Professional Documents
Culture Documents
Cac Yeu To Anh Huong Den Ty Le An Toan Von Cua He Thong Ngan Hang Thuong Mai Viet Nam
Cac Yeu To Anh Huong Den Ty Le An Toan Von Cua He Thong Ngan Hang Thuong Mai Viet Nam
MỤC LỤC
ii
4.2.3 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản47
4.2.4 Hệ số đòn bẩy và tỷ lệ nợ xấu................................................................ 48
4.2.5 Tốc độ tăng trưởng kinh tế và lãi suất cho vay bình quân..................... 49
4.2.6 Thực trạng của tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống Ngân hàng thương mại. 51
4.3 THỐNG KÊ MÔ TẢ...............................................................................51
4.4 PHÂN TÍCH TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC BIẾN................................55
4.5. KẾT QUẢ HỒI QUY CỦA MÔ HÌNH................................................56
4.6 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA MÔ HÌNH........................................ 58
4.6.1. So sánh giữa các mô hình Pooled OLS, FEM, REM của mô hình nghiên
cứu 58
4.6.2. Kiểm định các giả thuyết hồi quy của mô hình nghiên cứu..................59
4.6.2.1. Kiêm đinh hiẹn tương đa cộng tuyên..................................................59
4.6.2.2 Kiêm đinh hiẹn tương phương sai của sai số thay đổi........................ 60
4.6.2.3 Kiêm tra hiẹn tương tự tương quan.....................................................61
4.6.3. Kết quả kiểm định băng phương pháp bình phương bé nhất tổng quát
khả thi – FGLS trong mô hình nghiên cứu......................................................62
4.7. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4..............................................................................66
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ VỀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH
ĐẾN TỶ LỆ AN TOÀN VỐN CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM....67
5.1 KHẲNG ĐỊNH ĐƯỢC TẦM NHÌN VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM.......................................................................................67
5.2 KIẾN NGHỊ VỀ QUY ĐỊNH AN TOÀN VỐN CỦA NHTM VIỆT
NAM...............................................................................................................67
5.3 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐẢM BẢO AN TOÀN VỐN VỚI HỆ THỐNG
NHTM VIỆT NAM.......................................................................................69
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5..............................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 73
iii
NH Ngân hàng
một chỉ báo về rủi ro của ngân hàng. CAR không chỉ phụ thuộc
vào quy mô tài sản mà còn bị ảnh hưởng bởi chất lượng tài
sản. Đó là lý do tại sao cơ quan quản lý ngân hàng ở các nước
yêu cầu các ngân hàng duy trì và đảm bảo CAR ở một mức tối
thiểu nhất định tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia.
CAR còn được
gọi là vốn đảm bảo rủi ro, là vốn lõi của một ngân hàng, là tỷ
lệ phần trăm của vốn ngân hàng với các tài sản rủi ro (Berger
et al., 1995).
Việc xác định tỷ lệ vốn của các Ngân hàng lại chịu tác
động của nhiều yếu tố. Chính vì vậy, việc xác định các yếu tố
tác động đến tỷ lệ vốn của Ngân hàng có thể giúp ích trong
việc ra quyết định để xây dựng tỷ lệ vốn tối ưu phù hợp với
đặc thù riêng của ngành, đặc biệt là Ngân hàng thương mại.
Hiện nay, Tỷ lệ an toàn vốn là một chỉ tiêu an toàn trong hoạt
động của ngân hàng, được quy định rõ trong các quy định của
các ngân hàng quốc tế (chuẩn Basel). Ở Việt Nam, tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu là 9%, theo quy định tại Thông tư 13/2010
của Ngân hàng Nhà nước (NHNH).
Tóm lại, tỷ lệ an toàn vốn mang một vai trò quan trọng
trong việc phát triển và giảm thiểu mức độ cho ngân hàng và
khách hàng. Từ đó nâng cao uy tín của cả hai bên, tạo thị
trường cạnh tranh minh bạch và lành mạnh. Tăng mạnh mức
độ tin cậy của HTNH đồng thời tăng cường tính kỷ luật thị
trường. Tuy nhiên, tỷ lệ an toàn vốn tuỳ thuộc vào quy định
của các cơ quan quản lý ngân hàng ở từng quốc gia. Đồng thời
tỷ lệ an toàn vốn cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố của bản
thân ngân hàng và các điều kiện của nền kinh tế.
Các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra răng, an toàn vốn của
ngân hàng bị tác động bởi các nhân tố vi mô và các nhân tố vĩ
mô nền kinh tế. Đồng thời, các nghiên cứu cũng cho thấy, ở
các quốc gia khác nhau thì các nhân tố tác động và mức độ
tác động của các nhân tố tới an toàn vốn cũng khác nhau. Do
đó, nghiên cứu về các nhân tố tác động tới an toàn vốn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các NHTM Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Vì vậy để xác định và lượng hóa được các yếu tố tác
động tiêu biểu liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn từ đó thúc đẩy
việc tạo lực niềm tin của khách hàng vừa đảm bảo được tỷ lệ
an toàn giúp các NHTM nói chung và NHTM Việt Nam nói riêng
tự bảo vệ mình và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển hội
nhập thì tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài đó là: “CÁC YẾU
TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ LỆ AN TOÀN VỐN CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM”.
1.2 MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
Mục tiêu chung: Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến “tỷ
lệ an toàn vốn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam”.
Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất, khảo lược vấn đề liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Thứ hai, nghiên cứu đánh giá tác động của các yếu tố:
Quy mô ngân hàng, tỷ lệ huy động vốn, tỷ lệ cho vay của
ngân hàng, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ tài sản có khả
năng thanh khoản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, hệ
số đòn bẩy, lãi suất bình quân, tỷ lệ nợ xấu và tốc độ tăng
trưởng kinh tế đến tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống NHTM Việt
Nam.
Thứ ba, đánh giá thực trạng tỷ lệ an toàn vốn và các
nhân tố tác động đến tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống NHTM
Việt Nam qua từng thời kỳ.
Thứ tư, nghiên cứu ứng dụng và đưa ra kiến nghị chính
sách kiểm soát phù hợp để NHTM phát triển hội nhập.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Thứ nhất, việc đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn có ảnh hưởng
đến việc phát triển hệ thống các NHTM?
Thứ hai, các yếu tố nào quyết định tác động đa chiều lên tỷ lệ
an toàn
vốn
? Thứ ba, tại sao phải nghiên cứu tỷ lệ an toàn vốn?
Thứ tư, liệu răng kết quả nghiên cứu có thể giúp đưa ra bài
học chính
sách phù hợp để phát triển các NHTM nói chung và NHTM Việt
Nam nói riêng?
1.4 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI:
Biến phụ thuộc: Nghiên cứu sử dụng biến số tỷ lệ an toàn vốn
Biến độc lập: Theo các nghiên cứu trước đây của nhiều
tác giả, nhóm nghiên cứu đã chọn lọc các yếu tố quyết định tỷ
lệ an toàn vốn của hệ thống ngân hàng thương mại bao gồm:
Quy mô ngân hàng, tỷ lệ huy động vốn, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho
vay của ngân hàng, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ huy
động vốn, tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản, tỷ suất lợi
nhuận trên tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu,
hệ số đòn bẩy, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất cho vay
bình quân.
Thứ nhất, đề tài nhăm lược khảo, tổng hợp được các
quan điểm khác nhau của các công trình nghiên cứu trước.
Thứ hai, với các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn
của các NHTM Việt Nam sẽ là một nguổn công trình nghiên
cứu với những dữ liệu cần thiết
cho các bài nghiên cứu tiếp theo, là nguồn tài liệu tham khảo
của các tác giả để phát triển một cách tốt nhất cho mai sau.
Thứ ba, Mang lại một nguồn thông tin hữu ích cho các
ngân hàng thương mại, nâng cao tầm nhìn phát triển giúp
kinh doanh hiệu quả hơn.
1.8 KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài: “Yêu tố quyêt đinh của tỷ lẹ an toàn vốn của
ngân hàng thương mại Viẹt Nam” được chia làm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu
chung Chương 2: Cơ sở
lý thuyết Chương 3: Mô
hình nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và
thảo luận Chương 5: Kết luận và
kiến nghị
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TỶ LỆ AN TOÀN VỐN
2.1.1 Khái niệm và cách đo lường tỷ lệ an toàn vốn
Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) là tỷ lệ của vốn chủ sở hữu trên
tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng, phản ánh mức đủ vốn
của ngân hàng. Theo tác giả Mpuga (2002) cho răng ngân
hàng có tỷ lệ an toàn vốn càng cao thì ngân hàng càng vững
mạnh. Bởi vì với tỷ lệ an toàn vốn cao, ngân hàng càng khó có
khả năng vỡ nợ.
Theo tác già Abel & Rafael, (2007) tỷ lệ an toàn vốn là
mức vốn tối thiểu mà các ngân hàng phải duy trì theo yêu cầu
của cơ quan quản lý, nó xuất phát từ mục đích tối đa hóa một
hàm phúc lợi xã hội có tính tới chi phí (sự gia tăng chi phí tín
dụng) và lợi ích của vốn (giảm sác xuất thất bại của ngân
hàng).
Shahatit (2011) cho răng tỷ lệ an toàn vốn có kỳ hạn
phản ánh khả năng và hiệu quả của các ngân hàng thương
mại trong việc đo lường và giám sát các rủi ro mà ngân hàng
phải đối mặt, để không chỉ hạn chế và kiểm soát rủi ro mà còn
đưa ra các quyết định phù hợp với chiến lược ngân hàng và
các chính sách ngân hàng.
Tóm lại tỷ lẹ an toàn vốn là mức vốn ngân hàng cần phải
duy trì theo quy đinh của cơ quan quản lý, nhằm hạn chê tối
thiêu rủi ro không mong muốn và có thê đảm bảo an toàn cho
ngân hàng và khách hàng gửi tiền.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định băng công thức sau:
�ố�
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) =
�ủ �ở �ữ� x 100%
�ổ� �à� �ả� �ó �ủ� �
Trong đó:
Vốn chủ sở hữu được xác định theo quy định tại Phụ lục 1
Thông tư 36/2014/TT-NHNN.
Tổng tài sản Có rủi ro là tổng giá trị các tài sản Có nội
bảng được xác định theo mức độ rủi ro và giá trị tài sản Có nội
bảng tương ứng của cam kết ngoại bảng được xác định theo
tín của cả hai bên, tạo thị trường cạnh tranh minh bạch và
lành mạnh. Tăng mạnh mức độ tin cậy của HTNH đồng thời
tăng cường tính kỷ luật thị trường. Tuy nhiên, tỷ lệ an toàn vốn
tuỳ thuộc vào quy định của các cơ quan quản lý ngân hàng ở
từng quốc gia. Đồng tời an toàn vốn cũng chịu ảnh hưởng bởi
các yếu tố của bản thân ngân hàng và các điều kiện của nền
kinh tế.
2.1.2 Tỷ lệ an toàn vốn theo BASEL
Tại Việt Nam,năm 1999 theo quyết định 297/1999 có hiệu
lực ngày 25/8/1999 với mức tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%
nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản ánh đầy đủ
hết tiêu chuẩn của Basel I.
Từ năm 2005 việc triển khai áp dụng các tiêu chuẩn của
Basel đã bước đầu được thực hiện khi Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) ban hành quyết định 457/2005/QĐ-NHNN dựa trên
một số tiêu chuẩn của Basel I. Qui định cho Tổ chức tín dụng,
trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ an toàn
vốn tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro.
Trong đó, vốn tự có của ngân hàng được chia thành 2 thành
phần: vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Tài sản “Có” rủi ro quy đổi bao
gồm: tài sản “Có” rủi ro nội bảng và tài sản “Có” rủi ro của các
cam kết ngoại bảng.
Sau khi xuất hiện hàng loạt các vấn đề về khủng hoảng
kinh tế với sự sụp đổ của rất nhiều ngân hàng lớn như:
Northern Rock, Lehman Brothes, Fiannie Mae, Freddie Mac,
Washington Mutual,.. Với tình hình khẩn cấp như vậy các ngân
hàng Việt Nam cấp tín dụng quá lớn vào bất động sản và
chứng khoán, NHNN đã nâng tỷ lệ an toàn vốn lên 1%.
Tháng 5/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số
13/2010/TT-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-
NHNN, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng
lên 9% và nâng cao hệ số rủi ro lên 5 bậc 0%, 20%, 50%,
100% và thêm 250% so với QĐ 457/2005/QĐ-NHNN và với
tinh thần từng bước tiếp cận Basel II.
Năm 2014, Đối với khối NHTMCP, các ngân hàng quy mô
lớn đều có xu thế đạt được yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an
toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự gặp khó khăn
trước yêu cầu tăng vốn tự có nhăm đảm bảo an toàn. Trước
thực trạng này, NHNN đã ban hành Thông tư 36/2014/TT-
NHNN thay thế Thông tư 13/2010/TT-NHNN, với phương pháp
tiếp cận nhiều hơn các nội dung của Basel II, nhưng tỷ lệ an
toàn vốn vẫn quy định tối
các hệ thống công nghệ thông tin tương ứng theo quy chuẩn
Basel 3.
2.1.3 Quy định pháp luật về tỷ lệ an toàn vốn tại Việt Nam
Theo tác giả nghiên cứu Điều 9 Thông tư số 36/2014/TT-
NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định các giới hạn,
tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
(TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Thông tư 36) thì tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu phản ánh mức đủ vốn của
quản lí của ngân hàng. Xét xem từng góc độ của ngân hàng
thì quy mô là một yếu tố giúp ích cho việc mở rộng lĩnh vực
hoạt động của ngân hàng.
Năm 2002, Jackson và các tác giả đưa ra lời đề nghị các
ngân hàng lớn nếu muốn giữ vững xếp hạng tốt thì cần phải
có một lượng vốn dự trữ đáng kể
và được thị trường xác nhận. Còn với Shrieves và Dahl (1992)
thấy răng các ngân hàng lớn hơn có tỷ lệ an toàn vốn thấp
hơn. Điều này xảy ra bởi vì quy mô doanh nghiệp được coi như
một sự bảo đảm, giúp làm giảm nguy cơ rủi ro của họ. Các
nghiên cứu trước đây đã chỉ ra răng các ngân hàng lớn đã
giảm khả năng kiểm soát rủi ro và bảo mật do đầu tư vào các
tài sản có rủi ro cao (Aktas và cộng sự, 2015; Kumar Aspal &
Nazneen, 2014; Usman và cộng sự, 2019). Theo Brown &
Octavia (2010), quy mô ngân hàng tỷ lệ nghịch với hệ số CAR.
Các ngân hàng lớn hơn thường dễ dàng tiếp cận thị trường
vốn với chi phí giao dịch thấp hơn, vì vậy họ có xu hướng duy
trì tỷ lệ vốn thấp hơn. Ngoài ra, Alfon và cộng sự (2005) cho
răng lý do chính khiến các ngân hàng nhỏ duy trì mức vốn cao
hơn các ngân hàng lớn là mục tiêu của họ là tài trợ cho các
chiến lược kinh doanh dài hạn của họ. Do kinh phí ít nên trong
trường hợp cần vốn đầu tư, phải chi thêm tiền để điều chỉnh
kinh phí. Theo nghiên cứu của Bateni et al (2014) về các nhân
tố ảnh hưởng đến CAR của các ngân hàng ở Iran từ năm 2006
đến năm 2012 chỉ ra răng, quy mô ngân hàng có mối tương
quan tỷ lệ nghịch với CAR. Với kết quả nghiên cứu (Shingjergji
and Hyseni, 2015; Mekonnen, 2015), kết quả ước lượng từ mô
hình hồi quy của nghiên cứu này cho thấy quy mô ngân hàng
có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, nghĩa
là quy mô tài sản của các ngân hàng càng lớn thì tỷ lệ an toàn
vốn của các ngân hàng càng giảm.
Vì vậy quy mô ngân hàng là phương diện mà các NHTM
nhìn nhận và điều chỉnh để phù hợp với tỷ lệ an toàn vốn thu
hút các vốn chủ sở hữu khác. Trong điều kiện kinh tế thế giới
ngày càng phát triển, Việt Nam cũng là một trong số những
quốc gia có tiềm năng phát triển tốt, các ngân hàng cũng
ngày càng mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động để khẳng
định thương hiệu và cũng để tiếp cận khách hàng hiệu quả
hơn.
2.2.2 Tỷ lệ huy động vốn
Nguồn vốn huy động là vốn của các chủ thể trong nền
kinh tế được ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng kinh
doanh trong một thời gian nhất định sau đó sẽ hoàn trả gốc
và lãi cho chủ sở hữu. Ngân hàng huy động vốn thông qua
nhận tiền gửi, nhận tiết kiệm của khách hàng, phát hành
chứng từ có giá. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất
nhưng mà không ổn định. Vốn huy động được dùng để thiết
lập dự trữ và cấp tín dụng cho nền kinh tế.
tăng lên thì tỷ lệ an toàn vốn (CAR) cũng tăng lên và ngược
lại.
2.2.4 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro tín dụng được định nghĩa là tỷ số giữa
khoản dự phòng rủi ro tín dụng và tổng dư nợ cho vay. Khoản
dự phòng này được ước tính đủ để bù lỗ trong danh mục cho
vay. Theo Blose (2001) cho răng dự trữ tổn thất cho vay gây
ra một sự suy giảm trong tỷ lệ an toàn vốn. Cũng tương tự
Blose
(2001), Hassan (1992) và Chol (2000) kết luận một mối quan
hệ nghịch chiều giữa tỷ lệ an toàn vốn và dự phòng rủi ro tín
dụng.
Theo Bikker & Metzemakers (2005), mức dự phòng rủi ro
tín dụng đã thay đổi đáng kể trong kỳ kinh doanh. Trong thời
kỳ kinh tế suy thoái, dự phòng rủi ro tín dụng thường cao hơn
so với thời kỳ kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, nếu khoản dự
phòng không thể bù đắp được tất cả các lỗi tài khoản nợ,
trong trường hợp kinh tế suy thoái, các ngân hàng sẽ phải sử
dụng nguồn vốn của chính mình để bù đắp cho những khoản
lỗ lớn trong nguồn vốn.
Nghiên cứu đặt giả thuyết có mối quan hệ ngược chiều
giữa tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng với tỷ lệ an toàn vốn. Khi
các khoản dự phòng rủi ro tín dụng tăng lên thì ngân hàng có
xu hướng cho vay nhiều hơn, tức ngân hàng có xu hướng chấp
nhận nhiều rủi ro trong các khoản cho vay.
2.2.5 Tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản
Theo báo điện tử Chính Phủ thì tài sản có khả năng thanh
khoản cao là tiền mặt và tương đương tiền mặt, các công cụ
tài chính ngắn hạn, chứng khoán dễ bán, các khoản phải thu
thương mại, các khoản phải thu tài chính ngắn hạn và các tài
sản khác mà có thể chuyển đổi thành tiền mặt trong vòng một
năm thể hiện tính thanh khoản của ngân hàng.
Theo El-Ansary & Hafez, (2015), thanh khoản được đo
lường băng chứng khoán trên tổng tài sản. Một ngân hàng
nắm giữ tiền mặt và tài sản thanh khoản cao hơn không cần
phải đi vay và nắm giữ mức vốn chủ sở hữu cao hơn. Theo
Thông tư 23/2015 / TT-NHNN, Quyết định số 581/2003 / QĐ
được sửa đổi, bổ sung-NHNN ban hành quy định về tỷ lệ dự trữ
bắt buộc để đảm bảo khả năng thanh khoản của các tổ chức
tín dụng. Tính thanh khoản càng cao thì nguy cơ phá sản càng
thấp, bởi vì băng cách này, ngân hàng có thể giảm chi phí đi
vay bên ngoài, đồng thời nâng cao khả năng chịu rủi ro tài
chính và thúc đẩy khả năng sinh lời. Theo nghiên cứu thực
nghiệm của Aktas et al. (2015) cho thấy tác động tích cực
giữa tỷ lệ tài sản có khả năng thành khoản với CAR. Nghiên
cứu của Abusharba et al. (2013) đối với 11 ngân hàng Hồi giáo
tại Indonesian trong giai đoạn 2009 - 2011. Nghiên cứu sử
dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng cũng đã cho ra kết quả
cho thấy răng tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản có tác
động cùng chiều với tỷ lệ an toàn vốn. Ành hưởng của tài
khoản có khả năng tới CAR của ngân hàng cho thấy cho
thấy CAR cao hơn dẫn tới tài khoản cao hơn. Đây là điều hoàn
toàn phù hợp với các khuyến nghị của Basel III.
Từ đó cho răng, mối quan hệ cùng chiều giữa thanh khoản
và tỷ lệ an toàn vốn (Buyuksalvarci & Abdioglu, 2011) và với
nghiên cứu của ông Angbazo (1997) thì kết quả vẫn cho răng,
khi tỷ lệ tiền mặt hay các khoản tương đương tiền mặt tăng
thì tính thanh khoản của ngân hàng càng cao. Vì vậy, khi tỷ lệ
tài sản có khả năng thanh khoản tăng có thể có một tác động
cùng chiều đến tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng.
2.2.6 ROA, ROE
Tỷ suất sinh lợi là thước đo hiệu quả hoạt động băng tiền
và khả năng này phải được đánh giá trong một khoản thời
gian cụ thể (Lê Phan Thị Diệu Thảo, 1997). Tỷ suất sinh lợi
trên tài sản (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Return on Assets là
ROA) là thước đo hiệu quả hoạt động của tổ chức. Đây là một
chỉ tiêu tài chính giúp ngân hàng xác định chính xác bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng) được tạo ra từ
một đổng tài sản. ROA đo lường hiệu quả của việc chuyển đổi
tài sản thành lợi nhuận. Tỷ lệ này lớn hơn 0 thể hiện được
hoạt động tại ngân hàng là có lãi, tỷ số này càng lớn thể hiện
khả năng lãnh đạo của ban quản lý hay sự hiệu quả tốt trong
công tác hoạt động.
Từ những tổng hợp của rất nhiều nghiên cứu về tỷ suất
sinh lợi của các Ngân hàng.của các tác giả sau: Deger Alper
và Adem Anbar (2011) tại thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ,
Serish Gul, Faiza Irshad và, Fadzlan Sufian (2011) tại Hàn
Quốc… đều có sử dụng đến tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản
(ROA).
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) được thể hiện băng
công thức sau:
�ợ� ��ậ� �� ��ế(�ợ�
ROAậ�
��� = �ò��) � ��
�ổ� �à� �ả�
lệ an toàn vốn, tuy nhiên điều đó cũng thể hiện mối quan hệ
nghịch biến với CAR của các NHTM bởi các nghiên cứu trước
đây đã chỉ ra điểu đó thông qua kết quả nghiên cứu của họ :
Almazari (2013),
Dreca (2014), Gropp & Heider (2010), Tiến & Ny
(2019). Các NHTM có khả năng sinh lời tốt hoạt động hiệu
quả. Vì thế các ngân hàng có ROA cao thường có CAR thấp
hơn. Với Gropp và Heider
(2007) tìm thấy răng các ngân hàng có lợi nhuận thì thường
tăng vốn tự có của mình. Điều đặc biệt là trong bài nghiên
cứu của Ong Tze San & Teh Boon Heng (2013) cũng đã đưa ra
kết quả răng ROA là biện pháp sinh lời tốt nhất.
ROE là chỉ số quan trọng nhất cho khả năng sinh lợi và là
tiềm năng tăng trưởng của ngân hàng. Tỷ suất sinh lợi trên
vốn chủ sỡ hữu (được viết tắt là ROE từ các chữ cái đầu của
cụm từ tiếng Anh Return on Equity). Đây là tỷ suất lợi nhuận
cho cổ đông hoặc tỷ lệ phần trăm lợi nhuận trên mỗi đồng vốn
cổ phần đã được tư vấn vào ngân hàng (Casu et al., 2015).
Cũng tương tự với tỷ suất ROA, chỉ tiêu ROE mang giá trị
càng cao thì thể hiện được hiệu quả trong việc sử dụng vốn cổ
đông càng tốt. Hệ số ROE càng cao thì các nhà đầu tư càng
muốn nắm giữ nhiều.
Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE) được thể hiện
trong công thức sau:
�ợ� ��ậ� �� ��ế(�ợ�
ROEậ�
��� = �ò��) � ��
�ố� �ủ�ở�ữ�
sản có thanh khoản cao, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và hệ
số đòn bẩy tác động không có ý nghĩa thống kê đến CAR.
Tương tự như các nghiên cứu ở trên, kết quả nghiên
cứu của Bateni et al. (2014) về các nhân tố ảnh hưởng đến
CAR của các ngân hàng ở Iran từ năm 2006 đến năm 2012
chỉ ra răng, quy mô ngân hàng có mối tương quan
�ổ� �ợ
�ệ �ố đò� �ẩ� =
�ổ� �ố� �ủ �ở �ữ�
2.2.8 Tỷ lệ nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu: Được tính băng tỷ lệ phần trăm trên tổng dư
nợ cho vay. Theo Thông báo số 40/2018 / TT-NHNN ngày
28/12/2018 được sửa đổi, bổ sung tại Thông báo số 13/2018 /
TT-NHNN ngày 18/5/2018 của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam,
nợ xấu được hiểu là thuộc các loại Nợ sau: 3,4,5. Nhóm thứ ba
là các khoản nợ cấp dưới, là các khoản nợ quá hạn từ 90 đến
180 ngày. Nhóm 4 bao gồm các khoản nợ phải thu khó đòi, có
thời gian đáo hạn từ 181 đến 360 ngày. Đồng thời, các khoản
nợ có khả năng mất vốn là nợ nhóm 5 quá hạn trên 360 ngày.
Nếu khoản nợ đó thuộc nhóm nợ từ 3 đến 5 thì khoản nợ đó
được xếp vào nhóm nợ khó đòi. Hầu hết các tác giả đều đồng
ý răng tỷ lệ nợ xấu càng cao thì tác động càng lớn đến chất
lượng tài sản trên bảng cân đối kế toán. Kế toán ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng, ngân hàng phải trích
lập dự phòng khi cho vay, tỷ lệ nợ khó đòi càng cao thì ngân
hàng phải trích lập dự phòng. Khi trích lập dự phòng, khả năng
sinh lời của ngân hàng giảm.
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì nguy cơ ảnh hưởng đến dòng
vốn của các ngân hàng thương mại càng to. Đây là nguyên
nhân chính kiềm chế sự lưu thông của tín dụng trong nền kinh
tế. Và với nghiên cứu của Shingjergji and Hyseni (2015) sử
dụng phương pháp ước lượng hồi quy tuyến tính thông thường
để đo lường tác động của các nhân tố đến CAR của các NHTM
ở Albanian trong giai đoạn 2007-2014. Kết quả ước lượng cho
thấy tỷ lệ nợ xấu có mối tương quan tỷ lệ nghịch với CAR.
Tương tự nghiên cứu trên thì các nghiên cứu của
Athanasoglou, Brissimis & Delis (2008) và Kargi (2011) cũng
đều đưa ra kết quả có mối tương quan nghịch chiều với CAR.
Điều đó thể hiện răng ngân hàng càng phải kiểm tra giám sát
chặt chẽ quá trình phát sinh nợ xấu để có biện pháp khắc
phục kịp thời để hạn chế rũi ro cho các NHTM Việt Nam.
2.2.9 GDP
Tăng trưởng kinh tế được tính theo logarit của GDP qua
các năm. Nghiên cứu của Gul, Irshad và Zaman (2011),
Demirguc-Kunt và Huizinga (1999) đã cho răng ở một quốc gia
nếu kinh tế phát triển càng mạnh mẽ thì lợi nhuận cho ngân
hàng ở chính quốc gia đó cũng sẽ tăng theo. Trong bối cảnh
kinh tế bất ổn, Ngân hàng sẽ thắt chặt các khoản cho vay,
hạn chế cho vay, hạ
lãi suất huy động, tăng dự phòng rủi ro tín dụng làm giảm khả
năng sinh lời của ngân hàng. Ngược lại, trong trường hợp nền
kinh tế tăng trưởng tốt, có lượng tiền nhàn rỗi lớn tạo điều kiện
cho ngân hàng tăng cường huy động vốn. Do đó, chu kỳ kinh
doanh ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận ròng (thông qua các
khoản cho vay) và dự phòng rủi ro tín dụng (thông qua chất
lượng danh mục cho vay) (Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị
Cành, 2015).Trong chu kỳ kinh tế đang tăng trưởng mạnh, các
ngân hàng có xu hướng giảm tỷ lệ an toàn vốn để tận dụng cơ
hội tăng trưởng. Mặt khác, trong thời kỳ kinh tế suy thoái, các
ngân hàng có xu hướng tăng tỷ lệ an toàn vốn để giảm thiểu
rủi ro. Theo các tác giả Aktas et al (2015), Do et al., (2019),
Shaddady & Moore (2015) thì các nghiên cứu chỉ ra răng, tăng
trưởng kinh tế có tác động ngược chiều với tỷ lệ an toàn vốn.
2.2.10 Lãi suất cho vay bình quân
Việc lãi suất cho vay bình quân toàn ngành tăng ảnh hưởng
không nhỏ đến thu nhập lãi của hệ thống ngân hàng. Thu
nhập lãi tăng sẽ góp phần vào lợi nhuận của ngân hàng và
giúp ngân hàng tăng vốn tự có để tăng khả năng chống đỡ với
rủi ro có thể xảy ra. Tương đồng với nghiên cứu của (Mili và
cộng sự, 2014) đã tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa lãi
suất và hệ số CAR của các công ty con của ngân hàng đa
quốc gia.
Theo Demirguç-Kunt & Detragiache (1997), với mức lãi
suất cho vay cao hơn có thể ảnh hưởng xấu đến khả năng trả
nợ của khách hàng. Lãi suất cho vay cao dẫn đến tỷ lệ khách
hàng rủi ro phá sản cao hơn và rũi ro ngân hàng cũng từ đó
mà tăng thêm. Điều này có thể tác động tiêu cực đến an toàn
vốn của ngân hàng, do nhiều người vay không có khả năng
thanh toán các khoản nợ. Sau đó các nghiên cứu của
Bahihuga (2007) và Williams (2011) cũng mang lại kết quả
tương tự, thể hiện mối quan hệ nghịch biến của lãi suất cho
vay với tỷ lệ an toàn vốn.
2.3 CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
2.3.1 Nghiên cứu nước ngoài
ROA), biên lãi ròng (NIM) và hệ số đoàn bẩy tài chính (LEV) và
kết quả nghiên cứu chỉ ra răng: các yếu tố cho vay trên tổng
tài sản (LOA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) và hệ
số đòn bẩy tài chính (LEV) có tác động ngược chiều với tỷ lệ
an toàn vốn, tỷ lệ trích lập dự phòng tín dụng (LLR) và tỷ suất
sinh lời trên tổng tài sản (ROA) có tác động cùng chiều với tỷ
lệ an toàn vốn. Các yếu tố quy mô, tiền gửi, thanh khoản và
biên lãi ròng (NIM) không có ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn.
2. Navapan và Tripe (2003) nghiên cứu chuyên sâu mối quan
hệ giữa tỷ lệ an toàn vốn và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của
các ngân hàng ở Úc và New Zealand từ năm 1996 đến 2002.
Nghiên cứu cho ra kết quả mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ
an toàn vốn và lợi nhuận ở các ngân hàng New Zealand. Còn
ở Úc, mối quan hệ giữa tỷ lệ an toàn vốn và lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu không rõ ràng, có sự khác biệt lớn giữa các ngân
hàng lớn và các ngân hàng nhỏ.
3. Nghiên cứu của Abusharba et al (2013) đối với 11 ngân
hàng Hồi giáo tại Indonesian trong giai đoạn 2009 - 2011.
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng, kết quả
cho thấy răng: yếu tố lợi nhuận (đo lường bởi tỷ suất sinh lời
trên tổng tài sản - ROA) và thanh khoản có tác động cùng
chiều với tỷ lệ an toàn vốn, yếu tố các khoản tiền không có
khả năng thu hồi được đo băng biến hoạt động tài chính
không hiệu quả (NPF) có tác động ngược chiều với tỷ lệ an
toàn vốn. Yếu tố tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản và hiệu quả
hoạt động không tác động đến tỷ lệ an toàn vốn.
4. Ahmet và Hasan (2011) nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến tỷ lệ an toàn vốn ngành ngân hàng của Thổ Nhĩ Kỳ.
Nghiên cứu lấy dữ liệu từ 24/32 NHTM từ 2006-2010. Kết quả
của nghiên cứu cho thấy răng tỷ lệ cho vay, tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu, hệ số đòn bẩy quan hệ ngược chiều với
tỷ lệ an toàn vốn còn tỷ lệ dự phòng cho vay khó đòi và tỷ
suất lợi nhuận trên tài sản biến thiên cùng chiều với tỷ lệ an
toàn vốn.
5. Một nghiên cứu khác đối với các ngân hàng tư nhân tại Ấn
Độ được thực hiện bởi (Kumar Aspal & Nazneen, 2014).
Nghiên cứu tập trung xem xét các yếu tố rủi ro như rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản và độ nhạy cảm về an toàn vốn ảnh
hưởng thế nào đến tỷ lệ an toàn vốn. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, hiệu quả quản lý, thanh
khoản và độ nhạy có ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn.
6. Nghiên cứu của (Shingjergji & Hyseni, 2015) xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn trong hệ thống ngân
hàng tại Albanian sau khủng hoảng tài chính. Dữ liệu được thu
thập từ năm 2007 đến 2014 với tổng cộng 31 quan sát. Kết
quả nghiên cứu chỉ ra răng: tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản
(ROA), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) không có
ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn. Tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ cho vay
trên tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có tác
động ngược chiều với tỷ lệ an toàn vốn. Quy mô có tác động
cùng chiều với tỷ lệ an toàn vốn.
7. Nghiên cứu của Kleff & Weber (2003) nghiên cứu về các
tác động đến CAR của ngân hàng của Đức từ năm 1992-2000
băng mô hình ước lượng GMM. Thông qua kết quả cho thấy
các tác nhân ảnh hưởng là quy mô ngân hàng. Kết thúc
nghiên cứu thể hiện được quy mô càng ngân hàng càng lớn
thì ảnh hường đến tỷ lệ an toàn vốn càng thấp vì ngân hàng
có thể tái cấp vốn trên thị trường.
8. Theo nghiên cứu của Wong et at. (2005) cho ra một kết
quả định lượng trên vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng và tỷ
lệ tăng trường GDP có quan hệ tỷ lệ nghịch và có ý nghỉa
thống kê với CAR. Ngoài ra các yếu tố về quy mô ngân hàng,
lãi suất liên ngân hàng lại tỷ lệ thuận với CAR.
9. Pant & Nidugala (2016) xem xét tác động của các chỉ số
kinh tế vĩ mô tới CAR của các ngân hàng Ấn Độ dựa trên dữ
liệu của 65 NHTM, phân tích hồi quy băng phương pháp GMM.
Kết quả cho thấy: tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, lạm phát và
lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với CAR. Tuy nhiên, tác
động của tỷ giá hối đoái tới CAR không có ảnh hưởng ngược
với kết quả trong nghiên cứu của Williams (2011).
Như vậy, có thể thấy, có khá nhiều các nghiên cứu về an
toàn vốn của các NHTM đã được nghiên cứu ở các quốc gia
khác nhau trên thế giới. Các nghiên cứu cho thấy an toàn vốn
được đo lường thông qua chỉ tiêu CAR, chịu tác động của
nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố vi mô và nhân tố vĩ mô
nền kinh tế.
khi đó, tác động của dự phòng các khoản cho vay khó đòi và
khả năng thanh khoản tới CAR lại không có ý nghĩa thống kê.
Bài báo cho thấy, các nhân tố vi mô đóng vai trò quan trọng
trọng việc quyết định CAR của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên,
bài báo chưa xem xét tác động của các nhân tố vĩ mô nền
kinh tế tới CAR.
Tỷ lệ cho vay Phạm Phát Tiến Mpuga (2002); Bateni Leila Bateni,
và Nguyễn Thị et al (2014); Hamidreza
Kiều My (2019); L.Bateni,H.Vakilifard Vakilifard &
Võ Hồng and F.Asghari (2014); Farshid Asghari
Đức,Nguyễn El-Ansary, O. A., and (2014); Ahmet và
Minh Vương, Đỗ H. M. Hafez (2015) Hasan (2011)
Thành Trung
(2014)
Tỷ lệ dự Leila Bateni , Navapan K, Tripe D Blose (2001),
phòng rủi ro Hamidreza (2003); Võ Hồng Đức, Hassan (1992) và
tín dụng Vakilifard & Nguyễn Minh Vương, Chol (2000); Phạm
Farshid Asghari Đỗ Thành Trung Phát Tiến và
(2014); El- (2014); Ahmet và Nguyễn Thị Kiều
Ansary, O. A., Hasan (2011) My (2019);
and H. M. Hafez
(2015)
Tỷ lệ tài sản Ahmet và Hasan Skully và các tác giả Stiroh (2004);
có khả năng (2011) (2009); Navapan K, Chiorazzo & các
thanh khoản Tripe D (2003); tác giả (2008)
Angbazo (1997); El-
Ansary & Hafez
(2015); Võ Hồng Đức,
Nguyễn Minh Vương,
Đỗ Thành Trung
(2014); Ahmet và
Hasan (2011)
Hệ số đòn Võ Hồng Đức, Ahmet và Hasan
bẫy Nguyễn Minh (2011); Aktas et al
Vương, Đỗ Thành (2015);
Trung (2014) Buyuksalvarci &
Abdioglu (2011)
Tỷ lệ nợ xấu Phạm Phát Tiến Athanasoglou,
và Nguyễn Thị Brissimis & Delis
Kiều My (2019) (2008); Kargi
(2011); Li & Zou
(2014); Noman &
các tác giả(2015);
Gizaw, Kabede &
Selvaraj (2015);
Rasika & Sampath
(2015).
Tốc độ tăng Asarkaya và Özcan Aktas et al.,
trưởng kinh tế (2007) (2015), Do et al
(2019), Shaddady
& Moore (2015),
Ramadhani Khalid
Mndeme (2015)
Theo cách nói của Galton thì có nghĩa là “quy về trung bình”.
Từ đó, vấn đề hồi quy được nhiều người quan tâm và hoàn
thiên.
Mô hình phân tích hồi quy đa biến là phân tích hồi quy
trong đó nghiên cứu sự phụ thuộc của một biến, biến phụ
thuộc, vào một hay nhiều biến khác, các biến giải thích, với ý
tưởng ước lượng hoặc dự đoán giá trị bình quân hay trung
bình (tổng thể) của biến phụ thuộc trên cơ sở các giá trị biết
trước hay cố định của các biến giải thích.
2.5.2 Mô hình tuyến tính đa biến tổng quát
Hàm hồi quy tuyến tính đa biến tổng thể có dạng:
�� = �� + �� ��� + �� ��� + … + �� ��� + ��
Trong đó:
�� là biến phụ thuộc.
�2� , �3� , …, ��� là biến độc lập (biến giải thích)
�1 - Hệ số tự do, �1 cho biết giá trị trung bình của biến
phụ thuộc (Y) băng bao nhiêu khi tất cả các biến độc lập ��
(j=2,3,…k) đều băng 0.
��(j=2,3,…k) - Hệ số hồi quy riêng của biến ��, �� cho
biết trung bình của Y sẽ tăng (giảm) bao nhiêu đơn vị khi
��tăng (hay giảm) 1 đơn vị.
�� là sai số ngẫu nhiên.
Các giả định của mô hình hồi quy tuyến tính
Các giả định của mô hình hồi quy tuyến tính:
+ Các �� có kỳ vọng toán học băng 0
+ Không có sự tương quan giữa các ��
+ Phương sai của các �� là không đổi
+ �� có phân phối chuẩn
+ Giữa các biến �2� , �3� , …, ��� không có quan hệ tuyến tính
+ Không có hiện tượng công tuyến giữa �2� , �3� , …, ��� 1
2.5.3 Phân tích tác động của biến độc lập lên biến phụ thuộc
Trong mô hình hồi quy để kiểm định xem biến X1 có ảnh
hưởng lên Y hay không, ta tiến hành các bước kiểm định như
sau:
Trong mô hình hồi quy: � = �� + ���� + ���� + … +
����
+ Các ước lượng bình phương bé nhất vẫn là ước lượng tuyến
tính, không chệch nhưng không phải là ước lượng hiệu quả (vì
phương sai không nhỏ nhất)
2
Phạm Trí Cao và Vũ Minh Châu (2009), Kinh tế lượng ứng dụng (Phần cơ bản), NXB Thống kê
Nguyên nhân:
Tính chất quán tính: do các chuỗi thời gian thường mang tính
chu kỳ.
Hiện tượng trễ: là hiện tượng biến phụ thuộc phụ thuộc
vào giá trị của chính nó tại thời điểm trước.
Hiện tượng mạng nhện: thường xảy ra đối với hàm cung
về nông sản hoặc các sản phẩm đòi hỏi cần một thời gian
nhất định mới có thể sản xuất được, khi đó lượng cung của
năm sau sẽ chịu tác động bởi giá cả của năm trước.
Ngoài ra, còn một số nguyên nhân xuất phát từ phía người nghiên
cứu như:
Xác định dạng hàm sai
Cách xử lý số liệu thu thập dẫn đến sai số
Do sử dụng phương pháp nội suy/ngoại suy cho số liệu
cũng dẫn đến sai số
Bỏ sót biến
Hậu quả của hiện tượng tự tương quan:
(1) Các ước lượng của hệ số hồi quy không còn tính chất BLUE
(2) Ước lượng của phương sai bị chệch, do đó làm cho
kiểm định t và F không còn ý nghĩa
(3) R2 có thể quá cao dẫn đến đánh giá sai sự phù hợp của mô
hình.
(4) Kết quả dự báo không còn đáng tin cậy
Phương pháp kiểm định hiện tượng tự tương quan:
(1) Phương pháp đồ thị:
- Hồi quy mô hình, xác định phần dư
- Vẽ đồ thị phần dư theo thời gian, phần dư theo chính nó của
thời kỳ trước, và vẽ đồ thị của (phần dư/độ lệch chuẩn) theo
thời gian. Nếu như các đồ thị đều có dạng ngẫu nhiên thì ta
kết luận không xảy ra hiện tượng tự tương quan.
(2) Sử dụng các kiểm định khác: kiểm định Durbin
Watson, kiểm định Breuch-Godfrey (BG)
Cách khắc phục hiện tượng tự tương quan:
(1) Thay đổi dạng hàm số
(2) Sử dụng sai phân bậc nhất
(3) Sử dụng dạng hàm log-log3.
3
Phạm Trí Cao và Vũ Minh Châu (2009), Kinh tế lượng ứng dụng (Phần cơ bản), NXB Thống kê.
phục được hiện tượng trên nhăm đảm bảo ước lượng thu được
vững và hiệu quả.
Bước 4: Kiêm đinh cac gia thiêt hôi quy cua mo hinh
nghien cưu
Các kiểm tra được thực hiện bao gồm kiểm định đa cộng
tuyến, tự tương quan và phương sai sai số thay đổi nhăm kiểm
tra sự phù hợp cũng như các khuyết tật của mô hình hồi quy.
Qua quá trình lược khảo tài liệu của các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước, cùng với sự tham khảo lý thuyết nghiên cứu về
các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn, đề tài tập trung
nghiên cứu và phân tích 11 nhân tố phù hợp với đặc điểm
ngành, phù hợp với các ngân hàng thương mại Việt Nam gồm:
quy mô ngân hàng thương mại, tỷ lệ huy động vốn, tỷ lệ cho
vay, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ tài sản có khả năng
thanh khoản, tỷ suất lợi nhuận trên
tổng tài sản, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, hệ số đòn
bẫy, tỷ lệ nợ xấu, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lãi suất cho vay
bình quân.
Biến đại diện cho tỷ lệ an toàn vốn (ký hiệu: CAR) – biến phụ
thuộc: được đo lường bởi chỉ số Vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản
có rủi ro.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ký hiệu: ROA) được đo
lường thông qua chỉ số ROA và được tính băng cách Lợi nhuận
sau thuế chia cho tổng tài sản.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ký hiệu: ROE) được
đo lường thông qua chỉ số ROE và được tính băng cách Lợi
nhuận sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu
Quy mô ngân hàng thương mại (kí hiệu: SIZE) được xác định
băng cách logarit tự nhiên tổng tài sản của ngân hàng.
Tỷ lệ huy động vốn (ký hiệu: CRR) được xác định thông qua
chỉ số tổng vốn huy động chia cho tổng tài sản.
Tỷ lệ cho vay (kí hiệu: LOAN) được đo lường băng tổng dư
nợ cho vay chia cho tổng tài sản. \
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (kí hiệu: CRR) được đo lường
băng lấy khoản dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ cho
vay.
Tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản (kí hiệu: LQA) được
xác định băng lấy dự trữ thanh khoản chia cho tổng tài sản.
Hệ số đòn bẫy (kí hiệu: LEF) được đo lường băng tổng nợ
trên bình quân vốn chủ sở hữu.
Tỷ lệ nợ xấu (kí hiệu: BAR) được xác định băng tổng nợ xấu
trên tổng dự nợ
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (kí
hiệu: GDP) Lãi suất cho vay bình
quân (kí hiệu: ALR)
Bảng 2: Tổng hợp các nhân tố
�ố� �ℎủ�ởℎữ�
Tỷ lệ an toàn vốn CAR
�ổ� �à� �ả� �í�ℎ �ℎ �ọ�
�ố �ủ� ��
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài �ợ� �ℎ�ậ� � �ℎ� ế
ROA
sản �ì�ℎ ��â� �ổ� �à� �ả�
�ổ� �ư �ợ�ℎ� �
Tỷ lệ cho vay LOAN
�ổ� �à� �ả� �ó
�ổ� �ợ
Hệ số đòn bẫy LEF
�ì�ℎ ��â� �ố� �ℎủ�ởℎữ�
�ổ� �ợ�ấ�
Tỷ lệ nợ xấu BAR
�ổ� �ư�ợ
Trong đó:
(+) cùng
chiều (-)
ngược chiều
7 NH
NHTMCP
TMCPÁKiên
Châu ACB
Kien Long 04/06/1993 444,530 21,616
18 27/10/1995 57,281 3,202
Long Kỹ
NH TMCP Bank
8 Techcombank 27/09/1993 439,603 35,049
Thương
NH TMCPViệtXăng
Nam
19 PG Bank 13/11/1993 36,153 3.000
DầuTMCP
NH Petrolimex
Việt
9 VP Bank 12/08/1993 419,027 25.300
NamTMCP
NH ThịnhSài
Vượng
Gòn
20 SaiGonBank 16/10/1987 23,943 3.080
10 Công Thương Eximbank 24/05/1989 160,435 12,355
NH TMCP Xuất
NH TMCP Tiên
22 TPBank 2008 206,315 13,528
Phong
theo 28 những rủi ro rất cao. Do đó, các ngân hàng cũng cần
thận trọng với nguy cơ rủi ro rất cao, không nên quá mạo
hiểm. Và với năm 2021 có sự tác động của COVID-19 là một
trong những nguy hiểm của các NHTM trong những năm thì
cần phải có sự chuẩn bị và phòng chống dịch một cách hợp lý.
Sử dụng nguồn vốn một
cách hợp lý để duy trì sự phát triển của ngân hàng một cách
có kế hoạch chu đáo.
4.2.2 Các yếu tố quy mô ngân hàng, tỷ lệ huy động vốn và tỷ
lệ cho vay
Trung bình quy mô ngân hàng của các NHTM tại Việt Nam giai
đoạn 2010- 2020 như sau:
YEAR Size
2010 17.90
2011 18.15
2012 18.15
2013 18.31
2014 18.46
2015 18.58
2016 18.74
2017 18.91
2018 19.02
2019 19.15
2020 19.29
Vậy sự tăng trưởng của quy mô ngân hàng trung bình được thể hiện
qua biểu đồ:
Hình 2: Quy mô ngân hàng của các NHTM tại Việt Nam
năm 2010-2020
Nhìn chung với sự tăng trưởng liên mạch như thế từ năm
2010-2020 cho thấy sự phát triển có định hướng rất tốt tăng
đều theo các năm, năm 2010 thì việc phát triển quy mô về
ngân hàng ngày càng được mở rộng tăng từ
17.90 nghìn tỷ lên 18.15 nghìn tỷ năm 2011 tức tăng ¼ nghìn
tỷ đồng. Nhưng do những biến đổi và cạnh tranh thì năm
2011-2012 không có sự chuyển biến mới mẻ nào giữ nguyên ở
mức cân băng là 18.15 nghìn tỷ đồng. Và sau những năm sau
đó quy mô ngân hàng trung bình dần dần đã vượt qua những
khủng hoảng kinh tế phát triển tăng đều mỗi năm giao
động tăng từ 0.12 -
0.17 nghìn tỷ đồng. Từ năm 2010-2020 tăng từ 17.90 nghìn tỷ
lên đến 19.29 nghìn tỷ tức tăng 1.39 nghìn tỷ, và đã có những
chuyển biến mới trong nền kinh tế nói chung và quy mô ngân
hàng nói riêng. Tuy nhiên các ngân hàng gần đây đang phải
gòng mình với đại dịch Covid-19 khiến quy mô ngân hàng bị
lay động. Ngân hàng thật sự phải chú trọng trong thời gian
này và cần có những biện pháp khắc phục khi xãy ra vấn đề
bất cập.
Với tốc độ tăng trưởng trung bình của tỷ lệ huy động vốn
và tỷ lệ nợ cũng được đề cập đây cũng là một trong những chỉ
tiêu quan trọng trong việc điều tiết và phát triển của các
NHTM tại Việt Nam. Qua đây thì tác giả đã tổng hợp tốc độ
tăng trưởng trung bình thông qua biểu đồ sau đây:
2010-2020
nhanh và đều qua các năm đỉnh điểm là năm 2019 tăng gần
2.83% so với năm 2018 ( 72.94% tăng lên 75.77%). Với năm
2020 nói chung là tất cả các tỷ lệ đều giảm so với năm 2019.
Với Loan thì giảm từ 72.77% giảm còn 72.57% giảm 0.2%
nhưng
các NHTM nên tìm những biện pháp khắc phục để hạn chế tối
đa rủi ro trong mùa dịch bệnh này một cách đúng đắn.
4.2.3 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng và tỷ lệ tài sản có
khả năng thanh khoản
Tốc độ tăng trưởng trung bình của tỷ lệ dự phòng rủi ro
tín dụng -LRR và tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản- LQA
của NHTM tại Việt Nam đây là 2 tỷ lệ quan trọng trong việc
điều hòa và khắc phục các rũi ro tín dụng sau việc cho khách
hàng vay vốn.
Hình 4: Tốc độ tăng trưởng trung bình LRR và LQA của
NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2010-
2020
Với tỷ lệ trung bình LRR thì tăng dần theo các năm tùy
thuộc vào các nhu cầu vay vốn của khách hàng. Năm 2010
LRR từ 0.47% tăng dần đều đến năm 2020 là 1.49% tức tăng
1.02% so với năm 2010. Vì rủi ro tín dụng là rủi ro mà một
khách hàng hoặc một nhóm người đi vay không thể hoàn trả
các khoản vay cho ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên
xảy ra và gây hậu quả nghiêm trọng, có khi dẫn đến phá sản.
Vì vậy, theo quy định của pháp luật, để đảm bảo hoạt động an
toàn của doanh nghiệp, kế toán thường trích lập dự phòng rủi
ro tín dụng.
Với tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản năm 2010 thì
có xu hướng tăng, 2011 tăng 2.53% so với năm 2010 nhưng
sau lại bắt đầu giảm dần đỉnh điểm và năm 2016 giảm mạnh
còn 12.96% so với năm 2011 là giảm 13.71%. với sự xuống
đốc đột ngột qua các năm cũng mang lại nhiều rủi ro và sự
bất
ổn trong việc phát triển của các NHTM tại Việt Nam. Nhờ
những bước tiến mới và mục tiêu đề ra thì đang dần hồi phục
và phát triển tới năm 2019 tỷ lệ trung bình LQA đang ở mức
16.22% và năm 2020 gặp nhiều biến động của thiên tai bảo lũ
thì rơi vào mức 15.50% giảm 0.72%, đây cũng là lúc mà ngân
hàng nên xem xét lại tình trạng và có những cách khắc phục
ổn định lại.
4.2.4 Hệ số đòn bẩy và tỷ lệ nợ xấu
Tốc độ tăng trưởng trung bình hệ số đòn bẩy và tỷ lệ nợ
xấu của các NHTMCP tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020. Với
tốc độ tăng trưởng trung bình hệ số đòn bẩy thì tác giả đã liệt
kê thông qua bảng dưới đây.
YEAR LEF
2010 16.09
2011 11.94
2012 9.89
2013 10.22
2014 11.24
2015 12.01
2016 19.69
2017 14.66
2018 14.47
2019 14.23
2020 14.19
từ 12.01 tăng lên 19.69 tức tăng 7.68 và dần về những năm
gần đây thì vẫn có xu hướng giảm. Năm 2020 đang ở mức
14.19 giảm nhiều
so với đỉnh điểm năm 2016. Tùy theo từng tăng thì sẽ có
những hệ số phù hợp với tình hình kinh tế hiện tại.
Với tốc độ tăng trưởng trung bình tỷ lệ nợ xấu của các NHTM
Việt Nam giai đoạn 2010-2020 thì được nhìn rõ qua sơ đồ sau:
Hình 5: Trung bình tỷ lệ nợ xấu của các NHTM
tại Việt Nam giai đoạn 2010-
2020
Tăng trưởng kinh tế rất quan trọng trong việc hoạt động
của các NHTM tại Việt Nam ở giai đoạn 2010-2020 thì có
nhiều chuyển biến mức tăng mạnh nhất vào năm 2011 với
16.91% sau đó có xu hướng giảm dần theo các năm và mức
giảm thấp vào năm 2015 giảm còn 3.78% giảm mạnh 3.94%
so với năm 2014 tức giảm từ 7.72% xuống còn 3.78%. Sau đó
tăng dần trở lại năm 2018 là 9.58 và những năm gần đây lại
giảm mạnh vào năm 2020 giảm còn 3.53%. Tuy tăng trưởng
kinh tế năm 2020 đạt 3.53%, tuy là mức thấp nhất trong 10
năm qua nhưng là một trong số ít các nước đạt tăng trưởng
dương và với dịch bệnh năm 2020 thì đây cũng là mức duy trì
ổn định so với tình hình dịch bệnh căng thẳng hiện tại.
Lãi suất cho vay bình quân cũng giống GDP trung bình.
Đều cũng có xu hướng tăng vào các năm 2011 với 15.46% sau
đó cũng giảm mạnh theo các năm còn lại và lãi suất trung
bình thấp nhất vào năm 2015 là 7.02% sau đó tăng dần theo
các năm sau đó và đến năm 2020 thì ở mức 9.8%. Việc duy trì
lãi suất như vậy cũng thể hiện răng các NHTM đang cố gắng
ổn định nhất có thể trong mùa dịch Covid-19 hiện nay.
4.3 THỐNG KÊ MÔ TẢ
Phân tích thống kê mô tả các biến nhăm tóm tắt các đặc
điểm của dữ liệu, được phân tích như sau:
Đối với biến tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA), trung
bình của các NHTM khá thấp xấp xỉ 0.79% tính đến thời điểm
2020, trong đó NHTM có tỷ
suất sinh lời trên tổng tài sản cao nhất là 4.73% và NHTM có
tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản thấp nhất là -5.51%. Điều này
chứng mình các ngân hàng ít khi kiếm tiền ở cả hai mặt của
bảng cân đối kế toán và thu nhập từ phí được bổ sung vào tất
cả các chi phí được phân bổ.
Tuy nhiên tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) cũng
khá ổn, trung bình đạt 9.33%, cao nhất là 81.13% nhưng
trong đó NHTM có tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu lên tới
-82%. Cho thấy tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng vốn chủ
sở hữu giữa các ngân hàng có sự chênh lệch khá lớn và thể
hiện sự cạnh tranh khốc liệt trong nền kinh tế toàn cầu hóa
khi các ngân hàng thương mại luôn cố gắng tìm tòi học hỏi và
phát triển để tạo ra lợi nhuận nhiều nhất trên mỗi đồng vốn từ
các nhà đầu tư.
Quy mô trung bình (SIZE) của các NHTM đạt mức 18.61
nghìn tỉ đồng, cao nhất là 21.14 nghìn tỉ đồng và thấp nhất là
15.92 nghìn tỉ đồng với độ lệch chuẩn lên tới 118.1%. Cho
thấy sự không tương đồng cao về quy mô giữa những ngân
hàng thương mại, đó cũng là lý do mà ngày nay có các ngân
hàng càng ngày mở rộng quy mô hoạt động, thay đổi diện
mạo, nâng cao hình ảnh mới nhăm gây sự chú ý đến khách
hàng từ đó có thể tăng hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh
tranh.
Tỷ lệ nợ xấu (BAR) khá cao, trung bình của các NHTM
chiếm 18.59% với độ lệch chuẩn 4.36%, nhưng trong đó có
các NHTM cũng khá tốt về mặt kiểm soát nợ xấu với tỷ lệ nợ
xấu băng 0%, ngược lại có vài NHTM chưa kiểm xoát được tỷ
lệ nợ xấu nên tỷ lệ nợ xấu lên tới 67.95%.
Tỷ lệ cho vay trung bình (LOAN) đạt 69.89% với độ lệch
chuẩn 10.88%, điều này nói lên các NHTM đang sử dụng tốt
nguồn vốn của mình để cho vay và hoạt động tín dụng đang
hoạt động vô cùng hiệu quả.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro (LRR) trung bình đạt mức 0.96% với
mức độ lệch chuẩn 1.02% cho ta thấy mức độ tương đồng
cũng khá cao. Điều này cho thấy các ngân hàng thương mại
luôn cố gắng để chất lượng cho vay được nâng cao và rủi ro
luôn được đề phòng để đảm bảo sự an toàn vốn trong quá
trình hoạt động kinh doanh.
Tỷ lệ huy động vốn trung bình (CRR) của các NHTM rất cao
đạt mức 82.80%, trong đó tỷ lệ huy động vốn cao nhất là
583% và thấp nhất 51.87% cùng với độ lệch chuẩn 32.70% thì
đánh giá khả năng thu hút nguồn vốn từ khách hàng nhăm
mở rộng hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của ngân
hàng ngày càng cao. Nguồn vốn huy động tăng trưởng càng
cao chứng tỏ các Ngân hàng thương mại đã áp dụng nhiều
biện pháp gia tăng năng lực huy động vốn, hay do uy tín của
ngân hàng ngày càng được nâng cao trên thị trường, các
Ngân hàng Thương mại đã tạo ra cho mình một hệ thống danh
mục các khách hàng truyền thống.
Tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản (LQA) trung bình của
NHTM đạt 18.26%, cao nhất là 61.04%, thấp nhất là 4.5%
cùng với độ lệch chuẩn 8.97%, cho thấy các Ngân hàng có sự
chuẩn bị về dự phòng, phòng ngừa về rủi ro thanh khoản khi
khách hàng không trả được nợ, ngân hàng sẽ gia tăng các
khoản nợ khó đòi, gia tăng nợ xấu sẽ tác động tiêu cực đến
tình hình thanh khoản, vì ngân hàng không kịp thu hồi tiền về
để thanh toán cho các khoản tiền gửi đến hạn hoặc các khoản
tiền gửi bị rút đột ngột và ồ ạt.
Hệ số đòn bẩy trung bình LEF là 13.51, với tùy ngân hàng nhỏ
nhất là
3.18 và lớn nhất là 161.92 với độ lệch chuẩn 1197%. Điều này
muốn nói các nhân tố ảnh hướng tới hệ số đòn bẩy lại biến đổi
theo từng ngân hàng. Trong bản thân những nhân tố đó, mức
độ tác động của chúng cũng là khác nhau đến những ngân
hàng khác nhau. Do vậy, các ngân hàng đã xác định tỷ lệ đòn
bẩy tài chính phù hợp cho ngân hàng của mình.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của các NHTM trung bình
đạt 8.98%, trong đó NHTM đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
nhất là 16.91%, ngược lại đạt 3.53% với độ lệch chuẩn
3.93%.Ta thấy sự phát triển GDP không đồng đều tại các ngân
hàng, điều này có thể giải thích răng từ năm 2010-2020 nước
ta có sự bất ổn về kinh tế khá lớn.
Lãi suất cho vay bình quân (ALR) trung bình của các NHTM
khá cao 9.57%, NHTM có lãi suất cho vay cao nhất là 16.95%,
và thấp nhất là 6.96% có độ lệch chuẩn khá lớn lên tới
315.18%. Điều này cho thấy sự không tương đồng tại các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam vì rất nhiều lý do, nhưng
ta thấy sự khác biệt rõ rệt như vậy là tùy chính sách của các
ROA 1.0000
-
LOAN 0.1904 0.1832 -0.2877 0.1419 1.0000
0.3717
-
CRR -0.0460 -0.0145 -0.0581 0.0327 0.0349 1.0000
0.0226
-
LQA -0.0702 -0.0383 -0.3759 -0.2376 0.0727 -0.0419 1.0000
0.1556
LEF -0.0904 0.2668 0.0878 -0.0004 0.3119 -0.0275 0.0116 -0.0734 1.0000
-
GDP 0.0703 -0.0159 -0.1627 -0.2306 -0.1185 -0.1032 0.3782 -0.0959 1.0000
0.0792
ALR 0.2006 0.1810 0.0175 -0.1549 -0.2232 -0.1167 -0.1763 0.3982 0.0003 0.5757 1.0000
CAR 0.0493 -0.1924 0.0527 0.0150 -0.5960 -0.1144 -0.1181 0.1550 -0.2661 0.2239 0.1672 1.0000
đều có những ảnh hưởng riêng biệt đến tỷ lệ an toàn vốn của
NHTM tại Việt Nam.
ALR. Các biến có tác động cùng chiều với tỷ lệ an toàn vốn
là:
BAR, LQA, LEF, GDP. Bên cạnh đó các biến tác động nghịch
chiều là ROE, SIZE, LOAN, CRR, ALR.
Ý nghĩa:
Kết quả hồi quy cho thấy giá trị R-squared = 0.4240 có nghĩa
mô hình đã giải thích được 42.4% sự thay đổi của biến phụ
thuộc CAR. Các biến độc lập đều khác “0” có ý nghĩa thống kê
ở độ tin cậy 90% (mức ý nghĩa 10%).
Mô hình được trình bày lại như sau:
�� = �. ��� − �. ���� ∗ �� − �. ���� ∗ ���− �.
���� ∗ ���
− �. ���� ∗ ��� + �. ���� ∗ �� + �. ���� ∗
���
+ �. ���� ∗ �� + �. ���� ∗ �� − �. ���� ∗
���
�� = -0.1397 cho thấy tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu
với tỷ lệ an toàn toan vốn có mối quan hệ nghịch biến với nhau
khi các yếu tố khác không đổi, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
tăng 1 đơn vị thì tỷ lệ an toàn vốn giảm 0.1397 đơn vị và
ngược lại.
�� = -0.0257 cho thấy quy mô ngân hàng thương mại và tỷ
lệ an toàn vốn có mối quan hệ nghịch biến với nhau. Nếu các
yếu tố khác giữ nguyên, quy mô của NHTM tăng thêm 1 đơn vị
thì tỷ lệ an toàn vốn giảm 0.0257 đơn vị và ngược lại.
�� = -0.0135 Biến tỷ lệ huy động vốn có tác động tiêu cực
đến tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM tại Việt Nam. Điều này có
nghĩa là khi cố định các nhân tố khác, nếu tỷ lệ huy động vốn
tăng 1 đơn vị thì tỷ lệ an toàn vốn giảm 0.0135 đơn vị và
ngược lại.
��= -0.0016 cho biết biến tỷ lệ cho vay có tác động tiêu cực
đến tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM (có độ tin cậy đến 90%).
Điều này có ý nghĩa là khi cố định các nhân tố khác, nếu tỷ lệ
cho vay tăng 1 đơn vị thì tỷ lệ an toàn vốn giảm 0.0016 đơn vị
và ngược lại.
�� = 0.0382, biến tỷ lệ tài sản có khả năng thanh khoản có
tác động tích cực đến tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM. Nếu
các yếu tố khác không đổi, tỷ lệ tài sản có khả năng thanh
khoản tăng 1 đơn vị thì tỷ lệ an toàn vốn tăng 0.0382 đơn vị
và ngược lại.
��= 0.0001, biến hệ số đòn bẩy có tác động tích cực đến tỷ
lệ an toàn vốn của các NHHTM, khi các yếu tố khác không đổi,
biến hệ số đòn bẩy tăng 1 đơn vị thì tỷ lệ an toàn vốn tăng
0.0001 đơn vị và ngược lại.
tin cậy. Khi đó sẽ xảy ra hiện tượng ngộ nhận răng các biến
độc lập trong mô hình nghiên cứu là có ý nghĩa, từ đó kiểm
định R2 và hệ số hồi quy không còn sử dụng được. Vì sự thay
đổi của phương sai
sai số làm hiệu quả của ước lượng bị mất đi. Vì vậy, khi đó cần
tiến hành kiểm định giả thuyết phương sai của sai số không
đổi thông qua kiểm định Wald, với giả thuyết H 0: Không có
hiện tượng phương sai thay đổi.
Bảng 10: Kiểm định phương sai của sai số thay đổi
Kết quả chi2 (77) = 160,84 Với mức ý nghĩa alpha (α) = 1%,
Prob > chi2 = 0,0000 kiểm định Wald cho kết quả là: Prob
= 0,0000.
Wooldridge test for autocorrelation in panel Kiểm định tự tương quan trên dữ
data liệu bảng
Kết quả F(1, 22) = 19.677 Với mức ý nghĩa alpha = 1%, kiểm
Prob > F = 0.0002 định cho kết quả là: Prob = 0,0002.
Với biến phụ thuộc CAR, sau khi sử dụng phương pháp FGLS để khắc phục tự tương
quan, mô hình có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 1% (do Prob = 0,0000) nên kết quả mô hình
phù hợp và có thể sử dụng được.
Biến GDP tác động cùng chiều đến CAR và có ý nghĩa thống
kê với mức ý nghĩa 10% (P>|z|=0,069<10%). Điều đó có
nghĩa là khi biến GDP tăng lên 10% sẽ làm tỷ lệ an toàn vốn
tăng 9.85%.
Biến ROE tác động ngược chiều đến CAR và có ý nghĩa thống
kê với mức ý nghĩa 1% (P>|z|=0,004<1%). Điều này có ý
nghĩa là khi biến tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu tăng
lên 1% sẽ làm tỷ lệ an toàn vốn giảm 12.24%.
Biến SIZE tác động ngược chiều đến CAR và có ý nghĩa thống
kê với mức ý nghĩa 1% (P>|z|=0,000<1%). Điều này có ý
nghĩa là khi biến quy mô ngân hàng tăng lên 1% sẽ làm tỷ lệ
an toàn vốn giảm 2.02%.
Biến ALR tác động ngược chiều đến CAR và có ý nghĩa thống
kê với mức ý nghĩa 1% (P>|z|=0,000<1%). Điều này có ý
nghĩa là khi biến lãi suất cho vay bình quân tăng lên 1% sẽ
làm tỷ lệ an toàn vốn giảm 0.27%.
Các biến còn lại trong mô hình là LRR, LOAN, CRR, LQA và LEF
không có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 10% (giá trị P>|z|
lớn hơn 10%).
4.7. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Dựa vào kết quả nghiên cứu đã trình bày trên, tác giả sẽ
tổng hợp những yếu tố tác động cũng như mối quan hệ cùng
hay ngược chiều đến CAR của các ngân hàng TM tại Việt Nam.
Bảng 13: Tổng hợp sự tác động của các nhân tố
KÝ HIỆU TÊN BIẾN KỲ VỌNG DẤU KẾT QUẢ
Tỷ lệ dự phòng rủi
LRR (-) (K)
ro tín dụng
kinh tế
Trong đó:
(+): cùng
chiều (-):
ngược chiều
- ngân hàng đầu tiên công bố hoàn thành cả 3 trụ cột. Vì vậy
sự có mặt của Basel II là rất thiết thực đối với HTNH trong đó
có Việt Nam.
Việc đảm bảo về các chuẩn mực theo tiêu chuẩn quốc tế
củng cần phải có các kế hoạch và phương pháp triển khai cụ
thể tránh sự phân hóa NHTM như năm 2012-2016. Sự phân
hóa NHTM lớn và nhỏ là một khuyết điểm cần cân băng và
phát triển bền vững.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị của các NHTM
Việc đầu tư và phát triển ngân hàng vẫn là điểu kiện tiên
quyết để mở rộng quy mô nhưng cái đặc biệt quan tâm và cần
chú ý là nâng cao năng lực quản trị nhất là năng lực quản trị
rủi ro. Việc HTNH càng phát triển thì tương đương với việc đối
đầu với rủi ro càng cao. Vì vậy cần nâng cao trách nhiệm quản
lí rủi ro đưa ra những phương án phù hợp rõ ràng, tránh những
rũi ro không kiểm soát được. Tích cực rèn luyện các chương
trình mang tính trách nhiệm học thuật và nâng cao trình độ
chuyên môn theo từng phòng ban của các NHTM từ đó đánh
giá lại năng lực, sức sáng tạo theo đúng yêu cầu được đề ra.
Từ đó tìm kiếm nguồn nhân lực có hiệu quả và phát triển ngân
hàng theo hướng công nghệ đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, thống kê kiểm soát tình hình nợ xấu theo từng
chu kỳ một cách chặt chẻ.
Theo nghiên cứu của Patwary và Tasneem (2019) nợ xấu làm
giảm khả năng cung cấp các khoản vay mới cho khách hàng
mới, vì tài sản của ngân hàng đang bị khách hàng chiếm dụng
làm cho hoạt động ngân hàng bị trì trệ kéo theo đó lợi nhuận
của ngân hàng bị sụt giảm dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém
đi. Từ đó khiến cho Ngân hàng mất khả năng thanh khoản và
mất lòng tin đối với khách hàng. Một ngân hàng làm việc cần
và luôn đặt chữ “Tín” lên hàng đầu mà khi ngân hàng không
có đủ số tiền hoàn trả cho người gửi khi đến hạn làm mất đi sự
uy tín của ngân hàng, người gửi tiền sẽ rút tiền và tìm đến
ngân hàng khác, điều này khiến cho tình hình huy động vốn
của ngân hàng trở nên khó khăn hơn.
Vì vậy kiểm soát tình hình nợ xấu là một yếu tố rất quan
trọng trong việc phát triển và điều hành ngân hàng. Khi chất
lượng ngân hàng tốt, khách hàng tiềm năng dồi dào thì việc
phát triển Ngân hàng càng ngày càng được mở rộng hơn từ đó
CAR sẽ dần dần giảm xuống theo Basel II. Ngoài ra các NHTM
cần nâng cao chất lượng của các báo cáo tài chính, báo cáo
thường
niên, tính minh bạch trong việc công bố thông tin một cách
chính xác để làm tăng tính trách nhiệm trong quản trị và
trong hoạt động của các TCTD. Đổi mới và xây dựng chiến
lược phù hợp theo từng thời kỳ để đảm bảo hạn chế tối thiểu
các rủi ro cho hệ thống NHTM Việt Nam.
5.3 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐẢM BẢO AN TOÀN VỐN VỚI HỆ
THỐNG NHTM VIỆT NAM
Qua quá trình nghiên cứu của nhóm tác giả thì nhóm tác
giả có những kiến nghị để đảm bảo an toàn vốn từ các nhân
tố có tác động đến tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống NHTM Việt
Nam như sau:
Với tác động của nhân tố tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài
sản thì kết quả đưa ra được là mối quan hệ tỉ lệ thuận với tỷ lệ
an toàn vốn. Việc tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản cũng
khiến tăng tỷ lệ an toàn vốn có nghĩa khả năng sinh lời càng
cao tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tăng vốn tự có. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện khan hiếm vốn như
hiện nay. Để tăng khả năng sinh lời, các NHTM Việt Nam cần
phải nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua các giải pháp cụ
thể như: ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản
lý và cung ứng dịch vụ, nâng cao năng lực quản trị của các
NHTM, nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy răng CAR có mối quan hệ tỷ
lệ nghịch với ROE. CAR cao hơn có xu hướng làm giảm rủi ro
đối với chủ sở hữu và do đó làm giảm ROE theo yêu cầu của
nhà đầu tư. Có nghĩa là hoạt động của ngân hàng càng có hiệu
quả, rủi ro ở mức thấp do đó các ngân hàng khả năng tăng
vốn, tăng CAR ở mức cao. Bởi các NHTM dễ dàng duy trì hoặc
tăng vốn chủ sở hữu khi thu nhập cao. Chính vì vậy, nâng cao
hiệu quả hoạt động để tăng thu nhập là giải pháp quan trọng
đối với các NHTM Việt Nam hiện nay, khi mà khả năng sinh lời
của các NHTM vẫn còn ở mức thấp. Cụ thể nên cần thay đổi và
thực hiện từng bước áp dụng nguồn công nghệ mới nhanh vào
đời sống. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động quản
lý và cung ứng dịch vụ mới thay vì cứ chủ yếu cung cấp các
sản phẩm ứng dụng công nghệ đơn giản như SMS banking,
mobile banking, internet banking. Các dịch vụ ngân hàng nên
đổi mới sáng tạo và đa dạng trên nhiều lĩnh vực để cung ứng
dịch vụ một cách thuận tiện cho khách hàng không đòi hỏi các
ngân hàng phải phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao
dịch từ đó giúp cho ngân hàng giảm chi phí đồng thời vẫn đảm
bảo hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ.
Ngoài ra ngân hàng Việt Nam cần đến gần với ngân hàng
số hơn vì theo số thống kê của Lê Công Vinh năm 2016 thì
“Số lượng người sử dụng internet và các thiết bị thông minh ở
Việt Nam tăng khá nhanh so với các quốc gia trong khu vực
ASEAN, tuy nhiên tỷ lệ khách hàng sử dụng internet cho giao
dịch ngân hàng mới chỉ khoảng 19%” vì vậy việc sử dụng tiền
mặt đang chiếm tỷ trong rất lớn đồng nghĩa với việc đây cũng
là một cơ hội phát triển lĩnh vực ngân hàng số ở Việt Nam.
Quy mô ngân hàng thương mại thông qua kết quả được
thể hiện lên mối quan hệ nghịch biến với tỷ lệ an toàn vốn
của hệ thống NHTM nghĩa là quy mô tài sản của các ngân
hàng càng lớn thì tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng càng
giảm. Các ngân hàng lớn hơn thường dễ dàng tiếp cận thị
trường vốn với chi phí giao dịch thấp hơn, vì vậy họ có xu
hướng duy trì tỷ lệ vốn thấp hơn. Ngoài ra, các ngân hàng nhỏ
duy trì mức vốn cao hơn các ngân hàng lớn là mục tiêu của
họ là tài trợ cho các chiến lược kinh doanh dài hạn của họ. Do
kinh phí ít nên trong trường hợp cần vốn đầu tư, phải chi thêm
tiền để điều chỉnh kinh phí nên tỷ lệ vốn cao hơn ở các ngân
hàng lớn. Việc mở rộng quy mô để phát triển nền kinh tế còn
cần phải chú tâm vào việc phát triển đào tạo nâng cao năng
lực quản trị của các NHTM Bộ máy quản trị phù hợp giúp
NHTM nâng cao năng lực quản trị và giảm thiểu chi phí hoạt
động cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
Trong thời gian tới khi Việt Nam áp dụng Basel II trong toàn hệ
thống ngân hàng, càng đòi hỏi các NHTM xây dựng cấu trúc
quản trị phù hợp theo Basel II. Đặc biệt là xây dựng mô hình
quản trị rủi ro. Mặt khác mở các lớp đào tạo và huấn luyện
nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Vì đây là
một nguồn lực có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động
của các NHTM. Các quy định trong hoạt động ngân hàng ngày
càng chặt chẽ, và hướng tới các chuẩn mực quốc tế, hoạt
động ngân hàng ngày càng ứng dụng nhiều công nghệ hiện
đại do đó đòi hỏi trình độ của đội ngũ nhân viên ngân hàng
ngày càng nâng cao. Chính vì vậy, các NHTM cần phải có kế
hoạch bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu
cầu đổi mới của ngân hàng.
Lãi suất cho vay bình quân qua kết quả nghiên cứu thì
được thể hiện mối quan hệ tương quan ngược chiều với tỷ lệ
an toàn vốn, với mức lãi suất cho vay cao hơn có thể ảnh
hưởng xấu đến khả năng trả nợ của khách hàng. Lãi suất cho
vay cao dẫn đến tỷ lệ khách hàng rủi ro phá sản cao hơn và
rũi ro ngân hàng cũng từ đó mà tăng thêm. Điều này có thể
tác động tiêu cực đến an
toàn vốn của ngân hàng, do nhiều người vay không có khả
năng thanh toán các khoản nợ. Vì vậy lãi suất cần được cân
nhắc hợp lý với từng thời kỳ để tránh xảy ra các rủi ro cho
khách hàng và ngân hàng.
10. Deger Alper & Adem Anbar 2011, Bank Specific and
Macroeconomic Determinants of Commercial Bank
Profitability: Empirical Evidence from Turkey. Business and
Economics Research Journal, No. 2, pp. 139-152.
11. El-Ansary, O. A., & Hafez, H. M. (2015). Determinants of
capital adequacy ratio: An empirical study on egyptian banks,
Corporate Ownership & Control, 13(1), 806-816.
12. Gropp, R., & Heider, F. (2010). The determinants of bank capital
structure.
Review of Finance, 14(4), 587-622.
13. Gujarati, D. (2003). Basic Econometrics (4th edn), New
York: McGraw – Hill.
14. Kumar Aspal, P., & Nazneen, A. (2014). An Empirical
Analysis of Capital Adequacy in the Indian Private Sector
Banks, American Journal of Research Communication, 2(11),
28-42.
15. Kleff & Weber (2003), “How do banks determine capital?
Evidence from Germany”, German Economic Review, 9(3),
pp.354-372.
16. Mekonnen, Y. (2015). Determinants of Capital Adequacy of
Ethiopia Commercial Banks, European Scientific Journal,
11(25), 315-331.
17. Mpuga, P. 2002. The 1998-99 banking crisis in Uganda:
What was the role of the new capital requirements?, Journal of
Financial Regulation and Compliance, 224-242.
18. Mili, M., Sahut, J. M., Trimeche, H., & Teulon, F. (2017).
Determinants of the capital adequacy ratio of foreign banks’
subsidiaries: The role of interbank market and regulation.
Research in International Business and Finance, 42(February),
442-453.
19. Tran, D. M., & Lu, P. N. (2018). Factors Affecting the Capital
Adequacy Ratio (Car) of the Commercial Banks Listed on the
Vietnam Stock Market, Journal of Business Management &
Economics, 06, 19-23.