Professional Documents
Culture Documents
2. Liệt kê được: Các phương pháp quản trị, các trường phái quản trị, các chức
năng quản trị, các phương pháp phân tích… sử dụng trong lĩnh vực quản trị
3. Xác định được các chức năng, kỹ năng và nhiệm vụ của nhà quản trị.
4. Phân biệt được: thứ bậc, vai trò, chức năng, kỹ năng và nhiệm vụ của nhà
quản trị.
5. Phân tích được: môi trường quản trị; các mô hình ra quyết định quản trị, đặc
điểm của quản trị nguồn nhân lực
6. Vận dụng được các phương pháp phân tích phù hợp để phân tích môi trường
nội bộ, môi trường vĩ mô, môi trường vi mô để hoạch định xây dựng chiến lược,
thành lập cơ cấu tổ chức trong các bài tập tình huống, trong thực hành.
NỘI DUNG
A. ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẢN TRỊ HỌC
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm quản trị
Quản trị (Management) là từ thường được dùng phổ biến trong nhiều sách giáo
khoa và nhiều tài liệu khác. Nếu xét nghĩa riêng từng từ theo Từ điển Tiếng Việt có thể
tạm giải thích như sau:
- Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu qui định sẵn.
Ví dụ: Cha mẹ bắt đứa bé phải làm theo một kế hoạch do mình định ra; sáng
phải đi học, buổi trưa nghỉ ngơi, buổi chiều học bài, trước khi đi phải thưa về phải
chào, … Đó là cái khuôn mẫu chúng phải thực hiện chứ không để đối tượng tự do hoạt
động một cách tùy thích.
- Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã định. Nếu
đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình phạt nào đó đủ mạnh, đủ sức
thuyết phục để buộc đối tượng phải thi hành. Nhằm đạt tới trạng thái mong đợi, có thể
có và cần phải có mà người ta gọi là mục tiêu.
Thuật ngữ quản trị được giải thích bằng nhiều cách khác nhau và có thể nói là
chưa có một định nghĩa nào được tất cả mọi người chấp nhận hoàn toàn.
Mary Parker Follett một triết gia quản trị hàng đầu là tác giả lý thuyết hành vi
cho rằng “quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông qua người khác”. Định nghĩa
này nói lên rằng những nhà quản trị đạt được các mục tiêu của tổ chức bằng cách sắp
xếp, giao việc cho những người khác thực hiện chứ không phải hoàn thành công việc
bằng chính mình. Như vậy, quản trị là hoạt động có mục đích và mang tính tập thể.
+ Harold Kootz và Cyril O’Donnell: “Quản trị là thiết lập và duy trì một môi
trường mà các cá nhân làm việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động hữu hiệu
và có kết quả.”
+ Robert Albanese: “Quản trị là một quá trình kĩ thuật và xã hội nhằm sử dụng
các nguồn, tác động tới hoạt động của con người và tạo điều kiện thay đổi để đạt được
mục tiêu của tổ chức.”
+ Một định nghĩa giải thích tương đối rõ nét về quản trị được James Stoner và
Stephen Robbins trình bày như sau: “Quản trị là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh
đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả
các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra”.
Từ việc tham khảo ta rút ra định nghĩa về quản trị: Quản trị là tiến trình hoàn
thành công việc một cách có hiệu quả và hữu hiệu thông qua người khác. Có thể giải
thích các thuật ngữ trong định nghĩa quản trị:
- Tiến trình biểu thị những hoạt động chính của nhà quản trị là hoạch định, tổ
chức tổ, lãnh đạo và kiểm tra.
- Hữu hiệu nghĩa là thực hiện đúng công việc hay nói cách khác là đạt được mục
tiêu của tổ chức
1.2. Khái niệm Quản trị học
Khái niệm: Quản trị học là khoa học nghiên cứu, phân tích về công việc quản trị trong
các tổ chức; giải thích các hiện tượng quản trị và đề xuất những lí thuyết cùng những
kĩ thuật nên áp dụng để giúp nhà quản trị hoàn thành nhiệm vụ.
Quản trị học cung cấp các khái niệm cơ bản làm nền tảng cho việc nghiên cứu các môn
học về quản trị chức năng như quản trị sản xuất, quản trị tiếp thị, quản trị nhân sự,
v.v…
Quản trị học cũng là khoa học liên ngành vì nó sử dụng nhiều tri thức của nhiều ngành
học khác nhau như kinh tế học, tâm lí học, xã hội học, toán học, v.v…
Quản trị học là một khoa học, nhưng sự thực hành quản trị là một nghệ thuật. Nhà
quản trị phải hiểu biết lí thuyết quản trị, linh hoạt vận dụng các lí thuyết vào những
tình huống cụ thể để có thể quản trị hữu hiệu.
Qua việc đánh giá PEST, bạn sẽ nhìn nhận được những triển vọng, mục tiêu mà công
ty mình cần hướng tới.
Ví dụ:
Trong điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ổn định, phát triển, đồng thời nhà
nước đang có chính sách khuyến khích về chuyển đổi số trong lĩnh vực công nghệ
thông tin. Vậy đây có thể là một trong những mục tiêu phát triển của công ty bạn:
Hướng tới phát triển nền tảng chuyển đổi số.
5.6. Mô hinh phân tích 5 Nguồn lực của Porter (Porter’s Five Forces)
Mô hinh 5 nguồn lực của Porter là phương pháp quản trị do Michael Porter khởi
xướng, sáng lập vào năm 1979. Qua việc xem xét 5 nguồn lực của Porter, bạn
sẽ nhìn nhận được các tác động ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty, của
ngành hàng hay thị trường…
5 nguồn lực gồm:
Nguồn lực của nhà cung cấp: Nhà cung cấp trong giai đoạn tới có khả năng
tăng giá vật tư cung ứng cho công ty bạn không? Nhà cung cấp có thể gây áp
lực lên công ty bạn để giảm chi phí không?
Nguồn lực của người mua: Khách hàng trong giai đoạn tới có khả năng chi
trả nhiều hơn cho sản phẩm, dịch vụ của bạn không? Khách hàng có thể gây
áp lực cho bạn để giảm chi phí không?
Nguồn lực cạnh tranh: Các đối thủ cạnh tranh của bạn trong giai đoạn tới có
khả năng làm suy giảm vị thế trên thị trường của bạn không?
Rủi ro từ việc bị thay thế: Bạn có thể bị đối thể thay thế trong giai đoạn tới
không? Khách hàng của bạn có thể thay thế sản phẩm, dịch vụ của bạn bằng
sản phẩm, dịch vụ khác không?
Mối đe dọa từ việc bị chiếm lĩnh thị trường: Bạn có bị đe dọa chiếm lĩnh thị
trường trong giai đoạn tới không? Các công ty khác có dễ dàng tham gia thị
trường không? Họ gặp những rào cản gì khi muốn chiếm lĩnh thị trường?
Sẽ thật khó để đo lường dự kiến, triển vọng lợi nhuận của công ty bạn. Với 5 nguồn
lực của Porter, việc đo lường trở nên dễ dàng, có căn cứ hơn.
Các chỉ số KPI thường được thiết lập dựa trên, liên kết với các mục tiêu, kế hoạch
chiến lược của công ty bạn.
Bởi vì KPI hướng tới yếu tố đánh giá nên KPI thường gắn với các con số, chỉ số định
lượng giúp bạn đo lường dễ dàng. Từ kết quả thực hiện KPI, bạn có thể nhìn nhận
được các vấn đề đang xảy ra và tìm cách khắc phục kịp thời.
Ví dụ:
KPI team sáng tạo nội dung: Chỉ mất dưới 24 giờ để hoàn thành xong 1 bài
SEO website.
KPI team kinh doanh: Đạt doanh thu ít nhất 1 tỷ đồng mỗi quý.
KPI team tuyển dụng: Chỉ mất dưới 1 tuần để tuyển dụng thành công 1 vị trí
nhân sự.
5.8. Mô hinh lập kế hoạch chiến lược dựa trên mục tiêu (Goal – Based Strategic
Planning)
Nếu mô hinh lập kế hoạch dựa trên vấn đề hướng đến việc giải quyết các vấn đề phát
sinh trong một giai đoạn cụ thể thì mô hình lập kế hoạch chiến lược dựa trên mục tiêu
hướng đến việc gắn mục tiêu với tầm nhìn, sứ mệnh trong lâu dài của công ty bạn.
Bất cứ công ty, tổ chức nào hoạt động cũng cần có một tầm nhìn trong dài hạn. Tầm
nhìn đó thường được thể hiện ra qua các tuyên bố, khẳng định và cần được cụ thể hóa
qua việc thiết lập các mục tiêu.
Ở mô hình lập kế hoạch chiến lược dựa trên mục tiêu, bạn sẽ cân chỉnh, hướng các
mục tiêu theo tầm nhìn công ty. Sau đó, bạn cần xác định khung thời gian để thực hiện
mục tiêu đó. Khung thời gian thực hiện mục tiêu thường khá dài, có thể lên tới 3 – 5
năm.
Yếu tố cốt lõi để mô hình quản trị này đạt hiệu quả cao là bạn thiết lập mục tiêu và
khung thời gian thực hiện nhưng đồng thời cũng phải định kỳ theo dõi, giám sát tiến
độ thực hiện mục tiêu.
B. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN TRỊ & CÁC HỌC
THUYẾT QUẢN TRỊ
1. Lịch sử phát triển của khoa học quản trị
Lý thuyết quản trị là một hệ thống những tư tưởng, quan niệm: đúc kết, giải thích về
các hoạt động quản trị được thực hành trong thế giới thực tại. Lý thuyết quản trị cũng
dựa vào thực tế và được nghiên cứu có hệ thống qua các thời đại, nhất là từ thế kỷ 19.
Kết quả là chúng ta có được một di sản về quản trị đồ sộ và phong phú mà các nhà
quản trị ngày nay đang thừa hưởng. Có thể nói rằng quản trị cùng tuổi với văn minh
nhân loại. Năm ngàn năm trước công nguyên người Sumerian (vùng Iraq hiện nay) đã
hoàn thiện một hệ thống phức tạp những quy trình thương mại với hệ thống cân đong.
Người Ai Cập thành lập nhà nước 8000 năm trước công nguyên và những kim tự tháp
là dấu tích về trình độ kế hoạch, tổ chức và kiểm soát một công trình phức tạp. Người
Trung Hoa cũng có những định chế chính quyền chặt chẽ, thể hiện một trình độ tổ
chức cao. Ở Châu Âu, kỹ thuật và phương pháp quản trị bắt đầu được áp dụng trong
kinh doanh từ thế kỷ 16, khi hoạt động thương mại đã phát triển mạnh. Trước đó, lý
thuyết quản trị chưa phát triển trong kinh doanh vì công việc sản xuất kinh doanh chỉ
giới hạn trong phạm vi gia đình. Đến thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp đã
chuyển sản xuất từ phạm vi gia đình sang nhà máy. Quy mô và độ phức tạp gia tăng,
việc nghiên cứu quản trị bắt đầu trở nên cấp bách, song cũng chỉ tập trung vào kỹ thuật
sản xuất hơn nội dung của hoạt động quản trị. Đến thế kỷ 19, những mối quan tâm của
những người trực tiếp quản trị các cơ sở sản xuất kinh doanh và của cả những nhà
khoa học đến các hoạt động quản trị mới thật sự sôi nổi. Tuy vẫn tập trung nhiều vào
khía cạnh kỹ thuật của sản xuất nhưng đồng thời cũng có chú ý đến khía cạnh lao động
trong quản trị, như Robert Owen đã tìm cách cải thiện điều kiện làm việc và điều kiện
sống của công nhân. Xét về phương diện quản trị, việc làm của Owen đã đặt nền móng
cho các công trình nghiên cứu quản trị nhất là các nghiên cứu về mối quan hệ giữa
điều kiện lao động với kết quả của doanh nghiệp. Từ cuối thế kỷ 19, những nỗ lực
nghiên cứu và đưa ra những lý thuyết quản trị đã được tiến hành rộng khắp. Và chính
Frederick W. Taylor ở đầu thế kỷ 20 với tư tưởng quản trị khoa học của mình đã là
người đặt nền móng cho quản trị hiện đại và từ đó đến nay các lý thuyết quản trị đã
được phát triển nhanh chóng, góp phần tích cực cho sự phát triển kỳ diệu của xã hội
loài người trong thế kỷ 20.
2. Các học thuyết quản trị
2.1. Các lý thuyết cổ điển về quản trị
Lý thuyết cổ điển về quản trị là thuật ngữ được dùng để chỉ những quan điểm về tổ
chức và quản trị được đưa ra ở Châu Âu và Hoa Kỳ vào những năm cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20.
2.1.1. Lý thuyết quản trị khoa học
Có rất nhiều tác giả về dòng lý thuyết này, có thể kể ra một số tác giả sau đây:
- Frededric W.Taylor (1856 - 1915): Là đại biểu ưu tú nhất của trường phái này và
được gọi là cha đẻ của phương pháp quản trị khoa học. Tên gọi của lý thuyết này xuất
phát từ nhan đề trong tác phẩm của Taylor “Các nguyên tắc quản trị một cách khoa
học” (Principles of scientific management) xuất bản lần đầu ở Mỹ vào năm 1911.
Trong thời gian làm nhiệm vụ của nhà quản trị ở các xí nghiệp, nhất là trong các xí
nghiệp luyện kim, ông đã tìm ra và chỉ trích mãnh liệt các nhược điểm trong cách quản
lý cũ, theo ông các nhược điểm chính là:
(1) Thuê mướn công nhân trên cơ sở ai đến trước mướn trước, không lưu ý đến khả
năng và nghề nghiệp của công nhân
(2) Công tác huấn luyện nhân viên hầu như không có hệ thống tổ chức học việc.
(3) Công việc làm theo thói quen, không có tiêu chuẩn và phương pháp. Công nhân tự
mình định đoạt tốc độ làm việc.
(4) Hầu hết các công việc và trách nhiệm đều được giao cho người công nhân.
(5) Nhà quản trị làm việc bên cạnh người thợ, quên mất chức năng chính là lập kế
hoạch và tổ chức công việc. Tính chuyên nghiệp của nhà quản trị không được thừa
nhận.
Sau đó ông nêu ra 4 nguyên tắc quản trị khoa học:
1. Phương pháp khoa học cho những thành tố cơ bản trong công việc của công nhân,
thay cho phương pháp cũ dựa vào kinh nghiệm.
2. Xác định chức năng hoạch định của nhà quản trị, thay vì để công nhân tự ý lựa chọn
phương pháp làm việc riêng của họ.
3. Lựa chọn và huấn luyện công nhân, phát triển tinh thần hợp tác đồng đội, thay vì
khích lệ những nỗ lực cá nhân riêng lẻ của họ.
4. Phân chia công việc giữa nhà quản trị và công nhân, để mỗi bên làm tốt nhất công
việc của họ, chứ không phải chỉ đổ lên đầu công nhân như trước kia. Công tác quản trị
tương ứng là:
a) Nghiên cứu thời gian và các thao tác hợp lý nhất để thực hiện công việc.
b) Bằng cách mô tả công việc (Job description) để chọn lựa công nhân, thiết lập hệ
thống tiêu chuẩn và hệ thống huấn luyện chính thức.
c) Trả lương theo nguyên tắc khuyến khích theo sản lượng, bảo đảm an toàn lao động
bằng dụng cụ thích hợp.
d) Thăng tiến trong công việc, chú trọng lập kế hoạch và tổ chức hoạt động.
- Charles Babbage (1792 - 1871): là một nhà toán học người Anh tìm cách tăng năng
suất lao động. Cùng với Adam Smith ông chủ trương chuyên môn hóa lao động, dùng
toán học để tính toán cách sử dụng nguyên vật liệu tối ưu nhất. Ông cho rằng, các nhà
quản trị phải nghiên cứu thời gian cần thiết để hoàn thành một công việc, từ đó ấn định
tiêu chuẩn công việc, đưa ra việc thưởng cho những công nhân vượt tiêu chuẩn. Ông
cũng là người đầu tiên đề nghị phương pháp chia lợi nhuận để duy trì quan hệ giữa
công nhân và người quản lý.
- Frank (1886 - 1924) và Lillian Gilbreth (1878 – 1972): là những người tiên phong
trong việc nghiên cứu thời gian - động tác và phát triển lý thuyết quản trị khác hẳn
Taylor. Hai ông bà phát triển một hệ thống các thao tác để hoàn thành một công tác.
Hai ông bà đưa ra một hệ thống xếp loại bao trùm các động tác như cách nắm đồ vật,
cách di chuyển... Hệ thống các động tác khoa học nêu lên những tương quan giữa loại
động tác và tần số với sự mệt nhọc trong lao động, xác định những động tác dư thừa
làm phí phạm năng lực, loại bỏ những động tác dư thừa, chú tâm vào những động tác
thích hợp làm giảm mệt mỏi và tăng năng suất lao động.
- Henry Gantt (1861 - 1919): Ông vốn là một kỹ sư chuyên về hệ thống kiểm soát
trong các nhà máy. Ông phát triển sơ đồ Gantt mô tả dòng công việc cần để hoàn thành
một nhiệm vụ, vạch ra những giai đoạn của công việc theo kế hoạch, ghi cả thời gian
hoạch định và thời gian thực sự. Ngày nay phương pháp Gantt là một công cụ quan
trọng trong quản trị tác nghiệp. Gantt cũng đưa ra một hệ thống chỉ tiêu công việc và
hệ thống khen thưởng cho công nhân và quản trị viên đạt và vượt chỉ tiêu.
Tóm lại, trường phái quản trị khoa học có nhiều đóng góp có giá trị cho sự phát triển
của tư tưởng quản trị:
- Họ phát triển kỹ năng quản trị qua phân công và chuyên môn hóa quá trình lao động,
hình thành qui trình sản xuất dây chuyền.
- Họ là những người đầu tiên nêu lên tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn
luyện nhân viên, đầu tiên dùng đãi ngộ để tăng năng suất lao động.
- Họ cũng là những người nhấn mạnh việc giảm giá thành để tăng hiệu quả, dùng
những phương pháp có tính hệ thống và hợp lý để giải quyết các vấn đề quản trị.
- Cũng chính họ coi quản trị như là một đối tượng nghiên cứu khoa học.
Tuy vậy trường phái này cũng có những giới hạn nhất định:
- Chỉ áp dụng tốt trong trường hợp môi trường ổn định, khó áp dụng trong môi trường
phức tạp nhiều thay đổi;
- Quá đề cao bản chất kinh tế và duy lý của con người mà đánh giá thấp nhu cầu xã hội
và tự thể hiện của con người, do vậy vấn đề nhân bản ít được quan tâm;
- Cố áp dụng những nguyên tắc quản trị phổ quát cho mọi hoàn cảnh mà không nhận
thấy tính đặc thù của môi trường, và họ cũng quá chú tâm đến vấn đề kỹ thuậ
2.1.2. Trường phái quản trị hành chính
Trường phái quản trị hành chính phát triển những nguyên tắc quản trị chung cho cả
một tổ chức, chính vì thế trường phái này còn được gọi là tư tưởng quản trị tổ chức cổ
điển do Henry Fayol ở Pháp và Max Weber ở Đức nêu lên, cũng cùng thời với Taylor
ở Mỹ.
- Max Weber (1864 - 1920): Là một nhà xã hội học người Đức, có nhiều đóng góp
vào lý thuyết quản trị thông qua việc phát triển một tổ chức quan liêu bàn giấy là
phương thức hợp lý tổ chức một công ty phức tạp. Khái niệm quan liêu bàn giấy được
định nghĩa là hệ thống chức vụ và nhiệm vụ được xác định rõ ràng, phân công, phân
nhiệm chính xác, các mục tiêu phân biệt, hệ thống quyền hành có tôn ti trật tự. Cơ sở
tư tưởng của Weber là ý niệm thẩm quyền hợp pháp và hợp lý, ngày nay thuật ngữ
“quan liêu” gợi lên hình ảnh một tổ chức cứng nhắc, lỗi thời, bị chìm ngập trong thủ
tục hành chính phiền hà và nó hoàn toàn xa lạ với tư tưởng ban đầu của Weber.
Thực chất những đặc tính về chủ nghĩa quan liêu của Weber là:
Phân công lao động với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định rõ và được
hợp pháp hóa như nhiệm vụ chính thức.
Các chức vụ được thiết lập theo hệ thống chỉ huy, mỗi chức vụ nằm dưới một
chức vụ khác cao hơn.
Nhân sự được tuyển dụng và thăng cấp theo khả năng qua thi cử, huấn luyện và
kinh nghiệm.
Các hành vi hành chính và các quyết định phải thành văn bản.
Quản trị phải tách rời sở hữu.
Các nhà quản trị phải tuân thủ điều lệ và thủ tục. Luật lệ phải công bằng và
được áp dụng thống nhất cho mọi người.
- Henry Fayol (1841 - 1925): Là một nhà quản trị hành chính người Pháp với tác
phẩm “Quản trị công nghiệp và quản trị tổng quát (Administration industrielle et
général) (1916)”. Khác với Taylor, cho rằng năng suất lao động kém là do công nhân
không biết cách làm việc, và không được kích thích kinh tế đầy đủ, Fayol chỉ ra rằng
năng suất lao động của con người làm việc chung trong tập thể tùy thuộc vào sự sắp
xếp tổ chức của nhà quản trị. Việc sắp xếp, tổ chức đó được Fayol gọi là việc quản trị
tổng quát và việc này cũng quan trọng như 5 việc khác trong cơ sở sản xuất kinh
doanh: (1) sản xuất, (2) tiếp thị hay Marketing, (3) tài chính, (4) quản lý tài sản và con
người và (5) kế toán - thống kê. Để có thể làm tốt việc sắp xếp, tổ chức xí nghiệp
Fayol đã đề nghị các nhà quản trị nên theo 14 nguyên tắc quản trị:
1. Phải phân công lao động.
2. Phải xác định rõ mối quan hệ giữa quyền hành và trách nhiệm.
3. Phải duy trì kỷ luật trong xí nghiệp.
4. Mỗi công nhân chỉ nhận lệnh từ một cấp chỉ huy trực tiếp duy nhất.
5. Các nhà quản trị phải thống nhất ý kiến khi chỉ huy.
6. Quyền lợi chung luôn luôn phải được đặt trên quyền lợi riêng.
7. Quyền lợi kinh tế phải tương xứng với công việc.
8. Quyền quyết định trong xí nghiệp phải tập trung về một mối.
9. Xí nghiệp phải được tổ chức theo cấp bậc từ giám đốc xuống đến công nhân.
10. Sinh hoạt trong xí nghiệp phải có trật tự.
11. Sự đối xử trong xí nghiệp phải công bình.
12. Công việc của mỗi người trong xí nghiệp phải ổn định.
13. Tôn trọng sáng kiến của mọi người.
14. Xí nghiệp phải xây dựng cho được tinh thần tập thể.
Trường phái hành chính chủ trương rằng, năng suất lao động sẽ cao trong một tổ chức
được sắp đặt hợp lý. Nó đóng góp rất nhiều trong lý luận cũng như thực hành quản trị,
nhiều nguyên tắc quản trị của tư tưởng này vẫn còn áp dụng ngày nay. Các hình thức
tổ chức, các nguyên tắc tổ chức, quyền lực và sự ủy quyền... đang ứng dụng phổ biến
hiện nay chính là sự đóng góp quan trọng của trường phái quản trị hành chính. Hạn
chế của trường phái này là các tư tưởng được thiết lập trong một tổ chức ổn định, ít
thay đổi, quan điểm quản trị cứng rắn, ít chú ý đến con người và xã hội nên dễ dẫn tới
việc xa rời thực tế. Vấn đề quan trọng là phải biết cách vận dụng các nguyên tắc quản
trị cho phù hợp với các yêu cầu thực tế, chứ không phải là từ bỏ các nguyên tắc đó.
Trong suốt quá trình phát triển của quản trị học, có nhiều trường phái khác nhau đã
hình thành và phát triển trong từng giai đoạn khác nhau. Các lý thuyết quản trị ra đời
đều hướng tới việc giải quyết các vấn đề do thực tiễn quản trị đặt ra, lý thuyết ra đời
sau không phủ định hoàn toàn lý thuyết ra đời trước mà kế thừa và bổ sung cho đầy đủ
hơn. Trong các tác giả thuộc nhóm lý thuyết cổ điển, Weber đề cao các nguyên tắc,
chính sách, tính hợp lý của tổ chức nhằm hướng đến việc xây dựng cơ cấu tổ chức hợp
lý, hiệu quả. Trong khi đó, Taylor và các cộng sự của ông tập trung sự chú ý vào năng
suất và hiệu quả của tổ chức khi đề cập đến khía cạnh hợp lý trong hành động của con
người và cho rằng mỗi công việc đều có một cách thức hợp lý nhất để hoàn thành
chúng. Henry Fayol lại đề cao tính phổ biến của các chức năng quản trị chủ yếu và
phương pháp áp dụng chúng trong tổ chức. Đồng thời, ông cũng đề cao sự phân công
lao động, thiết lập cơ cấu tổ chức, qui chế hoạt động rõ ràng. Trường phái tâm lý xã
hội chú trọng đến vấn đề con người trong tổ chức trên phương diện con người tâm lý
xã hội, đề cao bản chất tốt đẹp của con người và đòi hỏi các nhà quản trị phải có chính
sách đúng đắn đối với con người. Các lý thuyết hệ thống, quản trị theo tình huống lần
lượt ra đời sau thế chiến thứ hai, tiếp cận khoa học quản trị dựa trên quan niệm tổ chức
là một thành tố trong tổng thể xã hội và trong tổ chức có mối liên hệ hữu cơ giữa các
hệ thống cấp dưới và cấp trên của nó. Bởi vậy, các nhà quản trị phải truyền thông trực
tiếp mới hiệu quả. Trường phái quản trị theo tình huống đề cao tính hợp lý, linh hoạt
trong việc vận dụng các lý thuyết quản trị. Các lý thuyết quản trị hiện đại là sự kế thừa
các tư tưởng quản trị truyền thống nhằm đáp ứng những thay đổi nhanh chóng của môi
trường kinh doanh và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thương trường. Các lý
thuyết quản trị tuy xuất hiện tuần tự theo thời gian nhưng chúng không thay thế nhau
mà bổ sung cho nhau. Sự quản trị có hiệu quả chỉ đạt được trên cơ sở của sự vận dụng
sáng tạo các lý thuyết quản trị vào những tình huống cụ thể trong mỗi tổ chức.
C. CÁC CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ
1. Chức năng hoạch định
1.1. Khái niệm và vai trò của hoạch định
1.1.1. Khái niệm
Hoạch định là quá trình xác định những mục tiêu của tổ chức và phương thức
tốt nhất để đạt được những mục tiêu đó. Nói cách khác, hoạch định là “quyết định xem
phải làm cái gì, làm như thế nào, khi nào làm và ai làm cái đó”
Hoạch định có liên quan tới mục tiêu cần phải đạt được, cũng như phương tiện
để đạt được mục tiêu như thế nào. Nó bao gồm việc xác định rõ các mục tiêu, xây
dựng một chiến lược tổng thể, nhất quán với những mục tiêu đó, và triển khai một hệ
thống các kế hoạch để thống nhất và phối hợp các hoạt động.
Muốn cho công tác hoạch định đạt được kết quả mong muốn thì nó phải đáp ứng
được các yêu cầu: Khoa học, khách quan, hệ thống, nhất quán, khả thi, cụ thể, linh
hoạt, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn.
Chức năng hoạch định là chức năng đầu tiên trong quá trình quản trị doanh
nghiệp. Chức năng này nhằm giúp các nhà lãnh đạo xác định mục tiêu tổ chức,
xây dựng chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Từ đó, nhà quản trị sẽ lên các dự
án bổ sung, kế hoạch phục vụ cho mục tiêu chung của tổ chức.
1.1.2. Phân loại
Trên thực tế có nhiều loại hoạch định khác nhau được phân chia dựa theo
những tiêu thức khác nhau, cụ thể là:
Phân loại hoạch định theo thời gian: Theo cách phân loại này, người ta chia
ra:
- Hoạch định dài hạn: Là hoạch định cho thời gian thực hiện kéo dài từ 5 năm
trở lên.
- Hoạch định trung hạn: Là hoạch định cho khoảng thời gian từ trên 1 năm đến
dưới 5 năm.
- Hoạch định ngắn hạn: Là hoạch định cho khoảng thời gian dưới một năm.
Theo lĩnh vực kinh doanh: Dựa vào tiêu thức này, người ta chia thành nhiều
loại hoạch định khác nhau như: Hoạch định tài chính, hoạch định nhân sự, hoạch định
vật tư, hoạch định sản xuất, hoạch định tiêu thụ…
Theo cấp độ hoạch định: Với cách phân loại này, người ta chia ra: Hoạch
định vĩ mô và hoạch định vi mô
Theo mức độ hoạt động: Với cách phân loại này, người ta chia ra: Hoạch
định chiến lược và hoạch định chiến thuật (hoạch định tác nghiệp)
Lưu ý: Việc phân chia các loại hoạch định theo các tiêu thức trên đây chỉ mang
tính chất tương đối. Các loại hoạch định có quan hệ qua lại với nhau. Chẳng hạn,
hoạch định chiến lược có thể bao gồm cả hoạch định dài hạn và ngắn hạn. Tuy vậy,
hoạch định chiến lược nhấn mạnh bức tranh tổng thể và dài hạn hơn, trong khi hoạch
định tác nghiệp phần lớn là những hoạch định ngắn hạn.
1.1.3. Vai trò
- Hoạch định cho biết hướng đi của doanh nghiệp.
- Hoạch định giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí
- Hoạch định giúp tổ chức có thể thích nghi được với sự thay đổi của môi
trường bên ngoài. Do vậy hoạch định có tác dụng làm giảm tính bất ổn định của doanh
nghiệp
- Nhờ có hoạch định mà một tổ chức có thể phát triển tinh thần làm việc tập thể.
Khi mỗi người trong tập thể cùng nhau hành động và đều biết rằng mình muốn đạt cái
gì, thì kết quả đạt được sẽ cao hơn
- Hoạch định thiết lập nên những tiêu chuẩn tạo điều kiện cho công tác kiểm tra.
1.2- Mục tiêu, cơ sở khoa học và tiến trình của hoạch định
1.2.1- Mục tiêu hoạch định
Khái niệm
Mục tiêu là cái đích hay kết quả cuối cùng mà công tác hoạch định cần đạt
được. Không có mục tiêu hoặc mục tiêu không rõ ràng thì kế hoạch sẽ mất phương
hướng. Thông thường các doanh nghiệp không chỉ hướng tới một mục tiêu mà thường
là một hệ thống các mục tiêu phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau.
Trong thực tế các doanh nghiệp thường gặp phải vấn đề đạt được mục tiêu này
thì lại làm hỏng hay ít nhất cũng làm phương hại đến mục tiêu khác. Như vậy, vấn đề
lựa chọn mục tiêu không đơn giản chút nào. Vấn đề là ai có quyền xác định mục tiêu
và xác định mục tiêu như thế nào cho đúng là một chuyện cần phải làm một cách
nghiêm túc
Muốn xác định mục tiêu hoạch định một cách đúng đắn, chúng ta cần căn cứ
vào:
- Chiến lược và sách lược kinh doanh đã lựa chọn
- Khả năng của mỗi tổ chức
- Hoàn cảnh khách quan bên ngoài tổ chức
- Đòi hỏi của các quy luật (kinh tế, chính trị, xã hội,…) khách quan
Phương pháp xác định mục tiêu: Có nhiều phương pháp xác định mục tiêu. Ở đây
cần phải giải quyết ít nhất hai vấn đề: ai xác định và xác định như thế nào
- Đối với hoạch định chiến lược thì mục tiêu thường được người lãnh đạo cao
nhất hay ban lãnh đạo cao nhất quyết định, còn hoạch định tác nghiệp thì mục tiêu do
chính lãnh đạo của mỗi bộ phận chịu trách nhiệm
- Trả lời câu hỏi xác định mục tiêu như thế nào, chúng ta thấy có mấy phương
pháp chủ yếu sau:
+ Phương pháp căn cứ vào nhiệm vụ được giao
+ Phương pháp tập thể thông qua quyết định mục tiêu
+ Phương pháp logic
+ Phương pháp kinh nghiệm
Quy trình xác định mục tiêu hoạch định: Có nhiều cách xác định mục tiêu nhưng
nhìn chung quy trình xác định mục tiêu trong công tác hoạch định thường tuân theo
các bước cơ bản sau:
+ Xác định nhiệm vụ chung
+ Nghiên cứu và thu thập thông tin
+ Xác định các mục tiêu
+ Đánh giá và sàng lọc những mục tiêu được lựa chọn
+ Quyết định lựa chọn mục tiêu
1.2.2. Cơ sở khoa học của hoạch định
Xác định đúng đắn những cơ sở khách quan cần thiết và tất yếu là một đòi hỏi
khách quan trong công tác hoạch định. Cơ sở khoa học của hoạch định là những tiền
đề phải có từ trước mà thiếu chúng công tác hoạch định sẽ không khoa học và sẽ là trở
ngại cho việc tổ chức và thực hiện của công tác này
Những cơ sở khoa học chủ yếu:
+ Mục tiêu và quyết tâm thực hiện mục tiêu đã đề ra
+ Phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm trong tổ chức
+ Đòi hỏi của các quy luật khách quan chi phối hoạt động quản trị trong lĩnh vực
hoạch định
1.2.3- Tiến trình của hoạch định
Thực hiện một tiến trình hoạch định chặt chẽ là một yếu tố quan trọng làm cho
hoạch định hữu hiệu. Có nhiều cách sắp xếp và trình bày các bước của tiến trình hoạch
định, nhưng nhìn chung có 8 bước cơ bản như sau:
Nhận thức Xây dựng các Xem xét các X/dựng các
những vấn đề mục tiêu tiền đề của chiến lược
chung hoạch định phát triển
Điều chỉnh, lặp Kiểm tra, đánh Lập các chương X/dựng các
lại tiến trình giá kết quả trình KH
H/định hành động tác nghiệp
Nhìn chung kế hoạch tác nghiệp có thể phân loại thành kế hoạch thường xuyên và
kế hoạch không thường xuyên (đơn dụng).
Kế hoạch thường xuyên
Kế hoạch thường xuyên được hoạch định để giải quyết những vấn đề xảy ra thường
xuyên, lặp đi lặp lại. Kế hoạch thường xuyên hướng vào việc tạo ra tính ổn định và
duy trì sự cân đối trong tổ chức. Thêm vào đó, kế hoạch thường xuyên đảm bảo thích
ứng với các tình huống mang tính chu kỳ, điều này rất quan trọng trong mọi tổ chức.
Kế hoạch thường xuyên: là kế hoạch giải quyết mục tiêu và những vấn đề xảy ra
thường xuyên trong tổ chức.
Kế hoạch thường xuyên bao gồm những chính sách, những thủ tục và quy tắc.
Chính sách là những hướng dẫn chung, đặt ra những định hướng để giải quyết
những định hướng nào đó mà tổ chức thường gặp phải. Chính sách hướng dẫn để nhà
quản trị ra quyết định trong các tình huống thường xuyên xảy ra. Hầu hết các đơn vị
của tổ chức sẽ hình thành những chính sách để quyết định có điều kiện hình thành.
Thủ tục là hình thức thứ hai của kế hoạch thường xuyên. Thủ tục chuyên biệt hơn
và mang tính định hướng hành động hơn chính sách. Thủ tục cung cấp những tài liệu
để thực hiện một khối công việc trọn vẹn.
Thủ tục: đưa ra những hướng dẫn chuyên biệt về cách thức tiến hành các hành
động.
Quy định: Là một hình thức kế hoạch thường xuyên chính xác nhất của tổ chức.
Quy định không phải cung cấp những hướng dẫn cho việc ra quyết định của tổ chức,
trái lại nó cung cấp những quy tắc chi tiết và chuyên biệt cho hành động.
Quy định đề ra những quy tắc chi tiết và chuyên biệt cho hành động.
Kế hoạch đơn dụng
Kế hoạch đơn dụng được phát triển cho những tình huống riêng biệt của tổ chức, là
kế hoạch sử dụng một lần cho tình huống riêng biệt và không lặp lại.
Kế hoạch đơn dụng: Kế hoạch giải quyết những tình huống mới không lặp lại của
tổ chức. Có 3 loại kế hoạch đơn dụng: Chương trình, dự án và ngân sách:
Chương trình: là một loại kế hoạch đơn dụng mô tả một tổng thể những hành
động liên quan với nhau nhằm hoàn thành mục tiêu cụ thể. Kế hoạch phác hoạ những
bước đi quan trọng và những hành động chuyên biệt cần thiết để thực hiện mục tiêu cụ
thể đã được chương trình mô tả tương đối chi tiết.
Dự án: Dự án hướng kết quả vào các cá nhân và nhóm làm việc cụ thể. Dự án ít
tổng hợp và có phạm vi hẹp hơn chương trình, thường định trước ngày mục tiêu được
hoàn thành.
Ngân sách: là hình thức cuối cùng của kế hoạch đơn dụng. Ngân sách thường được
xem như một phần cấu thành của hoạch định hiệu quả vì ngân sách chuyên biệt về
nguồn tài chính. Thêm vào đó, ngân sách phục vụ như một hệ thống kiểm soát tài
chính để thực hiện dự án.
Mối quan hệ giữa hoạch định chiến lược và hoạch định tác nghiệp
Mặc dù khác nhau nhưng hoạch định chiến lược và hoạch định tác nghiệp không
thể phát triển tách rời nhau. Thực ra cả hai loại hoạch định đều triển khai từ mục tiêu
chung. Tổ chức sử dụng hoạch định từ trên xuống hay từ dưới lên, kết quả sẽ phát triển
một hệ thống các kế hoạch đơn lẻ, chúng được hình thành trong một thể thống nhất.
Hoạch định tác nghiệp của từng đơn vị cụ thể đều phải nhằm thực hiện tất cả những gì
trong hoạch định chiến lược của tổ chức.
Những dấu hiệu giúp chúng ta phân biệt giữa Hoạch định chiến lược và Hoạch
định tác nghiệp
Các tiêu thức Hoạch định chiến lược Hoạch định tác nghiệp
1- Tính chất của quyết định Chi phối toàn diện và Chi phối cục bộ và trong
trong thời gian dài. thời gian ngắn.
Biến đổi Xác định
2- Môi trường thực hiện
Thường là quản trị viên Thường là quản trị viên
3- Cấp quyết định.
cấp cao cấp thấp
Khái quát vấn đề Phân tích cụ thể, tỷ mỉ
4- Khả năng của người ra
quyết định
Dài hạn (>1năm). Ngắn hạn (<=1 năm)
5- Thời gian sử dụng
Lớn Hạn chế
6- Rủi ro nếu xảy ra
Định hướng phát triển. Phương tiện thực hiện
7- Mục đích của quyết định
chiến lược
Giám đốc
Giám đốc
Sản xuất Marketing Tài chính Sản xuất Marketing Tài chính
Trong thực tế ngoài những mô hình kể trên, các bộ phận của cơ cấu còn có thể
được hình thành theo quá trình công nghệ, theo các dịch vụ hỗ trợ, theo nhóm... Mô
hình được lựa chọn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong mỗi hoàn cảnh nhất
định. Các yếu tố này bao gồm các loại công việc phải làm, cách thức tiến hành công
việc, những người tham gia thực hiện công việc, công nghệ được sử dụng, đối tượng
phục vụ, phạm vi phục vụ... Để mô hình tổ chức có thể giúp đạt được mục tiêu của tổ
chức một cách hiệu quả, phần lớn các tổ chức đều sử dụng hình thức phân chia bộ
phận hỗn hợp, trong đó kết hợp hai hay nhiều cơ sở thuần tuý ở trên.
Ưu điểm lớn nhất của mô hình hỗn hợp là sự kết hợp nhiều mô hình cho phép tổ
chức lợi dụng được các ưu thế của mô hình tổ chức chính và giảm được ảnh hưởng của
các nhược điểm của nó. Mô hình này giúp xử lý được các tình huống phức tạp, có tác
dụng tốt đối với các tổ chức lớn, và cho phép chuyên môn hoá một số cơ cấu tổ chức.
Tuy nhiên, mô hình hỗn hợp có thể làm cho cơ cấu tổ chức phức tạp, hình thành những
bộ phận hay phân hệ quá nhỏ làm tăng thêm nhược điểm của mỗi loại mô hình thuần
tuý.
2.3.4- Các yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức
Khi xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, cần tính đến những
nhân tố ảnh hưởng sau:
- Nhóm các nhân tố thuộc đối tượng quản trị:
Trình độ phát triển của công nghệ sản xuất. Nhiều công trình nghiên cứu đã
chứng minh rằng công nghệ sản xuất của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng có
ảnh hưởng đến việc thiết kế bộ máy tổ chức. Những doanh nghiệp có công nghệ sản
xuất, quy trình sản xuất phức tạp thường có cơ cấu tổ chức nhiều bậc với đặc điểm là
mức độ giám sát và phối hợp công việc được thực hiện với cường độ cao. Cơ cấu phải
được bố trí sao cho tăng cường được khả năng thích nghi của tổ chức trước sự thay đổi
nhanh chóng về công nghệ.
- Nhóm những nhân tố thuộc về lĩnh vực quản trị:
+ Chiến lược hay những nhiệm vụ và mục tiêu mà doanh nghiệp phải hoàn
thành.
Chiến lược và cơ cấu tổ chức là hai mặt không thể tách rời trong quản trị hiện
đại. Bất cứ chiến lược mới nào cũng được lựa chọn trên cơ sở phân tích các điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe doạ của môi trường trong đó cơ cấu đang tồn tại. Ngược
lại, là công cụ để thực hiện các mục tiêu chiến lược, cơ cấu tổ chức phải được thay đổi
khi có sự thay đổi chiến lược
Mục đích, chức năng hoạt động của doanh nghiệp quy định cơ cấu bộ máy. Ở
các doanh nghiệp sản xuất, chức năng sản xuất là quan trọng và do đó bộ máy phải
hướng vào phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất, còn ở các doanh nghiệp dịch vụ
thì bộ phận tiếp xúc phục vụ khách hàng là quan trọng. Nghiên cứu mối liên hệ giữa
chiến lược và cơ cấu tổ chức của 500 công ty hàng đầu nước Mỹ có kết quả như sau:
Chiến lược Cơ cấu tổ chức
- Kinh doanh đơn ngành nghế - Chức năng
- Đa dạng hoạt động dọc theo dây - Chức năng với bộ phận phụ trợ vận
chuyền sản xuất hành như những đơn vị lợi ích.
- Đa dạng hoá các ngành nghề có mối - Đơn vị chiến lược
quan hệ rất chặt chẽ
- Đa dạng hoá các ngành nghề có mối - Cơ cấu hỗn hợp với nhiều phương thức
quan hệ không chặt chẽ tổ chức áp dụng cụ thể cho từng bộ phận
- Đa dạng hoá các hoạt động độc lập - Công ty mẹ nắm giữ cổ phần
+ Quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của tổ chức có ảnh hưởng lớn
tới cơ cấu tổ chức. Tổ chức có quy mô lớn, thực hiện những hoạt động phức tạp
thường có mức độ chuyên môn hoá, tiêu chuẩn hoá, hình thức hoá cao hơn, nhưng lại
ít tập trung hơn các tổ chức nhỏ thực hiện những hoạt động không quá phức tạp.
+ Trình độ, sở thích, thói quen, quan niệm riêng của người quản trị và năng lực
của đội ngũ lao động. Thái độ của lãnh đạo cấp cao có thể tác động đến cơ cấu tổ chức.
Các cán bộ quản trị theo phương thức truyền thống thường thích sử dụng những hình
thức tổ chức theo chức năng với hệ thống thứ bậc mà ít sử dụng các hình thức tổ chức
theo ma trận hay mạng lưới, hay những mô hình phân tán với các đơn vị chiến lược.
Nhân lực có trình độ, kỹ năng cao thường hướng đến các mô hình quản trị mở. Các
nhân viên cấp thấp và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao thường thích mô hình tổ
chức có nhiều tổ đội, bộ phận được chuyên môn hoá vì những mô hình như vậy cóa sự
phân định rõ nhiệm vụ và tạo cơ hội để liên kết với những đối tượng có chuyên môn
tương đồng.
+ Môi trường kinh doanh đây là những yếu tố bên trong và bên ngoài tác động
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những tính chất của môi trường như tính
tích cực, tính phức tạp và mức độ thay đổi có ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức. Trong
điều kiện môi trường phong phú về nguồn lực, đồng nhất và tập trung và ổn định, tổ
chức thường có cơ cấu cơ học, trong đó việc ra quyết định mang tính tập trung với
những chỉ thị, nguyên tắc thể lệ cứng rắn vẫn có thể mang lại hiệu quả cao
Trong điều kiện môi trường khan hiếm nguồn lực, đa dạng, phân tán và thay đổi
nhanh chóng thường phải xây dựng cơ cấu tổ chức với những mối liên hệ hữu cơ,
trong đó việc ra quyết định mang tính phi tập trung với các thể lệ mềm mỏng, các bộ
phận liên kết chặt chẽ với nhau và các tổ đội đa chức năng.
+ Ngoài ra hình thức pháp lý của doanh nghiệp; quan hệ sở hữu tồn tại trong
doanh nghiệp; các phương tiện phục vụ quản trị; chính sách đãi ngộ của doanh nghiệp
đối với đội ngũ cán bộ quản trị cũng có ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp.
3. CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO
3.1- Khái niệm, vai trò của lãnh đạo
3.1.1- Khái niệm
Lãnh đạo là tác động mang tính nghệ thuật hay một quá trình gây ảnh hưởng đến
người khác sao cho họ sẽ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được mục tiêu của tổ
chức
3.1.2- Vai trò của lãnh đạo trong tổ chức
- Lãnh đạo sẽ giúp cho tổ chức hoạt động một cách ổn định.
- Nhà lãnh đạo là người chịu trách nhiệm điều khiển mọi chức năng của tổ chức và
là người đại diện của tổ chức pháp luật
- Nhà lãnh đạo là người làm nên phong cách ứng xử ở nơi làm việc
3.2- Các lý thuyết về động cơ làm việc của nhân viên
3.2.1- Lý thuyết cổ điển
Về sự động viên được Taylor và các tác giả trong trường phái lý thuyết quản trị
một cách khoa học nêu lên vào đầu thế kỷ này. Taylor cho rằng một trong những công
việc quan trọng mà các nhà quản trị phải làm là phải đảm bảo công nhân sẽ thực hiện
những công việc thường xuyên lặp đi lặp lại một cách nhàm chán những với hiệu quả
cao nhất. Để bảo đảm điều đó, nhà quản trị phải tìm ra cách làm tốt nhất để dạy cho
công nhân và dùng các kích thích về kinh tế như tiền lương và tiền thưởng để động
viên công nhân làm việc.
Quan điểm này được xây dựng trên nhận thức là bản chất chủ yếu của người lao
động trong tổ chức là lười biếng và các nhà quản trị rành rẽ về công việc hơn công
nhân; người lao động chỉ có thể được động viên bằng các phần thưởng kinh tế và bản
thân họ cũng không có gì đóng góp cho tổ chức ngoài sức lao động của họ. Thực hiện
quản trị tại nhiều tổ chức cho thấy quan điểm này không phải là không đúng, và sự
kích thíc bằng tiền bạc thường cũng đưa lại sự làm việc tích cực.
3.2.2- Lý thuyết tâm lý xã hội hay quan hệ con người
Tuy nhiên, quan điểm cổ điển về sự động viên đã được chứng minh là không phải
lúc nào cũng chính xác. Lý thuyết về quan hệ con người đã cho thấy rằng những quan
hệ xã hội trong lúc làm việc đã có tác dụng thúc đẩy hoặc kiềm hãm hăng hái làm việc
của công nhân. Lý thuyết này cũng cho thấy con người cũng kém sự hăng hái khi phải
thường xuyên thực hiện những công việc nhàm chán và đơn điệu. Từ nhận thức đó,
các nhà lý thuyết tâm lý xã hội cho rằng các nhà quản trị có thể động viên con người
bằng cách thừa nhận nhu cầu xã hội của họ và tạo điều kiện cho người lao động cảm
thấy hãnh diện về sự hữu ích và quan trọng của họ trong công việc chung. Những biện
pháp mà nhà quản trị có thể làm để động viên người lao động theo lý thuyết tâm lý xã
hội là cho người lao động nhiều tự do hơn để làm các quyết định liên quan đến công
việc được giao, quan tâm nhiều hơn đến các nhóm không chính thức trong tổ chức,
thông tin nhiều hơn cho người lao động biết các kế hoạch và hoạt động của tổ chức.
3.2.3- Lý thuyết hiện đại
Lý thuyết về phân cấp nhu cầu của A.Maslow
Maslow đã nhìn nhận các nhu cầu của con người theo hình thái phân cấp và sắp
xếp theo một trình tự tăng dần từ nhu cầu thấp nhất đến nhu cầu cao nhất
Nhu cầu
tự hoàn thiện
1.9 9.9
5.5
1.1 9.1
Hàng ngang (trục hoành): thể hiện sự quan tâm đến công việc.
Hàng dọc (trục tung): thể hiện sự quan tân đến con người.
+ Góc 1.9: Người quản trị quan tâm sâu sắc các nhu cầu con người, dẫn tới bầu
không khí tâm lí thân ái nhưng không quan tâm đến công việc, thường nghiêng về phía
“Hữu” đôi khi theo đuôi nhân viên, bỏ lỡ các cơ hội thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
của mình.
+ Góc 9.1: Nhà quản trị chuyên quyền trong công việc, họ chỉ quan tâm đến
công việc mà không quan tâm gì đến con người. Nó sẽ giải quyết được công việc,
nhưng thường hay va chạm, ít được sự ủng hộ của nhiều người và vì vậy chất lượng
công việc họ thực hiện không cao.
+ Góc 9.9: Nhà quản trị quan tâm sâu sắc cả con người và cả cho công việc.
Đây là loại người lý tưởng nhất, nhưng trong thực thực tế không thể có vì không phải
tất cả việc gì cũng phù họp cả lợi ích của cá nhân và tập thể. Do đó, hoặc hy sinh một
phần công việc (lợi ích của tập thể) để tăng thêm sự thoã mãn lợi ích của cá nhân và
ngược lại sẽ hy sinh một phần lợi ích cá nhân để tăng thêm lợi ích của tập thể.
+ Góc 1.1: Là góc quản trị suy kém nhất, họ không quan tâm đến con người mà
cũng chẳng quan tâm gì đến công việc, chỉ duy trì các hoạt động của tổ chức ở mức tối
thiểu nhất. Họ bỏ mặc tất cả, họ chỉ còn giữ vai trò là người cung cấp thông tin từ trên
xuống.
Từ phân tích 4 góc, 4 phong cách quản trị cực đoan, hai ông này đề nghị chọn
phong cách lãnh đạo ở góc (5.5) là có hiệu quả nhất.
- Sự chọn lựa như trên, giúp cho ta một phương hướng chung (không nên ở cực
này hay cực khác) đều không tốt, cần phải dung hòa giữa yêu cầu công việc chung và
nguyện vọng chính đáng của cá nhân. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt phong cách lãnh
đạo và cách xử lý chúng trong từng tình huống cụ thể, người quản trị có thể áp dụng
nặng về tính chuyên quyền đối với người này, tình huống này hay nặng về tính dân
chủ đối với người khác tình huống khác trên cơ sở vì lợi ích chung của tổ chức và có
quan tâm đến lợi ích cá nhân.
“Không có giải pháp nào hoàn hảo cho bất kỳ một vấn đề nào. Không có một quyết
định nào làm cho mọi người đều vui lòng được. Tốt nhất là một sự dung hòa. Sau khi
cân nhắc mọi khả năng, hãy quyết định theo cách mà bạn cho là tốt nhất. Nhưng lạy
Chúa, đừng trì hoãn - PARKINSON”
Hệ thống
kiểm tra
5
4.1.2- Mục đích của kiểm tra
- Bảo đảm kết quả đạt được phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
- Bảo đảm các nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách hữu hiệu.
- Làm sáng tỏ và đề ra những kết quả mong muốn chính xác hơn theo thứ tự quan
trọng
- Xác định và dự đoán những chiều hướng chính và những thay đổi cần thiết trong
các vấn đề như: thị trường, sản phẩm tài nguyên, tiện nghi, cơ sở vật chất,…
- Phát hiện kịp thời những vấn đề và những đơn vị bộ phận chịu trách nhiệm để sửa
sai.
- Làm đơn giản hoá các vấn đề uỷ quyền, chỉ huy, quyền hành và trách nhiệm
- Phác thảo các tiêu chuẩn tường trình báo cáo để loại bớt những gì ít quan trọng
hay không cần thiết
- Phổ biến những chỉ dẫn cẫn thiết một cách liên tục để cải tiến sự hoàn tất công tác
tiết kiệm thời gian, công sức của mọi người để gia tăng năng suất và đem lại lợi nhuận
cao.
4.1.3- Các hình thức kiểm tra
Các hình thức kiểm tra rất đa dạng và có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí
khác nhau như quá trình hành động, theo mức độ tổng quát của nội dung kiểm tra, theo
tần suất của các cuộc kiểm tra, theo chủ thể tiến hành kiểm tra.
Các hình thức kiểm tra xem xét theo quá trình hoạt động:
Theo tiêu chí này, kiểm tra bao gồm những dạng cơ bản đó là:
- Kiểm tra trước hoạt động: Hình thức kiểm tra này dùng để đảm bảo nguồn lực
cần thiết cho một hoạt động nào đó đã được ghi vào ngân sách và được chuẩn bị đầy
đủ cả về số lượng, chủng loại, chất lượng và đến nơi quy định.
- Kiểm tra trong hoạt động: Là theo dõi các hoạt động đang diễn ra để đảm bảo
chắc chắn rằng mọi cái đều hướng đến các mục tiêu. Những tiêu chuẩn chỉ đạo hoạt
động đang diễn ra được rút ra từ những phần mô tả công việc và từ những chính sách
được hình thành từ chức năng lập kế hoạch. Việc kiểm tra trong hoạt động được thực
hiện chủ yếu bằng những hoạt động giám sát của những nhà quản trị.
- Kiểm tra sau hoạt động: Là hình thức kiểm tra, đo lường kết quả cuối cùng
của hoạt động
Theo mức độ tổng quát của nội dung kiểm tra:
Theo cách phân loại này, có các hình thức kiểm tra cơ bản đó là:
- Kiểm tra toàn bộ: Nhằm đánh giá việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch của doanh
nghiệp một cách tổng thể
- Kiểm tra bộ phận: Là kiểm tra đối với từng lĩnh vực, bộ phận, phân hệ cụ thể
của doanh nghiệp
- Kiểm tra cá nhân: Kiểm tra đối với những con người cụ thể trong doanh nghiệp
Theo tần suất của các cuộc kiểm tra:
Với cách phân loại này, chúng ta có các loại kiểm tra đó là:
- Kiểm tra đột xuất: Là kiểm tra không theo định kỳ định sẵn
- Kiểm tra định kỳ: Là kiểm tra được thực hiện theo kế hoạch đã định trong
từng thời gian và tập trung vào một số chức năng quản trị
- Kiểm tra liên tục: Là giám sát thường xuyên trong mọi thời điểm, với mọi cấp,
mọi đối tượng, mọi khâu và mọi nội dung kiểm tra
Theo mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng kiểm tra:
- Kiểm tra là hoạt động kiểm tra của lãnh đạo doanh nghiệp và cán bộ chuyên
nghiệp đối với đối tượng quản lý
- Tự kiểm tra là việc phát triển những nhà quản trị và nhân viên có năng lực và ý
thức kỷ luật cao; có khả năng giám sát bản thân và áp dụng thành thạo kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo để hoàn thành các mục tiêu, kế hoạch với hiệu quả cao.
4.2- Các nguyên tắc kiểm tra
4.2.1- Kiểm tra phải theo kế hoạch
Cơ sở để tiến hành kiểm tra thường là dựa vào kế hoạch. Do vậy, nó phải được
thiết kế theo kế hoạch hoạt động tổ chức.
4.2.2- Kiểm tra phải công khai, khách quan, chính xác
Quá trình quản trị dĩ nhiên là bao gồm nhiều yếu tố chủ quan của nhà quản trị,
nhưng việc xem xét các bộ phận cấp dưới có làm tốt công việc hay không, không thể
là sự phán đoán chủ quan. Nếu như thực hiện kiểm tra với những định kiến có sẵn sẽ
không cho chúng ta có được những nhận xét và đánh giá đúng mức về đối tượng được
kiểm tra, kết quả kiểm tra sẽ bị sai lệch và sẽ làm cho tổ chức gặp phải những tổn thất
lớn
4.2.3- Kiểm tra phải phù hợp với tổ chức
Để việc kiểm tra có hiệu quả cao cần xây dựng một quy trình và các nguyên tắc
kiểm tra phù hợp với nét văn hoá của doanh nghiệp. Nếu nhà quản trị trong tổ chức có
phong cách lãnh đạo dân chủ, nhân viên làm việc tự giác, luôn sáng tạo và có tinh thần
trách nhiệm thì việc kiểm tra hoạt động của cấp dưới và nhân viên không nên thực
hiện quá thường xuyên. Ngược lại, nếu nhân viên cấp dưới quen làm việc với các nhà
quản trị có phong cách độc đoán, thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ, chi tiết và nhân viên
có tính ỷ lại, không có khả năng linh hoạt thì không thể áp dụng cách kiểm tra, trong
đó nhấn mạnh đến sự tự giác hay tự điều chỉnh của mỗi người.