Professional Documents
Culture Documents
Giải Case LHD
Giải Case LHD
Ngày 28/10/2017, bà Mai cùng ông Sang và bà Thơm có ký hơp đông vay tiền
(hợp đồng bằng văn bản có đầy đủ chữ kí của 2bên, mỗi bên giữ 1 bản). Hai bên cùng
thống nhất ông Sang và bà Thơm sẽ cho bà Mai vay số tiền là 2 tỷ 5 trăm triệu đồng,
kì han vay là 15 tháng, lãi suất tiền là 0%. Hình thức đảm bảo ghi nhận trong hợp
đồng là: 2 bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng nhà đất thửa đất tại Thành Phố Hà Nội
cho bên cho vay, Đến hạn thanh toán, 28/12/2018, bà Mai không trả được số nợ thì
phải sang tên nhà đất cho ông Sang và bà Thơm. 2 bên làm hợp đồng chuyển nhượng
thửa đất nói trên với giá 500 triệu đồng.
Ngay sau khi kí hợp đồng vay tiền, các bên đã tiến hành công chứng hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất cùng ngày ký kết hợp đồng vay tiền 28/10/2017 tại văn
phòng công chứng đất đai. Đến ngày 17/8/2018 mặc dù chưa hết thời hạn cho vay
trong hợp đồng nhưng ông Sang và bà Thơm đã làm thủ tục chứng nhận quyền sử
dụng đất đối vời thửa đất nêu trên.
Nay bà Mai muốn lây lại quyền sử dung đất của mình nên đã khời kiện ra Toa an,
yều cầu Tòa án tuyên bố hợp đông chuyến quyền sử dụng đất ngày 28/10/2017 là vô
hiệu.
Có cơ sở để Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà Mai hay không? Nêu quan điểm
giải quyết tranh chấp trên.
Hđ vay 2,5 tỷ
Sang, Thơm ______________________________ Mai
Hđ chuyển nhượng đất 500tr
Hợp đồng giả tạo (điều 124) vô hiệu
* Vì sao k lập hđ thế chấp mà là hđ chuyển nhượng?
- Hđ chuyển nhượng là hđ giả tạo nhằm mục đích che giấu cho hđ thế chấp
+ Về mặt thủ tục đăng ký thế chấp, không cho thế chấp với cá nhân -> k đảm bảo lợi
ích bên cho vay ông Sang và bà Thơm (thỏa thuận mang tính cá nhân) + k được ưu
tiên thanh toán
+ Lập hđ thế chấp thì khi xử lý tài sản bà Mai có quyền bán miếng đất này cho người
khác để trả lại khoản tiền 2 tỷ 5 cho ông Sang và bà Thơm
+ Lập hđ chuyển nhượng với lãi suất 0% thì khi trả thì trả đúng số tiền đó không có
lãi, lập hđ chuyển nhượng thì ông Sang và bà Thơm được toàn quyền hưởng giá trị
căn nhà. Nếu sau này bán 4 tỷ thì được hưởng 4 tỷ. Nếu là hđ thế chấp thì bán 4 tỷ chỉ
được nhận 2 tỷ 5 còn lại trả về cho bà Mai
=> Lập hđ chuyển nhượng nhằm hưởng lãi suất cao hơn => hđ giả tạo che giấu
giao dịch thế chấp => vô hiệu
-
* Gi ải quyết: Hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu do giả tạo
- Nếu hđ chuyển nhượng giả tạo vô hiệu, hđ bị giả tạo là hđ thế chấp quyền sd
đất k bị vô hiệu => ông Sang và bà Thơm vẫn có quyền giữ lại lấy tờ nhà để xử
lý tài sản nếu bà Mai k trả được tiền
- Nhưng ở đây yêu cầu hđ thế chấp phải lập bằng văn bản có công chứng => vi
phạm về mặt hình thức
=> khoản vay không có bảo đảm
=> ông Sang và bà Thơm chịu thiệt hại về mặt lợi ích
=> Hợp đồng thế chấp vô hiệu các bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận
Case 2: chương 4
Ngày 10/10/2018, Ông A có làm hợp đồng (viết tay) sang nhượng toàn bộ diện
tích đất rộng 120m2 tọa lạc tại xã X huyện Z, tỉnh Đồng Nai (theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AB của UBND huyện Z cấp ngày 11/4/2005) cho ông B; giá
chuyển nhượng là 450 triệu đồng.
Ngay sau khi kí hợp đồng, ông A đã nhận cọc của ông B số tiền 200 triệu đồng. số
tiền 250 triệu đồng còn lại sẽ thanh toán khi ra công chứng sang tên trong thời han 01
tháng. Đến ngày 2/11/2018, ông A và ông B đến văn phòng công chứng làm thủ tục
ủy quyền cho ông B được quyền định đoạt diện tích 120m2 như trên. Việc ông A làm
ủy quyền cho ông B nhằm mục đích là đảm bảo cho mục đích chuyển nhượng. Do ông
B không có tiền thanh toán cho ông A, nên ông A không giao hợp đồng bản chính cho
ông B, mà cho ông B trong 1 tháng mà thanh toán hết tiền thì sẽ giao hợp đồng ủy
quyền cho ông B. Thay vì đó, vì đang nợ tiền của bà H nên ông A sẽ giao hợp đồng ủy
quyền ngày 2/11/2018 cho bà H giữ tại Văn phòng công chứng.
Vào đầu tháng 12 nằm 2018, lợi dụng lúc ông A về quê, không có mặt tại địa
phương, ông B đã đến nhà bà H yêu cầu lấy hợp đồng ủy quyền. Lúc ông B lấy hợp
đồng ủy quyền từ bà H thì không có sự đồng ý của ông A. Sau dó, ông A khởi kiện ra
Tòa án thì phát hiện ông B đa làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng miếng đất
trên cho bà C và ông D theo hợp đồng chuyền nhượng ngày 5/12/2018. A khởi kiện B
ra tòa án để giải quyết tranh chấp trên.
1. Tòa án có căn cứ để chấp nhận yêu cầu tuyên hủy bỏ hợp đồng mua bán
ngày 10/10/2018 và hợp đồng ủy quyền ngày 2/11/2018 giữa ông A và ông B hay
không?
2. A có đòi lại miếng đất từ C và D được không? Giải thích và nêu căn cứ pháp
lí.Lbichê t
? Vì sao lại lập hợp đồng ủy quyền mà k lập hợp đồng mua bán
- Quyền sử dụng đất được chuyển từ người bán sang người mua
=> thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất
+ Mua bán: B muốn bán đất thì A phải làm thủ tục sang tên
+ Ủy quyền: B có thể bán mà k cần đứng tên -> Mục đích của B trong giao dịch không
phải nhằm sở hữu quyền sử dụng đất đó mà là mua bán lại và hưởng lợi
=> Hợp đồng ủy quyền thực chất là hợp đồng mua bán => Hợp đồng vô hiệu do giả
tạo (điều 124) => hợp đồng che giấu (hđ ủy quyền) bị vô hiệu
=> Xem xét đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Hình thức viết tay (yêu cầu lập văn bản và cần công chứng) (Đ129)
=> xem xét nghĩa vụ thực hiện của các bên ⅔ nghĩa vụ
=> chưa đủ ⅔ => hợp đồng vô hiệu
=> 2 hợp đồng đều vô hiệu (hđ ủy quyền vô hiệu do giả tạo, hđ chuyển nhượng vô
hiệu vì vi phạm điều kiện về hình thức)
? Vợ chồng ông Linh đòi lại số tiền đặt cọc được hay k
=> Trường hợp nào ông Linh bà Xuyến có thể đòi lại cọc được?
- đặt cọc để mua nhà => nếu k mua nhà thì mất cọc
- khi nào k mua nhà mà đòi lại cọc được? => giao dịch đặt cọc vô hiệu => các
bên hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận
- Căn cứ để hợp đồng đặt cọc giữa ông Linh bà Xuyến và ông Sung bà Lan vô
hiệu?
+ Chủ thể
=> người nhận cọc là ông Sung, bà Lan (là người được chủ nhà ủy quyền = tờ
ưng thuận), tại thời điểm nhận tiền thì chưa được ủy quyền nhưng sau đó người
đại diện đã xác nhận về quyền nhận cọc (thời điểm giao kết k có thẩm quyền
nhưng sau đó người được ủy quyền đã xác nhận giao dịch/ xác nhận về quyền
được xác lập giao dịch) (điều 142 khoản 1 điểm a) => chủ thể thỏa
+ Tính tự nguyện (nhầm lẫn hoặc lừa dối)
=> Trong quá trình giao kết k ai làm giả giấy tờ, nhận cọc đã đưa giấy tờ gốc
=> bên bán k lừa dối => trường hợp nhầm lẫn theo điều 126 (trong quá trình
giao kết thỏa thuận 90m2 nhưng phát hiện thông tin bị quy hoạch chỉ còn
80m2)
=> Nếu muốn tuyên bố vô hiệu bị nhầm lẫn thì phải chứng minh mục đích giao
kết k đạt được (việc xê dịch 10m2 cho mục đích ở sẽ k ảnh hưởng gì đến mục
đích giao kết, phải chứng minh việc sai kết về nhầm lẫn này khiến cho mục
đích giao kết bên mua k đạt được)
+ Hình thức: văn bản k công chứng
=> thỏa, hđ đặt cọc k bắt buộc công chứng
+ Nội dung, mục đích
=> k vi phạm pháp luật, k trái đạo đức xã hội
+ Đối tượng của hợp đồng
=> đây là hợp đồng đặt cọc nên đối tượng là số tiền đặt cọc, là khả năng mua
bán nhà => thực hiện được
Căn hộ 4 tỷ
1/1/2021, Công ty ___________________________________ Ông X
- đã thanh toán 1 tỷ
- 1/2/2021 trao căn hộ, giao k đúng như thỏa thuận nhưng ông X vẫn đồng ý giao
kết
- Ông X k đủ tiền trả hẹn chủ đầu tư thỏa thuận lại về việc thanh toán và thông
báo sau
- 10/2 Ông X yêu cầu công ty A sửa tường
- 15/2 công ty niêm phong nhà
Nguyên tắc thực hiện hợp đồng: Pacta Sunt Servanda (tận tâm, thiện chí, thực
hiện đúng cam kết) => phải tôn trọng, cam kết thế nào phải ưu tiên thực hiện
thế đó
“Hoàn cảnh thay đổi cơ bản”: Điều 420.1 BLDS 2015 (rebus sic stantibus)
=> Sự thay đổi - hoàn cảnh thực tế phát sinh k thể lúc nào dự đoán hết sự việc,
tại thời điểm giao kết hợp đồng nghĩ rằng thực tế như thế này và dự đoán
những lợi ích như thế này nhưng vì một lý do khách quan nào đó, người ta k dự
đoán được nó lại đi theo 1 hướng khác => mục đích trước đây của hợp đồng k
đạt được => gây thiệt hại cho các bên
? Điều 420. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết
hợp đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự
thay đổi hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã
không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp
đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; (phán quyết tòa án) tùy vào
tình hg
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả
năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn,
giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.
=> áp dụng BLDS 2005, k có quy định cho phép sửa đổi hợp đồng sau khi ký
kết theo nguyên tắc rebus, chỉ được phép khi 2 bên cùng đồng ý sửa => tuân
thủ nghiêm ngặt quy tắc Pacta
Việc thay đổi giá hợp đồng do nhà nước ban hành quy định mới? Việc này các
bên có dự liệu được tại thời điểm đó hay không?
(Có dự thảo thì có thể dự đoán được nhưng trong trường hợp này 1 năm sau
ban hành thông tư, quyết định ngay lập tức => doanh nghiệp trở tay k kịp)
=> Nếu k điều chỉnh 1 bên có thể bị thiệt hại rất nặng => Công ty T có thể bị
phá sản
=> Hoàn cảnh thay đổi cơ bản
VD: BHX thuê mặt bằng kinh doanh nhưng do dịch Covid, doanh thu giảm
nhiều vì phong tỏa, BHX tự ý giảm giá tiền thuê và chỉ gửi thông báo cho chủ
nhà thuê
=> K thực hiện đúng theo nguyên tắc nếu hoàn cảnh khách quan tác động thì
bên bị tác động không được tự ý sửa đổi hợp đồng => muốn sửa phải có sự
thống nhất với bên kia
“Hoàn cảnh thay đổi cơ bản” “Trường hợp bất khả kháng”
- Bất khả kháng: các bên k thể lường trước được và cho dù có lường trước được
thì áp dụng mọi biện pháp hạn chế vẫn không thể giảm thiểu được thiệt hại =>
gây thiệt hại nhỏ hoặc k gây thiệt hại (không cần xét đến có thiệt hại hay
không)
Vd: chạy xe trên đường, con nai chạy ra, xe tông vào vách núi => hàng giao
chậm => bên bán không giao hàng đúng hạn cho bên mua vì một sự kiện bất
khả kháng xuất hiện => sự kiện này k gây thiệt hại gì cho bên mua
- Hoàn cảnh thay đổi cơ bản: gây thiệt hại nghiêm trọng
* Hợp đồng giữ Toàn và Mạnh là hợp đồng GỬI GIỮ TÀI SẢN - HỢP
ĐỒNG SONG VỤ
- Theo Đ554 “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ
nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết
thời hạn hợp đồng, bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ
không phải trả tiền công.”
- Theo K2 Đ555 Nghĩa vụ của bên gửi “Phải trả đủ tiền công, đúng thời hạn và
đúng phương thức đã thỏa thuận.”
- Theo K2 Đ556 Quyền của bên gửi “Yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên giữ làm
mất, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng”
- Theo K4 Đ557, Nghĩa vụ của bên giữ “Phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư
hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng.”
- Theo K4 Đ558 Quyền của bên giữ “Bán tài sản gửi giữ có nguy cơ bị hư hỏng
hoặc tiêu hủy nhằm bảo đảm lợi ích cho bên gửi, báo việc đó cho bên gửi và trả cho
bên gửi khoản tiền thu được do bán tài sản, sau khi trừ chi phí hợp lý để bán tài sản.”
- Đ560 “Trường hợp bên gửi chậm nhận tài sản thì phải thanh toán các chi phí về bảo
quản và tiền công cho bên nhận giữ tài sản trong thời gian chậm nhận”
Vì vậy trong tình huống hợp đồng gửi xe trong thời hạn 1 ngày nhưng 10 ngày
sau Toàn mới tới lấy xe, khi đó Mạnh bán xe cho Hải thì:
- Đối với Toàn là bên gửi: chậm nhận tài sản nên phải thanh toán các chi phí về bảo
quản và tiền công cho bên nhận giữ tài sản trong thời gian chậm nhận
- Đối với Mạnh là bên nhận giữ:
+ Khi quá hạn thì có thể giao nộp cho cơ quan chức năng để thông báo tìm chủ; lúc
này chiếc xe sẽ được coi là tài sản bị bỏ quên không xác định được chủ sở hữu nên
theo Đ230 thì sau 1 năm nếu không ai tới nhận mà chiếc xe nhỏ hơn hoặc bằng 10
tlcs thì Mạnh mới trở thành chủ sở hữu xe và có quyền bán xe
+ Mạnh chỉ được bán xe trong trường hợp K4 Đ558,
+ Vì Mạnh đã bán xe nên theo K4 Đ557 thì Mạnh phải bồi thường thiệt hại cho Toàn.
CASE 7:
Chị H đến siêu thị Y mua hàng hóa. Trước khi vào quầy hàng, chấp hành quy định
của siêu thị, chị H có gửi một túi xách có máy tính bảng cùng một số đồ đạc (ước tình
khoảng 6 triệu đồng) tại quầy gửi giữ miễn phí của siêu thị. Tài quầy có bảng thông
báo là siêu thị không nhận giữ những tài sản có giá trị lớn. Khi chị H đưa túi xách,
nhân viên chỉ đưa chìa khóa và yêu cầu chị H cất vào tủ, không hỏi gì thêm. Sau khi
mua hàng và lấy lại túi xách đã gửi từ nhân viên, chị H phát hiện mất chiếc máy tính
bảng, những đồ đạc khác vẫn còn nguyên. Chị H đã thông báo lại với quản lý của siêu
thị và yêu cầu siêu thị phải bồi thường thiệt hại. Chị H có căn cứ chứng minh đã gửi
chiếc máy tính bảng tại quầy. Tuy nhiên, quản lý siêu thị cho rằng siêu thị không chịu
trách nhiệm bồi thường vì đã có thông báo với khách hàng về việc siêu thị không nhận
gửi giữ những tài sản có giá trị lớn.
Dựa vào quy định của pháp luật hợp đồng trong BLDS 2015, anh chị hãy cho biết:
1 – Xác định loại hợp đồng thông dụng nêu trên?
2 – Siêu thị Y có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không?
3 – Hướng giải quyết cụ thể đối với vụ việc (giải thích và nêu cơ sở pháp lý)./.
7
1/ Đây là hợp đồng gửi giữ tài sản
2/3/
- Căn cứ Khoản 1 Đ555 thì chị H phải thông báo cho bên siêu thị biết về tình
trạng tài sản (ipad) tại quầy và biện pháp bảo quản thích hợp với chiếc máy
tính bảng. Nếu không thông báo mà tài sản bị tiêu hủy, hư hỏng thì tự chịu.
- Căn cứ Khoản 3 Đ557, siêu thị Y đã thông báo cho khách hàng về việc
không giữ tài sản có giá trị nên không phải bồi thường thiệt hại
CASE 8:
Ngày 10/02/2018, anh A thỏa thuận đặt lò ấp trứng gà của anh B 100 con gà giống
Tây Bắc với giá 120 đồng/con. Hai bên thỏa thuận B tự tìm nguồn trứng giống và giao
đủ số gà ấp vào ngày 02/3/2018. A đã ứng trước cho B số tiền bằng 2/3 giá trị hợp
đồng.
Dựa vào quy định của BLDS 2015 hãy cho biết:
1 – Giả sử trong thời hạn trên, có cơn bão lớn tràn về làm sập toàn bộ lò ấp trứng
và làm hư toàn bộ số trứng đang ấp trong lò. Vậy thiệt hại này giải quyết như thế
nào? Giải thích và nêu cơ sở pháp lý?
2 – Giả sử sau khi giao nhận gà cho A vừa xong thì cơ quan thú y địa phương đến
lò ấp trứng ra lệnh tiêu hủy toàn bộ số gà con trên vì có dịch cúm. Vậy, thiệt hại
này ai chịu? Giải thích và nêu cơ sở pháp lý?./.
8.
1/
- Căn cứ khoản 1 Điều 156, sự kiện bất khả kháng là …..
- Căn cứ vào Đ 351, nếu là skbkk thì k phải chịu trách nhiệm do vi phạm
nghĩa vụ
- Sự kiện cơn bão lớn tràn về thì B phải có trách nhiệm theo dõi thông tin dự
báo thời tiết và có biện pháp bảo vệ số trứng nên đây không phải là sự kiện
bất khả kháng nên B vẫn phải chịu trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ
- Đ 360 B bồi thường thiệt hại
2/
- Căn cứ khoản 1 Điều 156, sự kiện bất khả kháng là …..
- Căn cứ vào Đ 351, nếu là skbkk thì k phải chịu trách nhiệm do vi phạm
nghĩa vụ
- Việc dịch cúm là skbkk
9/
- Bà Tiên bồi thường vì vi phạm nghĩa vụ dân sự nên theo Đ351( (“Toàn bộ 300m vài
của tôi bà đã cắt hết, công việc thì dở dang, tôi biết làm gì bây giờ”)
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân
sự đối với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nội dung của nghĩa vụ.
- Chập điện cháy nhà là skbkk nên bà tiên không phải bồi thường
- Theo Đ552 thì chỉ trả tiền công khi nhận đc hàng ông Thảo chưa nhận được hàng
nên không phải trả tiền công
(Phân vân do vì bà Tiên chậm thực hiện nên mới dẫn tới không có hàng gia cho ông
Thảo, nếu thực hiện đúng thì cháy chưa diễn ra và vẫn giao được)
10/
- Do tự ý chấm dứt hợp đồng -> vi phạm nghĩa vụ dân sự nên theo Đ351
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân
sự đối với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nội dung của nghĩa vụ.
Vì vậy phải bồi thường thiệt hại theo Đ360
- Về tiền cọc, Đ328, đã nhận cọc nhưng bên nhận đặt cọc từ chối giao kết thì phải trả
lại cọc và trả một khoản tiền tương đương với cọc (1 tỷ)