Professional Documents
Culture Documents
Cụ thể:
Nữ: Nam:
• Ngực phát triển. • Cơ quan sinh dục phát triển.
• Lông phát triển rõ rệt ở nhiều bộ phận cơ • Lông ( nách, chân...), râu phát triển.
thể: Bộ phận sinh dục, nách, chân, tay. • Hiện tượng “mộng tinh”, “giấc mơ ướt”.
• Phát triển chiều cao nhanh từ 10 – 15 tuổi. • Đạt được sự tối đa về chiều cao.
• Có kinh nguyệt. • Giọng nói: vỡ giọng
Sự phát triển của hệ tim mạch cũng không cân đối, thể tích tim tăng nhanh, tim to
lơn, hoạt động mạnh hơn, mạnh máu lại phát triển chậm hơn.. Do vậy: lóng
ngóng,vụng về (Đứng vỡ nồi,,,)
Hoạt động thần kinh cấp cao của tuổi thiếu niên cũng có những đặc điểm riêng biệt
o Qúa trình hưng phấn chiếm ưu thế, sự ức chế phân biệt bị kém đi, hưng phấn có
tính lan toả hơn.
Do vậy ở tuổi thiếu niên các em không làm chủ được cảm xúc của mình. Các em
dễ bực tức, cáu kỉnh, mất bình tĩnh...
o Ngôn ngữ của trẻ thay đổi. Nói chậm hơn, ngập ngừng rất ngại nói câu dài, Do
vậy hay nói “cộc lốc”, “nhát gừng”
- Hiên tượng dậy thì
Trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển cơ thể
của tuổi thiếu niên .Đây là hiện tượng tự nhiên ,diễn ra theo quy luật sinh học và chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố tự nhiên và xã hội , nhưng đối với trẻ đây là lần đầu tiên
xuất hiện hiện tượng này lại là vấn đề cần có sự chuẩn bị ,hướng dẫn, nhất là các em
gái.
Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động, tuổi dậy thì của HS gái vào khoảng 12 – 14 tuổi,
HS nam khoảng 14 – 15 tuổi
Sự dậy thì và những chuyến biến trong cơ thể có ý nghĩa lớn đối với sự nảy sinh
những cấu tạo tâm lý mới, như:
+ Sự nảy sinh “Cảm giác người lớn”
+ Sự phát dục đem lại nhiều mới mẻ, ngỡ ngàng trong đời sống (thay đổi không theo ý
muốn như mụn chứng cá đúng lúc mong muốn có khuôn mặt sang sủa nhất, có thay
đổi làm các em ngượng ngùng như mộng tinh hay kinh nguyệt; có thay đổi cần phải
che dấu như tự khám phá cơ thể, thích quan tâm đến người khác giới), xuất hiện
những cảm giác, rung động tình cảm mới lạ.
1.3. Sự thay đổi điều kiện sống
- Trong gia đình vị trí của các em có sự thay đổi, được xem như là một thành viên
tích cực của gia đình, được tham gia lao động, được bàn bạc, trao đổi về một số
công việc gia đình.
- Ở nhà trường và xã hội cũng có nhiều thay đổi, hoạt động học tập và hoạt động xã
hội có thái độ tích cực và độc lập hơn, nhu cầu giao tiếp phát triển, sự hiểu biết xã
hội được mở rộng..
1.4 Những bất đồng trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn
- Ở tuổi thiếu niên xuất hiện cảm giác “mình là người lớn”, các em có cảm giác sẵn
sàng làm người lớn.
- Cảm giác là người lớn thể hiện các em quan tâm đến hình thức, cử chỉ, phẩm chất
tâm lý, trong học tập, các em muốn độc lập lĩnh hội tri thức và bộc lộ quan điểm,
lập trường riêng, đòi hỏi đối sử bình đẳng như người lớn (hạn chế quyền hạn của
người lớn, mở rộng quyền hạn của mình, tuy nhiên không phải người lớn nào cúng
dễ dàng chấp nhận.
- Nguyện vọng được tin tưởng và độc lập, bình đẳng với người lớn thúc đẩy các em
tích cực hoạt động, chấp nhận những yêu cầu về đạo đức, hành vi của người lớn.
Mặt khác, nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống lại những yêu cầu của
người lớn, dễ chạm tự ái khi người lớn chăm sóc tỉ mỉ, ít chú ý đến ý kiến riêng
của các em.
- Kỳ vọng và yêu cầu cao của cha mẹ gây áp lực .làm các em lo lắng, sống khép kín,
có ý định tự sát, bỏ nhà ra đi
- Trong tình cảm của thiếu niên đôi khi tồn tại những mâu thuẫn. Thái độ
ứng xử không nhất quán, không thể lường trước được
Ví dụ: Đối với em nhỏ này thì yêu thương quý mến, nhưng với em nhỏ khác thì doạ
nạt, trêu chọc, lúc muốn mẹ âu yếm vỗ về, lúc lại xấu hổ, lúc yêu thương kính trọng
cha mẹ lúc lại cho lỗi thời, chẳng hiểu gì.. Với người già khi thì tận tình giúp đỡ,
nhưng có lúc lại trêu chọc, làm trò...
***Nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa thiếu niên với người lớn:
Người lớn không thay đổi thái độ đối với thiếu niên vì cho rằng:
+ Thiếu niên còn là học sinh nên phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế.
+ Cha mẹ vẫn giữ vai trò giáo dục đối với các em.
+ Bản thân các em còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, dáng dấp, hành vi, trong
tính cách...
Người lớn nhận thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không
hợp lý.
Một số cha mẹ mặc dù rất tôn trọng và tạo điều kiện độc lập cho thiếu niên nhưng
không thể từ bỏ thói quen chăm sóc, điều khiển tỉ mỉ sinh hoạt của các em.
Những hành vi tương ứng nảy sinh ở trẻ: xa lánh người lớn, không tin tưởng người
lớn, cho rằng người lớn không hiểu các em và không chịu hiểu các em, khó chịu
một cách có ý thức với những yêu cầu, đánh giá, nhận xét của người lớn. Tác động
giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm sút.
***Kết luận :
Phải hiểu được những đặc điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi thiếu niên, nhất là
những đặc điểm trong đời sống tình cảm, giao tiếp của các em với người lớn.
Người lớn phải xây dựng được mối quan hệ với thiếu niên trên cơ sở tôn trọng và
bình đẳng, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau.
Sự hợp tác giữa thiếu niên với người lớn cho phép người lớn đặt các em vào vị trí
mới
Vị trí của người giúp việc và người bạn trong những công việc khác nhau. Đồng
thời, bản thân người lớn phải thực sự gương mẫu và là người bạn tin cậy của các
em nhưng cũng cần thấy thiếu niên vẫn cần sự hướng dẫn thường xuyên của người
lớn.
1.5. Giao tiếp của thiếu niên với bạn
Giao tiếp của thiếu niên với bạn là hoạt động chủ đạo ở lúa tuổi này.
Nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển mạnh là một đặc điểm quan trọng ở lứa tuổi
thiếu niên. Phạm vi ban đầu rộng nhưng chưa bền vững, dần dần thiếu niên gắn bó
trong một phạm vi hẹp hơn - nhóm bạn. Quan hệ với bạn của thiếu niên phong phú và
phức tạp hơn, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học:
+ Quan hệ có sự lựa chọn mức độ gần gũi, thân tình.
+ Thiếu niên coi bạn là quan hệ riêng của cá nhân và có quyền độc lập trong quan hệ
với bạn, không muốn người lớn can thiệp vào chuyện bạn bè của mình.
+ Nhu cầu giao tiếp với bạn lớn đến nỗi vượt lên trên cả hoạt động học tập, sao nhãng
giao tiếp với người thân.(thường bị bạn klichs động (14/12/17 hs trường nguyễn Hữu
Thọ trèo cột điệnbị bỏng 42%, thường nghe lời bạn hơn cha mẹ , thầy cô nên khó
quản lý)
- Nội dung giao tiếp: những nhận xét, băn khoăn về dáng vẻ bên ngoài, tình cảm ý
nghĩ tâm tư của bản thân, quan hệ của mình với người khác và cả quan hệ của mọi
người với nhau.Giao tiếp với bạn có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển nhân cách của
tuổi thiếu niên.
Có thể nảy sinh các vấn đề như : hiểu nhầm,bị tẩy chay,bị bạo lực học đường
như bị ức hiếp16,7 % (bắt chép bài ,làm bài cho bạn) ,bị hù dọa 35.4% (dọa bị bo xì,
bị đánh), không nhận được sự trợ giúp cuả bạn bè khi gặp khó khăn10,2%
Cách giải quyết: 46,5% buồn; 3% đánh bạn; 23,25% chọn cách giãi bày, nói lại
Người lớn cần thừa nhận, tôn trọng và hướng dẫn, kiểm tra giao tiếp của thiếu
niên một cách tế nhị. Những vướng mắc trong giao tiếp bạn bè không được tháo gỡ
kịp thời sẽ gây ra rối loạn tâm lý như căng thẳng, buồn phiền, có hành vi chống đối,
hung tính, tự sát.
- Trong giao tiếp bạn bè xuất hiện sắc thái mới với bạn khác giới - những xúc
cảm giới tính.
- Sự phát dục đã kích thích thiếu niên quan tâm đến người khác giới, làm xuất hiện
những cảm xúc giới tính, mong các bạn khác giới chú ý đến mình và ưa thích
mình. Tự ý thức phát triển mạnh mẽ khiến thiếu niên nhanh chóng nhận thức được
đặc điểm giới tính của mình. Thiếu niên bắt đầu biểu hiện quan tâm lẫn nhau, ưa
thích nhau, các em quan tâm đến vẻ ngoài của mình:
+ Đối với nam giới, lúc đầu còn có tính chất tản mạn, biểu hiện bằng phương thức
đặc thù của trẻ con như xô đẩy, trêu chọc các bạn nữ...
+ Đối với nữ giới tuy không hài lòng về những hành vi của các em nam, nhưng các
em ý thức được động cơ của những hành vi đó nên không bực tức, giận dỗi.
+ Về sau quan hệ này được thay đổi, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút nhát, e
thẹn,... thậm chí được che giấu bằng thái độ thờ ơ, giả tạo, ‘‘khinh bỉ’’ đối với người
khác giới. Xuất hiện các nhóm hỗn hợp (nam và nữ), hứng thú với người bạn học khác
giới có ý nghĩa không nhỏ đối với sự phát triển nhân cách của các em. Đây là một
động lực tự hoàn thiện bản thân của từng thiếu niên.
- Quan hệ với bạn khác giới cũng có thể dẫn đến việc đua đòi, chơi bời, đầu óc bị
phân tán, kết quả học tập và công tác bị giảm sút.
Đây là tình cảm trong sáng, tuy vậy cũng có em bị cuốn hút vào con đường “yêu
đương”.
Tóm lại: Những biểu hiện đặc trưng nếu khủng hoảng độ tuổi không được
giải quyết
• Trở nên lầm lỳ ít nói, xa lánh người lớn.
• Thái độ bất cần, tạo sự “khác biệt”
• Có những hành vi lệch chuẩn, gây hấn, vi phạm pháp luật…
• Bế tắc… và có thể dẫn đến tự tử
Kết luận :
- Người làm công tác giáo dục cần can thiệp tế nhị, khéo léo, không nên can thiệp
“thô bạo” đối với các em. dùng các biện pháp bạo lực, áp đặt đối với các em.
- Nên tổ chức hoạt động tập thể phong phú, hấp dẫn để giúp trẻ hiểu biết lẫn nhau
vô tư, trong sáng.
2. Hoạt động học tập và sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh THCS
2.1. Hoạt động học tập trong trường THCS
- Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Nhưng được xây dựng lại một cách cơ
bản.
- Động cơ học tập rất phong phú đa dạng nhưng chưa bền.
- Thái độ học tập rất khác nhau: Từ thái độ rất tích cực, có trách nhiệm đến lười
biếng thơ ơ, thiếu trách nhiệm.
- Phương thức lĩnh hội khái niệm từ chỗ có kỹ năng học tập độc lập , có nhiều cách
học đến chưa có kỹ năng học tập, chỉ biết học thuộc lòng từng bài, từng câu, từng
chữ.
- Hứng thú học tập: từ hứng thú biểu hiện rõ rệt với một lĩnh vực tri thức nào đó đến
hoàn toàn không có hứng thú...
Vì vậy, tài liệu học phải súc tích, gắn với cuộc sống của hs, tạo cho học sinh
nhu cầu tìm hiểu tài liệu và giúp các em có cách học phù hợp.
2.2 Phát triển trí tuệ của học sinh THCS;
Sự phát triển trí tuệ của tuổi thiếu niên thể hiện rất rõ sự chuyển tiếp từ tính chất
không chủ định sang tính chất có chủ định. Tính chất không chủ định không giảm đi,
tính chất chủ định phát triển mạnh. Tính chất chuyển tiếp được thể hiện ở tất cả các
quá trình nhận thức.
a) Tri giác
Tri giác của trẻ có trình tự, có kế hoạch hơn, khi tri giác SV- HT các em đã có
khả năng phân tích,tổng hợp.
b) Trí nhớ:
Trí nhớ của các em dần dần mang tính chất của một quá trình được điều khiển,
điều chỉnh và có tổ chức. Trong trí nhớ các em thiết lập được mối liện hệ phức tạp
hơn( lien tưởng lien môn), gắn tài liệu với tài liệu cũ, có khả năng ghi nhớ ý nghĩa, ghi
nhớ lâu hơn, chính xác hơn. Mặt khác ghi nhớ còn tính mâu thuẫn, tuy có khả năng
ghi nhớ có ý nghĩa nhưng các em vận tuỳ tiện trong ghi nhớ, khi gặp khó khăn lại từ
bỏ việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa hiểu đúng về ghi nhớ máy móc.
Giáo viên cần chú ý giúp các em kết hợp cả hai cách ghi nhớ; Giải thích cho
các em rõ sự cẩn thiết của sự ghi nhớ chính xác những định nghĩa , những quy luật.(
Thiếu một từ nào đó thì ý nghĩa của nó không còn chính xác nữa); Dạy phương pháp
ghi nhớ chính xác biết tách ý để làm điểm tựa, biết lập dàn bài, biết ôn tập..Dạy cách
trình bày chính xác nội dung bài theo cách diễn đạt của mình
c) Chú ý:
Chú ý có chủ định phát triển rõ rệt, mặt khác những những ấn tượng và rung
động mạnh mẽ, phong phú khiến cho chú ý không bền vững.
Chú ý của các em có tính lựa chọn, nhưng sự lựa chọn lại phụ thuộc vào tính chất
của đối tượng và hứng thú đối với đối tượng ấy.
Có khả năng tập trung vào các vấn đề cần thiết và hứng tú, khối lượng chú ý, khả
năng di chuyển chú ý tăng rõ rệt.
Cần tổ chức giờ học có nội dung đòi hỏi học sinh hoạt động tích cực.
d) Tư duy
- Tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ, tư duy hình ảnh cụ thể vẫn tiếp tục phát
triển và giữ vai trò quan trọng.
- Mức độ và chất lượng tư duy trừu tượng không được hình thành như nhau ở
mỗi thiếu niên.
- Tính phê phán của tư duy cũng được phát triển, biết lập kuận giải quyết vấn đề
một cách có căn cứ. Đôi khi tư duy của các em còn nghi ngờ, tranh cãi không
có căn cứ, bứơng bỉnh.
KL: Từ những đặc điểm trên, người lớn cần chú ý: Phát triển tư duy trừu tượng cho
thiếu niên để làm cơ sở cho việc lĩnh hội các khái niệm khoa học trong học tập.
3. Tư vấn học đường cho học sinh THCS
3.1.Tư vấn học đường là một hoạt động khá mới mẽ đối với nền giáo dục Việt
Nam. Do xuất hầu hết đều hiểu đơn giản :
Tư vấn học đường = tư vấn tâm lý + hướng nghiệp
Tư vấn theo từ điển Từ Hán Việt NXB KHXH 2007, trang 507 có nghia là: “Góp
ý kiến về những vấn đề hỏi đến nhưng không có quyền quyết định”
Tư vấn cung cấp thông tin, kiến thức chỉ ra điều hay lẽ phải, những hiện tượng
khoa học, đạo lý, luật pháp, thông tin cần thiết về một vấn đề mà người được tư
vấn chưa rõ.
Sự khác nhau giữa tham vấn tâm lý và tư vấn tâm lý?
Tư vấn và tham vấn có những nét khác biệt khá cơ bản.
Tham vấn Tư vấn
Là cuộc nới chuyện mang tính cá nhân Tư vấn là cuộc nói chuyện giữa một
giữa NTV với một hoặc vài người đang “chuyên gia” về một lĩnh vực nào đó
cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn với một hoặc nhiều người đang cần lời
hoặc thách thức trong cuộc sống khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực ấy (Tư
vấn pháp luật, tư vấn tài chính…).
Tham vấn là một tiến trình gồm nhiều Quá trình tư vấn có thể diễn ra trong
cuộc nói chuyện nhằm giúp thân chủ sáng một buổi nói chuyện. Người tư vấn giúp
tỏ vấn đề, xác định khả năng và thế mạnh thân chủ bằng cách đưa ra những lời
của bản thân, từ đó xem xét các giải pháp khuyên về mặt chuyên môn, cho TC
khả thi nhằm đưa ra lựa chọn tối ưu nhất biết những quyết định họ cho là phù
hợp nhất đối với tình huống của TC
Ngoài kiến thức chuyên môn về tâm lý, Nhà tư vấn có kiến thức sâu trong một
NTV cần có kiến thức cơ bản trong nhiều lĩnh vực nhất định, và có khả năng
lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, pháp luật, sức truyền đạt kiến thức đó đến TC của
khỏe…Kỹ năng cơ bản của nhà tham vấn mình.
là lắng nghe, khai thác vấn đề, cảm xúc
của TC.
N - ?
Nhà tâm lý học đường là một nhà sư phạm được cấp bằng đào tạo về tư vấn
học đường với những kỹ năng chuyên biệt để hỗ trợ việc học, nhu cầu phát triển cá
nhân, xã hội và nghề nghiệp của học sinh.
Ở các nước phát triển, nhà tâm lý học đường (School Psychologist) là thành
phần không thể thiếu trong hệ thống trường học. Nhiệm vụ chính của họ là giúp học
sinh thành công trong học tập, xã hội và đời sống tình cảm. Ngoài ra họ còn phối hợp
với giáo viên, phụ huynh, các nhà chuyên môn khác nhằm tạo môi trường học tập an
toàn, lành mạnh cho tất cả học sinh.
Tư vấn tâm lý trong trường học đòi hỏi nhà trường phải có người thầy
giỏi về tâm lý giáo dục, luôn sẵn sàng và giỏi kỹ năng lắng nghe, chia sẻ, làm cho
nhà trường trở thành thân thiện, trở thành nơi học sinh cảm thấy hứng thú trong học
tập, trong quan hệ thầy trò, bạn bè, hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học. Dạng tư
vấn thường được sử dụng trong trường học:
- Tư vấn tâm lý: là quá trình nhà tư vấn vận dụng những tri thức, phương pháp và
kỹ thuật tâm lý học nhằm hỗ trợ giúp đối tượng được tư vấn nhận ra chính mình
để thay đổi hành vi, thái độ, tự tái lập lại thế cân bằng tâm lý của bản thân ở trình
độ cao hơn.
- Tư vấn GD: là quá trình tư vấn mà nhà tư vấn sử dụng các phương pháp giáo dục
nhằm can thiệp, phòng ngừa, hỗ trợ HS trong quá trình phát triển
- Tư vấn hướng nghiệp Chủ yếu cung cấp thông tin, giúp người trẻ tuổi định
hướng tương lai, giúp người trưởng thành chọn lựa, chuyển đổi nghề cho phù
hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội. Một nhu cầu cần được đáp ứng khẩn thiết
trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa của thế giới. -Tập trung vào các vấn đề hướng
nghiệp, chọn nghề
3.2. Vai trò của tư vấn học đường
Hiện nay, ở nước ta chưa có chương trình đào tạo chuyên ngành về tâm lý học
đường, đã tạo ra một lỗ hổng trong lĩnh vực tổng quan và giáo dục chuyên sâu.
Trong môi trường học đường, tư vấn học đường sử dụng những kiến thức tâm lý học
và các kỹ năng tư vấn nhằm giúp trường học giải quyết những vấn đề sau:
- Hỗ trợ học sinh giải quyết những khó khăn trong việc phát triển nhân cách, năng
lực và kỹ năng học tập, định hướng nghề nghiệp, lối sống lành mạnh, các mối
quan hệ liên nhân cách và những rối loạn cảm xúc và nhân cách.
- Hỗ trợ phụ huynh trong việc quan tâm, chăm sóc và giáo dục con cái, phát triển
mối quan hệ với nhà trường một cách tích cực, phát hiện những khó khăn của con
cái và phối hợp với nhà trường trong việc giáo dục.
- Hỗ trợ giáo viên và những thành viên khác trong nhà trường trong việc giao tiếp
và tiếp cận với học sinh, kịp thời phát hiện những nhu cầu và những vấn đề cần sự
can thiệp của nhân viên tư vấn.
- Hỗ trợ nhà trường trong việc hoạch định các chiến lược giáo dục toàn diện cho
học sinh, cách thức phối hợp với phụ huynh trong việc giáo dục, cách thức tổ
chức các hoạt động nhằm phát triển và ngăn ngừa các hành vi nguy cơ trong
trường học của học sinh.
- Phối hợp với các tổ chức liên quan trong việc hỗ trợ và can thiệp trong trường
hợp học sinh có những vấn đề liên quan đến những hoạt động bên ngoài như các
vấn đề pháp luật, các vấn đề về bệnh tâm lý… Lưu giữ hồ sơ những học sinh có
những vấn đề về tâm lý để có thể sử dụng trong những trường hợp cần thiết sau
này.
- Tư vấn học đường sẽ giúp các bậc cha mẹ hiểu và có những giải pháp phù hợp
với những vấn đề tâm lý của con mình.
3.3. Mục tiêu tư vấn học đường
Mục đích chung của tư vấn học đường là giúp những học sinh có những vấn đề
nan giải tìm được giải pháp cho vấn đề và tự học sinh có thể tự tin thực hiện giải
pháp đó của mình, và giúp an tâm học tập. Có được những trạng thái tâm lý tốt,
tránh được những suy nghĩ cực đoan, những cảm xúc tiêu cực và những hành vi
nông nổi dẫn tới những hậu quả nặng nề, đáng tiếc có thể xảy ra cho học sinh do
học sinh không có được sự tư vấn cần thiết, kịp thời và đúng đắn của một
chuyên viên tư vấn học đường
Mục tiêu:
- Biết được đối tượng của mình đang có những ý nghĩ và cảm xúc tiêu cực như thế
nào, đang lâm vào một hoàn cảnh có vấn đề nan giải và phải giúp đối tượng thay
đổi cách suy nghĩ cũng như giảm bớt những cảm xúc tiêu cực đó càng sớm càng
tốt.
- Giúp đối tượng cảm thấy thoải mái và tin cậy khi trò chuyện với chuyên viên về
vấn đề của mình
- Giúp đối tượng hiểu biết nhiều hơn và đúng hơn về bản thân và hoàn cảnh của
mình, nhận định và đánh giá đúng thực chất và mức độ của vấn đề nan giải đang
tồn tại và chấp nhận nhìn thẳng vào vấn đề để giải quyết nó.
3.4. Nội dung tư vấn học đường;
Theo công văn số 9971/BGD7ĐT-HSSV về việc triển khai công tác tư vấn cho
HSSV
Nội dung tư vấn học đường tập trung vào các vấn đề hướng nghiệp, chọn nghề
và thông tin tuyển sinh, tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới, quan hệ
giao tiếp ứng xử với gia đình (cha mẹ cãi nhau, ly thân, ly hôn, đối xử không công
bằng) giáo viên, bạn bè ( chiếm số lượng nhiều nhất), phương pháp học tập, tham gia
các hoạt động xã hội ... và các vấn đề khác. Như vậy nội dung tư vấn học đường rất
phong phú, đa dạng, nhưng cũng rất phức tạp, nhạy cảm, thiết thực gắn liền với đời
sống tâm lý của học sinh.
Tư vấn học đường còn chia theo cấp học: Tư vấn học đường bậc tiểu học;
Tư vấn học đường bậc trung học cơ sở ; Tư vấn học đường bậc phổ thông trung học
(cao đẳng đại học)
Tư vấn học đường bậc tiểu học
Tư vấn học đường bậc tiểu học cung cấp cho tất cả học sinh trong trường dưới
hình thức tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm học sinh, tư vấn gia đình những thông tin, tư
liệu và giúp đỡ, lắng nghe từ chuyện học tập, đến định hướng tương lai. Trong tư vấn
tiểu học, tư vấn viên quan sát trẻ trong lớp học, trong vui chơi, hợp đồng trao đổi với
thầy giáo, phụ huynh học sinh cùng đánh giá về những sức khỏe, sự thành tựu,
những khó khăn có vấn đề, cùng những nhu cầu tối thiết riêng biệt của bé, tham gia
với nhà trường đảm bảo khả năng học tập của bé là phù hợp về mặt chương trình và
nhu cầu phát triển; luôn tiếp xúc cung cấp thông tin về tình hình thực tế được đánh
giá một cách khoa học và hỗ trợ xây dựng kế hoạch phát triển, phát huy những ưu
điểm, những nguồn lực tiềm ẩn của học sinh. Điều này rất quan trọng khi trẻ chuyển
từ tiền học đường vào trường tiểu học và từ trường tiểu học sang trường trung học cơ
sở.
Tư vấn học đường bậc trung học cơ sở
Tư vấn học đường cấp trung học cơ sở cũng như tư vấn học đường cấp tiểu học,
nhưng nhiều chuyên đề được nhấn mạnh khai thác các nguồn lực tự thân của học
sinh, của gia đình và xã hội, giúp học sinh học tập, giải quyết vấn đề chọn ban, phân
luồng học sinh định hướng chọn nghề, chọn trường phổ thông trung học, trường
nghề, trường trung học nghề, trung học chuyên nghiệp, nhắm tới trường cao đẳng,
đại học. Nói chung tư vấn học đường ở cấp học này chú trọng tư vấn học tập, tư vấn
tình cảm và nhất là tư vấn hướng nghiệp (bao gồm tư vấn tâm lý và hướng dẫn thông
tin hướng nghiệp). Giúp học sinh định hướng vào loại hình trường lớp tiếp theo sau
trung học cơ sở hay định hướng nghề nghiệp liên quan đến các tiêu chí yêu cầu đầu
vào của trường nghề, đến khả năng tài chính, kể cả thông tin tìm việc, thông tin về
các chương trình học việc tại các công ty, xí nghiệp, cơ quan có nhu cầu. Giúp học
sinh hiểu biết các vấn đề kinh tế xã hội, những vấn đề liên quan đến hành vi, nhân
cách cá nhân để dễ dàng tìm việc; Chú trọng các vấn đề tư vấn bảo vệ và phát triển
học sinh, động viên và đẩy mạnh sự trưởng thành của học sinh về mặt nhân cách,
quan hệ xã hội, và tinh thần, khả năng học tập, giúp cho chúng hiểu biết, thực hành
tốt kỹ năng sống, vượt qua những khó khăn trở ngại trước khi bị rơi vào tệ nạn (
uống rượu, thuốc lá, ma túy…), vào sự thất bại. Giúp trẻ thoát khỏi sự lạm dụng từ
trong gia đình, hoặc do người ngoài gây hại…
3.5 Những hình thức tư vấn học đường có thể là
- Tư vấn trực tiếp mặt đối mặt giữa người tư vấn và cá nhân từng học sinh (tư vấn
cá nhân)
- Tư vấn nhóm
Để tư vấn nhóm có hiệu quả, cần chú ý:
• Không chia sẻ cảm nghĩ hay kinh nghiệm của bản thân về vấn đề của HS. Cần
tập trung vào các thành viên trong nhóm.
• Khuyến khích sự chia sẻ tích cực; khuyến khích sự suy nghĩ, tìm tòi; khuyến
khích các em mạnh dạn biểu lộ cảm xúc, sự thông cảm,....
• Chú ý không ép buộc bất kỳ HS nào nếu các em không muốn tham gia .
• Cần bảo đảm bí mật các thông tin HS chia sẻ.
• Vừa chủ động, vừa khách quan lắng nghe trong chia sẻ của HS.
• Cần đánh giá từng biểu hiện tiến bộ của HS
- Tư vấn gián tiếp: Qua điện thoại, Qua thư, Qua mạng internet
3.6. Những nguyên tắc củatư vấn trường học
Nguyên tắc số 1: Lắng nghe và tôn trọng
Lắng nghe, tôn trọng là HS sẽ được chia sẻ bất cứ điều gì mình muốn, chúng
tôi không đánh giá đúng hay sai và hoàn toàn chấp nhận và tôn trọng quan điểm cũng
như chính con người bạn.
Nguyên tắc số 2: Bảo mật thông tin
Tư vấn tâm lý luôn tôn trọng sự riêng tư của mỗi người vì vậy cam kết mọi
vấn đề học sinh chia sẻ sẽ được giữ bí mật. Cụ thể:
- Trong trường hợp học sinh tự mình tới phòng tư vấn, mọi vấn đề học sinh chia sẻ
với nhà tư vấn sẽ được giữ bí mật.
- Chỉ tiết lộ thông tin của học sinh với những người có trách nhiệm (phụ huynh học
sinh, cố vấn…) trong ba trường hợp sau: 1) Học sinh đang có ý định gây hại cho
bản thân hoặc gây nguy hiểm cho người khác ; 2) Học sinh đồng ý chia sẻ thông
tin với những người liên quan để được hỗ trợ tốt hơn; 3) Học sinh báo cáo về việc
đang bị đe dọa.
- Trong trường hợp học sinh được chuyển tới phòng tư vấn bởi cha mẹ, thầy cô,
chúng tôi sẽ trao đổi với người đại diện này và những người có liên quan những
thông tin khái quát về quá trình tư vấn nhằm phối hợp trợ giúp học sinh tốt hơn.
Nguyên tắc số 3: Cung cấp giải pháp
HS không chỉ được lắng nghe, thấu hiểu, chia sẻ mà còn được cung cấp những
thông tin mới cập nhật cũng như trao đổi để tìm ra các giải pháp cho những tình
huống cụ thể đang gặp phải.
Nguyên tắc số 4: Làm việc theo qui trình
Thực hiện theo quy trình năm bước khép kín, đảm bảo tính khoa học và tính
bảo mật. Quy trình chung như sau:
- Phỏng vấn trực tiếp người phát hiện vấn đề (phụ huynh, học sinh, giáo viên)
- Gặp người cần tư vấn và mở hồ sơ tư vấn
- Sau 2-3 buổi gặp người cần tư vấn, tư vấn viên lên kế hoạch tư vấn (số buổi, tần
suất, những hỗ trợ cần thiết) và trao đổi với phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm.
- Đánh giá mỗi buổi tư vấn và giữ liên hệ thường xuyên với phụ huynh và giáo
viên (chủ nhiệm và bộ môn) đối với đối tượng tư vấn là học sinh.
- Kết thúc ca tư vấn, đánh giá ca và kế hoạch theo dõi tiếp theo.
3.7.Một số nội dung cơ bản của tư vấn học đường ở trường THCS, liên hệ thực
tế Thứ tự các mối quan tâm của HS theo nghiên cứu gần đây:
- Gia đình: chiếm tỉ lệ 35%, với nhiều thắc mắc có phần nghiêm trọng.
- Cảm nghĩ về bản thân và các giá trị sống 25%
- Chuyện học hành, hướng nghiệp 21%
- Tình bạn, tình yêu 17% ( Phần phụ lục)
Một số rối loạn tâm lý của thiêu niên: Biểu hiện và giải pháp (Giáo án điện tử)
• Vấn đề 1: Trầm cảm
Dấu hiệu:
Các hành vi vô thức bộc lộ ra bên ngoài như ( quên mất kỉ luật, không tuân
thủ/chống đối…)
Các hành vi tội phạm ( lấy trộm…)
Hành vi vô trách nhiệm
Học tập ở trường kém, lưu ban
Tách ra khỏi gia đình và bạn bè, dành nhiều thời gian một mình
Dùng rượu và các chất kích thích.
Hậu quả
Gây ra các vấn đề ở trường học: Học không tập trung, bỏ học…
Bỏ nhà; Lạm dụng rượu và ma tuý; Tự trọng thấp; Nghiện Internet; Các hành
vi liều lĩnh; Bạo lực
Hỗ trợ
Thấu hiểu;
Khuyến khích các hoạt động thể chất;
Khuyến khích các hoạt động XH;
Duy trì can thiệp; Dạy trẻ các kỹ năng;
XD hệ thống liên lạc giữa gia đình và nhà trường;
Học về trầm cảm.
• Vấn đề 2: Tự tử
Dấu hiệu
Nói hoặc đùa về việc tự tử
Nói về chết một cách tích cực hoặc lãng mạn hoá việc chết
Viết chuyện, thơ về cái chết
Tham dự các hành vi liều lĩnh hoặc có rất nhiều lần bị tai nạn, tự làm đau bản
thân…
Cho đi những vật sở hữu có giá trị
Nói tạm biệt với bạn bè, gia đình
Không chú ý đến hình thức, vẻ ngoài…
Tìm vũ khí, thuốc hoặc những dụng cụ, các cách thức khác có hại cho bản thân
• Vấn đề 3: Rối loạn lo âu
Dấu hiệu
Sợ hãi, lo lắng quá mức, cảm giác bất an và có xu hướng thận trọng, cảnh giác
quá mức
Sống thu mình, phụ thuộc, quá dè dặt, kìm chế hoặc quá cảm xúc
Thường trải qua các triệu chứng đau cơ thể: chuột rút, đau bụng, đau đầu, mệt
mỏi, khó chịu…
Hậu quả:
Không học, không chơi thể thao và các hoạt động XH
Sống phụ thuộc, cầu toàn, thiếu tự tin
Rối loạn xúc cảm, rối loạn ăn uống
Hình thành cảm xúc tự tử, hoặc tham gia các hành vi tự hủy hoại bản thân
Sử dụng chất kích thích
• Vấn đề 4: Chống đối – không tuân thủ
Dấu hiệu
Mất bình tĩnh
Thường xuyên cãi nhau với người lớn
Chủ động phớt lờ hoặc từ chối việc thực hiện theo các yêu cầu của người lớn,
cố ý ngây bực mình cho người khác
Đổ lỗi cho người khác
Quá nhạy cảm, hay khó chịu về người khác
Thường xuyên tức giận, bực bội, có thái độ thù hằn, cay độc
Hỗ trợ
Chú ý tích cực và khen ngợi để củng cố những hành vi được khen ngợi
Phớt lờ những hành vi không phù hợp nhưng không nghiêm trọng
Đưa ra những chỉ dẫn ngắn gọn, rõ ràng
Thiết lập một hệ thống thưởng qui đổi ở nhà
• Vấn đề 5: Gây hấn
Dấu hiệu
Bắt nạt, uy hiếp, đánh nhau
Sử dụng vũ khí
Có biểu hiện độc ác về thể chất với người khác hoặc động vật
Trộm cắp tài sản, phá hoại tài sản, cố ý gây thiệt hại về tài sản cho người khác
Hỗ trợ
Phạt nhẹ, kết hợp tham vấn
Đưa ra các chương trình thay đổi cách suy nghĩ tiêu cực ở trẻ
Giúp trẻ những cách thức để tự mình phân tán những ấm ức đang hiện hữu
Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp và thấu cảm
• Vấn đề 6: Rối loạn hành vi
Dấu hiệu
Độc ác với người và động vật
Phá hoại tài sản lừa đảo hay trộm cắp
Vi phạm nghiêm trọng các luật lệ
Hỗ trợ
Rối loạn hành vi là một rối loạn có nội hàm lớn nên không thể dễ can thiệp có
hiệu quả chỉ bằng một liệu pháp đơn lẻ. Nó phải là một chiến lược toàn diện kết
hợp giữa phòng ngừa các vấn đề hành vi tiền học đường và các chương trình can
thiệp tâm lý.
• Vấn đề 7: Phạm tội, phạm pháp
Dấu hiệu
Bốc đồng, hiếu chiến, ngạo ngược dễ bị kích động
Thường xuyên phá luật, bất chấp sự an toàn của bản thân và người khác
Hay bị bắt giữ, thiếu sự ăn năn hối hận
Xâm hại tài sản của người khác
Bỏ học, bỏ nhà tham gia vào các băng nhóm
Nghiện ma túy và các chất kích thích khác
Hỗ trợ
Cải thiện sức khỏe tâm thần và thể chất
Tuyên truyền, giáo dục
Phổ biến pháp luật và những giá trị XH tích cực
• Vấn đề 8: Lạm dụng rượu và chất kích thích
Dấu hiệu
Thường xuyên buồn ngủ, ngáp vặt
Cáu kỉnh vô cớ
Thường xuyên xin tiền với số lượng lớn
Trộm cắp vặt
Tiêu tiền quá mức
Hỗ trợ
Theo dõi, quan sát thường xuyên
Quản lý tốt các mối quan hệ
Kết hợp nhiều lực lượng XH để cùng quản lý và giáo dục
Dùng các biện pháp tư vấn tâm lý
4. Tư vấn định hướng phân luồng và hướng nghiệp ở trường THCS
Trong chương trình giáo dục hướng nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định
Tư vấn hướng nghiệp là một nội dung quan trọng nhằm giúp học sinh chọn
hướng học, chọn nghề phù hợp. Tùy điều kiện từng nơi, học sinh có thể được tư
vấn bởi những cán bộ tư vấn hướng nghiệp tại các Trung tâm Kĩ thuật Tổng hợp -
Hướng nghiệp hoặc Trung tâm Tư vấn Hướng nghiệp, cũng có thể được tư vấn bởi
giáo viên chủ nhiệm hoặc giáo viên hướng nghiệp tại trường. Tuy nhiên, hiện nay lực
lượng làm tư vấn hướng nghiệp còn nhiều bất cập, vừa rất thiếu về số lượng, vừa
yếu về kiến thức, kĩ năng tư vấn. Trong khi đó, số lượng học sinh có nhu cầu được tư
vấn hướng nghiệp lại rất cao, nhất là khối học sinh cuối cấp Trung học cơ sở và
Trung học phổ thông. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có chuyên ngành đào tạo
về hướng nghiệp và tư vấn hướng nghiệp.
4.1. Khái niệm tư vấn hướng nghiệp
Tư vấn hướng nghiệp được hiểu là hệ thống những biện pháp tâm lí, giáo dục và
một số biện pháp khác được chuyên viên tư vấn hướng nghiệp, thầy/cô giáo hướng
nghiệp, cán bộ Hội Phụ nữ hoặc cha mẹ HS sử dụng nhằm phát hiện, đánh giá sở
thích nghề nghiệp, khả năng về thể chất, trí tuệ của HS, sinh viên hoặc con em trong
gia đình; đối chiếu các khả năng thực có của mỗi em với những yêu cầu của bậc học
cao hơn hoặc những yêu cầu của nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến
nhu cầu nhân lực của địa phương và xã hội. Từ đó, đưa ra lời khuyên về việc lựa chọn
hướng học tập, chọn nghề có cơ sở khoa học.
GHIỆP
Tùy theo đối tượng và nhu cầu, tư vấn hướng nghiệp có thể là:
PHẦN I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP
- Tư vấn hướng học để giúp các em lựa chọn ban, ngành học, trường học phù
hợp ở bậc học cao hơn,
- Tư vấn chọn nghề để giúp các em lựa chọn ngành nghề và cơ sở đào tạo
nghề vừa phù hợp với nguyện vọng, sở thích, khả năng nghề nghiệp của các
em, vừa phù hợp với hoàn cảnh gia đình và nhu cầu nhân lực của địa phương,
xã hội.
4.2. Mục đích
Phát hiện và giúp các em đánh giá đúng sở thích nghề nghiệp, khả năng
của bản thân; hiểu rõ hơn yêu cầu của nghề và nhu cầu lao động của xã hội.
Góp phần xác định con đường tiếp tục phát triển nhân cách và sự phù hợp
nghề của các em trong tương lai.
Làm tốt TVHN sẽ góp phần thiết thực giúp các em đạt được các năng lực
hướng nghiệp trong Khung phát triển nghề nghiệp, phát huy được tối đa năng lực,
sở trường của bản thân trong quá trình học văn hóa, đào tạo nghề và hoạt động
nghề nghiệp sau này.
4.3. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp nói chung là phát triển các năng lực hướng
nghiệp của các em học sinh. Các năng lực này được chia theo 3 khu vực,
- Nhận thức bản thân;
- Nhận thức nghề nghiệp;
- Xây dựng kế hoạch nghề nghiệp.
o Công tác tư vấn hướng nghiệp chú trọng đến các nhiệm vụ chủ yếu sau:
o Phát hiện và đánh giá được những sở thích và khả năng nghề nghiệp hiện có
của các em;
o Làm sáng tỏ mức độ sẵn sàng về tâm lí cũng như những hiểu biết thực tế
đối với nghề nghiệp mà các em định chọn;
o Đưa ra lời khuyên cho các em về việc chọn hướng học, chọn nghề phù hợp;
o Khuyến khích, động viên các em tự giáo dục, rèn luyện và phát triển những
khả năng trong bảng năng lực hướng nghiệp của học sinh.
Bảng 1: Năng ự h ớ ệp cần có của HS
CHUNG VỀ TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP
Khu Vực A: Nhận Năng lực 1
thứ bản thân Xây dựng kiến thức về bản thân trong bốn lĩnh vực: sở thích,
khả năng, cá tính và giá trị nghề nghiệp; và dùng kiến thức
này cho việc hướng nghiệp suốt đời.
Năng lực 2
Hiểu được hoàn cảnh của mình trong bối cảnh gia đình,
cộng đồng, Việt Nam và thế giới; và dùng kiến thức này cho
việc hướng nghiệp suốt đời.
Năng lực 3
Xác định được mong muốn, ước mơ, hy vọng và mục tiêu đời
mình; và dùng kiến thức này cho việc hướng nghiệp suốt đời.
Tư vấn chuyên sâu phức tạp hơn nhiều, cần có chuyên gia tư vấn được đào tạo để
có kiến thức sâu, rộng như tâm lí học lứa tuổi, tâm lí học lao động, tâm lí học nghề
nghiệp, tâm lí học trẻ khuyết tật, kiến thức về thế giới nghề nghiệp, yêu cầu của nghề,
kiến thức nhân cách (như động cơ, hứng thú, khuynh hướng, năng lực nghề nghiệp),
thông tin về kinh tế, về nhu cầu phát triển nhân lực của các ngành nghề trong nền
kinh tế quốc dân và địa phương… nước ta chủ yếu là tư vấn sơ bộ, tư vấn chuyên sâu
hiện nay còn rất hiếm
4.5.Các điều kiện để thực hiện tư vấn hướng nghiệp thành công
Để thực hiện công tác hướng nghiệp, người tư vấn phải có kiến thức nhất
định về hệ thống giáo dục, về thế giới nghề nghiệp.
Có kỹ năng thu thập thông tin về nhu cầu nhân lực và thị trường lao động-
việc làm;
Kỹ năng tạo mối quan hệ tốt đẹp với học sinh, với những học sinh cần ra
đời sớm, hoặc tự bương chải tiếp tục học, với các cơ quan, công ty cần lao động và
nhiều kiến thức kỹ năng khác liên quan đế phát triển nhân cách học sinh và phát
triển nghề nghiệp địa phương.
4. 6. Các kĩ năng tư vấn hướng nghiệp
Sáu kĩ năng tư vấn hướng nghiệp
4.6.1 Hành vi quan tâm
a. Mục đích, ý nghĩa
- Hành vi quan tâm là bước đầu tiên và quan trọng nhất giúp thiết lập mối quan
hệ giữa NTV với NĐTV.
- Chỉ khi nào NTV thực hiện tốt hành vi quan tâm thì khi đó NĐTV mới thật sự
tin tưởng và mở lòng chia sẻ tâm tư, nguyện vọng với NTV.
Bước 2: Phản hồi cảm xúc bằng cách sử dụng câu hỏi mở hoặc câu hỏi đóng để
biết được mình đã hiểu NĐTV ở mức độ nào
Ví dụ về phản hồ cảm xúc bằng câu hỏi mở:
Hồi nãy, khi nhắc về về ngành chế tạo ô tô, con có vẻ lo lắng? Vì sao vậy?
Ví dụ về phản hồi cảm xúc bằng câu hỏi đóng:
Có phải là con đang rất lo lắng cho việc chọn nghề tương lai của mình khôn
6.4.4. Kĩ năng đối mặt
a. Mục đích, ý nghĩa
Kĩ năng đối mặt giúp NTV hiểu rõ cảm xúc của NĐTV, làm cho cuộc nói
chuyện tránh được tình trạng đi vào “ngõ cụt”.
Thường được áp dụng khi xuất hiện mâu thuẫn trong câu chuyện của NĐTV.
Nếu sử dụng kĩ năng này quá sớm trong buổi nói chuyện sẽ bị phản tác
dụng vì có thể NĐTV sẽ không cởi mở với NTV nữa. Nhưng nếu NTV không dám sử
dụng kĩ năng đối mặt trong những trường hợp cần thiết thì NĐTV dễ bị nguy cơ tiếp
tục chìm trong những ảo tưởng về bản thân hay nhầm vấn đề.
b. Cách thực hiện
- NTV phải xác định được mâu thuẫn trong lời nói, hành động của NĐTV, giúp họ đối
diện với mâu thuẫn này và cùng tìm cách giải quyết.
- Các bước xác định và giải quyết mâu thuẫn bao gồm:
Bước 1: Quan sát lời nói, hành động để nhận ra sự mâu thuẫn (tức là không đồng
nhất) của NĐTV trong lời nói, hành vi, cảm xúc và ý nghĩ.
Ví dụ 1:
Trong khi nói chuyện, cha mẹ nhận thấy con nói rằng đã tìm hiểu rất kĩ về ngành
Viễn thông; nhưng trong suốt cuộc nói chuyện, cha mẹ không thấy con nói gì về
quá trình tìm hiểu ngành Viễn thông mà chỉ thấy con nói đi nói lại câu “nghe bạn
này nói, nghe bạn kia nói…”
Chỉ ra sự mâu thuẫn
PHẦN II. CÁC KỸ NĂNG VÀ LIỆU PHÁP TƯ VẤN HƯỚNG NGHIỆP
Ví dụ2 “Mặc dù con nói con đã tìm hiểu thông tin về ngành
Viễn thông rất kĩ càng, nhưng từ lúc bắt đầu nói chuyện đến bây giờ, mẹ chỉ nghe
con dùng cụm từ “bạn con nói” rất nhiều lần. Vậy, ngoài thông tin từ bạn, con còn
tìm thông tin từ nơi nào khác?”
Bước 3. Cùng với NĐTV tìm cách:
Đối diện
Giải quyết
Sống chung với mâu thuẫn
Sử dụng kĩ năng đối mặt không phải để ép NĐTV thay đổi ý kiến hay quan điểm mà
là để họ hiểu rõ hơn về bản thân, về những mâu thuẫn và khúc mắc mà họ chưa
nhận thấy. Từ đó, họ có thể tự đưa ra quyết định dựa vào nhận thức bản thân.
4.4.5. Kĩ năng tập trung
a. Mục đích, ý nghĩa
Kĩ năng tập trung giúp sắp xếp các vấn đề theo thứ tự ưu tiên nhằm giải quyết
vấn đề quan trọng nhất trước, sau đó mới đến vấn đề ít quan trọng hơn.
Được áp dụng trong trường hợp NĐTV có nhiều vấn đề cần làm rõ và giải
quyết trước khi đưa ra quyết định chọn hướng học, chọn nghề.
b. Cách thực hiện
Khi TVHN, cần tập trung vào bản thân trước, rồi mới đến vấn đề; tiếp theo là hoàn
cảnh gia đình và bối cảnh xã hội.
Ví dụ: Sau 30 phút trò chuyện NTV nhận ra vấn đề quan trọng nhất không phải là
NĐTV và con chưa biết nên chọn ngành học, trường nào để theo học, mà là mâu
thuẫn trong gia đình. NTV đã phân tích với NĐTV: “Theo như những gì tôi nghe
được từ anh, vấn đề nổi lên hiện nay là mâu thuẫn trong gia đình. Theo kinh
nghiệm của tôi, để có được một quyết định hướng nghiệp tốt thì trước hết, các
thành viên trong gia đình phải thực sự hiểu nhau và tôn trọng ý kiến của nhau. Vì
vậy, ngay sau đây, tôi nghĩ anh nên nói rõ hơn về những lý do tạo ra mâu thuẫn
trong gia đình, sau đó chúng ta mới bắt đầu thảo luận về vấn đề hướng nghiệp.
Anh nghĩ sao?”
4.4.6. Kỹ năng phản hồi ý tưởng
a. Mục đích ý nghĩa
Kĩ năng phản hồi ý tưởng giúp NTV kiểm tra xem mình đã hiểu đúng các ý tưởng
của đối tượng
Trong sáu kĩ năng TVHN, hành vi quan tâm và kĩ năng đặt câu hỏi là hai kĩ năng
quan trọng nhất vì giúp NTV mới thiết lập được mối quan hệ tốt với NĐTV, làm cho
NĐTV có cảm giác được cảm thông, tin tưởng để từ đó mở lòng tâm sự, chia sẻ. Hơn
nữa, có thực hiện tốt hai kĩ năng này, NTV mới nắm bắt được cảm xúc, ý tưởng và
những điểm mấu chốt trong câu chuyện, từ đó lựa chọn và sử dụng các kĩ năng
khác cho phù hợp
Phần phụ lục
Phần này cung cấp thông tin bổ sung để tham khảo và sử dụng, bao gồm:
Phụ lục 1. Các lí thuyết cơ bản về hướng nghiệp
Phụ lục 2. Phiếu Trắc nghiệm sở thích (phần 1 và phần 2)
Phụ lục 3. Bảng các nhóm Tính cách theo lí thuyết mật mã Holland
Phụ lục 4. Bộ Trắc nghiệm nhóm sở thích và nghề nghiệp phù hợp
Phụ lục 5. Bộ Trắc nghiệm nhóm khả năng và nghề nghiệp phù hợp
Phụ lục 6. Giới thiệu cổng thông tin điện tử: Em chọn nghề gì?
PHỤ LỤC 1. CÁC LÍ THUYẾT CƠ BẢN VỀ HƯỚNG NGHIỆP
1. LÍ THUYẾT CÂY NGHỀ NGHIỆP
Lí thuyết cây nghề nghiệp là lí thuyết cơ bản nhất trong hướng nghiệp.
a. Nội dung chủ yếu
Khi chọn bất cứ một ngành nghề học nào, mỗi người đều phải dựa vào sở thích ề
ệp, k ả năng (hay còn là năng ự ) thự có, cá tính và giá trị của bản thân mình,
6
tức là dựa vào “rễ” của cây nghề nghiệp. Nếu một người quyết tâm theo đuổi ngành nghề
học phù hợp với “rễ” thì sau khi tốt nghiệp sẽ có nhiều khả năng thu được những “quả
ngọt” trong nghề nghiệp. Họ sẽ có nhiều cơ hội tìm việc tốt, dễ dàng được tuyển dụng
vào vị trí thích hợp, môi trường làm việc tốt, lương cao, được nhiều người tôn trọng...
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC
Ngoài các yếu tố trên, còn cần phải có những yếu tố khác như nhu cầu sử dụng lao động,
các kĩ năng tìm kiếm việc làm, kinh nghiệm ngoài lớp học, tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp…
Nhưng quan trọng nhất, mang tính quyết định nhất vẫn là quyết định chọn ngành nghề học
dựa vào “rễ” cây nghề nghiệp.
b. Ý nghĩa của mô hình lí thuyết cây nghề nghiệp
Trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp, việc tìm hiểu bản thân để biết rõ sở thích, khả năng,
cá tính và giá trị nghề nghiệp của chính mình là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Càng
hiểu rõ về bản thân, càng có cơ sở khoa học vững chắc để chọn nghề phù hợp với “rễ”, tránh
được tình trạng chọn nghề theo “quả”, chọn nghề cảm tính, theo lời khuyên của người khác
hoặc theo trào lưu chung.
Việc chọn nghề không chỉ phụ thuộc vào yếu tố chủ quan mà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của các yếu tố khách quan. Vì vậy, trước khi ra quyết định chọn nghề, cùng với việc tìm hiểu
bản thân, cần phải tìm hiểu các yếu tố khách quan có tác động đến bản thân, đặc biệt là
hoàn cảnh gia đình, nhu cầu tuyển dụng lao động của xã hội và các yêu cầu, đòi hỏi của
nghề.
Ví dụ dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn mô hình lí thuyết hệ thống trong hướng nghiệp:
Ông bà Lanh có cô con gái rất yêu thích ngành Tài chính và có năng khiếu để học ngành
này. Gia đình ông bà có đủ điều kiện cho con gái theo học Trường Đại học Tài chính hoặc Học
viện Ngân hàng ở Hà Nội. Nhưng, ông bà Lanh và con gái rất phân vân vì hiện nay, kinh tế
toàn cầu đang trong tình trạng khó khăn. Ngành Tài chính _ Ngân hàng ở Việt Nam cũng bị
ảnh hưởng, dẫn đến việc sinh viên ngành này ra trường rất khó kiếm việc làm. Truyền thông
trong nước cũng đưa tin nhiều về việc dư thừa nhân lực trong ngành Tài chính _ Ngân hàng.
Vì vậy, ông bà Lanh và con gái quyết định tìm hiểu thêm những vấn đề liên quan trước khi
ra quyết định. Sau một thời gian tìm hiểu kĩ càng, ông bà Lanh thấy rằng, nếu con gái ông
bà yêu thích và có năng khiếu trong ngành Tài chính _ Ngân hàng vẫn có thể chọn con
đường theo học ngành này được bởi những lí do sau:
Thứ nhất, ngành Tài chính ở Việt Nam nhìn chung là thừa nhân lực, nhưng các công ty đa
quốc gia và các văn phòng đại diện công ty nước ngoài vẫn rất cần nhân lực giỏi trong lĩnh
vực này.
Thứ hai, con gái của ông bà Lanh thật sự yêu thích và có năng khiếu về ngành Tài chính. Đây
là yếu tố cơ bản giúp con gái ông bà Lanh có động lực để học tập đạt kết quả cao trong
quá trình học đại học.
Thứ ba, học ngành Tài chính không có nghĩa là chỉ có thể làm trong lĩnh vực tài chính sau
khi tốt nghiệp. Nếu thực sự giỏi, con gái của ông bà Lanh có thể áp dụng kiến thức và kĩ năng
học được từ ngành này vào nhiều công việc khác như nghiên cứu thị trường, kinh doanh bất
động sản, kế toán, thuế, v.v...
Cuối cùng, trong thời gian học, con gái của ông bà Lanh có thể rèn luyện thêm những kiến
thức, kĩ năng khác để làm tăng thêm khả năng tuyển dụng của bản thân như học thật giỏi
tiếng Anh, giỏi vi tính, làm việc bán thời gian để tích lũy kinh nghiệm, thực tập ngắn hạn và
tham gia những hoạt động khác.
Những thông tin trên đã được ông bà Lanh trao đổi, chia sẻ với con gái. Sau khi phân tích, ông
bà Lanh nói với con gái rằng, con hãy suy nghĩ, tìm hiểu thêm cho kĩ để tự mình ra quyết
định theo học hay không theo học ngành Tài chính. Điều này rất quan trọng vì việc chọn
ngành học, chọn nghề sẽ được con gái của ông bà quyết định khi đã có đầy đủ thông tin
cần thiết và được sự đồng thuận của cha mẹ.
Trong thời đại toàn cầu hóa nền kinh tế như hiện nay, ở nước ta sẽ không có một ngành nghề
sự với cô là không biết có nên tiếp tục học THPT để thi vào đại học không vì khả năng học các
môn văn hóa của em chỉ ở mức trung bình. Hoàn cảnh gia đình em cũng khó khăn. Hiểu rõ khả
năng, sở thích của em HS đó, cô Nga đã khuyên em nên đăng kí thi vào trường năng khiếu thể
dục thể thao. Về nhà, em HS này đã kể lại cuộc trò chuyện của mình với cô giáo và nói với
cha mẹ mong muốn đăng kí thi vào trường năng khiếu thể dục thể thao. Cha mẹ đã đồng ý và
ủng hộ quyết định của con vì cha mẹ em cũng thấy rất rõ sở thích, khả năng của con mình.
Hiện nay, em HS giỏi thể dục thể thao của cô giáo Nga ngày nào đã trở thành một vận động
viên nổi tiếng, đoạt được nhiều huy chương ở các cuộc thi trong nước và quốc tế. Em luôn
cảm thấy hạnh phúc trong con đường nghề nghiệp đã chọn.
Nếu được gặp vận động viên nổi tiếng trong câu chuyện trên và hỏi em về con đường
nghề nghiệp, chắc chắn em đó sẽ trả lời: Điều may mắn nhất là em có được cô giáo chủ
nhiệm đã hiểu được khả năng, sở thích và đưa ra lời khuyên quý báu và cha mẹ ủng hộ đối
với quyết định hướng đi của mình. Nhưng trong trường hợp này, có thật sự hoàn toàn là sự
may mắn không nếu em HS đó không học tốt môn Thể dục, nếu không tham gia các cuộc thi
thể dục thể thao và đạt được nhiều thành tích tốt. Ngoài ra, nếu em HS đó không có năng
khiếu thể dục và không khổ công luyện tập thì em có được thành công như vậy hay không?
Do đó, ta có thể nói: Em HS lớp cô Nga chủ nhiệm quả thật rất may mắn, nhưng điều may mắn
ấy không tự nhiên có mà nó là thành quả của những hạt đã được gieo mầm trong suốt
quá trình em học ở trường phổ thông.
b. Ý nghĩa của lí thuyết ngẫu nhiên có kế hoạch
Sự may mắn là yếu tố tác động tích cực đến kế hoạch nghề nghiệp tương lai của mỗi
người. Tuy nhiên, sự may mắn không đến một cách tự nhiên mà nó là hệ quả của
những việc làm tốt, những nỗ lực trong quá khứ, hiện tại và cả những nhận thức đúng về bản
thân để tìm ra hướng đi.
Con bạn học giỏi hay không, đó chưa phải là yếu tố quyết định tất cả. Điều quan trọng nhất
đối với con bạn bây giờ là nỗ lực học tập, tham gia các hoạt động phù hợp với khả năng, chủ
động, tích cực làm nhiều việc tốt cho mọi người xung quanh, vững vàng vượt qua các khó
khăn, rào cản trong cuộc sống cũng như học tập.
5. LÍ THUYẾT VỊ TRÍ ĐIỀU KHIỂN
a. Nội dung chủ yếu
Lí thuyết vị trí điều khiển đưa ra 2 quan điểm sống:
Câu chuyện thứ nhất: Dịch giả Nguyễn Bích Lan sinh năm 1976 tại Hưng Hà _ Thái Bình.
Năm 13 tuổi, Bích Lan mắc bệnh nan y loạn dưỡng cơ, cô đã phải nghỉ học năm lớp 8. Nhưng
cô đã không gục ngã, không đầu hàng mà đã vươn lên để chiến thắng số mệnh nghiệt ngã.
Được sự giúp đỡ, động viên, khuyến khích của cha mẹ, cô đã tự mày mò học tiếng Anh. Trong
6 năm liền, mỗi ngày cô đã dành ra 6 tiếng để tự học tiếng Anh. Sau đó, cô mở lớp dạy tiếng
Anh “lớp học cây táo” tại nhà. Trong vòng 5 năm, cô đã dạy tiếng Anh cho 200 học trò, giờ
đã có người tốt nghiệp đại học và giúp cô dịch sách. Khi bệnh loạn dưỡng cơ biến chứng
sang tim, không thể đi đứng được, phải nằm liệt giường trong căn phòng nhỏ, Bích Lan đã
chuyển sang dịch các tác phẩm văn học nước ngoài. Hiện nay, cô là dịch giả của nhiều tác
phẩm văn học đã được xuất bản. Năm 2010, Bích Lan nhận giải thưởng dịch thuật của Hội Nhà
văn Việt Nam cho tác phẩm Triệu phú ổ chuột và trở thành hội viên Hội Nhà văn. Bích Lan còn
viết và cho xuất bản tự truyện Không thể gục ngã,
đồng thời là dịch giả bộ tự truyện Cuộc sống
không giới hạn và Đừng bao giờ gục ngã của Nick
Vujicic. Cô nói rằng, đối với cô, 3 chìa khóa của sự
thành công là: lòng yêu đời, sự kiên nhẫn và niềm
tin rằng dù có thách thức đến đâu cũng không
thể mạnh bằng sức mạnh của con người.
Câu chuyện thứ hai: Nick Vujicic sinh ngày
4/12/1982 tại Melbourne, Australia. Anh là một
người bị tật nguyền từ nhỏ. Khi sinh ra Nick đã
không có cả tay lẫn chân. Bố mẹ anh đã gần như
ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng
thương của mình chào đời nhưng chính họ lại là
những người tận tình chăm sóc và giúp anh phát
triển như một đứa trẻ bình thường.
Từ khi 18 tháng tuổi, Nick đã được bố dạy bơi. Năm6 tuổi, Nick làm quen với máy vi tính và
giờ đây anh có thể dùng bàn chân bé tẻo teo có hai ngón nhỏ xíu của mình gõ máy tính với
tốc độ 43 từ/phút. Anh cũng học đá bóng, bơi lội thậm chí là một tay lướt sóng rất cừ. Đã có
những lúc anh cảm thấy chán chường vì bị bạn bè ở trường chế giễu, bắt nạt, nhưng với sự
giúp đỡ của gia đình và bạn bè, anh đã vượt qua tất cả trở ngại đó. Nick bắt đầu những bài
diễn thuyết của mình từ năm anh 17 tuổi tại các nhà thờ. Cho tới thời điểm hiện tại, ở độ tuổi
31 anh đã đi qua 47 nước để diễn thuyết. Những bài diễn thuyết của anh đã làm lay động
trái tim hàng triệu độc giả trên thế giới bởi lòng nhiệt thành và những câu chuyện cảm động.
Chúng đã mang tới cho các bạn trẻ niềm hi vọng vào cuộc sống, nghị lực vươn lên nghịch
cảnh. Năm 1990, Nick vinh dự nhận giải thưởng "Công dân trẻ nước Úc" cho những nỗ lực của
mình.
Năm 23 tuổi, anh lấy bằng cử nhân thương mại với chuyên môn kế hoạch tài chính và kế
toán. Không có tay nhưng anh có thể chạm tới trái tim hàng triệu người. Không có chân, Nick
vẫn đi tới khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Hiện tại, Nick là Chủ tịch và là CEO của tổ chức quốc
tế Life Without Limbs, là giám đốc công ty Attitude Is Altitude, đồng thời là một diễn giả có sức
truyền cảm lớn nhất và đặc biệt nhất hành tinh. Cuốn sách Life without limits (Cuộc sống không
giới hạn) là cuốn sách đầu tay của Nick kể về những nỗ lực của anh trong suốt những năm
qua. Cuốn sách đã được hàng triệu độc giả trên thế giới đón nhận và hiện đã được dịch và phát
hành tại Việt Nam11. Trong thời gian từ 23 _ 26/ 5/ 2013, Nick Vujicic đã đến Việt Nam và đã
hợp với sở thích và khả năng con mình; tham khảo xem học xong các ngành ấy sẽ làm nghề
gì, và nghề nghiệp đó có vai trò như thế nào trong thị trường tuyển dụng/lao động hiện tại và
tương lai
Các tác nhân hoặc yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn ngành, nghề của con
Sau đó NĐTV bắt đầu giúp con làm bốn bước hành động, gồm:
Xác định mục tiêu nghề nghiệp, tức là xác định xem sẽ làm công việc gì trong tương lai
Ra quyết định : học ngành gì? ở trường nào?
Hành động: chuẩn bị hồ sơ đăng kí dự tuyển vào trường và ngành học mình đã chọn. Đánh giá
xem quyết định của con có đúng không sau khi dự tuyển, tham gia học, suốt thời gian học
và tìm hiểu thêm về lĩnh vực con chọn, v.v.
Mô hình này sẽ giúp NĐTV mường tượng được những bước cần làm trước khi lập kế
hoạch nghề nghiệp, và hoàn tất chúng trong suốt quá trình hướng nghiệp để ra quyết định
chọn ngành, chọn nghề.
Đây cũng là một công cụ tốt để NTV tự đánh giá xem khả năng tư vấn hướng nghiệp của mình
có đạt hiệu quả trong việc giúp NĐTV định hướng nghề nghiệp hay chưa. Một kế hoạch
nghề nghiệp rõ ràng sẽ là minh chứng tốt nhất cho quá trình HN hiệu quả.
Trên đây là một số lí thuyết cơ bản về hướng nghiệp. Hiểu rõ những lí thuyết hướng nghiệp sẽ
giúp NTV vững tin hơn trong cuộc hành trình hướng nghiệp cùng NĐTV. Những lúc thấy
bối rối, bế tắc trong công tác HN, bạn hãy quay lại đọc kỹ và nghiên cứu những lí thuyết
này vì đây là nền móng của quá trình xây dựng công trình HN của mỗi người.
PHỤ LỤC 2
PHIẾU TRẮC NGHIỆM SỞ THÍCH (Phần 1)
Đánh dấu X vào ô vuông trước mỗi câu mà bạn thấy phù hợp với mình. Đừng suy nghĩ quá nhiều khi lựa chọn câu trả lời. Thời gian
hoàn thành : 20 phút. Mỗi ô được đánh dấu sẽ tính là 1 điểm, không phải điểm cao là làm giỏi mà phải lựa chọn theo đúng suy
nghĩ bản thân.
□ Tôi tự thấy mình là người khá về các môn thể thao. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi là người yêu thích thiên nhiên. được đánh dấu X và
□ Tôi là người hay tò mò về thế giới xung quanh mình (thiên nhiên, không gian, những sinh vật sống). viết số tổng bên
□ Tôi là người độc lập. dưới.
□ Tôi thích sửa chữa đồ vật, vật dụng xung quanh tôi.
□ Tôi thích làm việc sử dụng tay chân (làm vườn, sửa chữa nhà cửa).
□ Tôi thích tập thể dục.
□ Tôi thích dành dụm tiền. Nhóm Kĩ thuật
□ Tôi thích làm việc cho đến khi công việc hoàn thành (không thích bỏ dở việc).
□ Tôi thích làm việc một mình.
□ Tôi là người rất hay để ý tới chi tiết và cẩn thận. Cộng số điểm ở các ô
□ Tôi tò mò về mọi thứ. được đánh dấu X và
□ Tôi có thể tính những bài toán phức tạp.
Tổng số cao nhất Tổng số cao thứ hai Tổng số cao thứ ba
Những ai có khả năng như Vận hành máy, cơ khí ứng dụng, bảo trì và sửa chữa ô tô, thiết Kĩ sư ô tô.
một vận động viên thể thao bị điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện- điện tử , tin Kĩ sư chế tạo máy.
hoặc có khả năng như một học, xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng Kĩ sư ngành tự động hóa.
thợ máy, thích làm với những thủy sản, mộc dân dụng, mộc mĩ nghệ, nấu ăn, làm vườn và Kĩ sư nông, lâm, ngư nghiệp.
vật cụ thể, máy móc, dụng chăm sóc cây xanh, cắt may, thêu, đan, móc, kĩ thuật phòng Kĩ sư thiết kế cảnh quang đô thị,
cụ, cây cối, con vật, hoặc các lab, lái xe , lái tàu, công nghệ thông tin… y tá điều dưỡng… công trình công cộng, kĩ sư công
hoạt động ngoài trời. Các công việc hoạt động thuộc nhóm kĩ thuật có từ công nghệ may, kĩ sư công nghệ thông
nhân bậc 2/7, 3/7, công nhân kĩ thuật trình độ trung cấp tin, bác sĩ…
nghề...được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, các trường trung Các công việc này được đào tạo tại
cấp nghề, trung tâm kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp của các trường đại học và cao đẳng
địa phương. trên toàn quốc.
Nhóm Xã hội
là những người thích Nghề nghiệp bạn thích
hoạt động xã hội.
Những ai thích làm việc cung Nhà hoạt động xã hội, y tá cộng đồng, dược tá, nhân viên Giáo viên các cấp, tư vấn viên, bác
cấp hoặc làm sáng tỏ thông các công ty du lịch, hướng dẫn viên du lịch, huấn luyện viên, sĩ, dược sĩ, luật sư, bác sĩ khoa
tin, thích giúp đỡ, huấn tư vấn hướng nghiệp, dịch vụ khách hàng, cán bộ xã hội, tâm thần, thần kinh, chuyên gia
luyện, chữa trị hoặc chăm sóc cán bộ Hội phụ nữ, nhân viên khách sạn/ resort., nhân viên tâm lý, chuyên gia tư vấn học
sức khỏe cho người khác; có bảo hiểm… đường, chuyên gia tư vấn bất động
khả năng về ngôn ngữ. Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy nghề, sản…
các trường trung cấp nghề, các trung tâm kinh tế kỹ thuật Các công việc này được đào tạo tại
tổng hợp và hướng nghiệp, hội Liên hiệp Phụ nữ, nhà văn các trường đại học, cao đẳng và các
hóa của địa phương. học viện, trên toàn quốc.
Nhóm Quản lí
là những người có sở Nghề nghiệp bạn thích
thích kinh doanh, lãnh
đạo, thuyết phục người
khác.
Những ai thích làm việc với Công an, quân đội, quản trị kinh doanh, kĩ thuật hệ Quản lí khách sạn, giám đốc tín
những người khác, có thống thông tin, quản trị mạng, chủ doanh nghiệp, dụng, giám đốc ngân hàng, sĩ
khả năng tác động, thuyết chủ đại lý kinh doanh, chuyên viên PR , quản lí khách quan công an, sĩ quan quân đội,
phục, thể hiện, lãnh sạn, bếp trưởng khách sạn cao cấp, kế toán … chánh án, viện kiểm sát nhân
đạo hoặc quản lí các mục Các ngành nghề trên được đào tạo tại các cơ sở dạy dân, quản lí giáo dục các cấp,
tiêu của tổ chức, các lợi ích nghề, các trường trung cấp nghề, các trường trung kế toán trưởng.
kinh tế. cấp cảnh sát, trung cấp quân sự, các trung tâm kĩ thuậtCác công việc này được đào tạo
tổng hợp - hướng nghiệp, Hội Liên hiệp phụ nữ, nhà tại các trường đại học, cao
Nhóm Nghiệp vụ văn hóa của địa phương. đẳng và các học viện, trên
là những người thích Nghề nghiệp bạn thích toàn quốc.
nguyên tắc, làm việc với
con số, báo cáo hoặc
làm việc với máy móc
được sắp đặt trật tự.
Những ai thích làm việc với Kế toán, thanh tra các ban ngành, thủ thư, thư kí, nhân Cử nhân các ngành ngân hàng,
dữ liệu, con số; có khả viên lưu trữ, nhân viên văn phòng, chuyên viên thuế, tài chính, hành chánh tổng
năng làm việc văn phòng, thủ quỹ, kế toán viên, tiếp tân, bưu điện, nhân viên hợp, tổ chức cán bộ, giáo viên,
thống kê; thực hiện các ngân hàng… Các ngành nghề trên được đào tạo tại kiểm toán viên, nghiên cứu
công việc đòi hỏi chi tiết, các cơ sở dạy nghề, các trường trung cấp nghề, các viên, luật sư, công an hình sự…
tỉ mỉ, cẩn thận hoặc làm trung tâm kĩ thuật tổng hợp - hướng nghiệp, Hội Các công việc này được đào tạo
theo hướng dẫn của Liên hiệp Phụ nữ, nhà văn hóa của địa phương. tại các trường đại học, cao
người khác. đẳng và các học viện, trên
toàn quốc.
PHỤ LỤC 3 CÁC NHÓM TÍNH CÁCH THEO LÍ THUYẾT MẬT MÃ HOLLAND
1. NHÓM KĨ THUẬT
K ểu thự tế ụ t ể _ thao tác kĩ thuật (ký hiệu KT)
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm kĩ thuật có sở thích và khả năng khám phá, sử dụng máy móc, làm
những công việc sử dụng thao tác tay chân như các ngành nghề thuộc về cơ khí, ô tô, điện, tin
học hoặc các ngành nghề đòi hỏi sự khéo léo của tay chân như thể thao, nấu nướng, chăm sóc cây
xanh, thủ công mĩ nghệ...
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Thực tế _ cụ thể.
Thể lực tốt _ suy nghĩ thực tế.
Tư duy, trí nhớ tốt.
Say mê, nghiêm túc thực hiện các quy trình kĩ thuật.
Sáng tạo, khéo tay, tỉ mỉ.
Năng lực chú ý vững vàng.
Thị lực tốt.
Trí tưởng tượng không gian tốt.
Phản ứng cảm giác/ vận động nhanh, chính xác.
Chịu đựng trạng thái căng thẳng.
Kiên trì, nhạy cảm.
Khí chất thần kinh ổn định.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Các công việc liên quan đến điều khiển máy móc, đồ vật hoặc chăm sóc, bảo vệ vật nuôi,
cây trồng; làm việc ngoài trời, đòi hỏi sự khéo léo chân tay khi sử dụng các công cụ, máy móc
hoặc trong hoạt động thể thao.
Nghề phù hợp điển hình: chăm sóc cây _ con, điều khiển, sử dụng, sửa chữa máy móc,
nghề thủ công, huấn luyện viên thể hình, cảnh sát, cứu hoả…
Chống chỉ định của những công việc trên. (Chống chỉ định trong nghề nghiệp có nghĩa là
không nên làm nghề thuộc nhóm này nếu người nào đó bị mắc các tật hoặc bệnh mà nghề không
“chấp nhận” như các tật hoặc bệnh kể trên.)
Dị ứng dầu mỡ, hóa chất.
Lao, hen, hẹp van tim, viêm thận.
Loạn thị, loạn sắc, mù màu.
Run tay và mồ hôi quá nhiều.
Tâm lí không ổn định.
3. Các ngành nghề đào tạo
Vận hành máy, chế tạo máy, cơ khí ứng dụng, tự động, bảo trì và sửa chữa ô tô, thiết bị
điện, lắp đặt điện, bảo hành, sửa chữa điện _ điện tử , tin học, xây dựng, trồng trọt, chăn nuôi, trồng
rừng, nuôi trồng thủy sản, mộc dân dụng, mộc mĩ nghệ, thể thao, nấu ăn, làm vườn và chăm sóc
cây xanh, may mặc, thêu nghệ thuật, đan, móc, làm hoa, điêu khắc, nhân viên kĩ thuật phòng
lab, tài xế, lái tàu…
Điện, cơ khí, ô tô, công nghệ thông tin, kĩ thuật nấu ăn, kĩ thuật cảnh quan và môi
trường, kĩ thuật chăm sóc cây cảnh, may dân dụng, may công nghiệp, kĩ thuật làm vườn, kĩ thuật
nuôi trồng thủy sản…
ẦN V. PHẦN PHỤ LỤC
Các công việc hoạt động thuộc nhóm kĩ thuật có từ công nhân bậc 2/7, 3/7, công nhân
kĩ thuật trình độ trung cấp nghề, kĩ sư thực hành, chế tạo, sản xuất, kiểm tra, điều khiển hệ
thống, gia công, chế biến cơ _ hóa _ điện _ điện tử, ô tô, đầu bếp…
Hiện nay, tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm Kĩ thuật tổng hợp _
hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp nghề, trung cấp chuyên
nghiệp, các trường cao đẳng nghề, đại học vùng và Trung ương.
3. NHÓM NGHỆ THUẬT
K ểu sáng tạo tự do _ văn h c _ ệ thuật (ký hiệu NT)
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm nghệ thuật rất thích và có khả năng làm việc thiên về tính chất nghệ
thuật như văn chương, vẽ, thiết kế mĩ thuật, đạo diễn, nghệ sĩ…
Đây là dạng nghề đang phát triển mạnh theo nhu cầu xã hội. Cùng trong nhóm này là các
nhà văn, các biên kịch, nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ…
Khả năng của người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Sáng tạo _ Tự do:
Sáng tạo, linh hoạt và thông minh. Kiên trì, nhạy cảm.
Tinh thần phục vụ tự nguyện.
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC
Có tính tưởng tượng không gian và nhận biết tốt hình dạng vật thể. Có khả năng sống
thích ứng.
Diễn tả ngôn từ lịch sự, rõ ràng.
Sáng tác trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, hội họa, thủ công mĩ nghệ; biểu
diễn văn hóa, nghệ thuật, dẫn chương trình.
Nghề phù hợp điển hình: viết văn, nghệ sĩ nhiếp ảnh, nghệ sĩ biểu diễn (nhạc, kịch, hát múa.),
hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc hay nhà thiết kế mẫu, giảng viên văn học…
Nhà văn, kiến trúc sư, họa sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên (điện ảnh, kịch, chèo, cải lương, tuồng…)
thợ thủ công mĩ nghệ (chạm khắc gỗ, thêu tranh, làm đồ gốm sứ, chạm bạc…), nhà báo,
bình luận viên, dẫn chương trình, người mẫu, nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ, đạo diễn, chuyên
viên trang điểm, thiết kế thời trang, kiến trúc sư…
Hiện nay,cótất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật tổng
hợp _ hướng nghiệp của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp, các trường đại
học vùng và đại học trên toàn quốc.
4. NHÓM XÃ HỘI
K ểu linh hoạt quảng giao _ phụ vụ xã ộ (ký hiệu XH)
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm xã hội có sở thích và có khả năng làm việc, giao tiếp người với người,
thích đi đây, đi đó. Cùng trong nhóm này là giáo viên, tư vấn viên, bác sĩ, luật sư...
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Quảng giao _ Linh hoạt:
Có khả năng tổng kết, quy nạp, diễn dịch.
Biết lắng nghe, lắng nghe tích cực, có phản hồi.
Sáng tạo, linh hoạt, thông minh.
Tuyệt đối tôn trọng ý kiến thân chủ.
Năng lực chú ý vững vàng.iên trì, nhạy cảm.
Lịch thiệp.
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm quản lí có sở thích và khả năng làm việc thiên về ra lệnh cho người
khác và lãnh đạo một nhóm người hay cả một tập thể lớn. Nghề thuộc nhóm này mang tính
chất quản lí như công an, sĩ quan, quản trị kinh doanh, kĩ thuật công nghệ, quản lí chuyên
nghiệp, điều hành hoạt động hệ thống có tầm cỡ ảnh hưởng rộng lớn với nhiều con người,
nhiều vấn đề ở cấp kinh tế, vĩ mô.
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Chủ nghĩa - Uy quyền:
Nhà quản trị theo quan niệm mới, tránh đặc quyền, độc quyền.
Trí tuệ là một quyền lực.
Tính cách cương nghị, biểu hiện từ vóc dáng đến tư thế đi đứng, ăn nói.
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC
Là người có kĩ năng sống: hài hòa, thích ứng, sáng suốt, tỉnh táo, có hệ thần kinh
vững , bình tĩnh xét đoán tình hình, đối tượng, có trí nhớ tốt, tập trung sâu, bền vững.
Đòi ỏ phải có các kĩ năng:
Kiến tạo tổ chức.
Xây dựng giá trị mới cho tổ chức.
Tạo ra động lực hoạt động.
Không ngừng tự giáo dục và giáo dục thuộc cấp, xây dựng tổ chức học tập.
2. Môi trường làm việc tương ứng
Môi trường làm việc mang tính chất quản lí, lãnh đạo, ra lệnh cho người khác và thực hiện các
chức năng:
Điều hành chung.
Chủ trì sản xuất.
Điều phối thông tin, chiến lược giao tiếp.
Giám sát từng giai đoạn; trợ giáo.
Tạo điều kiện hòa hợp và hội nhập.
Nghề phù hợp điển hình: nhà lãnh đạo, chủ doanh nghiệp, giám đốc điều hành, hiệu trưởng,
luật sư…
3. Các ngành nghề đào tạo
Công an, sĩ quan quân đội, quản trị kinh doanh, kĩ thuật công nghệ, chủ doanh nghiệp,
chuyên viên PR (pi-a), quản lí khách sạn, bếp trưởng khách sạn cao cấp, quản lí giáo dục
các cấp…
Hiện nay tất cả các ngành nghề này đều có đào tạo tại các trung tâm kĩ thuật tổng hợp _
hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề của địa phương, các trường trung cấp chuyên nghiệp,
các trường đại học vùng và đại học trên toàn quốc.
6. NHÓM NGHIỆP VỤ
K ểu thận tr g, ề ếp _ ệp vụ quy ủ (ký hiệu NV)
1. Đặc điểm
Những người ở nhóm nghiệp vụ có sở thích và có khả năng làm việc ở văn phòng, làm các
công việc sổ sách như các ngành nghề về văn thư, hành chính, tài vụ, bưu điện, tiếp tân....
Nhóm nghề này đòi hỏi phải có hoạt động giao tiếp với nhiều người, với nhiều công việc, có
nghiệp vụ, được huấn luyện từ trung cấp đến đại học trong doanh nghiệp, trong hoạt động
phục vụ công cộng…
Khả năng của những người thuộc nhóm này cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
Nền nếp _ thận trọng
Lĩnh hội diễn tả ngôn từ lịch sự, hấp dẫn, rõ ràng.
PHỤ LỤC 4
BỘ PHIẾU TRẮC NGHIỆM KHẢ NĂNG VÀ NGHỀ NGHIỆP
Quản lí, lãnh đạo và kinh doanh
Sáng tạo
Tôi khá giỏi trong việc sáng tạo ra những thứ mới.
Tôi khá giỏi trong việc nghĩ ra những ý tưởng mới, và làm cho mọi thứ
trở nên đẹp hơn.
Tôi có khiếu trong việc chơi dụng cụ âm nhạc hay nghe nhạc.
Tôi khá giỏi trong việc lắng nghe những vấn đề của người khác.
Tôi khá giỏi trong việc hiểu cảm xúc của người khác.
Tôi khá giỏi trong việc làm người khác cảm thấy thoải mái và hạnh
phúc.
Tôi thích giúp người khác. Bạn bè thường tâm sự với tôi khi họ buồn.
Tôi tự tin.
Tôi khá giỏi trong việc nói chuyện trước đám đông.
Tôi khá giỏi trong việc lãnh đạo người khác.
Bạn bè thường hỏi ý kiến của tôi, lắng nghe tôi, và nghe theo lời tôi
khuyên.
PHỤ LỤC 6
GIỚI THIỆU CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ: EM CHỌN NGHỀ GÌ?
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cổng thông tin điện
tử (Portal) được hiểu như là một trang web mà từ đó, người sử dụng có thể dễ dàng truy xuất
các trang web và các dịch vụ thông tin khác trên mạng máy tính là nguồn cung cấp mọi thông
tin về văn hóa, kinh tế, xã hội cập nhật nhất, nhanh nhất, nhiều nhất, đồng thời nó cũng
giúp cho mọi người kết nối với nhau một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Trong thời gian qua, VVOB Việt Nam đã hỗ trợ cho các tỉnh tham gia chương trình hướng
nghiệp cổng thông tin điện tử http://www.emchonnghegi.edu.vn (có thể gọi là cổng thông
tin “em chọn nghề gì”)
PHẦN V. PHẦN PHỤ LỤC
Dưới đây là một vài nét về cổng thông tin điện tử này
1. Cơ chế hoạt động
Cổng thông tin này được xây dựng nhằm xuất bản thông tin và liên kết các thông tin về
hướng nghiệp. Nội dung chính của cổng thông tin là hệ thống các liên kết tới các địa chỉ đã có
sẵn trên Internet và được nhóm thành các chủ đề khác nhau liên quan tới các hoạt động
hướng nghiệp của học sinh, giáo viên, tư vấn viên và cha mẹ.
Người dùng có thể đóng góp đường link theo các tiêu chí được công bố trên cổng thông tin.
Tuy nhiên, đường link này chưa xuất hiện trên cổng thông tin cho tới khi người quản trị cho
phép hiển thị.
Địa chỉ của cổng thông tin này là: http://www.emchonnghegi.edu.vn
2. Nội dung
Cổng thông tin “Em chọn nghề gì?” có những nội dung chính sau:
Cổng thông tin
Đây là phần chính của cổng thông tin bao gồm 11 nhóm vấn đề liên quan tới thông tin và các
hoạt động hướng nghiệp: 1.1. Việc tìm người; 1.2. Nghề nghiệp; 1.3. Thị trường lao động; 1.4.
Sự đa dạng và các cơ hội công bằng; 1.5. Doanh nghiệp; 1.6. Giáo dục và đào tạo; 1.7. Tự đánh
giá; 1.8. Luật Lao động và các quy định; 1.9. Gương sáng thành đạt; 1.10. Tin tức diễn đàn; 1.11.
Giải trí.
Mỗi nhóm vấn đề được chia tách thành các chủ để nhỏ và là nơi chứa các đường liên kết. Trang
v ự u ữ t v t v t v t ?
Tham vấn là một tiến trình tương tác giữa nhà tham vấn (NTV) và thân chủ
(TC) – người đang có vấn đề, khó khăn về tâm lý muốn được giúp đỡ nhằm giúp TC
chấp nhận thực tế của mình, xác định tiềm năng bản thân từ đó tự giải quyết vấn đề
của mình.
Tâm lý là một ngành khoa học khá mới mẻ ở VN, chính vì vậy hiện nay nước
ta vẫn chưa thống nhất về việc sử dụng khái niệm tham vấn hay tư vấn tâm lý. Tuy
nhiên giữa tư vấn và tham vấn có những nét khác biệt khá cơ bản.
Là cuộc nới chuyện mang tính cá nhân Tư vấn là cuộc nói chuyện giữa một
giữa NTV với một hoặc vài người đang “chuyên gia” về một lĩnh vực nào đó với
cần sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn một hoặc nhiều người đang cần lời
hoặc thách thức trong cuộc sống khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh vực ấy (Tư
vấn pháp luật, tư vấn tài chính…).
Tham vấn là một tiến trình gồm nhiều Quá trình tư vấn có thể diễn ra trong
cuộc nói chuyện nhằm giúp thân chủ một buổi nói chuyện. Người tư vấn giúp
sáng tỏ vấn đề, xác định khả năng và thế thân chủ bằng cách đưa ra những lời
mạnh của bản thân, từ đó xem xét các khuyên về mặt chuyên môn, cho TC biết
giải pháp khả thi nhằm đưa ra lựa chọn những quyết định họ cho là phù hợp
tối ưu nhất nhất đối với tình huống của TC
Ngoài kiến thức chuyên môn về tâm lý, Nhà tư vấn có kiến sâu trong một lĩnh
NTV cần có kiến thức cơ bản trong vực nhất định, và có khả năng truyền đạt
nhiều lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, pháp kiến thức đó đến TC của mình.
luật, sức khỏe…Kỹ năng cơ bản của nhà
tham vấn là lắng nghe, khai thác vấn đề,
cảm xúc của TC.
N - ?
Nhà tâm lý học đường là một nhà sư phạm được cấp bằng đào tạo về tư vấn
học đường với những kỹ năng chuyên biệt để hỗ trợ việc học, nhu cầu phát triển cá
nhân, xã hội và nghề nghiệp của học sinh.
Ở các nước phát triển, nhà tâm lý học đường (School Psychologist) là thành
phần không thể thiếu trong hệ thống trường học. Nhiệm vụ chính của họ là giúp học
sinh thành công trong học tập, xã hội và đời sống tình cảm. Ngoài ra họ còn phối hợp
với giáo viên, phụ huynh, các nhà chuyên môn khác nhằm tạo môi trường học tập an
toàn, lành mạnh cho tất cả học sinh.
N t v t ể ết ợ suy ĩ ủ
Nhiều học sinh không muốn hoặc xấu hổ khi nói ra những suy nghĩ, diễn biến
tâm lý của mình, cho rằng chỉ cần vài câu đơn giản thì nhà tư vấn có thể đoán được
những suy nghĩ trong lòng mình, nếu không thì cho rằng trình độ của người tư vấn
không cao. Thực ra, nhà tư vấn cũng là người, việc am hiểu ngôn ngữ cơ thể có thể
giúp nhà họ nhận biết những mâu thuẫn giữa lời nói và cử chỉ của học sinh, nhưng
cũng không thể giúp họ biết được học sinh thật sự đang nghĩ gì. Vì vậy việc cung cấp
thông tin rõ ràng, tường tận sẽ giúp tiến trình tư vấn hiệu quả hơn.
4 G o v ê p ụ tr p ò t v sẽ úp o v ê trừ trị
ữ s o
Việc học sinh tự nguyện tìm đến hoặc được gửi đến phòng tư vấn tâm lý nhằm
mục đích lắng nghe các em, hiểu được những suy nghĩ, tâm tư tình cảm của các em
chứ không phải các em được gửi đến phòng tư vấn để chịu một hình thức trừng phạt
nào cả. Tuy nhiên, trong khả năng chuyên môn của mình, các nhà tư vấn sẽ dùng các
kỹ năng để tiếp cận các em, giúp các em hiểu hơn về những suy nghĩ, tình cảm, và
hành động của mình để từ đó có thể có được những thay đổi tích cực.
5 v t ở tr d rê o s y o ả
ậ p ụ uy
Mục đích của tư vấn trường học là giúp đỡ học sinh và gia đình cũng là một
yếu tố trong cuộc sống của học sinh. Vì vậy, khi các bậc phụ huynh có nhu cầu trao
đổi và cần sự trợ giúp, các bậc phụ huynh có thể đăng ký để được tư vấn. Tuy nhiên,
trong những trường hợp cần thiết, cán bộ tư vấn có thể giới thiệu các bậc phụ huynh
đến các dịch vụ trợ giúp có hiệu quả hơn như đến phòng tư vấn gia đình, tham gia các
lớp kỹ năng….
C p ả ữ s t ế p ò t v ều ữ
s “ v ề”?
Ở nước ta tư vấn tâm lý nói chung và tư vấn học đường nói riêng là lĩnh vực mới và
phát triền tương đối muộn, đa số mọi người còn khá e ngại trong việc tiếp cận với các
hoạt động này. Học sinh thông thường đều nhìn trước nhìn sau, lấy hết can đảm mới
dám bước vào phòng tư vấn, dưới sự bảo đảm nhiều lần của nhà tư vấn mới dám bộc
lộ tâm trạng, tình cảm thật của mình. Vì trong mắt nhiều người, người đến phòng tư
vấn là những người không bình thường, có vấn đề về tâm lý hoặc bệnh tinh
thần. Thực ra, đại đa số những học sinh tìm đến phòng tham vấn học đường đều là
những người có tâm lý bình thường. Trong cuộc sống, các em gặp phải những vấn đề
mà bản thân không thể giải quyết được như: vấn đề học tập, vấn đề trong giao tiếp,
vấn đề trong tình yêu, trong quan hệ với gia đình, lựa chọn nghề nghiệp… Những vấn
đề này là một bộ phận trong cuộc sống của chúng ta, việc tìm đến phòng tâm lý học
đường cho thấy những học sinh này biết quan tâm, chăm sóc sức khỏe tinh thần của
mình và có mục tiêu cuộc sống tương đối cao, hy vọng thông qua việc tư vấn để tự
hoàn thiện bản thân, không tránh né, phủ nhận vấn đề.
7. t ể s ữ ều ứ ú ủ về o v ê dạy to vớ
o v ê p ụ tr p ò t v ệu ữ ều y ị t ết ộ
sẽ ị o v ê dạy to ” ” tro t ơ ?
Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của tư vấn tâm lý bảo mật thông
tin. Nhân viên tư vấn học đường sẽ có trách nhiệm bảo mật tất cả những thông tin
học sinh cung cấp cho mình và có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu cố
tình tiết lộ thông tin của học sinh. Thông tin chỉ được tiết lộ trong các trường hợp
sau: học sinh cho phép tiết lộ, chia sẻ thông tin; học sinh có nguy cơ làm hại đến bản
thân và người khác (có ý định tự tử hoặc giết người); do yêu cầu của các cơ quan an
ninh, pháp luật (phải thông báo cho học sinh biết). Vì vậy các em học sinh hoàn toàn
có thể yên tâm khi chia sẻ câu chuyện với nhà tư vấn!
N ữ tr tu , ều ệ số t ể tốt
ô t t v tâm lý?
Không thể phủ nhận một điều, những nhà tư vấn có nhiều kinh nghiêm sống sẽ
dễ dàng hơn trong việc thấu cảm và nhìn nhận vấn đề của thân chủ. Tuy nhiên một
NTV lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm chưa hẳn là một nhà tư vấn giỏi. Vì một NTV
tâm lý giỏi phải là người có những năng lực và phẩm chất khá riêng biệt. Thứ nhất họ
phải là người có kiến thức về quá trình phát triển tâm lý ở người: nhận thức, cảm xúc
và hành vi của con người. Thứ hai, họ phải là người có khả năng giao tiếp, lắng nghe
cũng như biết cách khai thác các cảm xúc, nhận thức và các biểu hiện của TC. Họ
được đào tạo cơ bản về kỹ năng tư vấn cũng như các lớp học dành cho việc trợ giúp
tâm lý cho TC. Họ cũng là người có những phẩm chất đặc biệt dành cho người làm tư
vấn như khả năng chấp nhận, khả năng thấu cảm, sự trung thực…Do vậy độ tuổi hay
trải nghiệm của NTV không quyết định mức độ thành công của buổi tham vấn.
p ă tro u ệ vớ ô ạ ớp, t ể
s uyệ y vớ ovê t v K o ê ế p t
v ?
Giống như khi bị sổ mũi, đau đầu… chúng ta tìm đến bác sỹ y khoa, khi có
những vấn đề về tinh thần chúng ta cũng nên tìm gặp nhà tư vấn tâm lý. Bạn có thể
tìm gặp nhà tư vấn trong những trường hợp sau:
- Khi bạn cảm thấy không hài lòng, khó chịu hoặc bất lực trong mối quan hệ
nào đó với những người xung quanh: bạn bè, gia đình, người yêu...
- Khi chính bạn là người gây bất bình cho những người xung quanh.
- Khi bạn hoặc những người xung quanh bạn nhận thấy gần đây ở bạn xuất
hiện những cá tính hiếm khi có, hoặc không có trong hành động tiền lệ của bạn.
- Khi bạn cảm thấy cô đơn buồn chán, lo âu, căng thẳng và sợ hãi…những
điều này lặp đi lặp lại và ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại của bạn.
- Khi bạn tự cảm thấy hoặc người bên cạnh bạn nhận thấy bạn nói nhiều hoặc
không muốn giao tiếp trong một thời điểm nào đó và luôn không cảm thấy hài lòng
trong cuộc sống hiện tại.
- Khi bạn cảm thấy không thích nghi hoặc khó thích nghi, điều này ảnh hưởng
đến mục tiêu hoặc những hoạt động bình thường của bạn và những người xung
quanh.
- Khi bạn luôn có những ý nghĩ tiêu cực, và có ý đinh tự sát.
Chính vì vậy em hoàn toàn có thể chia sẻ về mối quan hệ của mình với cô bạn
cùng lớp với giáo viên phụ trách phòng tư vấn học đường.
0 ều v ề ầ s ữ v ề yr t ộ ộ
ô t ể sắp ếp ú t ột u uyệ rõ r v ạ ạ Đ ều y
ovê t v ô ò ê uẩ ị pN V
Em có thể chia sẻ câu chuyện của mình theo trình tự những gì em đang
nghĩ. Không nhất thiết phải trình bày mạch lạc, rõ ràng, có mở đầu, có kết thúc. Giáo
viên tư vấn sẽ có những câu hỏi cần thiết để giúp em hệ thống vấn đề và tìm ra
phương hướng giải quyết. Thái độ trung thực và hợp tác trong việc chia sẻ vấn đề của
mình sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả buổi tư vấn
Một u t v t t t o u ị ủ d y
, t ể tr t ủ r ơ ể ế p ò t v s v ề
ủ
Tư vấn là một tiến trình lâu dài, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: mức độ phối
hợp, mong muốn giải quyết vấn đề của thân chủ, mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Có những vấn đề được giải quyết sau một vài buổi tư vấn (mỗi buổi từ 45 - 60 phút),
cũng có những vấn đề mất nhiều thời gian hơn, kéo dài vài tháng hoặc cả năm.
Việc bạn tranh thủ tìm đến phòng tư vấn trong giờ ra chơi, việc chia sẻ trong
tâm trạng thấp thỏm lo “sắp đến giờ vào học” sẽ gây khó khăn cho chính bạn và nhà
tư vấn trong việc tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề.
Nếu ử t ế p ò t v t s u o êu y
t ể ậ ợ t trả ,v ậ ằ o
Em có thể liên hệ trực tiếp với giáo viên phụ trách phòng tư vấn học đường để
nhận được thư trả lời. Thời gian trả lời thư phụ thuộc vào mức độ khẩn cấp, nghiêm
trọng của sự việc. Nhưng chậm nhất là sau 3 ngày làm việc (không tính ngày lễ, chủ
nhật) các em sẽ nhận được thư trả lời. Tuy nhiên, tính tương tác của hình thức tư vấn
qua thư chưa cao, giáo viên không thể làm rõ một số nội dung trong thư. Vì vậy, để
việc tư vấn hiệu quả hơn em có thể gửi mail, hoặc tham gia trò chuyện trực tuyến
tại địa chỉ: tuvanhocduongtkn@gmail.com
Tham khảo
Đôi nét về lịch sử tư vấn tâm lý:
1.1. Trên thế giới:
Tham vấn tâm lý học đường (School Counseling) hay còn gọi là tham vấn học
đường là một nhánh của ngành tham vấn tâm lý được xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 tại
Hoa Kỳ. Jesse B. Davis có thể được xem là một trong những người đầu tiên trong
lĩnh vực này khi giới thiệu một chương trình “N ữ ớ dẫ về ề ệp v
ạo ứ ” cho học sinh các trường học công. Frank Parsons, được xem như cha đẻ
của nghề Hướng dẫn (còn gọi Khải đạo), đã viết cuốn sách “C ự ột ề”
(Choosing a Vocation) vào năm 1909 qua đó trình bày phương pháp kết nối những
đặc điểm tính cách của một cá nhân với một nghề nghiệp.
Thế chiến thứ nhất, xuất hiện nhu cầu đánh giá (trắc nghiệm) các cá nhân, từ
lúc này thuật ngữ nhà tham vấn (counselor), thường được đề cập như là những
chuyên gia làm việc với những người trầm cảm, đã bắt đầu trở thành một phần trong
từ điển của các nhà giáo dục.
Thế chiến thứ hai kết thúc, chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra yêu cầu cho các nhà
tham vấn làm công việc sàng lọc, tuyển chọn các quân nhân và những chuyên gia cho
các ngành công nghiệp.
Những năm 1930, lý thuyết đầu tiên về Khải đạo được giới thiệu: Lý thuyết về
các nhân tố và đặc điểm của E. G. Williamson, (E. G. Williamson’s Trait and Factor
theory). Lý thuyết này trở nên nổi tiếng như là một sự chỉ đạo cho hoạt động tham
vấn.
Năm 1940, đạo luật George Barden (George Barden Act) – đạo luật về giáo
dục hướng nghiệp – ra đời đã mang lại những nguồn lực quan trọng cho sự phát triển
và hỗ trợ hoạt động khải đạo và tham vấn trong môi trường học đường cũng như
những môi trường khác. Đây là lần đầu tiên những nhà tham vấn học đường, những
kiểm huấn viên địa phương và các tiểu ban nhận được những sự hỗ trợ chính thức từ
chính phủ (sự điều hành, tài chính và nguồn nhân lực…)
Năm 1957, năm mà vệ tinh Sputnik của Nga được phóng vào quỹ đạo cũng là
thời điểm mà ngành tham vấn và khải đạo được “phóng lên”.
Năm 1962, cuốn sách của Wrenn, Nhà tham vấn trong một thế giới thay đổi
(The Counselor in a Changing World) đã định chế hóa các mục tiêu của tham vấn học
đường. Năm 1964, ASCA phát triển các vai trò và chức năng dành cho các nhà tham
vấn học đường
Năm 1965, đạo luật Giáo dục Tiểu học và Trung học (Elementary and
Secondary Education Act) ra đời và cung cấp nguồn quỹ để phát triển những cơ hội
giáo dục cho những gia đình nghèo.
Năm 1997, Tiêu chuẩn quốc gia dành cho các chương trình tham vấn học
đường (National Standards for School Counseling Programs) ra đời và kể từ đó,
ngành tham vấn học đường được xem là đã hoàn thiện.
Hiện nay, hiệp hội các nhà tham vấn học đường Hoa Kỳ (ASCA) được xem là
nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tham vấn tâm lý học đường của
hầu hết các nước trên thế giới.
1.2. Ở Việt Nam:
Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, chương trình khải đạo học đường đã
được triển khai trong các trường học. Sau ngày thống nhất đất nước, với sự thay đổi
gần như hoàn toàn cách thức tiếp cận của giáo dục, chương trình khải đạo đã không
còn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa của nó.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, với sự xuất hiện hàng loạt những vấn đề liên
quan đến đạo đức, kỷ luật trường học, học sinh tự tử, áp lực thi cử, những rối loạn
tâm lý, quan hệ thầy trò… của các trường học Việt Nam, những nhà giáo dục, tâm lý
và cùng những tổ chức và các cơ quan giáo dục bắt đầu đề cập đến việc phải có các
hoạt động tham vấn tâm lý trong trường học.
Từ khoảng năm 2000, nhiều trường học tại Tp. HCM như trường Khánh Hội A
– quận 4, Nguyễn Gia Thiều – quận Tân Bình, Diên Hồng – quận 10, Trương Công
Định, Phú Mỹ – quận Bình Thạnh, Mạc Đỉnh Chi – quận 6 và rất nhiều trường khác
nữa… đã chủ động phối hợp với các chuyên viên tâm lý và các tổ chức trong và
ngoài nước để triển khai các chương trình tham vấn học đường cho học sinh.
Năm 2003, hội thảo “N u ầu t v tạ p HCM” được Viện
Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP Tp. HCM tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà
tâm lý, giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động tham vấn học đường để phân
tích và kêu gọi sự quan tâm của giới chuyên môn cũng như các cơ quan chính phủ
trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt động tham vấn học đường tại Việt
Nam.
Năm 2004, Trung tâm Hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động nghiên
cứu và hỗ trợ hoạt động tham vấn học đường.
Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số – Gia đình – Trẻ em TP.
HCM và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em Tp. HCM đã tổ chức hội
thảo “K ệ ớ ầu t ự ệ ô t v tro tr ” cũng
nhận được sự quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và
những nhà lãnh đạo các trường học.
Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “ v t – o dụ – t ự t ễ
v ị ớ p t tr ể ” do Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Tp. HCM tổ chức
cũng đề cập đến vấn đề tham vấn học đường nhằm hỗ trợ học sinh và nhà trường
trong hoạt động giáo dục.
Trong khoảng thời gian này, một văn bản của Bộ Giáo dục đã được ban hành
nhằm chỉ đạo và hướng dẫn các Sở và trường học cùng những tổ chức liên quan trong
việc triển khai thực hiện chương trình tham vấn học đường.
Tháng 9 năm 2008 khóa đào tạo cử nhân tâm lý học, chuyên ngành Tâm lý học
trường học đầu tiên đã được thực hiện tại Khoa Tâm lý giáo dục thuộc Trường
ĐHSPHN.
Đến nay, vấn đề tham vấn học đường tại Việt Nam đã trở thành một đề tài
nóng bỏng và nhận được nhiều sự ủng hộ từ các em học sinh, phụ huynh, nhà trường,
các nhà tâm lý – giáo dục và các tổ chức giáo dục. Tuy nhiên, diện mạo của một
ngành nghề chuyên nghiệp vẫn chưa thật sự được định hình.
Những khó khăn phát triển tư vấn tâm lý học đường ở Việt Nam:
Những khó khăn trong việc phát triển tâm lý học đường ở nhà trường phổ
thông hiện nay:
- Trước hết, hiểu biết và sự sẵn sàng tiếp nhận khoa học tâm lý nói chung, tâm
lý học đường nói riêng ở Việt Nam của đa số người dân, trong đó có cả giáo viên phổ
thông (tuy có được đào tạo sơ lược về tâm lý học) còn nhiều hạn chế.
- Người dân khi vướng mắc tâm lý ít khi nghĩ đến việc tìm nhà chuyên môn để
giải quyết.
- Giáo viên phổ thông khi gặp học sinh khó giáo dục chỉ nghĩ nhiều đến biện
pháp giáo dục, gần như không nghĩ đến biện pháp của tâm lý học; những trường hợp
mắc các rối nhiễu tâm lý nặng như trầm cảm, loạn thần... thường được chỉ định đến
gặp bác sĩ tâm thần chứ cũng không phải chuyên gia tâm lý.
- Mọi người rất ít khi tự động tìm đến các dịch vụ tâm lý, có chăng chỉ tâm sự
trên điện thoại hay với các nhà tư vấn trực tuyến.
- Trong khi đó, tại trường học, ở tất cả các cấp học từ mầm non đến phổ thông,
những vấn đề tâm lý ở học sinh ngày càng gia tăng: bạo lực học đường, tự tử, trấn lột,
cướp của, giết người..., đặc biệt là tình trạng học sinh trầm cảm, tăng động giảm chú
ý, sa sút, khó khăn về nhận thức và học tập.
Thế nhưng gần như 100% trường phổ thông hiện nay không cung cấp dịch vụ tâm lý
học đường tại chỗ. Có thể nói, toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay đang
phát triển lệch, chỉ lo dạy chữ, dạy kiến thức. Các nhà trường đều có phần xa rời khoa
học phát triển con người, không mấy trường học vận dụng khoa học tâm lý giáo dục
để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.. Hoạt động tư vấn tâm lý học đường là
hoạt động mới trong trường học, chưa có sự thống nhất trong phạm vi cả nước về mô
hình tổ chức lẫn quy định về chuyên môn, biên chế, chế độ chính sách... Phần lớn các
địa phương đang trong giai đoạn “ ò ẫ ”, một bộ phận các nhà quản lý giáo dục
các cấp chưa quan tâm hoặc chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động này. Mặt khác,
việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác tư vấn tâm lý học đường cũng chưa
đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng.
Tại những trường có tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý học đường, các khó
khăn chủ yếu gặp phải là:
- Nhiều người vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của tâm lý học đường, họ cho rằng tư
vấn học đường chỉ có ích đối với một số trường hợp học sinh cá biệt, chứ không cần
thiết cho đại đa số học sinh. Đại đa số vẫn chưa nhận thức rõ các trường hợp nào thì
học sinh cần tư vấn, và cho rằng chỉ khi học sinh thật sự khủng hoảng về tâm lý thì
mới cần tư vấn, nhiều người chưa ý thức được tâm lý học đường có vai trò ngăn ngừa
các hậu quả tiêu cực hơn là góp phần khắc phục nó.
- Thứ hai, do nguồn kinh phí dành cho hoạt động tâm lý hạn chế, nên chưa có
chỉ tiêu biên chế các chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học đường, mà chỉ tư vấn tâm
lý theo kiểu “ ộ t v ê ”, hay các “ t v ệp d ”... Vì thế, hoạt động tư
vấn tâm lý thiếu tính chuyên nghiệp, trong nhiều trường hợp khi trò cần chia sẻ,
không mời được cộng tác viên hoặc thầy cô lại có tiết dạy…
- Một yếu tố nữa là do ảnh hưởng của Văn hóa người Việt, ngay từ nhỏ các em
ít khi được khuyến khích chia sẻ cảm tưởng và suy nghĩ của mình với người khác.
Nhiều em vẫn còn xu hướng tự giải quyết và không muốn tâm sự với người khác, đặc
biệt khi gặp phải những vấn đề tâm lý hay những vấn đề được coi là nhạy cảm. Do
xấu hổ và e ngại nên các em ít khi đến trung tâm trực tiếp xin trợ giúp, có em sử dụng
ta vấn qua điện thoại. Có em muốn tư vấn nhưng trường không có phòng tư ván học
đường. Mỗi khi gặp khó khăn, các em chủ yếu trao đổi với bạn bè, số ít thì trao đổi
với cha mẹ, một số tự giải quyết theo cách của mình... chính điều này dẫn đến sai lầm
trong hành vi.
Theo PGS.TS Trần Quốc Thành, Trưởng khoa Tâm lý giáo dục, Trường đại học sư
phạm Hà Nội, một trong những khó khăn đầu tiên của ngành không phải là tài chính,
mà thực tế là chưa có mã số viên chức cho ngành, hay số lượng học viên quan tâm tới
ngành còn ít (do quá mới)… nhiều phụ huynh cũng như trẻ em - thanh thiếu niên còn
e ngại, chưa muốn chia sẻ những vướng mắc liên quan đến các vấn đề tâm lý của
mình. Ông nhấn mạnh “Chúng tôi chỉ có mong muốn xã hội nhận thấy ngành này rất
cần thiết, ví dụ như xử trí ra sao với trẻ em nghiện game, bạo lực học đường, bắt nạt
học đường, …, phòng ngừa thế nào để các vấn đề đó ngày càng bớt xảy ra; và thấy
rằng trẻ em cần phải có người chuyên trách về tâm lý trợ giúp. Còn giáo viên hay
người thân của các em, dù nhiệt tình nhưng vẫn có những hạn chế nhất định vì không
phải là nhà chuyên môn”
BÁO CÁO
KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN, THAM VẤN
CỦA TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ HỘI TRẺ EM PHÚ YÊN
Đỗ ị úy
Cô t ã ộ v ê - TTCTXHTE
tắt:
Bài viết đề cập đến những kết quả hoạt động tư vấn đạt được của Trung tâm
Công tác xã hội trẻ em Phú Yên.Từ đó đề xuất các biện pháp để hoạt động của Trung
tâm Công tác xã hội trẻ em Phú Yên đạt hiệu quả cao hơn
I. Thực trạng trẻ em Phú Yên và sự ra đời của Trung tâm Công tác xã hội trẻ
em:
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và
toàn xã hội. Nhất là từ khi chỉ thị 55-CT-BCT của Bộ chính trị Ban hành về tăng
cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em có hiệu lực thi hành.
Lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban, ngành, hội đoàn thể từ cấp Tĩnh đến cơ
sở đặc biệt quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất để trẻ em Phú Yên được phát triển
toàn diện.
Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường, tác động của văn hóa không
lành mạnh từ các trò chơi game, điện tử làm ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống đạo đức
của các em. Mặt khác, do nhận thức của một số bộ phận cha mẹ chưa đúng mức về
trách nhiệm BVCS & GDTE và nhiều nguyên nhân tiêu cực khác tác động, đã làm tổn
thương đến các em cả về thể chất lẫn tinh thần. Nhiều em muốn được cộng đồng, nhà
trường, người thân hay tổ chức chia sẻ, muốn được gửi gấm tâm tư, nguyện vọng,
được bảo vệ, giúp đỡ, chăm sóc, muốn được tư vấn... TRUNG TÂM CÔNG TÁC XÃ
HỘI TRẺ EM ra đời là một sự cần thiết, là một địa chỉ tin cậy nhằm nâng cao chất
lượng và dần định hướng việc bảo vệ chăm sóc trẻ em ngày càng chuyên nghiệp, gắn
kết giữa Trẻ em – người chăm sóc trẻ - gia đình của trẻ - các nhà chuyên môn - các
nhà hảo tâm, các đơn vị bảo trợ xã hội và cộng đồng.
Trung Tâm công tác xã hội trẻ em tỉnh Phú Yên chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 01 tháng 08 năm 2010, theo quyết định số: 335/QĐ- UBND, ngày 11 tháng 3
năm 2010 do UBND tỉnh Phú Yên ban hành.
Về cơ cấu nhân sự: được UBND tỉnh Phú Yên phân bổ 04 biên chế: 01 Giám
đốc, 02 Công tác xã hội viên, 01 kế toán.
Ngoài ra, có sự trợ giúp từ nhóm công tác liên ngành Bảo vệ trẻ em cấp tỉnh
gồm có 10 người, hiện là cán bộ thuộc các ngành: Giáo dục, y tế, Tỉnh đoàn, Tòa án,
Công an, tâm lý...
Chức năng, nhiệm vụ: Trung tâm công tác xã hội trẻ em là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc sự chỉ đạo, điều hành của Sở LĐTB&XH, thực hiện các hoạt động truyền
thông, giáo dục, tư vấn, tham vấn và thực hiện các dịch vụ liên quan đến các lĩnh vực
công tác BV-CS&GDTE trên địa bàn Tỉnh Phú Yên.
tắt:
Bản thân tôi là một thành viên trong hội đồng tư vấn của Trung tâm công tác xã
hội và trẻ em, sau mấy năm tham gia công tác xã hội tôi xin mạnh dạn chia sẻ một số
kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của việc tư vấn tâm lý đáp ứng yêu cầu của đời
sống xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ về các lĩnh vực kinh
tế, xã hội và văn hóa cũng không ngừng phát triển, đời sống của người dân được từng
bước cải thiện tỷ lệ đói nghèo giảm, các tệ nạn xã hội được quản lý và giải quyết tốt
hơn. Tuy nhiên, cũng trong bối cảnh hiện nay thì sự phân hóa xã hội cũng là điều tất
yếu góp phần làm nảy sinh nhiều khó khăn thách thức đối với công tác bảo vệ, chăm
sóc giáo dục trẻ em.
Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi có nhiều biến đổi cả về sinh lý và tâm lý. Sự biến
đổi đó làm cho các em băn khoăn lo lắng và rất mong muốn được người khác giúp đỡ,
giải thích. Nhu cầu về hiểu biết, nhất là hiểu biết về tâm sinh lý, xã hội đang ngày
càng phát triển, các mối quan hệ mới, sự cư xử trong tình bạn, tình yêu luôn được các
em quan tâm tìm hiểu.
Trong lĩnh vực giáo dục ở nhà trường, thực tế khó có bài giảng nào, môn học
nào giải thích rõ và đầy đủ được những thắc mắc, trăn trở của các em nhất là những
vấn đề bức xúc có tính cấp bách xảy ra trong công việc hằng ngày, những vấn đề kiếm
sống, nếp sinh hoạt, cách giải quyết trước sự rủ rê của bạn bè, sự đe dọa của kẻ xấu,
nhiều vấn đề tế nhị trong gia đình. Những vấn đề bức xúc đó các em có nhu cầu được
giúp đỡ, được bảo vệ, được tậm sự mà không ảnh hưởng đến học tập và không bị la
mắng xúc phạm.
Đối với các em để chia sẻ được những vấn đề riêng tư, thầm kín, những vấn đề
tế nhị “bí mật” của mình cho một người nào đó thì chắc chắn đòi hỏi người đó phải có
uy tín, được các em tin cậy, quý mến thì các em mới có thể cởi mở bộc lộ, sự bộc lộ
vấn đề sâu sắc đến mức độ nào còn phụ thuộc vào người mà các em cần được giúp đỡ.
Năm 2010, tỉnh Phú Yên đã thành lập Trung tâm công tác xã hội trẻ em tỉnh
Phú Yên. Một trong những hoạt động chủ đạo của Trung tâm công tác xã hội trẻ em là
hoạt động tư vấn, tham vấn hỗ trợ khẩn cấp những trường hợp trẻ em bị tổn thương về
tâm lý. Hoạt động tư vấn – tham vấn của trung tâm qua nhiều kênh: điện thoại, làm
việc trực tiếp tại văn phòng, đặc biệt tư vấn – tham vấn tại cộng đồng. Với sự tác động
từ nhiều phía, can thiệp có tính chất sâu rộng đã nhanh chóng giúp đối tượng dần ổn
định về tâm lý và tự tin hơn khi giao tiếp với người xung quanh. Trung tâm công tác
xã hội trẻ em ở Phú Yên tuy mới thành lập nhưng đã triển khai rất nhiều hoạt động,
được đánh giá là thành công, mang lại lợi ích thiết thực cho nhiều đối tượng cần sự
giúp đỡ. Song thực tế chỉ khi nào các đối tượng thực sự bế tắc thì mới tìm đến trung
tâm. Vì vậy, nhiều trường hợp bị tổn thương tâm lý nặng nề, sự can thiệp không kịp
thời đã dẫn đến hậu quả đáng tiếc: bỏ nhà sống lang thang, mắc vào các tệ nạn xã hội,
thậm chí có trường hợp tự tử …
Bản thân tôi là một thành viên trong hội đồng tư vấn của Trung tâm công tác xã
hội và trẻ em, sau mấy năm tham gia công tác xã hội tôi xin chia sẻ một số kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả của việc tư vấn tâm lý đáp ứng yêu cầu của đời sống
xã hội:
1. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp của người tư vấn và người được tư vấn.
Trong giai đoạn hiện nay, mọi gia đình, mọi người đều phải tập trung lo toan kinh tề
nhằm đảm bảo cuộc sống cho các thành viên. Nhiều áp lực về đời sống kinh tế, xã hội
đã khiến các bậc cha mẹ có quá ít thời gian để chia sẻ hay chăm sóc con cái của mình.
Khi trẻ đến trường cha mẹ khoán trắng cho thầy, cô. Vì có quá nhiều áp lực tâm lý,
tình cảm, nhiều em đã có phản ứng gay gắt với thầy cô, bạn bè và đôi khi với cả chính
mình. Do các em khó điều chỉnh trước nhiều bức xúc không có người lắng nghe, các
em thiếu sự thông cảm thiếu sự bao dung của người khác. Vì vậy, xây dựng mối quan
hệ tốt đẹp sẽ quy định thành công của quá trình tư vấn. Người tư vấn cần chủ động
tạo ra mối quan hệ gần gũi để đối tượng có cơ hội nói lên những cảm xúc, những khó
khăn của bản thân, những trở ngại trong mối quan hệ với người khác, nói những điều
thầm kín mà không dễ dàng chia sẻ với ai, tạo cho người được tư vấn có cảm giác an
toàn, tin tưởng nơi người tư vấn.
Thực tế cho thấy nhiều phụ huynh có nhu cầu tư vấn nhưng không dám gặp cán
bộ tư vấn. Họ có nhiều tâm trạng: có thể sợ bị chê cười, kinh bỉ, có thể sợ bị lên án và
chỉ chích, họ có thể cảm thấy mình là người đi nhận sự ban ơn. Họ có thể giữ khoảng
cách và dè chừng, chính những tâm trạng này làm cho người được tư vấn và người tư
vấn cách xa nhau. Khoảng cách này ảnh hưởng đến kết quả quá trình tư vấn. Vì vậy,
người tư vấn cần chủ động tạo ra mối quan hệ gần gũi với cha mẹ học sinh, giúp họ
hiểu con, hiểu rõ hơn về những vấn đề họ, con cái đang gặp phải, tạo điều kiện cha mẹ
giúp đỡ con cái, cảm thông, chia sẻ với con, điều chỉnh bản thân xây dựng mối quan
hệ phù hợp với con.
2. Phải biết lắng nghe, chia sẻ cảm xúc, tâm tư, ước vọng của người cần tư vấn.
Lắng nghe để thấu hiểu được những thông điệp ẩn dấu bên trong mà người đến tư vấn
muốn gửi gắm: họ đang muốn gì, cần gì, đâu là điều cần giải quyết.
3. Cần giúp đối tượng nhận thức và hành vi đúng với những vấn đề mà họ quan
tâm. Điều quan trọng là người tư vấn không nên đưa các lời giáo huấn đối với người
cần tư vấn như một sự áp đặt làm cho họ cảm thấy mình bị lên lớp, phán xét. Người tư
vấn cần đưa ra những giải pháp hữu hiệu giúp người cần tư vấn có được quyết định
sáng suốt, lựa chọn những hướng giải quyết có hiệu quả nhất về các vấn đề mà bản
thân họ đang quan tâm. Đặc biệt là đối với lứa tuổi học sinh các em đang ở lứa tuổi vị
thành niên có những suy nghĩ bồng bột, thiếu suy xét lại dễ bị những tác động ảnh
hưởng tới bạn bè, các em phải chịu nhiều áp lực từ các mối quan hệ xã hội. Tư vấn
không phải chỉ là đưa ra những lời khuyên, đưa ra những hướng giải quyết các vấn đề
cho các em mà quan trọng người tư vấn có khả năng nhìn thấy các thế mạnh, ưu điểm
của học sinh biết hướng dẫn các em sử dụng thế mạnh đó để các em vượt qua các khó
khăn đang phải đối mặt. Cùng một vấn đề tư vấn ở một đối tượng sẽ có nhiều hướng
giải quyết nhưng chọn cách nào cho phù hợp với hoàn cảnh và mong muốn cho học
sinh phải do chính các em quyết định có như vậy các em mới hình thành cho bản thân
các kỹ năng giải quyết vấn đề và biết chịu trách nhiệm với quyết định của mình, qua
đó các em sẽ trưởng thành hơn trong cuộc sống.
4. Cần có sự nhạy cảm tinh tế và linh hoạt trong ứng xử với đối tượng tư vấn,
trong tư vấn cần phải biết lựa chọn và sử dụng ngôn từ dễ hiểu, lời đối thoại tương tác
phù hợp, phải có thái độ tôn trọng các em, sự tôn trọng đối tượng sẽ tạo dựng được
niềm tin và sự cởi mở trong quá trình tư vấn. Phải đặt vị trí của mình vào vị trí của đối
tượng mà xem xét, chỉ khi đó người tư vấn mới có thể hiểu được suy nghĩ và hành
động của đối tượng để cảm thông và tôn trọng họ. Phải biết giữ thể diện cho đối tượng
không nên tỏ vẻ coi thường, phán xét, lên án hành vi nào đó của đối tượng, không làm
đối tượng bẽ mặt trước người khác dù họ sai, có lỗi. Người tư vấn cần tạo cho đối
tượng tư vấn một niềm tin vào khả năng, vào sự cố gắng vào chính bản thân họ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về việc tư vấn tâm lý muốn chia
sẻ cùng các bạn đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiêu quả của công tác tư vấn tâm
lý trong mọi lĩnh vực cuộc sống, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.