TÌNH HÌNH QUẢN LÝ TÀI SẢN CÔNG TẠI TẬP ĐOÀN CÔNG NGHIỆP
THAN-KHOÁNG SẢN VIỆN NAM (TVK)
Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) được thành lập theo Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg ngày 26/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Tập đoàn Than Việt Nam và Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam, hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con. TKV được Nhà nước giao quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên trữ lượng than, bô-xít và các khoáng sản khác theo quy định của pháp luật; vốn nhà nước đầu tư vào TKV; một số công trình thuộc kết cấu hạ tầng có tính chất liên mỏ, liên khu vực. Quyền đối với vốn và tài sản của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) được quy định tại Điều 10 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam được ban hành kèm theo Nghị định 105/2018/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ với nội dung như sau: - Chiếm hữu, sử dụng vốn và tài sản của TKV để kinh doanh, thực hiện các lợi ích hợp pháp từ vốn và tài sản của TKV theo quy định của pháp luật. - Định đoạt đối với vốn và tài sản của TKV theo quy định của pháp luật. - Được sử dụng vốn, tài sản thuộc quyền quản lý của TKV để đầu tư theo quy định của pháp luật và Điều lệ này. - Quản lý và sử dụng các tài sản, nguồn lực được Nhà nước giao hay cho thuê là đất đai, tài nguyên khoáng sản, mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai, tài nguyên khoáng sản để hoạt động kinh doanh và thực hiện các hoạt động công ích khi được Nhà nước giao. - Nhà nước không điều chuyển vốn nhà nước đã đầu tư tại TKV và vốn, tài sản của TKV theo phương thức không thanh toán, trừ trường hợp: + Nhà nước quyết định tổ chức lại TKV; + TKV thực hiện mục tiêu cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; Trường hợp vốn nhà nước tại TKV lớn hơn vốn điều lệ được phê duyệt thì việc điều chuyển vốn nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật. Thanh kiểm tra tình hình quản lý tài sản công tại TKV năm 2022 Cuộc kiểm toán được tiến hành tại TKV từ ngày 7.9.2022 đến 31.10.2022, cho thấy nhiều tồn tại trong công tác lập, phê duyệt kế hoạch mua sắm; lập, phê duyệt thiết kế và dự toán; lập hồ sơ mời thầu; lựa chọn nhà thầu, nhà cung cấp; ký kết và thực hiện hợp đồng; quản lý chất lượng, tiến độ, nghiệm thu thanh toán trong quản lý đầu tư, mua sắm tài sản, hàng hóa, sửa chữa tài sản cố định thuê ngoài cung cấp dịch vụ… tại TKV. Cụ thể, Kiểm toán Nhà nước cho hay, đối với nội dung quản lý nợ phải thu, phải trả, còn tình trạng quản lý nợ phải thu chưa chặt chẽ để phát sinh nợ đọng, nợ phải thu khó đòi phải trích lập dự phòng tại ngày 31.12.2021. Báo cáo dẫn chứng, theo báo cáo của TKV, tổng giá trị nợ phải thu khó đòi tại ngày 31.12.2021 của TKV là 279,157 tỉ đồng, trích dự phòng nợ phải thu 238,278 tỉ đồng; đối chiếu nợ phải thu, phải trả chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, vẫn còn trường hợp cho khách hàng nợ tiền hàng không đúng quy định theo hợp đồng, dư nợ vượt bảo lãnh thanh toán; chậm hoàn ứng theo quy định của đơn vị. Về quản lý hàng tồn kho, còn có trường hợp chưa yêu cầu đơn vị giám định cung cấp các tài liệu thể hiện số lượng mẫu được lấy, sơ đồ lấy mẫu; chưa thực hiện kiểm định, hiệu chuẩn và đánh giá sai số của thiết bị đo mức tự động tại bể chứa xăng dầu; chưa thực hiện giám định độ ẩm lượng than sau khi nhập về kho, tiềm ẩn rủi ro chất lượng, độ ẩm hàng nhập kho... Về hiệu quả sử dụng tài sản cố định, còn có các trường hợp công suất bình quân thực tế hoạt động của một số phân xưởng sàng tuyển thấp hơn so với công suất thiết kế; hiệu suất sử dụng một số đoàn tàu vận chuyển còn thấp, vòng quay chậm; chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Quản lý doanh thu, thu nhập còn có đơn vị chưa thực hiện kê khai giá bán than theo quy định; một số khách hàng chưa có hồ sơ đủ điều kiện hộ kinh doanh thương mại. Còn tồn tại trong phê duyệt kế hoạch mua sắm Về quản lý chi phí, giá thành sản xuất kinh doanh, chưa ban hành đầy đủ các định mức kinh tế - kỹ thuật; chưa xây dựng, ban hành tỷ lệ hao hụt đối với công đoạn vận chuyển than theo từng cung độ vận chuyển, loại phương tiện, độ ẩm thực tế áp dụng; chưa cập nhật, xây dựng định mức tiêu hao nhiên liệu trên cơ sở định mức tiêu hao nhiên liệu TKV; định mức năng suất thiết bị, tiêu hao nhiên liệu đối với xe ô tô và máy xúc phục vụ công nghệ chưa gắn với năng suất hoạt động. Đối với việc quản lý các khoản phải nộp ngân sách nhà nước, có đơn vị chưa kê khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng biếu tặng; tính thiếu thuế thu nhập cá nhân; chưa loại trừ một số khoản chi phí khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp; chưa giảm thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập từ cổ tức; trích Quỹ Khoa học và công nghệ vượt quy định. Theo đó, đánh giá về tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả đối với 6 dự án, Kiểm toán Nhà nước khẳng định quá trình thực hiện đầu tư, tiến độ còn một số hạng mục, công trình thực hiện chậm so với yêu cầu của hợp đồng; dự án thực hiện chậm so với dự án đầu tư được phê duyệt và một số hạn chế tồn tại trong chấp hành chính sách, chế độ dẫn đến phải giảm thanh, quyết toán chi phí đầu tư…