng chuyên biệt để hỗ trợ việc học, nhu cầu phát triển cá
nhân, xã hội và nghề nghiệp của học sinh.
Ở các nước phát triển, nhà tâm lý học đường (School Psychologist) là thành
phần không thể thiếu trong hệ thống trường học. Nhiệm vụ chính của họ là giúp học
sinh thành công trong học tập, xã hội và đời sống tình cảm. Ngoài ra họ còn phối hợp
với giáo viên, phụ huynh, các nhà chuyên môn khác nhằm tạo môi trường học tập an
toàn, lành mạnh cho tất cả học sinh.
N t v t ể ết ợ suy ĩ ủ
Nhiều học sinh không muốn hoặc xấu hổ khi nói ra những suy nghĩ, diễn biến
tâm lý của mình, cho rằng chỉ cần vài câu đơn giản thì nhà tư vấn có thể đoán được
những suy nghĩ trong lòng mình, nếu không thì cho rằng trình độ của người tư vấn
không cao. Thực ra, nhà tư vấn cũng là người, việc am hiểu ngôn ngữ cơ thể có thể
giúp nhà họ nhận biết những mâu thuẫn giữa lời nói và cử chỉ của học sinh, nhưng
cũng không thể giúp họ biết được học sinh thật sự đang nghĩ gì. Vì vậy việc cung cấp
thông tin rõ ràng, tường tận sẽ giúp tiến trình tư vấn hiệu quả hơn.
4 G o v ê p ụ tr p ò t v sẽ úp o v ê trừ trị
ữ s o
Việc học sinh tự nguyện tìm đến hoặc được gửi đến phòng tư vấn tâm lý nhằm
mục đích lắng nghe các em, hiểu được những suy nghĩ, tâm tư tình cảm của các em
chứ không phải các em được gửi đến phòng tư vấn để chịu một hình thức trừng phạt
nào cả. Tuy nhiên, trong khả năng chuyên môn của mình, các nhà tư vấn sẽ dùng các
kỹ năng để tiếp cận các em, giúp các em hiểu hơn về những suy nghĩ, tình cảm, và
hành động của mình để từ đó có thể có được những thay đổi tích cực.
5 v t ở tr d rê o s y o ả
ậ p ụ uy
Mục đích của tư vấn trường học là giúp đỡ học sinh và gia đình cũng là một
yếu tố trong cuộc sống của học sinh. Vì vậy, khi các bậc phụ huynh có nhu cầu trao
đổi và cần sự trợ giúp, các bậc phụ huynh có thể đăng ký để được tư vấn. Tuy nhiên,
trong những trường hợp cần thiết, cán bộ tư vấn có thể giới thiệu các bậc phụ huynh
đến các dịch vụ trợ giúp có hiệu quả hơn như đến phòng tư vấn gia đình, tham gia các
lớp kỹ năng….
C p ả ữ s t ế p ò t v ều ữ
s “ v ề”?
Ở nước ta tư vấn tâm lý nói chung và tư vấn học đường nói riêng là lĩnh vực mới và
phát triền tương đối muộn, đa số mọi người còn khá e ngại trong việc tiếp cận với các
hoạt động này. Học sinh thông thường đều nhìn trước nhìn sau, lấy hết can đảm mới
dám bước vào phòng tư vấn, dưới sự bảo đảm nhiều lần của nhà tư vấn mới dám bộc
lộ tâm trạng, tình cảm thật của mình. Vì trong mắt nhiều người, người đến phòng tư
vấn là những người không bình thường, có vấn đề về tâm lý hoặc bệnh tinh
thần. Thực ra, đại đa số những học sinh tìm đến phòng tham vấn học đường đều là
những người có tâm lý bình thường. Trong cuộc sống, các em gặp phải những vấn đề
mà bản thân không thể giải quyết được như: vấn đề học tập, vấn đề trong giao tiếp,
vấn đề trong tình yêu, trong quan hệ với gia đình, lựa chọn nghề nghiệp… Những vấn
đề này là một bộ phận trong cuộc sống của chúng ta, việc tìm đến phòng tâm lý học
đường cho thấy những học sinh này biết quan tâm, chăm sóc sức khỏe tinh thần của
mình và có mục tiêu cuộc sống tương đối cao, hy vọng thông qua việc tư vấn để tự
hoàn thiện bản thân, không tránh né, phủ nhận vấn đề.
7. t ể s ữ ều ứ ú ủ về o v ê dạy to vớ
o v ê p ụ tr p ò t v ệu ữ ều y ị t ết ộ
sẽ ị o v ê dạy to ” ” tro t ơ ?
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của tư vấn tâm lý bảo mật thông
tin. Nhân viên tư vấn học đường sẽ có trách nhiệm bảo mật tất cả những thông tin
học sinh cung cấp cho mình và có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu cố
tình tiết lộ thông tin của học sinh. Thông tin chỉ được tiết lộ trong các trường hợp
sau: học sinh cho phép tiết lộ, chia sẻ thông tin; học sinh có nguy cơ làm hại đến bản
thân và người khác (có ý định tự tử hoặc giết người); do yêu cầu của các cơ quan an
ninh, pháp luật (phải thông báo cho học sinh biết). Vì vậy các em học sinh hoàn toàn
có thể yên tâm khi chia sẻ câu chuyện với nhà tư vấn!
N ữ tr tu , ều ệ số t ể tốt
ô t t v tâm lý?
Không thể phủ nhận một điều, những nhà tư vấn có nhiều kinh nghiêm sống sẽ
dễ dàng hơn trong việc thấu cảm và nhìn nhận vấn đề của thân chủ. Tuy nhiên một
NTV lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm chưa hẳn là một nhà tư vấn giỏi. Vì một NTV
tâm lý giỏi phải là người có những năng lực và phẩm chất khá riêng biệt. Thứ nhất họ
phải là người có kiến thức về quá trình phát triển tâm lý ở người: nhận thức, cảm xúc
và hành vi của con người. Thứ hai, họ phải là người có khả năng giao tiếp, lắng nghe
cũng như biết cách khai thác các cảm xúc, nhận thức và các biểu hiện của TC. Họ
được đào tạo cơ bản về kỹ năng tư vấn cũng như các lớp học dành cho việc trợ giúp
tâm lý cho TC. Họ cũng là người có những phẩm chất đặc biệt dành cho người làm tư
vấn như khả năng chấp nhận, khả năng thấu cảm, sự trung thực…Do vậy độ tuổi hay
trải nghiệm của NTV không quyết định mức độ thành công của buổi tham vấn.
p ă tro u ệ vớ ô ạ ớp, t ể
s uyệ y vớ ovê t v K o ê ế p t
v ?
Giống như khi bị sổ mũi, đau đầu… chúng ta tìm đến bác sỹ y khoa, khi có
những vấn đề về tinh thần chúng ta cũng nên tìm gặp nhà tư vấn tâm lý. Bạn có thể
tìm gặp nhà tư vấn trong những trường hợp sau:
- Khi bạn cảm thấy không hài lòng, khó chịu hoặc bất lực trong mối quan hệ
nào đó với những người xung quanh: bạn bè, gia đình, người yêu...
- Khi chính bạn là người gây bất bình cho những người xung quanh.
- Khi bạn hoặc những người xung quanh bạn nhận thấy gần đây ở bạn xuất
hiện những cá tính hiếm khi có, hoặc không có trong hành động tiền lệ của bạn.
- Khi bạn cảm thấy cô đơn buồn chán, lo âu, căng thẳng và sợ hãi…những
điều này lặp đi lặp lại và ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của bạn.
- Khi bạn tự cảm thấy hoặc người bên cạnh bạn nhận thấy bạn nói nhiều hoặc
không muốn giao tiếp trong một thời điểm nào đó và luôn không cảm thấy hài lòng
trong cuộc sống hiện tại.
- Khi bạn cảm thấy không thích nghi hoặc khó thích nghi, điều này ảnh hưởng
đến mục tiêu hoặc những hoạt động bình thường của bạn và những người xung
quanh.
- Khi bạn luôn có những ý nghĩ tiêu cực, và có ý đinh tự sát.
Chính vì vậy em hoàn toàn có thể chia sẻ về mối quan hệ của mình với cô bạn
cùng lớp với giáo viên phụ trách phòng tư vấn học đường.
0 ều v ề ầ s ữ v ề yr t ộ ộ
ô t ể sắp ếp ú t ột u uyệ rõ r v ạ ạ Đ ều y
ovê t v ô ò ê uẩ ị pN V
Em có thể chia sẻ câu chuyện của mình theo trình tự những gì em đang
nghĩ. Không nhất thiết phải trình bày mạch lạc, rõ ràng, có mở đầu, có kết thúc. Giáo
viên tư vấn sẽ có những câu hỏi cần thiết để giúp em hệ thống vấn đề và tìm ra
phương hướng giải quyết. Thái độ trung thực và hợp tác trong việc chia sẻ vấn đề của
mình sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả buổi tư vấn
Một u t v t t t o u ị ủ d y
, t ể tr t ủ r ơ ể ế p ò t v s v ề

Tư vấn là một tiến trình lâu dài, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mức độ phối
hợp, mong muốn giải quyết vấn đề của thân chủ, mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Có những vấn đề được giải quyết sau một vài buổi tư vấn (mỗi buổi từ 45 - 60 phút),
cũng có những vấn đề mất nhiều thời gian hơn, kéo dài vài tháng hoặc cả năm.
Việc bạn tranh thủ tìm đến phòng tư vấn trong giờ ra chơi, việc chia sẻ trong
tâm trạng thấp thỏm lo “sắp đến giờ vào học” sẽ gây khó khăn cho chính bạn và nhà
tư vấn trong việc tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề.
Nếu ử t ế p ò t v t s u o êu y
t ể ậ ợ t trả ,v ậ ằ o
Em có thể liên hệ trực tiếp với giáo viên phụ trách phòng tư vấn học đường để
nhận được thư trả lời. Thời gian trả lời thư phụ thuộc vào mức độ khẩn cấp, nghiêm
trọng của sự việc. Nhưng chậm nhất là sau 3 ngày làm việc (không tính ngày lễ, chủ
nhật) các em sẽ nhận được thư trả lời. Tuy nhiên, tính tương tác của hình thức tư vấn
qua thư chưa cao, giáo viên không thể làm rõ một số nội dung trong thư. Vì vậy, để
việc tư vấn hiệu quả hơn em có thể gửi mail, hoặc tham gia trò chuyện trực tuyến
tại địa chỉ: tuvanhocduongtkn@gmail.com
Tham khảo
Đôi nét về lịch sử tư vấn tâm lý:
1.1. Trên thế giới:
Tham vấn tâm lý học đường (School Counseling) hay còn gọi là tham vấn học
đường là một nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 tại
Hoa Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên trong
lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “N ữ ớ dẫ về ề ệp v
ạo ứ ” cho học sinh các trường học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ
của nghề Hướng dẫn (còn gọi Khải đạo), đã viết cuốn sách “C ự ột ề”
(Choosing a Vocation) vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những
đặc điểm tính cách của một cá nhân với một nghề nghiệp.
Thế chiến thứ nhất, xuất hiện nhu cầu đánh giá (trắc nghiệm) các cá nhân, từ
lúc này thuật ngữ nhà tham vấn (counselor), thường được đề cập như là những
chuyên gia làm việc với những người trầm cảm, đã bắt đầu trở thành một phần trong
từ điển của các nhà giáo dục.
Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra yêu cầu cho các nhà
tham vấn làm công việc sàng lọc, tuyển chọn các quân nhân và những chuyên gia cho
các ngành công nghiệp.
Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về Khải đạo được giới thiệu: Lý thuyết về
các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson, (E. G. Williamson’s Trait and Factor
theory). Lý thuyết này trở nên nổi tiếng như là một sự chỉ đạo cho hoạt động tham
vấn.
Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về giáo
dục hướng nghiệp – ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển
và hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học đường cũng như
những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn học đường, những
kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ chính thức từ
chính phủ (sự điều hành, tài chính và nguồn nhân lực…)
Năm 1957, năm mà vệ tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ đạo cũng là
thời điểm mà ngành tham vấn và khải đạo được “phóng lên”.
Năm 1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi
(The Counselor in a Changing World) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học
đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà tham
vấn học đường
Năm 1965, đạo luật Giáo dục Tiểu học và Trung học (Elementary and
Secondary Education Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để phát triển những cơ hội
giáo dục cho những gia đình nghèo.
Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia dành cho các chương trình tham vấn học
đường (National Standards for School Counseling Programs) ra đời và kể từ đó,
ngành tham vấn học đường được xem là đã hoàn thiện.
Hiện nay, hiệp hội các nhà tham vấn học đường Hoa Kỳ (ASCA) được xem là
nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn tâm lý học đường của
hầu hết các nước trên thế giới.
1.2. Ở Việt Nam:
Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, chương trình khải đạo học đường đã
được triển khai trong các trường học. Sau ngày thống nhất đất nước, với sự thay đổi
gần như hoàn toàn cách thức tiếp cận của giáo dục, chương trình khải đạo đã không
còn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa của nó.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, với sự xuất hiện hàng loạt những vấn đề liên
quan đến đạo đức, kỷ luật trường học, học sinh tự tử, áp lực thi cử, những rối loạn
tâm lý, quan hệ thầy trò… của các trường học Việt Nam, những nhà giáo dục, tâm lý
và cùng những tổ chức và các cơ quan giáo dục bắt đầu đề cập đến việc phải có các
hoạt động tham vấn tâm lý trong trường học.
Từ khoảng năm 2000, nhiều trường học tại Tp. HCM như trường Khánh Hội A
– quận 4, Nguyễn Gia Thiều – quận Tân Bình, Diên Hồng – quận 10, Trương Công
Định, Phú Mỹ – quận Bình Thạnh, Mạc Đỉnh Chi – quận 6 và rất nhiều trường khác
nữa… đã chủ động phối hợp với các chuyên viên tâm lý và các tổ chức trong và
ngoài nước để triển khai các chương trình tham vấn học đường cho học sinh.
Năm 2003, hội thảo “N u ầu t v tạ p HCM” được Viện
Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP Tp. HCM tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà
tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động tham vấn học đường để phân
tích và kêu gọi sự quan tâm của giới chuyên môn cũng như các cơ quan chính phủ
trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt động tham vấn học đường tại Việt
Nam.
Năm 2004, Trung tâm Hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động nghiên
cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường.
Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số – Gia đình – Trẻ em TP.
HCM và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em Tp. HCM đã tổ chức hội
thảo “K ệ ớ ầu t ự ệ ô t v tro tr ” cũng
nhận được sự quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và
những nhà lãnh đạo các trường học.
Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “ v t – o dụ – t ự t ễ
v ị ớ p t tr ể ” do Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Tp. HCM tổ chức
cũng đề cập đến vấn đề tham vấn học đường nhằm hỗ trợ học sinh và nhà trường
trong hoạt động giáo dục.
Trong khoảng thời gian này, một văn bản của Bộ Giáo dục đã được ban hành
nhằm chỉ đạo và hướng dẫn các Sở và trường học cùng những tổ chức liên quan trong
việc triển khai thực hiện chương trình tham vấn học đường.
Tháng 9 năm 2008 khóa đào tạo cử nhân tâm lý học, chuyên ngành Tâm lý học
trường học đầu tiên đã được thực hiện tại Khoa Tâm lý giáo dục thuộc Trường
ĐHSPHN.
Đến nay, vấn đề tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở thành một đề tài
nóng bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em học sinh, phụ huynh, nhà trường,
các nhà tâm lý – giáo dục và các tổ chức giáo dục. Tuy nhiên, diện mạo của một
ngành nghề chuyên nghiệp vẫn chưa thật sự được định hình.
Những khó khăn phát triển tư vấn tâm lý học đường ở Việt Nam:
Những khó khăn trong việc phát triển tâm lý học đường ở nhà trường phổ
thông hiện nay:
- Trước hết, hiểu biết và sự sẵn sàng tiếp nhận khoa học tâm lý nói chung, tâm
lý học đường nói riêng ở Việt Nam của đa số người dân, trong đó có cả giáo viên phổ
thông (tuy có được đào tạo sơ lược về tâm lý học) còn nhiều hạn chế.
- Người dân khi vướng mắc tâm lý ít khi nghĩ đến việc tìm nhà chuyên môn để
giải quyết.
- Giáo viên phổ thông khi gặp học sinh khó giáo dục chỉ nghĩ nhiều đến biện
pháp giáo dục, gần như không nghĩ đến biện pháp của tâm lý học; những trường hợp
mắc các rối nhiễu tâm lý nặng như trầm cảm, loạn thần... thường được chỉ định đến
gặp bác sĩ tâm thần chứ cũng không phải chuyên gia tâm lý.
- Mọi người rất ít khi tự động tìm đến các dịch vụ tâm lý, có chăng chỉ tâm sự
trên điện thoại hay với các nhà tư vấn trực tuyến.
- Trong khi đó, tại trường học, ở tất cả các cấp học từ mầm non đến phổ thông,
những vấn đề tâm lý ở học sinh ngày càng gia tăng: bạo lực học đường, tự tử, trấn lột,
cướp của, giết người..., đặc biệt là tình trạng học sinh trầm cảm, tăng động giảm chú
ý, sa sút, khó khăn về nhận thức và học tập.
Thế nhưng gần như 100% trường phổ thông hiện nay không cung cấp dịch vụ tâm lý
học đường tại chỗ. Có thể nói, toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang
phát triển lệch, chỉ lo dạy chữ, dạy kiến thức. Các nhà trường đều có phần xa rời khoa
học phát triển con người, không mấy trường học vận dụng khoa học tâm lý giáo dục
để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.. Hoạt động tư vấn tâm lý học đường là
hoạt động mới trong trường học, chưa có sự thống nhất trong phạm vi cả nước về mô
hình tổ chức lẫn quy định về chuyên môn, biên chế, chế độ chính sách... Phần lớn các
địa phương đang trong giai đoạn “ ò ẫ ”, một bộ phận các nhà quản lý giáo dục
các cấp chưa quan tâm hoặc chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động này. Mặt khác,
việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác tư vấn tâm lý học đường cũng chưa
đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Tại những trường có tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý học đường, các khó
khăn chủ yếu gặp phải là:
- Nhiều người vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của tâm lý học đường, họ cho rằng tư
vấn học đường chỉ có ích đối với một số trường hợp học sinh cá biệt, chứ không cần
thiết cho đại đa số học sinh. Đại đa số vẫn chưa nhận thức rõ các trường hợp nào thì
học sinh cần tư vấn, và cho rằng chỉ khi học sinh thật sự khủng hoảng về tâm lý thì
mới cần tư vấn, nhiều người chưa ý thức được tâm lý học đường có vai trò ngăn ngừa
các hậu quả tiêu cực hơn là góp phần khắc phục nó.
- Thứ hai, do nguồn kinh phí dành cho hoạt động tâm lý hạn chế, nên chưa có
chỉ tiêu biên chế các chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học đường, mà chỉ tư vấn tâm
lý theo kiểu “ ộ t v ê ”, hay các “ t v ệp d ”... Vì thế, hoạt động tư
vấn tâm lý thiếu tính chuyên nghiệp, trong nhiều trường hợp khi trò cần chia sẻ,
không mời được cộng tác viên hoặc thầy cô lại có tiết dạy…
- Một yếu tố nữa là do ảnh hưởng của Văn hóa người Việt, ngay từ nhỏ các em
ít khi được khuyến khích chia sẻ cảm tưởng và suy nghĩ của mình với người khác.
Nhiều em vẫn còn xu hướng tự giải quyết và không muốn tâm sự với người khác, đặc
biệt khi gặp phải những vấn đề tâm lý hay những vấn đề được coi là nhạy cảm. Do
xấu hổ và e ngại nên các em ít khi đến trung tâm trực tiếp xin trợ giúp, có em sử dụng
ta vấn qua điện thoại. Có em muốn tư vấn nhưng trường không có phòng tư ván học
đường. Mỗi khi gặp khó khăn, các em chủ yếu trao đổi với bạn bè, số ít thì trao đổi
với cha mẹ, một số tự giải quyết theo cách của mình... chính điều này dẫn đến sai lầm
trong hành vi.
Theo PGS.TS Trần Quốc Thành, Trưởng khoa Tâm lý giáo dục, Trường đại học sư
phạm Hà Nội, một trong những khó khăn đầu tiên của ngành không phải là tài chính,
mà thực tế là chưa có mã số viên chức cho ngành, hay số lượng học viên quan tâm tới
ngành còn ít (do quá mới)… nhiều phụ huynh cũng như trẻ em - thanh thiếu niên còn
e ngại, chưa muốn chia sẻ những vướng mắc liên quan đến các vấn đề tâm lý của
mình. Ông nhấn mạnh “Chúng tôi chỉ có mong muốn xã hội nhận thấy ngành này rất
cần thiết, ví dụ như xử trí ra sao với trẻ em nghiện game, bạo lực học đường, bắt nạt
học đường, …, phòng ngừa thế nào để các vấn đề đó ngày càng bớt xảy ra; và thấy
rằng trẻ em cần phải có người chuyên trách về tâm lý trợ giúp. Còn giáo viên hay
người thân của các em, dù nhiệt tình nhưng vẫn có những hạn chế nhất định vì không
phải là nhà chuyên môn”
BÁO CÁO
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, THAM VẤN
CỦA TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TRẺ EM PHÚ YÊN
Đỗ ị úy
Cô t ã ộ v ê - TTCTXHTE
tắt:
Bài viết đề cập đến những kết quả hoạt động tư vấn đạt được của Trung tâm
Công tác xã hội trẻ em Phú Yên.Từ đó đề xuất các biện pháp để hoạt động của Trung
tâm Công tác xã hội trẻ em Phú Yên đạt hiệu quả cao hơn
I. Thực trạng trẻ em Phú Yên và sự ra đời của Trung tâm Công tác xã hội trẻ
em:
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội. Nhất là từ khi chỉ thị 55-CT-BCT của Bộ chính trị Ban hành về tăng
cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em có hiệu lực thi hành.
Lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban, ngành, hội đoàn thể từ cấp Tĩnh đến cơ
sở đặc biệt quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em Phú Yên được phát triển
toàn diện.
Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường, tác động của văn hóa không
lành mạnh từ các trò chơi game, điện tử làm ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống đạo đức
của các em. Mặt khác, do nhận thức của một số bộ phận cha mẹ chưa đúng mức về
trách nhiệm BVCS & GDTE và nhiều nguyên nhân tiêu cực khác tác động, đã làm tổn
thương đến các em cả về thể chất lẫn tinh thần. Nhiều em muốn được cộng đồng, nhà
trường, người thân hay tổ chức chia sẻ, muốn được gửi gấm tâm tư, nguyện vọng,
được bảo vệ, giúp đỡ, chăm sóc, muốn được tư vấn... TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ
HỘI TRẺ EM ra đời là một sự cần thiết, là một địa chỉ tin cậy nhằm nâng cao chất
lượng và dần định hướng việc bảo vệ chăm sóc trẻ em ngày càng chuyên nghiệp, gắn
kết giữa Trẻ em – người chăm sóc trẻ - gia đình của trẻ - các nhà chuyên môn - các
nhà hảo tâm, các đơn vị bảo trợ xã hội và cộng đồng.
Trung Tâm công tác xã hội trẻ em tỉnh Phú Yên chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 01 tháng 08 năm 2010, theo quyết định số: 335/QĐ- UBND, ngày 11 tháng 3
năm 2010 do UBND tỉnh Phú Yên ban hành.
Về cơ cấu nhân sự: được UBND tỉnh Phú Yên phân bổ 04 biên chế: 01 Giám
đốc, 02 Công tác xã hội viên, 01 kế toán.
Ngoài ra, có sự trợ giúp từ nhóm công tác liên ngành Bảo vệ trẻ em cấp tỉnh
gồm có 10 người, hiện là cán bộ thuộc các ngành: Giáo dục, y tế, Tỉnh đoàn, Tòa án,
Công an, tâm lý...
Chức năng, nhiệm vụ: Trung tâm công tác xã hội trẻ em là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc sự chỉ đạo, điều hành của Sở LĐTB&XH, thực hiện các hoạt động truyền
thông, giáo dục, tư vấn, tham vấn và thực hiện các dịch vụ liên quan đến các lĩnh vực
công tác BV-CS&GDTE trên địa bàn Tỉnh Phú Yên.

II. Kết quả đạt được:


Từ khi thành lập cho đến nay, Trung tâm đã triển khai nhiều hoạt động mang lại
hiệu quả: như hoạt động tư vấn, tham vấn; truyền thông nâng cao nhận thức cho trẻ
em và người chăm sóc trẻ trong công tác bảo vệ trẻ em; hoạt động kết nối nhà hảo
tâm, các mạnh thường quân đến với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt khó
học giỏi qua chương trình “Đom đóm thắp sáng tương lai”; hoạt động kết nối tặng
quà cho trẻ em nghèo; can thiệp hỗ trợ cho các trường hợp khẩn cấp... trong đó nổi
bậc hơn cả là hoạt động tư vấn, tham vấn. Cụ thể số liệu thực tế như sau:
- Tư vấn qua điện thoại, qua mạng internet: 713 trường hợp.
- Tư vấn trực tiếp tại Văn phòng tư vấn của Trung tâm: 124 trường hợp.
- Tư vấn cá nhân tại cộng đồng: 223 trường hợp.
- Tư vấn nhóm nhỏ tại cộng đồng: 45 nhóm.
* Các loại hình tư vấn:
- Trực tiếp: Tư vấn tại văn phòng trung tâm và tại cộng đồng.
- Gián tiếp: Qua điện thoại, qua mạng internet.
2. Các phương pháp tư vấn: Tư vấn cá nhân và tư vấn nhóm nhỏ.
2.1. Tư vấn nhóm nhỏ: số lượng từ 03 đến 20 người/nhóm, Trung tâm đã tư
vấn cho các nhóm đối tượng sau:
- Nhóm học sinh cá biệt tại trường học;
- Nhóm trẻ em vi phạm pháp luật đang quản lý tại cộng đồng;
- Nhóm cha mẹ có con em vi phạm pháp luật đang quản lý tại cộng đồng;
- Nhóm cha mẹ có con trong độ tuổi dậy thì, thường xuyên xảy ra bất hòa giữa
cha mẹ và con cái.
Với hoạt động tư vấn nhóm nhỏ, tư vấn viên chỉ làm công tác hỗ trợ, điều phối
giúp nhóm tự phân tích nguyên nhân dẫn đến hành vi và giúp nhóm tự đưa ra giải
pháp giải quyết vấn đề theo hướng tích cực.
Đối với nhóm trẻ em vi phạm pháp luật và học sinh cá biệt hầu hết tập trung ở
độ tuổi từ 12 đến 16 tuổi, có nguy cơ bỏ học cao (trong nhóm trẻ em vi phạm pháp
luật có một số em đã nghỉ học), có hoàn cảnh gia đình có nhiều vấn đề đáng quan tâm:
cha mẹ ly hôn; gia đình thường xuyên có bạo hành; trẻ học bị hỏng kiến thức cơ bản,
chán học; trẻ bị xúc phạm muốn trả thù để khẳng định mình...Trong quá trình tư vấn
nhóm vì một lý do nào đó nhiều em vẫn còn ngại chia sẻ, nhưng sau khi kết thúc tư
vấn nhóm thì đã tin tưởng và chủ động gọi điện thoại đến Trung tâm nhờ tư vấn, can
thiệp. Nhiều trẻ tâm sự: trẻ rất muốn đi học nhưng vì bị hỏng kiến thức cơ bản nên
theo không kịp bạn, càng học càng thấy mình bị hỏng kiến thức và xấu hỗ trước bạn
bè, trong khi đó nhiều giáo viên không hiểu và chửi em trước mặt các bạn, em cảm
thấy giận thầy đã xúc phạm và vi phạm pháp luật, vi phạm nội quy nhà trường; nhiều
trẻ chia sẽ đang buồn việc gia đình, tình bạn khác giới và sự chưa hiểu nhau giữa giáo
viên và học sinh...; giá như, có ai đó tư vấn hỗ trợ tâm lý, giúp các em nhận thức đúng
vấn đề, có thì chắc chắn các em sẽ ngoan hơn bây giờ rất nhiều.
Đối với nhóm cha mẹ: vấn đề nổi cộm là sự bất hòa trong cách cư xử, sự chưa
hiểu nhau giữa cha mẹ và con cái, bất đồng giữa cha mẹ và con cái trong việc quản lý
thời gian của con, lo lắng nhiều khi phát hiện con có nhu cầu về bạn khác giới... Trung
tâm đã hỗ trợ cho nhóm, nâng cao nhận thức về đặc điểm tâm lý tuổi dậy thì, đồng
thời hỗ trợ nhóm phân tích các nguyên nhân và giúp nhóm tự đưa ra giải pháp giải
quyết vấn đề theo hướng tích cực đặc biệt chú trọng đến các giải pháp giải quyết các
bất hòa thường gặp giữa cha mẹ và con cái trong độ tuổi dậy thì. Sau khi kết thúc tư
vấn nhóm có khoảng 98% người tham gia buổi tư vấn cảm thấy hài lòng, tin tưởng
vào sự hỗ trợ của Trung tâm, nhiều bậc phụ huynh đã gọi điện thoại, đồng thời giới
thiệu các đối tượng có nhu cầu liên lạc qua điện thoại nhờ Trung tâm tư vấn giúp.
2.2. Tư vấn cá nhân: tư vấn hỗ trợ tâm lý cho các đối tượng bị tổn thương tâm
lý và cần sự giúp đỡ như: Trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị bạo hành, trẻ em lang
thang, khuyết tật, trẻ em bị tổn thương tâm lý cho bất đồng giữa bạn bè, cha mẹ, giáo
viên...Ngoài ra trung tâm còn hỗ trợ tâm lý cho người chăm sóc trẻ và trẻ em hiện là
con của đối tượng xâm hại (nếu trẻ bị tổn thương khi nghe tin bố, mẹ vi phạm pháp
luật). Đặc biệt việc tư vấn cá nhân đối với các trường hợp bị tổn thương tâm lý nặng,
cần can thiệp lâu dài, Trung tâm đã lập hồ sơ theo dõi trường hợp theo thông tư số
23/2010/TT-LĐTBXH ngày 16/8/2010 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về
Qui trình can thiệp và trợ giúp trẻ em bị bạo lực và bị xâm hại tình dục.
Đối với các trường hợp trẻ em bị xâm hại tình dục hiện đang đi học, Trung tâm
đã tiến hành can thiệp theo chiều sâu và rộng, can thiệp cùng lúc nhiều nhóm đối
tượng để giúp trẻ sớm ổn định tâm lý và tiếp tục đến trường, cụ thể như sau:
- Tư vấn hỗ trợ tâm lý cho gia đình và trẻ em bị xâm hại, trẻ em là con của đối
tượng xâm hại.
- Tư vấn nhóm giáo viên nhằm nâng cao kỹ năng bảo vệ trẻ em bị xâm hại tình
dục tại trường học và quán triệt học sinh trong trường không bàn tán, trêu chọc bạn.
- Tư vấn nhóm học sinh là lãnh đạo lớp nhằm nâng cao kỹ năng tự vệ và bảo vệ
bạn khi bị xâm hại.
- Tư vấn nhóm Hội đoàn thể cấp cơ sở để cùng nhau đưa ra giải pháp hỗ trợ,
giúp đỡ cho gia đình người bị hại và dập tắt dư luận từ cộng đồng.
- Truyền thông nhóm lớn tại trường học cho toàn thể học sinh trong nhà trường
nhằm nâng cao kỹ năng tự vệ và kỹ năng bảo vệ bạn bị xâm hại.
- Truyền thông nhóm lớn tại cộng đồng dân cư có trẻ đang sinh sống nhằm dập
tắt dư luận, giảm tổn thương cho gia đình và trẻ.
Trong thực tế công tác, đối với những trẻ em bị xâm hại tình dục còn đang đi
học, nếu không can thiệp kịp thời, đúng nghiệp vụ thì khả năng trẻ nghỉ học là rất cao
và tổn thương từ phía gia đình là rất lớn đặc biệt chịu tác động từ dư luận xã hội, sự
bàn tán của cộng đồng dân cư và học sinh trong trường học. Đến nay, có khoảng 90%
học sinh bị xâm hại tình dục còn đi học được trung tâm can thiệp thành công, tiếp tục
đi học và ổn định tâm lý.
Đặc biệt, trong năm 2012 Trung tâm đã phối hợp với nhóm Công tác liên ngành
bảo vệ trẻ em cấp tỉnh can thiệp thành công 02 trường hợp (01 trường hợp ở huyện
Đông Hòa, 01 trường hợp ở huyện Tuy An) trẻ bị tổn thương tâm lý do sự chưa hiểu
nhau giữa nhóm bạn, áp lực của nhà trường, mâu thuẩn giữa cha mẹ và con cái, áp lực
học tập đối với trẻ...trẻ đã tự tử nhưng bất thành và đã lập kế hoạch tiếp tục tự tử...
biết được thông tin, Trung tâm đã tiến hành can thiệp kịp thời và hiện nay 02 trẻ này
đã ổn định tâm lý và tiếp tục đến trường.
III. Khó khăn, hạn chế:
- Công tác báo cáo về đối tượng cần can thiệp quá muộn nên không ít trường
hợp can thiệp chưa thành công.
- Đối tượng trẻ bị xâm hại, cần can thiệp chủ yếu tập trung ở tuổi còn đi học,
đặc biệt là học sinh Trung học cơ sở; trong khi đó trên địa bàn tỉnh, hiện có rất ít điểm
tư vấn trường học (hiện trên địa bàn tỉnh có 20 điểm trường học thực hiện Dự án Xây
dựng phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ Bảo vệ trẻ em trên địa bàn 03 huyện: Phú
Hòa, Đồng Xuân và Thị xã Sông Cầu) nên công tác báo cáo về đối tượng trẻ em bị tổn
thương tâm lý cần hỗ trợ do cán bộ làm công tác trẻ em tại địa phương báo cáo, phần
nào có sự hạn chế tính chính xác thông tin và mức độ tổn thương của đối tượng, đặc
biệt là tổn thương về tâm lý. Thiết nghĩ chỉ có thầy cô giáo tiếp xúc thường xuyên với
học sinh mới hiểu, nắm được kết quả học tập và những biểu hiện bất thường của học
sinh gửi báo cáo nhờ can thiệp là biện pháp tốt nhất, sớm nhất để có thể can thiệp kịp
thời, hạn chế tình trạng trẻ em nghỉ học hoặc bị xâm hại tại cộng đồng.
- Trẻ em chưa thực sự chủ động tìm người chia sẽ thông tin nên nhiều trẻ đã tự
tìm cách giải quyêt vấn đề theo hướng tiêu cự (tự tử, vi phạm pháp luật...).
- Cán bộ làm công tác trẻ em tại cơ sở, giáo viên tại trường học chưa được đào
tạo chuyên môn sâu về kỹ năng tư vấn, tham vấn nên nhiều trường hợp đã có sự can
thiệp nhưng chưa thành công.
- Dịch vụ hỗ trợ của Trung tâm Công tác xã hội trẻ em chưa được nhiều người
biết đến nên nhiều trường hợp có nhu cầu cần hỗ trợ tư vấn chưa được đáp ứng.
- Biên chế được phân bổ về Trung tâm còn quá ít phần nào gây khó khăn trong
việc can thiệp kịp thời cho các trường hợp tổn thương tại cộng đồng.
IV. Đề xuất, kiến nghị:
- Cần có giải pháp hỗ trợ kịp thời giúp các em học kém, bị hỏng kiến thức lấy
lại cơ bản để hạn chế tình trạng trẻ em bỏ học (hiện nay nhiều trường có tổ chức các
lớp dạy phụ đạo nhưng một lớp có quá nhiều học sinh nên nhiều em cho rằng chưa
thực sự hiệu quả. Các em có nguyện vọng nhờ giáo viên dạy kèm riêng, số lượng học
sinh ít với kiến thức thật sự cơ bản, để các em sẳn sàng hỏi giáo viên mà không mắc
cở trước bạn bè).
- Các trường cần có sự phối hợp với Trung tâm Công tác xã hội trẻ em để can
thiệp kịp thời các trường hợp trẻ em bị tổn thương tâm lý (trong thời gian khi chưa
thành lập điểm tư vấn trường học) để công tác tư vấn, tham vấn mang lại hiệu quả cao.
- Tập huấn nâng cao kiến thức chuyên sâu về kỹ năng tư vấn, tham vấn cho cán
bộ phụ trách điểm tư vấn và giáo viên chủ nhiệm lớp và cán bộ làm công tác trẻ em tại
cơ sở.
- Cần nhân rộng mô hình tư vấn trường học;

CHIA SẺ MỘT SỐ KINH NGHIỆM


VỀ VẤN ĐỀ TƯ VẤN TÂM LÝ
N uyễ ịN ợ

tắt:
Bản thân tôi là một thành viên trong hội đồng tư vấn của Trung tâm công tác xã
hội và trẻ em, sau mấy năm tham gia công tác xã hội tôi xin mạnh dạn chia sẻ một số
kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của việc tư vấn tâm lý đáp ứng yêu cầu của đời
sống xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ về các lĩnh vực kinh
tế, xã hội và văn hóa cũng không ngừng phát triển, đời sống của người dân được từng
bước cải thiện tỷ lệ đói nghèo giảm, các tệ nạn xã hội được quản lý và giải quyết tốt
hơn. Tuy nhiên, cũng trong bối cảnh hiện nay thì sự phân hóa xã hội cũng là điều tất
yếu góp phần làm nảy sinh nhiều khó khăn thách thức đối với công tác bảo vệ, chăm
sóc giáo dục trẻ em.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi có nhiều biến đổi cả về sinh lý và tâm lý. Sự biến
đổi đó làm cho các em băn khoăn lo lắng và rất mong muốn được người khác giúp đỡ,
giải thích. Nhu cầu về hiểu biết, nhất là hiểu biết về tâm sinh lý, xã hội đang ngày
càng phát triển, các mối quan hệ mới, sự cư xử trong tình bạn, tình yêu luôn được các
em quan tâm tìm hiểu.
Trong lĩnh vực giáo dục ở nhà trường, thực tế khó có bài giảng nào, môn học
nào giải thích rõ và đầy đủ được những thắc mắc, trăn trở của các em nhất là những
vấn đề bức xúc có tính cấp bách xảy ra trong công việc hằng ngày, những vấn đề kiếm
sống, nếp sinh hoạt, cách giải quyết trước sự rủ rê của bạn bè, sự đe dọa của kẻ xấu,
nhiều vấn đề tế nhị trong gia đình. Những vấn đề bức xúc đó các em có nhu cầu được
giúp đỡ, được bảo vệ, được tậm sự mà không ảnh hưởng đến học tập và không bị la
mắng xúc phạm.
Đối với các em để chia sẻ được những vấn đề riêng tư, thầm kín, những vấn đề
tế nhị “bí mật” của mình cho một người nào đó thì chắc chắn đòi hỏi người đó phải có
uy tín, được các em tin cậy, quý mến thì các em mới có thể cởi mở bộc lộ, sự bộc lộ
vấn đề sâu sắc đến mức độ nào còn phụ thuộc vào người mà các em cần được giúp đỡ.
Năm 2010, tỉnh Phú Yên đã thành lập Trung tâm công tác xã hội trẻ em tỉnh
Phú Yên. Một trong những hoạt động chủ đạo của Trung tâm công tác xã hội trẻ em là
hoạt động tư vấn, tham vấn hỗ trợ khẩn cấp những trường hợp trẻ em bị tổn thương về
tâm lý. Hoạt động tư vấn – tham vấn của trung tâm qua nhiều kênh: điện thoại, làm
việc trực tiếp tại văn phòng, đặc biệt tư vấn – tham vấn tại cộng đồng. Với sự tác động
từ nhiều phía, can thiệp có tính chất sâu rộng đã nhanh chóng giúp đối tượng dần ổn
định về tâm lý và tự tin hơn khi giao tiếp với người xung quanh. Trung tâm công tác
xã hội trẻ em ở Phú Yên tuy mới thành lập nhưng đã triển khai rất nhiều hoạt động,
được đánh giá là thành công, mang lại lợi ích thiết thực cho nhiều đối tượng cần sự
giúp đỡ. Song thực tế chỉ khi nào các đối tượng thực sự bế tắc thì mới tìm đến trung
tâm. Vì vậy, nhiều trường hợp bị tổn thương tâm lý nặng nề, sự can thiệp không kịp
thời đã dẫn đến hậu quả đáng tiếc: bỏ nhà sống lang thang, mắc vào các tệ nạn xã hội,
thậm chí có trường hợp tự tử …
Bản thân tôi là một thành viên trong hội đồng tư vấn của Trung tâm công tác xã
hội và trẻ em, sau mấy năm tham gia công tác xã hội tôi xin chia sẻ một số kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của việc tư vấn tâm lý đáp ứng yêu cầu của đời sống
xã hội:
1. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp của người tư vấn và người được tư vấn.
Trong giai đoạn hiện nay, mọi gia đình, mọi người đều phải tập trung lo toan kinh tề
nhằm đảm bảo cuộc sống cho các thành viên. Nhiều áp lực về đời sống kinh tế, xã hội
đã khiến các bậc cha mẹ có quá ít thời gian để chia sẻ hay chăm sóc con cái của mình.
Khi trẻ đến trường cha mẹ khoán trắng cho thầy, cô. Vì có quá nhiều áp lực tâm lý,
tình cảm, nhiều em đã có phản ứng gay gắt với thầy cô, bạn bè và đôi khi với cả chính
mình. Do các em khó điều chỉnh trước nhiều bức xúc không có người lắng nghe, các
em thiếu sự thông cảm thiếu sự bao dung của người khác. Vì vậy, xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp sẽ quy định thành công của quá trình tư vấn. Người tư vấn cần chủ động
tạo ra mối quan hệ gần gũi để đối tượng có cơ hội nói lên những cảm xúc, những khó
khăn của bản thân, những trở ngại trong mối quan hệ với người khác, nói những điều
thầm kín mà không dễ dàng chia sẻ với ai, tạo cho người được tư vấn có cảm giác an
toàn, tin tưởng nơi người tư vấn.
Thực tế cho thấy nhiều phụ huynh có nhu cầu tư vấn nhưng không dám gặp cán
bộ tư vấn. Họ có nhiều tâm trạng: có thể sợ bị chê cười, kinh bỉ, có thể sợ bị lên án và
chỉ chích, họ có thể cảm thấy mình là người đi nhận sự ban ơn. Họ có thể giữ khoảng
cách và dè chừng, chính những tâm trạng này làm cho người được tư vấn và người tư
vấn cách xa nhau. Khoảng cách này ảnh hưởng đến kết quả quá trình tư vấn. Vì vậy,
người tư vấn cần chủ động tạo ra mối quan hệ gần gũi với cha mẹ học sinh, giúp họ
hiểu con, hiểu rõ hơn về những vấn đề họ, con cái đang gặp phải, tạo điều kiện cha mẹ
giúp đỡ con cái, cảm thông, chia sẻ với con, điều chỉnh bản thân xây dựng mối quan
hệ phù hợp với con.
2. Phải biết lắng nghe, chia sẻ cảm xúc, tâm tư, ước vọng của người cần tư vấn.
Lắng nghe để thấu hiểu được những thông điệp ẩn dấu bên trong mà người đến tư vấn
muốn gửi gắm: họ đang muốn gì, cần gì, đâu là điều cần giải quyết.
3. Cần giúp đối tượng nhận thức và hành vi đúng với những vấn đề mà họ quan
tâm. Điều quan trọng là người tư vấn không nên đưa các lời giáo huấn đối với người
cần tư vấn như một sự áp đặt làm cho họ cảm thấy mình bị lên lớp, phán xét. Người tư
vấn cần đưa ra những giải pháp hữu hiệu giúp người cần tư vấn có được quyết định
sáng suốt, lựa chọn những hướng giải quyết có hiệu quả nhất về các vấn đề mà bản
thân họ đang quan tâm. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh các em đang ở lứa tuổi vị
thành niên có những suy nghĩ bồng bột, thiếu suy xét lại dễ bị những tác động ảnh
hưởng tới bạn bè, các em phải chịu nhiều áp lực từ các mối quan hệ xã hội. Tư vấn
không phải chỉ là đưa ra những lời khuyên, đưa ra những hướng giải quyết các vấn đề
cho các em mà quan trọng người tư vấn có khả năng nhìn thấy các thế mạnh, ưu điểm
của học sinh biết hướng dẫn các em sử dụng thế mạnh đó để các em vượt qua các khó
khăn đang phải đối mặt. Cùng một vấn đề tư vấn ở một đối tượng sẽ có nhiều hướng
giải quyết nhưng chọn cách nào cho phù hợp với hoàn cảnh và mong muốn cho học
sinh phải do chính các em quyết định có như vậy các em mới hình thành cho bản thân
các kỹ năng giải quyết vấn đề và biết chịu trách nhiệm với quyết định của mình, qua
đó các em sẽ trưởng thành hơn trong cuộc sống.
4. Cần có sự nhạy cảm tinh tế và linh hoạt trong ứng xử với đối tượng tư vấn,
trong tư vấn cần phải biết lựa chọn và sử dụng ngôn từ dễ hiểu, lời đối thoại tương tác
phù hợp, phải có thái độ tôn trọng các em, sự tôn trọng đối tượng sẽ tạo dựng được
niềm tin và sự cởi mở trong quá trình tư vấn. Phải đặt vị trí của mình vào vị trí của đối
tượng mà xem xét, chỉ khi đó người tư vấn mới có thể hiểu được suy nghĩ và hành
động của đối tượng để cảm thông và tôn trọng họ. Phải biết giữ thể diện cho đối tượng
không nên tỏ vẻ coi thường, phán xét, lên án hành vi nào đó của đối tượng, không làm
đối tượng bẽ mặt trước người khác dù họ sai, có lỗi. Người tư vấn cần tạo cho đối
tượng tư vấn một niềm tin vào khả năng, vào sự cố gắng vào chính bản thân họ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về việc tư vấn tâm lý muốn chia
sẻ cùng các bạn đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiêu quả của công tác tư vấn tâm
lý trong mọi lĩnh vực cuộc sống, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.

Thực trạng công tác tư vấn


Trên cả nước chỉ có một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Huế là có các trung tâm tư vấn tâm lý, một số trường học đã thành lập phòng
tư vấn tâm lý học đường. Theo báo cáo của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ
Chí Minh năm 5000 trường tiểu học và trung học cơ sở có 51 giáo viên tư vấn
chuyên trách ,157 giáo viên kiêm nhiệm; 105 trường trung học phổ thông có 53 giáo
viên tư vấn chuyên trách, 141 giáo viên kiêm nhiệm Hoạt động của các trung tâm tư
vấn đã đáp ứng được phần nào đó cho những người có nhu cầu cần tư vấn.
Phú Yên là một trong những tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, diện tích tự
nhiên 405,5 nghìn ha, dân số khoảng 861.993 người. Kinh tế Phú Yên còn nghèo,
trình độ dân trí một bộ phận không nhỏ còn thấp và không đồng đều giữa các vùng.
Người dân khi vướng mắc về tâm lý ít khi nghĩ đến việc tìm đến các nhà chuyên môn
để giải quyết. Giáo viên khi gặp học sinh khó giáo dục chỉ nghĩ nhiều đến biện pháp
giáo dục, ít nghĩ đến biện pháp tâm lý, những trường hợp mắc những rối loạn tâm lý
nặng thường được chỉ định đến gặp các bác sĩ, ít chủ động tìm gặp đến dịch vụ tâm lý,
có chăng chỉ là tâm sự trên điện thoại.
Năm 2009 Ủy ban nhân dân Tỉnh Phú Yên đã duyệt đề án thành lập Trung tâm
Công tác xã hội trẻ em. Một trong những hoạt động chủ đạo của Trung tâm Công tác
xã hội trẻ em là hoạt động tư vấn, tham vấn hỗ trợ khẩn cấp những trường hợp trẻ em
bị tổn hại, tổn thương về tâm lý. Năm 2010 Phú Yên có 322.903 trẻ em dưới 16 tuổi,
chiếm tỉ lệ 32,4 % dân số trong đó có 9940 em có hoàn cảnh đặc biệt (bao gồm trẻ em
bị bỏ rơi, trẻ em mồ côi, trẻ em bị sâm hại tình dục, trẻ em vi phạm pháp luật…) cần
được tư vấn. Theo báo cáo kết quả hoạt động trong hai năm 2010 và 2011 của Trung
tâm về hoạt động tư vấn – tham vấn, trung tâm đã tư vấn gián tiếp cho 500 trường hợp
và tư vấn trực tiếp cho 150 trường hợp cần có sự hỗ trợ giúp đỡ với những vấn đề
chính:
- Giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong tình bạn – tình yêu.
- Những băn khoăn, vướng mắc xung quanh vấn đề ứng xử của cha mẹ, thầy cô,
người thân trong gia đình, mong muốn được gần gũi, chia sẻ và làm thế nào để cha mẹ
hiểu con cái hơn.
- Trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị nghiện game, trẻ em bị bạo hành gia đình, trẻ
em vi phạm pháp luật, …
Hoạt động tư vấn – tham vấn của trung tâm qua nhiều kênh: trong năm 2011 có
205 trường hợp qua điện thoại với 67% là người chăm sóc trẻ và 33% là trẻ em, làm
việc trực tiếp tại văn phòng, đặc biệt tư vấn – tham vấn tại cộng đồng 43 trường hợp,
số lượng người truy cập vào Website: vitrethophuyen.com ngày càng nhiều, có 44.820
lượt người truy cập. Với sự tác động từ nhiều phía, can thiệp có tính chất sâu rộng đã
nhanh chóng giúp đối tượng dần ổn định về tâm lý và tự tin hơn khi giao tiếp với mọi
người xung quanh. Trung tâm Công tác xã hội trẻ em ở Phú Yên tuy mới thành lập
nhưng đã triển khai rất nhiều hoạt động, được đánh giá là thành công, mang lại lợi ích
thiết thực cho nhiều đối tượng cần sự giúp đỡ.
Ở Phú Yên chỉ có khoảng 20 trường phổ thông có phòng tư vấn tâm lý học đường cho
học sinh. Vì vậy, khi học sinh có nhu cầu giải quyết những vướng mắc, những vấn đề
riêng tư của các em thì lại thiếu người chia sẻ, giúp đỡ để các em vượt qua. Mô hình
tư vấn học đường đã được nhiều tỉnh thành trong cả nước thành lập, hoạt động và
bước đầu đã để lại những kinh nghiệm nhất định. So với cả nước, Tỉnh Phú Yên hoạt
động tư vấn học đường mới chỉ là ‘‘Vạn sự khởi đầu nan’’, chỉ là những mô hình dự
kiến, những hoạt động với muôn vàn khó khăn.

You might also like