Professional Documents
Culture Documents
Bản Án Giải Quyết Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
Bản Án Giải Quyết Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
02 Bản án số 36/2019/DS-PT Vào năm 2017, vợ chồng bà Th1 có Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên:
ngày 19/3/2019 của Tòa án thỏa thuận bán cho vợ chồng ông T,
nhân dân tỉnh An Giang về bà Th một phần đất do vợ chồng bà Không chấp nhận yêu cầu của ông T, bà
việc “Tranh chấp hợp Th1 đang sử dụng, nhưng quyền sử Th yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển
đồng quyền sử dụng đất” dụng đất do ông M là anh chồng bà nhượng.
Th1 đứng tên.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
Các bên thỏa thuận mức giá là quyền sử dụng đất ngày 16/10/2017 giữa
115.000.000đ công tầm cắt là ông T, bà Th với ông M, bà N là vô hiệu.
1.296m2, có làm giấy tay với nhau. Hai Buộc ông Văng Công M, bà Phan Thị N
bên có thỏa thuận chừa đường nước có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Đỗ Tấn T
ngang khoảng 1m dài khoảng 60m cho (Ph), Bà Trần Thị Thanh Th số tiền
hộ canh tác đất phía sau sử dụng. Sau 100.000.000đ. Ông Đỗ Tấn T (Ph), Bà
khi giao tiền và hợp đồng chuyển Trần Thị Thanh Th có nghĩa vụ trả cho
nhượng đã công chứng chứng thực. ông Văng Công M, bà Phan Thị N giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 01246
Sau đó, ông T bà Th có nộp hồ sơ tại QSDD/oB được Ủy ban nhân dân huyện
Văn phòng một cửa để làm thủ tục CM cấp ngày 03/7/1993 thuộc thửa số
sang tên, khi cán bộ đo đạc đến đo 3180, tờ bản đồ số 01, do Ủy ban nhân
hiện trạng thì không thống nhất trụ dân huyện CM cấp cho ông Văng Công
ranh, nên không tiến hành đo đạc và M.
phần đường nước do diện tích nhỏ
không thể tách thửa được. Ngày 28/11/2018, ông T và bà Th kháng
cáo toàn bộ bản án.
Phía ông M cho rằng đất này trước
đây ông bán cho ông B và bà Th1 Nhận định của phúc thẩm tòa án:
bằng miệng không làm giấy tờ. Sau đó
mới thỏa thuận bán lại cho ông bà Th, Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
khi đo đạc thì phía ông M yêu cầu dụng đất lập ngày 16/10/2017, có công
chừa lại đường nước cho hộ phía sau chứng chứng thực theo quy định; Tuy
sử dụng các bên không thống nhất nhiên tại các lời khai của các đương sự
được nên không thực hiện được hợp đều thống nhất thỏa thuận giá chuyển
đồng. Nay, ông T, bà Th yêu cầu Tòa nhượng 115.000.000đ/1.296m2 (Công
án công nhận hợp đồng chuyển tầm cắt), nhưng trong hợp đồng chỉ để
nhượng quyền sử dụng đất ngày chuyển nhượng giá 155.796.000đ cho cả
16/10/2017 mà các bên đã ký kết; diện tích 4.050m2 là không đúng thỏa
đồng ý chừa đường nước theo hiện thuận ban đầu, nhằm trốn tránh nghĩa vụ
trạng đã đo vẽ. nộp thuế cho Nhà nước nhưng nguyên
đơn đã thừa nhận; Theo định quy định tại
khoản 2 Điều 124 của Bộ luật Dân sự
2015 đây được xem là hợp đồng giả tạo.
03 Bản án số 95/2019/DS-PT Ngày 01/3/2012, Ủy ban nhân dân Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu
ngày 18/7/2019 của Tòa án thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà
nhân dân cấp cao tại Đà quyền sử dụng đất số BI 068656 công Nguyễn Thị A và bà Nguyễn Thị T. Tuyên
Nẵng nhận bà Nguyễn Thị A và bà Nguyễn bố hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vô
Về việc “Tranh chấp hợp Thị T có quyền sử dụng 363m 2 đất hiệu, hủy GCNQSDD đã cấp cho ông H,
đồng chuyển nhượng trồng cây hàng năm, thuộc thửa số bà T2.
quyền sử dựng đất và yêu 405, tờ bản đồ số 18, khu phố Đ,
cầu hủy Giấy chứng nhận phường Đ, thành phố Đ. Chấp nhận một phần yêu cầu của vợ
quyền sử dụng đất” chồng ông Nguyễn Thanh H, bà Nguyễn
Ngày 23/3/2012, Ủy ban nhân dân Thị Tân, buộc bà Nguyễn Thị A, bà
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận Nguyễn Thị T phải trả cho ông Nguyễn
quyền sử dụng đất số BI 068832 công Thanh H, bà Nguyễn Thị T2 tổng số tiền
nhận bà A và bà T có quyền sử dụng 100.000.000 đồng. Ngày 26/11/2018, vợ
630m2 đất ở và đất trồng cây, thuộc chồng ông H, bà T2 kháng cáo toàn bộ
thửa số 406, tờ bản đồ 18, khu phố Đ, bản án sơ thẩm.
phường Đ, thành phố Đ.
Toán nhân dân cấp phúc thẩm nhận
Ngày 20/4/2016, ông H mời bà A, bà T định: Tòa án cấp sơ thẩm xác định 02
đến nhà ông H làm thủ tục chuyển giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng
nhượng đất; lợi dụng bà A, bà T tuổi đất vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định tại
cao, không biết chữ, không am hiểu Điều 126 Bộ luật dân sự 2015 là có cơ
pháp luật, bà T còn mắt kém, nặng tai sở, đúng pháp luật.
nên H lừa dối ghi nội dung bà A, bà T
chuyển nhượng cho ông H toàn bộ Do 02 giao dịch chuyển nhượng quyền sử
thửa đất 406 và thửa 405. dụng đất nêu trên vô hiệu nên Tòa án cấp
sơ thẩm căn cứ Điều 34 Bộ luật tố tụng
Đến tháng 4/2017 khi đến UBND dân sự 2015 (về thẩm quyền của Tòa án
phường Đ xin hỗ trợ nhà ở cho hộ đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ
nghèo thì bà A, bà T mới phát hiện sự chức) hủy Giấy chứng nhận quyền sử
việc. dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số CD 976408 mà UBND
Ngày 21/3/2018, bà A, bà T khởi kiện thành phố Đ cấp cho ông H, bà T2 ngày
yêu cầu Tòa án tuyên bố 02 Hợp đồng 16/5/2016 đối với quyền sử dụng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất 814m2 đất, thửa số 406 (406+408), tờ bản
xác lập tại Văn phòng công chứng T đồ số 18, khu phố Đ, phường Đ, thành
ngày 20/4/2016 giữa 02 Bà với vợ phố Đ, tỉnh Quảng Trị là có cơ sở, đúng
chồng ông H, bà T2 (chuyển nhượng pháp luật.
184m2 đất là một phần của thửa số
405 diện tích 363m2; chuyển nhượng Về hậu quả hợp đồng vô hiệu thì Hội
toàn bộ 630m2 thuộc thửa 406) vô đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy ngoài
hiệu; yêu cầu hủy Giấy chứng nhận việc đủ cơ sở xác định 02 Hợp đồng
quyền sử dụng đất số CD 976408 mà chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
UBND thành phố Đ cấp cho ông H, bà trên vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định tại
T2 ngày 16/5/2016 đối với diện tích Điều 126 Bộ luật dân sự 2015 thì còn có
đất 814m2 tại thửa 406 (406+408), tờ dấu hiệu để xác định 02 Hợp đồng
bản đồ số 18, khu phố Đ, phường Đ, chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
thành phố Đ. trên vô hiệu do bị lừa dối theo quy định tại
Điều 127 Bộ luật dân sự 2015 vì cụ A và
cụ T không biết chữ, nhưng ông H vẫn
chở 2 Cụ đến Văn phòng công chứng và
mặc dù không có người làm chứng,
nhưng ông H vẫn bảo 2 Cụ điểm chỉ vào
Hợp đồng; như vậy, cần xác định lỗi trong
việc xác lập 02 Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất bị vô hiệu nêu trên
hoàn toàn thuộc về bên nhận chuyển
nhượng (vợ chồng ông H). Vì 02 Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên vô hiệu nên Tòa án cấp sơ thẩm
buộc các bên hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận là đúng pháp luật. Do đó, Tòa án
phúc thẩm tuyên giữ nguyên quyết định
tại Bản án dân sự sơ thẩm.
Bản án giải quyết hợp đồng vô hiệu do không nhận thức và làm chủ hành vi.
Số Tên bản án Nội dung bản án Nhận định của toàn án
thứ
tự
01 Bản án số Vào năm 2009, Chi nhánh NĐ_Ngân hàng Nông nghiệp Tòa án sơ thẩm xét xử:
20/2014/KDTM- và Phát triển nông thôn Tùng Thu huyện TN (sau đây gọi Hợp đồng thế chấp số
PT của tòa án tắt là NĐ_Ngân hàng) có ký kết Hợp đồng tín dụng số 3843/HĐTC ngày 27/5/2009 (đối
nhân dân tỉnh 3843/HĐTD ngày 27/5/2009 với bà BĐ_Mai Thị Thúy, sinh với diện tích đất 204m2 đất thuộc
ĐN về vụ việc: “ năm 1945, trú tại: ấp Bắc Sơn, xã QT, huyện TN, tỉnh ĐN. thửa 443, tờ bản đồ số 02 và tài
tranh chấp hợp Theo đó ngày 09/4/2010, bà BĐ_Mai Thị Thúy đã vay của sản gắn liền với đất tại xã QT,
đồng tín dụng NĐ_Ngân hàng số tiền 1.000.000.000 đồng, lãi suất vay là huyện TN) và Hợp đồng thế chấp
và tranh chấp 12%/năm, thời hạn vay đến ngày 21/03/2011. Mục đích vay số 3843 ngày 27/5/2009 (đối với
hợp đồng thế để nuôi gà. Tài sản đảm bảo cho khoản nợ vay trên gồm: diện tích đất 27.300m2 thuộc các
chấp, bảo lãnh Quyền sử dụng diện tích 204m2 đất thuộc thửa 443, tờ bản thửa số 162, 184, 227, 228, 237,
quyền sử dụng đồ số 02, xã QT,huyện TN, tỉnh ĐN (giấy chứng nhận 238, 239, 240, 241, tờ bản đồ số
đất, tài sản gắn quyền sử dụng đất đứng tên bà BĐ_Mai Thị Thúy) và tài 10, xã GT 3, huyện TN, tỉnh ĐN)
liền với đất” sản gắn liền với đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử ký kết giữa bà BĐ_Mai Thị Thúy,
dụng đất số 3B43/HĐTC ngày 27/5/2009 được ký kết giữa ông Trần Văn Hải và NĐ_Ngân
NĐ_Ngân hàng và ông Trần Văn Hải, bà BĐ_Mai Thị Thúy. hàng Nông nghiệp và Phát triển
Quyền sử dụng diện tích 27.300m2 đất thuộc các thửa số nông hôn Tùng Thu - Chi nhánh
162, 184, 227, 228, 237, 238, 239, 240, 241, tờ bản đồ số huyện TN có hiệu lực pháp luật, là
10, xã GT 3, huyện TN, tỉnh ĐN (giấy chứng nhận quyền tài sản để đảm bảo cho khoản nợ
sử dụng đất đứng tên hộ ông Trần Văn Hải) và tài sản trên vay và tiền lãi của bà BĐ_Mai Thị
đất theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số Thúy với NĐ_Ngân hàng Nông
3843/HĐTC ngày 27/5/2009 được ký kết giữa NĐ_Ngân nghiệp và Phát triển nông thôn
hàng và ông Trần Văn Hải, bà BĐ_Mai Thị Thúy. Tùng Thu - Chi nhánh huyện TN
-22/3/2011, do không trả nợ đúng hạn nên ngân hàng đã tại Hợp đồng tín dụng số
chuyển khoản nợ quá hạn số tiền là 1.000.000.000 đồng và 3843/HĐTD ngày 27 tháng 05
phát sinh số tiền lãi quá hạn là 652 088 889 đồng. Do bà năm 2009.
BĐ Thúy đã thanh toán cho ngân hàng số tiền lãi là 82 088 - Về hậu quả pháp lý: Buộc bà
889 đồng nên số tiền lãi còn lại phải thanh toán là 570 000 BĐ_Mai Thị Thúy có nghĩa vụ
000 đồng. Tính đến ngày 26/03/2013, bà BĐ_Thúy còn nợ hoàn trả cho NĐ_Ngân hàng Nông
ngân hàng tổng cộng là 1 570 000 000 đồng. Ngoài ra ngân nghiệp và Phát triển nông thôn
hàng còn yêu cầu Tòa án công nhận 02 bản Hợp đồng thế Tùng Thu - Chi nhánh huyện TN
chấp tài sản số 3843/HĐTC và cùng ngày 27/05/2009 được số tiền nợ vốn gốc là
kí kết giữa NĐ_ngân hàng và ông Trần Văn Hải và bà BĐ_ 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng)
Thúy là có hiệu lực. và có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi
Tại các bản tự khai, các ông bà BĐ_Thúy, các bên có liên tính đến ngày 26/3/2013 là
quan không đồng ý tiếp tục dùng tài sản là các quyền sử 570.000.000 đồng (năm trăm bảy
dùng đất và tài sản gắn liền với đất để đảm bảo cho khoản mươi triệu đồng).
vay 1 000 000 000 đồng tại NĐ_ngân hàng với lý do tại thời Kể từ ngày 27/3/2013 cho đến
điểm kí kết hợp đồng thế chấp (bảo lãnh) ông Trần Văn Hải khi bà BĐ_Thúy hoàn trả xong nợ,
bị tai biến mạch máu não, không có khả năng nhận thức và thì bà BĐ_Thúy còn phải trả lãi
làm chủ hành vi để giao kết hợp đồng. Do đó, bà BĐ_Thúy trên phần vốn gốc theo mức lãi
yêu cầu tòa án tuyên bố 02 hợp đồng bảo lãnh và thế chấp suất đã thỏa thuận trong Hợp
là vô hiệu do một bên chủ thể không đủ năng lực hành vi đồng tín dụng số 3843/HĐTD
dân sự. ngày 27/5/2009 cho NĐ_Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Tùng Thu - Chi nhánh
huyện TN.
Tòa án phúc thẩm nhận định:
Hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với
đất (diện tích đất 204m2 + nhà) bị
vô hiệu 1⁄2 (phần của ông Hải),
còn hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất (diện tích đất 27.300m2)
bị vô hiệu đối với phần đất ông
Hải và bà BĐ_Thúy đã cho ông
LQ_Tuấn và bà LQ_Tiền
(10.655m2) và phần của những
người khác thuộc hộ ông Trần
Văn Hải (trừ bà BĐ_Thúy). Do đó,
Sau khi có sự kháng nghị của
Viện kiểm sát cấp huyện đề nghị
sửa bản án sơ thẩm, hội đồng xét
xử phúc thẩm quyết định hủy một
phần bản án sơ thẩm về phần thế
chấp tài sản.