ENTROPY CAO FeCoCrNi Abstract Hợp kim entropy cao (HEAs) hiện nay có độ cứng cao, nhưng khả năng biến dạng kém. Ở đây, hành vi biến dạng của các lớp nano Cu/ hợp kim entropy cao FeCoCrNi được chuẩn bị bởi thí nghiệm trước đó được nghiên cứu bằng mô phỏng nguyên tử. Kết quả cho thấy sự tạo mầm và trượt của lệch ở trong lớp Cu chiếm ưu thế biến dạng dẻo ban đầu của vật liệu đa lớp Cu/HEAs, và những lệch sinh ra do trượt được tích tụ tại biên đôi. Với sự gia tăng biến dạng, các lệch được hoạt động ở lớp HEAs, và tích tụ ở giữa mặt phân cách Cu/HEAs, cuối cùng tạo điều kiện thuận lợi để trượt từ lớp HEAs sang lớp Cu. Dòng ứng suất giảm và giữ giá trị hằng số với sự gia tăng số cặp lớp nano Cu/HEAs, điều đó phụ thuộc vào sự trượt và lệch ở giữa các mặt để điều khiển hóa bền biến dạng. Introduction HEAs đã thu hút được nhiều sự chú ý ở trong một kế hoạch mới để thiết kế vật liệu tiên tiến bởi tính chất tuyệt vời của chúng so với các hợp kim thông thường, ví dụ độ bền cao, độ dẻo tốt hơn, và ổn định nhiệt tốt. Một vài đặc tính nổi bật là do tác dụng của biến dạng mạng tinh thể mãnh liệt và, sự khuếch tán chậm ở HEAs. Kể từ đó, HEAs với cơ tính và tính chất vật lý nổi bật có tiềm năng được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau ví dụ như động cơ máy bay nhiệt độ cao, lớp phủ dụng cụ và hạt nhân. Do đó, những nỗ lực to lớn đã được tập trung vào điều chỉnh hiệu năng cơ tính mạnh mẽ của HEAs bằng cách tối ưu hóa tổ chức tế vi. Tính chất cơ học của khối HEAs đã được nghiên cứu mở rộng từ những bài báo trước. Ví dụ, tinh thể nano HEAs CoCrFeMnNi với độ bền cao ngoài mong đợi cho thấy khả năng biến dạng dẻo khá thấp do hình thành pha cứng NiMn có kích cỡ nano và pha giàu Cr sau khi nhiệt luyện. Quá trình nén trụ có kích cỡ vi mô của tinh thể nano HEAs AlCoCrFeNi với độ bền cao vẫn cho thấy khả năng biến dạng dẻo thấp so với các tinh thể kim loại nano dạng trụ có kích cỡ vi mô với khả năng biến dạng cao. Do vậy, nâng cao tính dẻo của tinh thể nano HEAs có kiểu mạng FCC và tăng (hoặc giữ) độ bền cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ứng dụng rộng rãi. Gần đây, xây dựng pha mềm/dẻo cho các tấm nano tinh thể, ý tưởng này đồng thời nâng cao độ bền và độ dẻo đáng kể, bởi sự lan truyền vết nứt vi mô ban đầu. Gần đây hơn, các lớp nano bằng nhau Cu/HEAs với mặt phân cách ăn khớp (xem hình 1a) cho thấy khả năng biến dạng cao và giữ được độ bền cao. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa biết rõ về đặc tính cơ học của tấm nano HEAs chịu biến dạng dẻo lớn. Trong bài báo này, sử dụng mô phỏng động lực học phân tử, chúng tôi nghiên cứu một cách hệ thống ảnh hưởng của số lớp nano Cu/HEAs đến tính chất cơ học và biến dạng dẻo. Theo như kết quả, cơ chế biến dạng dẻo chứng tỏ sự phụ thuộc mạnh vào số lớp nano Cu/HEAs. Hơn thế nữa, các cơ chế bên dưới được áp dụng để làm sáng tỏ ảnh hưởng của số lớp nano Cu/HEAs đến tính chất cơ học của tấm nano Cu/HEAs. Simulation model and methods Hình 1b và c cho thấy mô phỏng biến dạng kéo của cặp lớp nano Cu/HEAs. Mô hình này bao gồm cặp Cu nano và tinh thể HEAs. Dựa trên thực nghiệm, - Kích thước của mẫu 41.1x10x36.9 nm3 ở một cặp Cu nano, 41.1x10x36.9 nm3 ở lớp HEAs - Hằng số mạng của Cu là 3.69 Aᵒ, của HEAs là 3.59 Aᵒ. Do đó, sự khác nhau hằng số mạng giữa Cu và HEAs là 2.8%. - Nghiên cứu cấu trúc tế vi bằng kính hiển vi điện tử truyền cho thấy hầu hết các phần ở mặt phân cách giữa Cu và HEAs là phù hợp mà không bị các lệch trùng nhau. Mô phỏng MD hiện nay cũng gợi ý rằng mặt phân cách giữa Cu và HEAs là phù hợp, như hình 1c. Thêm vào đó, ảnh hưởng của số lớp Cu/HEAs đến tính chất cơ học và hành vi biến dạng cũng được nghiên cứu. Số lớp Cu song tinh/HEAs được chọn là 1,2,3 và 4. Cấu trúc tinh thể của HEAs được phân bố ngẫu nhiên với nguyên tử Fe, Co, Cr và Ni. - Theo như thực nghiệm, định hướng tinh thể của lớp tinh thể HEA là [-1-12] theo trục x, [111] theo trục y, và [-110] theo trục z. - Điều kiện biên tuần hoàn được áp đặt theo hướng x, y và z. Đặc biệt, điều kiện biên dọc theo trục y để loại bỏ ảnh hưởng bề mặt ở kích cỡ nano trong hành vi biến dạng dựa trên thực nghiệm, điều đó cho thấy số lớp HEAs vượt quá 10 cho các lớp phủ mỏng hơn. - Hàm thế năng phương pháp điện tử nhúng (EAM) được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu sự đông đặc, sự phát triển cấu trúc tế vi, và biến dạng dẻo bằng phương pháp kéo. Sử dụng hàm thế năng EAM, một vài bài báo nghiên cứu về biến dạng mạng tinh thể, biến dạng, và trạng thái ứng suất ở FCC, BCC và HCP. Ở đây, hàm thế năng EAM được phát triển bởi Farkas đã từng nghiên cứu hành vi biến dạng của Cu song tinh/ tấm HEAs. Cần lưu ý rằng hàm thế năng EAM không thể áp dụng cho mô hình HEA FeCoCuCrNi chính xác bởi sự xác nhận nghiêm ngặt của thực nghiệm và nguyên tắc tính toán. Tuy nhiên, hành vi động lực của lệch ở hợp kim dung dịch rắn cân bằng nguyên tử NiCoFeCu và hóa bền biến dạng mạnh ở hợp kim entropy trung bình CrCoNi được nghiên cứu sử dụng hàm thế năng EAM. Từ đây, hành vi biến dạng của Cu song tinh/ tấm HEAs FeCoCrNi được mô phỏng bởi hàm thế năng EAM. - Nhiệt độ ban đầu của mô phỏng MD ở Cu song tinh/ tấm HEAs FeCoCrNi là ở nhiệt độ phòng (300K). Trước khi biến dạng kéo, mẫu được tối thiểu hóa năng lượng đầu tiên sử dụng phương pháp gradient liên hợp, sau đó tất cả được nới lỏng để giữ được trạng thái cân bằng. - Ở hình 2, ứng suất tổng được biểu thị bằng (1) dưới trạng thái biến dạng là không đổi, và (2) dưới trạng thái ứng suất không đổi. Ở đây, ảnh hưởng của sự hóa bền được thấy rõ ở trạng thái biến dạng không đổi so với trường hợp ứng suất không đổi. Từ đó, tốc độ biến dạng không đổi là 1.10-8 s-1 được đặt theo hướng x. - Timestep 1 fs - Sự phát triển của cấu trúc vi mô được thê hiện qua phần mềm Ovito. Sự phân tích các nguyên tử lân cận chung (CNA) đã xác định cấu trúc vi mô sau biến dạng, trong đó các nguyên tử màu đỏ đại diện cho lỗi xếp chồng, nguyên tử màu xanh có cấu trúc FCC, và nguyên tử màu trắng là các lõi lệch và cấu trúc ở mặt phân cách cũng như cấu trúc vô định hình. Mỗi liên kết của nguyên tử được mô tả bởi 3 chỉ số (i, j, k), tại đó i là số nguyên tử chung gần nhất, j là số liên kết giữa các nguyên tử, và k là chiều dài của các cặp liên kết dài nhất được tạo bởi các nguyên tử lân cận. Ở đây, loại cặp (4 , 2, 1) dành cho cấu trúc FCC, bằng nhau số loại cặp (4, 2, 1) và (4, 2, 2) dành cho cấu trúc HCP, trong đó loại cặp (6, 6, 6) và (4, 4, 4) dành cho cấu trúc BCC. Ở đây, dựa trên tính toán bằng OVITO, tinh thể FCC, HCP và BCC được mã hóa lần lượt giá trị số nguyên 1, 2, 3. Đồng thời, dựa trên giá trị nguyên từ OVITO, màu sắc cấu trúc tương ứng lần lượt là xanh lá cây, đỏ và xanh nước biển. Results