You are on page 1of 5

Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 9 - SPMS2015 Tp.

Tp. Hồ Chí Minh

VỀ CƠ CHẾ TƯƠNG TÁC MAGNON-PLASMON Ở MÀNG MỎNG TỪ DẠNG HẠT Co-Al2O3


Giáp Văn Cường1,2, Nguyễn Anh Tuấn1*, Trần Trung2, Nguyễn Thế Bình3, Nguyễn Anh Tuệ4, Đinh Văn Tương1
1
Viện Đào tạo Quốc tế về Khoa học Vật liệu (ITIMS), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Số 1 Đại Cồ Việt, Hà Nội;
2
Trường Đại học Sư phạm Kĩ thuật Hưng Yên, Dân Tiến, Khoái Châu, Hưng Yên;
3
Khoa Vật lý, Trường Đại học KHTN, ĐHQGHN, 344 Nguyễn Trãi, Đống Đa, Hà nội;
4
Viện Vật lý Kỹ thuật (IEP), Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Số 1 Đại Cồ Việt, Hà Nội.
*Email liên hệ: tuanna@itims.edu.vn

Tóm tắt: Trong nghiên cứu này, bằng khảo sát sự truyền qua các màng mỏng từ dạng hạt Cox-Al2O3 (đế thủy tinh) có tỷ
lệ Co khác nhau, và dưới tác dụng của những từ trường ngoài H không đổi, của chùm tia laze đỏ (bước sóng λ = 632.8
nm), chúng tôi tìm hiểu về cơ chế được cho là do tương tác magnon-plasmon đã dẫn đến các hành vi truyền qua phụ
thuộc tỷ lệ thành phần sắt từ và từ trường ở loại màng mỏng này. Kết quả đã cho thấy dáng điệu biến thiên theo H của tỷ
số truyền qua T có ba xu hướng khá rõ rệt phụ thuộc vào tỷ lệ Co trong mẫu: (1) T có dạng giảm dần đến một giá trị bão
hòa (mức nền truyền qua) khi x < 49 % ng.tử. (2) T có xu hướng tăng và đạt đến một giá trị cực đại, sau đó giảm dần tới
bão hòa khi x = 49 % ng.tử. (3) T có dạng tăng dần đến một giá trị bão hòa (mức trần truyền qua) khi x > 49 % ng.tử.
Ngoài ra cũng quan sát thấy rằng các mức nền truyền qua lại tăng lên theo x khi x < 49 %, trong khi các mức trần truyền
qua lại giảm nhanh khi x tiến đến 100 %. Bản chất của những hiện tượng này đã được gán cho sự kích thích photon đối
với các spin của các hạt nano Co dẫn đến xuất hiện tương tác magnon-plasmon. Vấn đề này bước đầu được thảo luận
trong báo cáo.
Từ khóa: Màng mỏng từ dạng hạt, tỷ số truyền qua, magnon, spin-plasmon định xứ, tương tác magnon-plasmon.

Al2O3, hay các hệ tương tự như CoFe-Al2O3, đã


GIỚI THIỆU từng được nghiên cứu [11, 12]. Tuy nhiên cho đến
Vật liệu dạng hạt kim loại sắt từ nano được phân bố nay những khảo sát các tính chất đáp ứng quang phụ
trong nền cách điện, như màng mỏng Co-Al2O3, đã thuộc từ trường, ngoại trừ đối với hiệu ứng quang-từ
gây được nhiều chú ý bởi các tính chất dẫn điện, đã được sử dụng như một công cụ để nghiên cứu,
tính chất quang và tính chất từ của chúng [1]. dường như còn chưa thấy đề cập đến.
Những thành tựu gần đây về từ học nano và Trong bài báo này chúng tôi thông báo một số kết
spintronics của các vật liệu từ dạng hạt đã mang lại quả quan sát về hành vi đáp ứng quang học phụ
những hướng đi mới cho các linh kiện spintronic, thuộc từ trường, cụ thể là sự truyền qua đối với ánh
những linh kiện thế hệ mới mà ngoài sử dụng điện sáng trong vùng nhìn thấy của các màng mỏng Co-
tích của điện tử, và không chỉ sử dụng thuần túy Al2O3, có tỉ lệ Co khác nhau, dưới tác dụng của từ
spin của chúng, mà còn sử dụng cả những tác động trường. Những hành vi này được cho là xuất phát từ
quang lên spin của chúng [2]. Gần đây những tính cơ chế tương tác magnon-plasmon. Do đó trong
chất plasmon và có thể điều biến được, hoặc có thể thảo luận ở đây chúng tôi tiếp cận đến cơ chế này.
làm cho tăng cường nhờ cộng hưởng bởi các hạt
kim loại, đã được ghi nhận [3-6]. Cùng với những THỰC NGHIỆM
tính chất quang đó, gần đây những quan sát về hiện
tượng spin-plasmonic ở hệ hạt sắt từ Co [7, 8], sự Các mẫu màng mỏng từ dạng hạt Cox-Al2O3 đã
kích thích plasmon bề mặt ở các tinh thể họat từ [9], được lắng đọng lên đế thủy tình dày 200 µm bằng kĩ
hay sự truyền qua quang học điều khiển được bằng thuật phún xạ tần số radio (rf) 13.56 MHz (hệ
từ trường ngoài bởi các tinh thể plasmon từ [10], Alcatel SCM 400), với chân không cơ sở p ~ 10-9
cho thấy những khả năng ứng dụng bằng cách tác bar, và sự phún xạ được thực hiện trong môi trường
động lên spin điện tử bằng quang học. Điều đó có khí Ar (có độ sạch 5N) ở áp suất pAr ~ 5 × 10-6 bar.
nghĩa là có thể bật, tắt, điều biến và điều khiển các Bia phún xạ sử dụng dưới dạng hỗn hợp, gồm một
đặc trưng quang học bởi spin. Điều này tương tự đĩa ôxýt nhôm (alumina, có độ sạch 4N) đường kính
như việc đã sử dụng điện tích của điện tử bị "nhốt" 7,5 cm gắn các miếng Co (có độ sạch 4N) lên bề
trong các hạt nano kim loại, như Au, Ag, được phân mặt đĩa; công suất phún xạ rf sử dụng ở 300 W, do
tán trong nền của chất điện môi, để làm thay đổi đó mật độ công suất rf được xác định là ~ 7 W/cm2.
tính chất quang học [4, 6]. Những điều này là động Khoảng cách bia-đế ~ 7.5 cm. Tốc độ lắng đọng của
lực thúc đẩy sử dụng các màng mỏng từ dạng hạt Co và Al2O3 được xác định tương ứng ~ 0.5 and 0.2
(MGF) Co-Al2O3 như là một loại môi trường dùng Å/s, và tốc độ lắng đọng trung bình của hỗn hợp Co-
để thực hiện sự đáp ứng quang học trong từ trường, Al2O3 được xác định khoảng 0.3 Å/s. Tất cả các
nhằm tiếp cận tới lĩnh vực spinplasmonics. Sự đáp mẫu nghiên cứu được chế tạo với cùng một chiều
ứng quang học của các màng mỏng dạng hạt Co- dày, ~ 90-100 nm, được đo bằng Alpha-Step IQ của

7
Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 9 - SPMS2015 Tp. Hồ Chí Minh

hãng KLA Tencor. Tỷ lệ thành phần Co, x = 0.16,


0.27, 0.49, 0.63 và 1, ứng với 16, 27, 49, 63, 100 %
nguyên tử, đã được xác định bằng kỹ thuật phổ tán
sắc năng lượng tia X (energy dispersive X-ray
spectroscopy, EDS).
Các phép đo và phân tích về cấu trúc (nhiễu xạ tia X
(XRD) và tính chất từ (đo từ trễ M(H)), không trình
bày ở đây, đã cho thấy các mẫu có cấu trúc điển
hình của loại vật liệu gốm cơ-kim (cermet) [13].
Nghĩa là các màng mỏng Co-Al2O3 có cấu trúc gồm Hình 1. Sơ đồ khảo sát hệ số truyền qua phụ thuộc từ
các hạt hay chùm nguyên tử kim loại Co phân tán trường của màng mỏng Co-Al2O3.
trong nền Al2O3 với cấu trúc kiểu vô định hình hoặc độ chùm ánh sáng laze truyền được qua mẫu, IT, với
vi tinh thể. Trong khi đó các tính chất từ thể hiện rõ cường độ chùm ánh sáng laze từ nguồn tới mẫu, Io,
sự thay đổi dần từ kiểu giống như thuận từ sang siêu T = (IT/I0) × 100 %.
thuận từ và chuyển sang kiểu sắt từ khi tỷ lệ Co tăng
dần. Các đặc trưng như vậy của mẫu thể hiện tính KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
chất kiểu dạng hạt nano điển hình của các màng
mỏng Co-Al2O3. Hình 2 cho thấy hành vi của tỷ sổ truyền qua các
màng mỏng Cox-Al2O3 với tỉ lệ Co khác nhau, x =
Sơ đồ thực nghiệm đo phổ truyền qua của chùm laze 16, 27, 49, 63 và 100 % ng.tử, của chùm ánh sáng
đỏ với mẫu đặt trong từ trường ngoài được trình bày laze đỏ có bước sóng 632.8 nm, ứng với năng lượng
ở Hình 1. Nguồn laser (1) sử dụng loại laser khí hỗn photon tới là hν ≈ 1,959 eV (hay ~ 3,14 × 10-19 J),
hợp He-Ne model HL 1100S với ánh sáng đỏ bước và phụ thuộc vào từ trường H trong khoảng 0 ÷ 500
sóng λ = 632.8 nm, công suất phát sử dụng là 10 Oe. Các đồ thị được trình bày thành 2 nhóm, tương
mW, được hội tụ bằng thấu kính (2) tới kính phân ứng với nhóm của x ≤ 49 có tỷ số truyền qua cao, T
cực (3) và truyền tới mẫu (4). Mẫu được đặt trong < 50%, và nhóm với x ≥ 63 có tỷ số truyền qua thấp,
vùng từ trường đồng nhất của cuộn nam châm điện T < 10%. Ở đây các đường ngang đứt nét biểu diễn
(5) sao cho hướng từ trường tác dụng vuông góc với các mức xu hướng bão hòa, nghĩa là thể hiện một
bề mặt mẫu. Chùm tia truyền qua mẫu được truyền mức nền truyền qua trong trường hợp T cao, và mức
tới kính phân tích (3') và được hội tụ qua (2') đến trần truyền qua trong trường hợp T thấp. Thực chất
detector quang (6), là loại cảm biến quang điện trở các mức "trần" này cũng đều là "nền", hay phông,
(photo diode) CdS. Cường độ của ánh sáng tới cảm biểu hiện mức độ ánh sáng truyền qua được màng
biến CdS sẽ được đưa tới xử lý và hiển thị ở bộ mỏng và đế mà không phụ thuộc vào từ trường. Các
Lock-in DSP 7225 (7). Tỷ số truyền qua T của màng đồ thị nhỏ chèn bên trong được trình bày lại ở thang
mỏng được xác định bằng tỷ lệ phần trăm của cường chia tinh hơn đối với T, trong đó các đường cong
50 16 at.% Co-Al2O3 50 27 at.% Co-Al2O3 50 49 at.% Co-Al2O3
48 38.0 48 37.0
48
37.5
46 46 46
37.0 36.5
44 44 44
36.5
36.0 48.0
42 36.0 42 42
T (%)

T (%)

47.5
T (%)

35.5
40 35.5 40 40 47.0
35.0
38 0 100 200 300 400 500 38 35.0 38 46.5
0 100 200 300 400 500
36 36 36 46.0
45.5
34 34 34
45.0
32 32 0 100 200 300 400 500
32
30 30 30
0 100 200 300 400 500 0 100 200 300 400 500 0 100 200 300 400 500
H (Oe) H (Oe) H (Oe)
10.00 63 at.% Co-Al2O3 2.0 100 % Co
9.75 1.8

9.50
1.6 Hình 2. Tỷ số truyền qua phụ
1.4
9.25 9.60 thuộc từ trường của chùm tia
1.2 1.5
T (%)

9.00
9.55
1.0
laze đỏ đối với các màng mỏng
9.50 1.4

9.45 0.8 1.3


Cox-Al2O3 có tỷ lệ Co khác nhau:
8.75
9.40 0.6 1.2
x = 16, 27, 49, 63 và 100 %. Các
8.50 9.35
0.4 1.1 đường chấm ngang thể hiện các
8.25 9.30
0 100 200 300 400 500 0.2 1.0
0 100 200 300 400 500
mức nền truyền qua khi x nhỏ (≤
8.00 0.0 49 %) và các mức trần truyền
0 100 200 300 400 500 0 100 200 300 400 500
H (Oe) H (Oe) qua khi x lớn (> 49 %).

8
Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 9 - SPMS2015 Tp. Hồ Chí Minh

đứt nét biểu diễn khuynh hướng biến đổi chủ yếu mảng lớn [1], [15], và phát triển dần cho đến thành
(đường "ngắm", dạng thô) của T. màng kim loại liên tục. Vì thế hiện tượng plasmon
chủ yếu chỉ hình thành khi x < 50 %. Trong khi với
Kết quả trình bày ở Hình 2 cho thấy có hai đặc điểm trường hợp x > 50 %, hiện tượng plasmon gần như
đáng chú ý như sau. Thứ nhất, có ba xu thế biến đổi mất đi, nền truyền qua của JT2 sẽ phải luôn nhỏ hơn
của T, thể hiện hành vi đáp ứng kích thích quang nền truyền qua của JT1 như mô tả ở Hình 3. Cơ chế
của các hạt sắt từ khi từ trường thay đổi. Đối với tăng cường truyền qua bởi plasmon thông qua tương
những mẫu có x < 49 %, T có xu hướng giảm đến tác photon-electron được diễn ra như sau. Khi một
một mức nền truyền qua nào đó khi H tăng (Hình hạt kim loại (giả thiết có dạng hình cầu) được kích
2(a, b)), trong khi với x > 49 % T lại có xu hướng thích bởi photon có bước sóng lớn hơn nhiều so với
tăng theo H đến một mức trần truyền qua (Hình 2(d, kích thước của nó, hiện tượng cộng hưởng
e)). Riêng trường hợp x = 49 %, quan hệ T-H lại plasmonic có thể xuất hiện trong toàn bộ thể tích hạt
mang tính tổ hợp của cả hai dạng trên: tăng và đạt bởi thành phần điện trường E của bức xạ điện từ,
cực đại khi từ trường còn thấp, ví dụ H < 100 Oe, và như minh họa ở Hình 4(a) [8]. Sự cộng hưởng
giảm khi từ trường cao hơn, H > 100 Oe (Hình plasmonic có bản chất tĩnh điện với hằng số điện
2(c)). Thứ hai, nhận thấy rằng các mức nền và trần môi của hạt nano kim loại ε < 0 do hiện tượng ghim
truyền qua cũng thay đổi theo tỷ lệ Co, x. Cụ thể là và dao động của các điện tử bị giam hãm trong hạt
nền truyền qua tăng lên, còn trần truyền qua lại kim loại (định xứ) bởi bức xạ điện từ. Từ đó dẫn
giảm đi, khi x tăng. Trong cả hai đặc điểm trên, đến làm xuất hiện điện trường định xứ E' cùng
dường như ngưỡng chuyển đổi giữa hai xu hướng chiều với E, như mô tả ở Hình 5(a) [16], là nguyên
biến thiên là ở x ~ 50% nguyên tử Co. nhân làm tăng cường sự truyền qua của bức xạ điện
Có thể dễ dàng hiểu được cơ chế đơn giản của hiện từ đối với các hạt kim loại. Mặt khác, trong trường
tượng giảm nền truyền qua khi x tăng qua minh họa hợp này sẽ diễn ra quá trình tương tác giữa photon
ở Hình 3. Về nguyên tắc lượng hạt kim loại càng ánh sáng với các điện tử dẫn chuyển động tự do xuất
nhiều, kích thước hạt càng to, hoặc khi đã trở thành hiện trên bề mặt hạt kim loại [4]. Các điện tử này
màng kim loại liên tục (ứng với x càng tăng cho đến nhận năng lượng từ photon ánh sáng để chuyển lên
100 %), sẽ càng cản trở chùm tia laze truyền qua trạng thái bị kích thích. Tuy nhiên, trạng thái kích
mẫu, do đó, lẽ ra luôn có nền truyền qua JT2 < JT1, thích chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất
tương ứng T2 < T1. Tuy nhiên, như đã thấy, điều này ngắn, rồi chuyển về trạng thái cơ bản. Khi đó một
chỉ đúng đối với x > 50 % khi giải thích cho mức photon khác có năng lượng nhỏ hơn photon tới,
trần truyền qua giảm tỷ lệ nghịch với x. Trong tương ứng với bước sóng dài hơn, được phát ra [8],
trường hợp x < 50 %, mặc dù x tăng nhưng thành và hợp với chùm photon truyền qua, nâng cường độ
phần nền JT cũng tăng lên. Ở đây chúng tôi cho rằng nền của ánh sáng truyền qua mẫu lên. Khi x tăng,
hành vi này có thể liên quan đến hiện tượng nghĩa là lượng hạt Co và kích thước hạt tăng lên, số
plasmon sinh ra do kích thích quang đối với các hạt điện tử bề mặt bị kích thích tăng theo, làm cho số
nano kim loại Co, bởi vì người ta đã biết rằng photon thứ cấp tăng lên theo do tương tác photon-
plasmon có thể làm tăng cường độ sáng truyền qua electron. Do đó các mức nền truyền qua được nâng
bằng hiệu ứng cộng hưởng plasmon [14]. Điều này lên, như đã được ghi nhận ở Hình 2.
là hợp lý, vì với x < 50 % ng.tử màng mỏng vẫn Để xét đến cơ chế biến thiên theo từ trường của tỷ
nằm ở dưới ngưỡng thấm loang (percolation), do đó số T(H) và sự phụ thuộc x, nhận thấy rằng ở đây cần
Co tồn tại dưới dạng các hạt nano cô lập nhau bởi để ý đến vai trò của mômen từ của các hạt Co, là
nền ôxýt, có kích thước từ vài đến vài chục nano tổng hợp các spin nút mạng sắt từ - nghĩa là tính đến
mét [13], nhỏ hơn nhiều so với ánh sáng kích thích sự phân cực spin nội tại của Co, ở đó lượng spin up
có bước sóng λ ~ 630 nm. Còn khi vượt qua ngưỡng và spin down của các điện tử dẫn không cân bằng
đó, các hạt Co sẽ kết dính với nhau thành những

(a) (b)
Hình 3. Quan hệ giữa cường độ chùm laze tới J0 , và (a) (b)
truyền qua được JT phụ thuộc vào lượng hạt, hay chùm Hình 4. (a) Cơ chế plasmonic, (b) và cơ chế spin-
nguyên tử, Co ít (a) hay nhiều (b) trong nền Al2O3. plasmonic (theo [8]).

9
Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 9 - SPMS2015 Tp. Hồ Chí Minh

tạo nên từ độ tự phát M của hạt; và tương tác giữa Trong trường hợp các hạt Co được mạ một nửa hạt
photon với các mạng spin này, nghĩa là tương tác bằng lớp Au dẫn điện tốt và được kích thích bằng
với các điện tử tự do sinh ra bởi hiện tượng photon hồng ngoại, người ta đã quan sát được sự
plasmonic nhưng được phân cực spin - gọi là các suy giảm theo từ trường ngoài của cường độ điện
điện tử spinplasmonic (SPE) (Hình 4(b)). Tuy trường truyền qua đám hạt, và nguyên nhân chủ yếu
nhiên, khác với hiện tượng plasmonic định xứ trong là do hiện tượng tích tụ spin ở bề mặt Co/Au [8].
trường hợp các hạt kim loại thông thường, ở đây các Đối với trường hợp các hạt Co phân tán trong nền
SPE còn phải chịu tác dụng từ hóa của thành phần B điện môi nghiên cứu ở đây (xét cho trường hợp x <
của bức xạ điện từ chiếu tới, làm cho các spin S, bị 49 %), sự tích tụ spin ở bề mặt Co/Al2O3 chắc chắn
phân cực điện bởi trường định xứ E’, thực hiện tuế phải lớn hơn nhiều, nghĩa là tính định xứ/giam hãm
sai quanh trục M. Tập hợp các dao động tuế sai của spin là rất mạnh. Khi H = 0, từ độ M của đám hạt
của tất cả các spin bị tuế sai này chính là từ độ M bị Co sắp xếp một cách ngẫu nhiên trong nền Al2O3.
tuế sai ở trong các hạt Co, như được minh họa ở các Khi được kích thích bằng photon của ánh sáng đỏ,
Hình 5(b) và (c). Nói khác đi, sự tương tác của có một mật độ tích tụ spin nào đó ở bề mặt các hạt
mạng spin với photon đã kích thích nên trạng thái Co, mà mật độ này sẽ phải thấp hơn nhiều so với khi
magnon ở các hạt Co bởi thành phần B. Bên cạnh có tác dụng của từ trường ngoài H ≠ 0, vì sự từ hóa
đó sự dao động của E’ bởi thành phần E đã hình các hạt Co bởi H làm tăng M của hạt Co, do đó mật
thành nên spinplasmon định xứ (LSP). Từ đây có độ tích tụ spin ở các bề mặt Co/Al2O3 cũng tăng
thể hình dung về hiện tượng tương tác giữa các theo khi H tăng. Tuy nhiên điều này lại đồng nghĩa
magnon với các LSP. Tương tác photon-magnon với việc cường độ trường định xứ E' sẽ mạnh lên
(giữa sóng ánh sáng với sóng spin) đã được nghiên nhiều. Như vậy, với năng lượng xác định của
cứu lý thuyết từ lâu [17 - 19]. Trên cơ sở nghiên cứu photon tới (ở đây sử dụng lade đỏ với hν ≈ 1,959
các trạng thái liên kết photon-magnon ở các chất sắt eV), thành phần điện trường E sẽ càng khó khăn
từ [20], lần đầu tiên sự tồn tại của liên kết một hơn trong việc làm đảo chiều E' khi H tăng. Nói
magnon-một photon đã được tiên đoán có thể đo khác đi, độ linh động của các SPE do đó càng giảm
được bằng thực nghiệm khi vector B của bức xạ khi H tăng, dẫn đến giảm khả năng cộng hưởng SPE
điện từ song song [20], và vuông góc [21], với định xứ. Mặt khác, và đồng thời, H làm cho các M
hướng của từ độ M. Những nghiên cứu này đã cho trở nên trật tự hơn và hướng dọc theo phương lan
thấy xuất hiện sự quá bức xạ (superradiative), mà truyền của bức xạ, do đó giảm sự tuế sai của các
trong trường hợp ở đây chính là sự cộng hưởng bởi SPE. Điều này giống như là tuế sai bị ghim, nghĩa là
thành phần định xứ E’. Có thể hình dung rằng tương ghim magnon. Vì vậy tương tác magnon-LSP cành
tác magnon-LSP gây nên một sự “nhào lộn” tuần giảm khi H tăng, dẫn đến T giảm khi H tăng. Từ
hoàn (theo E’) của sóng magnon. Hiện nay chúng hiện tượng ghim tương tác này, dự đoán sẽ phải dẫn
tôi đang tìm ra cách để mô tả bằng hình ảnh của sự đến một kết quả trễ, nghĩa là không thuận nghịch,
“nhào lộn” này, và sẽ tiếp cận đến mô hình cụ thể, đối với đường T(H) nếu thực hiện các phép đo theo
rõ ràng hơn cho tương tác như vậy. các chiều tăng-giảm từ trường, tương tự như trong
trường hợp hạt Co-Au [7, 8].
E0 Nếu xét theo tỷ lệ Co, x tăng làm cho kích thước hạt
B0 Co tăng lên, dẫn đến cả cường độ plasmon và
magnon đều tăng lên. Do đó hiện tượng cộng hưởng
bởi tương tác magnon-LSP tăng lên theo, làm cho T
(a) (b) (c)
tăng theo x, như kết quả thực nghiệm trình bày ở
(d) (e) Hình 2. Trong trường hợp x > 49 %, khi đã vượt quá
ngưỡng thấm loang, các đám hạt Co kết dính và liên
thông để trở thành những mảng Co lớn hơn, thậm
chí nối liền nhau, nên chỉ còn lại một số vùng Al2O3
dần bị khép kín, cô lập và thu nhỏ. Trong trường
Hình 5. (a) Sự hình thành điện trường định xứ cộng hợp này các cộng hưởng spin-plasmon bề mặt
hưởng E’ do sự phân cực plasmon khi hạt kim loại bị (SSP), một mặt khó có thể có được vì điều điện ε >
kích thích bởi sóng điện từ có bước sóng lớn hơn kích
0 và kích thước đám Co dần trở nên lớn hơn bước
thước hạt. (b) Sự hình thành magnon bởi sóng điện từ
kích thích, tạo ra sự tuế sai của mạng spin do thành sóng của bức xạ kích thích [16]. Mặt khác, khi đó sẽ
phần B0. (c) Sự tuế sai của spin quanh trục từ độ M và bị hình thành những bề mặt Co ở đó sự phân cực SPE
"nhào lộn" bởi trường định xứ E'. (d), (e) Minh họa mang tính bề mặt hơn là định xứ như ở trong trường
tương ứng với trường hợp phương từ độ M song song và hợp những hạt Co cô lập. Vì vậy plasmon chủ yếu
vuông góc với thành phần vectơ B của sóng điện từ. sẽ lan truyền trên những mép bề mặt Co/Al2O3 hầu

10
Hội nghị Vật lý chất rắn và Khoa học vật liệu toàn quốc lần thứ 9 - SPMS2015 Tp. Hồ Chí Minh

như khép kín, nên sẽ "dập tắt" sự truyền qua của ánh Tài liệu tham khảo
sáng. Các bề mặt này càng giảm, càng trở nên khép
1. C.L. Chien, J. Appl. Phys. 69, 5267 (1991).
kín và biến mất khi x tiến đến 100 %, vì thế T sẽ
2. B. Aktaş, F. Mikailzade, B. Rameev, N. Akdoğan; J.
phải giảm mạnh khi tăng x, như kết quả thực Magn. Magn. Mate. 373, 1 (2015).
nghiệm trình bày ở Hình 2 với x > 49%. Hơn nữa, 3. G. Bacherlier and A. Mlayah; Phys. Rev. B 69, 205408
trong trường hợp này sự tăng H theo phương vuông (2004).
góc với bề mặt màng mỏng (Hình 1) sẽ làm tăng 4. S.A. Maier, H. A. Atwater; J. Appl. Phys. 98, 011101
thành phần hình chiếu của từ độ M dọc theo phương (2005).
lan truyền của bức xạ, đồng thời làm giảm thành 5. J. Toudert, L. Simonot, S. Camelio, D. Babonneau;
phần hình chiếu nằm trong mặt phẳng màng mỏng Phys. Rev. B 86, 045415 (2012).
từ. Chính thành phần nằm trong mặt phẳng mới bị 6. V. Singh and P. Aghamkar; Appl. Phys. Lett. 104,
tuế sai do các spin phân cực ở các bề mặt Co/Al2O3, 111112 (2014).
7. K.J. Chau, M. Johnson, and A.Y. Elezzabi, Phys. Rev.
nghĩa là tạo ra các trạng thái magnon, lúc này lại có
Lett., 98, 133901 (2007).
khả năng dễ dàng cộng hưởng bởi tương tác 8. A.Y. Elezzabi, C. Baron, and Mark Johnson, Proc. of
magnon-LSP hơn đôi chút. Vì vậy đường cong T(H) SPIE Vol. 6892, 68920R-5 (2007).
có chiều hướng biến thiên tăng theo sự tăng của H. 9. L. Sapienza and D. Zerulla, Phys. Rev. B 79, 033407
(2009).
KẾT LUẬN 10. G.A. Wurtz, W. Hendren, R. Pollard, R. Atkinson, L.
Sự phụ thuộc từ trường của tỷ số truyền qua đối với Le Guyader, A. Kirilyuk, Th. Rasing, I.I. Smolyaninov,
A.V. Zayats, New J. Phys. 10, 105012 (2008).
màng mỏng Co-Al2O3 có tỷ lệ Co khác nhau của ánh
11. G.A. Niklasson and C.G. Granqvist, J. Appl. Phys.,
sáng laze đỏ đã được khảo sát. Hành vi phụ thuộc từ 55, 3382 (1984).
trường được quy định bởi tỷ lệ Co: Tỷ số truyền qua 12. D. Bozec, V.G. Kravets, J.A.D. Matthew, S.M.
giảm với sự tăng của từ trường ngoài, và đạt tới bão Thompson, and A.F. Kravets; J. Appl. Phys. 91, 8795
hòa ở một mức truyền qua có xu hướng tăng lên theo (2002).
tỷ lệ Co khi tỷ lệ này dưới 50 % ng.tử; tỷ số truyền 13. Giap Van Cuong, Nguyen Anh Tuan, Nguyen The
qua tăng theo sự tăng của từ trường ngoài, và đạt tới Binh, Dinh Van Tuong, Nguyen Anh Tue; để xuất bản
bão hòa ở một mức truyền qua có xu hướng giảm trong t/c Journal of Materials, 2015.
theo tỷ lệ Co khi tỷ lệ này cao hơn 50 % ng.tử; và tổ 14. G. Armelles , A. Cebollada, A. García-Martín , and
hợp cả hai xu hướng trên với một cực đại truyền qua M.U. González, Adv. Optical Mater. 1, 10 (2013).
15. R.C. O'Handley, Modern magnetic materials-Prin-
khi tỷ lệ Co ~ 50 % ng.tử. Bản chất của những hành
ciples and Applications, John Wiley & Sons, Inc., p. 192,
vi đáp ứng quang ở đây đã được giải thích dựa trên 2000.
cơ chế tương tác magnon-plasmon định xứ, gây ra 16. Isaak D. Mayergoyz, Plasmon Resonances in Nano-
bởi sự kích thích bằng photon đối với mạng spin – particles (World Scientific Series in Nanoscience and
các magnon – trong các hạt nano Co. Các màng Nanotechnology: Volume 6), World Scientific
mỏng từ dạng hạt, kiểu như Co-Al2O3, có thể coi như Publishing, Singapore – New Jersey – London, 2013.
một loại môi trường spin-plasmonic để nghiên cứu 17. Y. R. Shen and N. Bloembergen, Phys. Rev. 143, 372
các hoạt tính đáp ứng từ-quang, cách thức kiểm soát (1966).
hay điều khiển các tính chất plasmon bằng từ trường, 18. H. Le Gall and J. P. Jame, phys. stat. sol. (b) 46, 467
và phát triển những linh kiện spinplasmonic tích cực. (1971).
19. K. N. Shrivastava, J. Phys. C: Solid State Phys. 9,
Lời cảm ơn 3329 (1976).
20. K. N. Shrivastava, J. Phys. C: Solid State Phys. 11,
Công trình này được thực hiện với sự hỗ trợ về kinh L285 (1978).
phí của Quỹ NAFOSTED, thông qua đề tài mã số 21. K.N. Shrivastava, Physica 100B, 59 (1980).
103.02.2012.65.

11

You might also like