Professional Documents
Culture Documents
540305572 Qua trinh chien ran Cong nghệ thực phẩm
540305572 Qua trinh chien ran Cong nghệ thực phẩm
540305572 Qua trinh chien ran Cong nghệ thực phẩm
Nhận thấy công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm là ngành công nghiệp trọng
điểm
của nước ta hiện nay vì đây là ngành có thế mạnh lâu dài, mang lại hiệu quả kinh tế
cao
và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các ngành kinh tế khác . Nhu cầu về các
sản
phẩm của công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở các nước ngày càng tăng, đã
Nhu cầu về các sản phẩm của công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở các nước
ngày càng tăng, đã thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp này.
Các sản phẩm về chiên rán cũng bắt đầu phát triển mạnh và phổ biến trong đời sống
con
người. Chiên rán là một phương pháp không thể thiếu trong chế biến thực phẩm tươi
sống.
Chiên là quá trình xử lý thực phẩm trong dầu/mỡ ở nhiệt độ cao. Quá trình chiên
được sử
dụng rất phổ biến trong các bếp ăn gia đình và nhà hàng, sản phẩm chiên từ lâu đã
trở nên
Chất béo được sử dụng để chiên thực phẩm có thể là dầu thực vật, mỡ động vật, bơ
magarine và shortening.
I. Bản chất và mục đích của quá trình chiên rán
- Bản chất: Chiên rán là quá trình xử lí nhiệt trong đó có chất béo (dầu, mỡ)
vừa là
chất tải nhiệt vừa là thành phần sản phẩm cuối cùng. Đây là một phương pháp
chế
biến thực phẩm được ứng dụng rộng rãi. Quá trình chiên làm tăng mật độ năng
lượng của sản phẩm (do có độ khô tăng lên và tăng hàm lượng chất béo). Quá
trình chiên cũng làm tăng giá trị cảm quan của sản phẩm do có hấp thụ chất
béo,
xảy ra các biến đổi hóa lý.
- Mục đích của quá trình rán bao gồm:
Mục đích chế biến: Quá trình rán làm tăng độ calo của sản phẩm do lượng
chất khô tăng và do sản phẩm hấp thụ dầu mỡ tăng tạo ra một giá trị
cảm
quan như: chắc, giòn, vị đặc biệt, mùi thơm hấp dẫn,…Đó là sự biến đổi
của các thành phần hóa học, cấu trúc vật lý của sản phẩm.
Mục đích bảo quản: Do quá trình rán diễn ra ở nhiệt độ cao từ 120÷1800C
hầu hết các loại vi sinh vật đều bị tiêu diệt, các loại enzyme đều bị
vô hoạt
hóa. Mặt khác khi rán sản phẩm sẽ bị mất nước, hàm lượng dầu mỡ sẽ
thấm
vào sản phẩm làm cho phần lớn các loại vi sinh vật mới xâm nhập vào
sản
phẩm sau khi rán sẽ không sinh trưởng được trong môi trường như vậy.
Vì
vậy các loại sản phẩm này cũng sẽ được bảo quản lâu hơn so với sản
phẩm
cùng loại khi chưa rán.
II. Các biến đổi
1. Khái quát:
- Dầu, mỡ tham gia vào quá trình chiên, rán như là chất tải nhiệt, đồng thời là
nguyên liệu chủ yếu quyết định chất lượng sản phẩm. Có thể chiên, rán bằng
tất cả
các loại dầu mỡ thực phẩm từ động vật hoặc thực vật, nhưng trong thực tế hiện
nay dầu thực vật như: dầu lạc, dầu cám, đậu nành (đỗ tương), oliu, hướng
dương,… vẫn được dùng nhiều nhất.
- Về tính chất vật lí, dầu là chất lỏng nhẹ hơn nước, có tỉ trọng từ 0,908 đến
0,927
T/m3 . Dầu bông có nhiệt độ đông đặc cao nhất (khoảng 2 ÷ 40C). Còn các loại
dầu
khác đều đông đặc dưới 00C.
- Về thành phần hóa học, dầu thực chất là este của glixerin và các axit béo với
tên
hóa học là glixerid đó công thức như sau:
- Trong thực tế dầu không tồn tại ở dạng tinh khiết. Trong chúng chứa một số chất
hòa tan với khối lượng rất ít. Quan trọng nhất là photphatid, steril, chất
màu,…Chúng cùng hợp thành với dầu và có tên chung là lipit. Mặc dù hàm lượng
ít nhưng các chất này đóng vai trò quan trọng trong quá trình bảo quản và sử
dụng
dầu. Một số chất trong chúng làm tăng giá trị dinh dưỡng của dầu.
- Chất lượng và đặc tính của mỗi loại dầu thường được đánh giá qua các chỉ số
sau:
chỉ số axit, chỉ số xà phòng, chỉ số iot, chỉ số rôđan. Ngoài ra tính chất của
dầu còn
được đặc trưng bằng các chỉ tiêu vật lí như trọng lượng riêng, độ nhớt (từ 8
đến 13
E20 ), điểm nóng chảy,…
- Trong quá trình chiên, rán dầu bị biến đổi đáng kể làm chất lượng của nó giảm
dần. Đó là:
Những biến đổi hóa học như: thủy phân, sự oxy hóa tạo ra các axit béo,
glyxerin, peroxit và sự biến đổi do các yếu tố sinh – hóa.
Biến đổi vật lí: độ nhớt của dầu tăng do các chất trong nguyên liệu dịch
chuyển vào dầu.
2. Các biến đổi của nguyên liệu khi chiên:
- Hầu hết các sản phẩm chiến lấy nguyên liệu từ thịt, cá, các loại rau củ,… các
nguyên liệu này thường tồn tại ở dạng rắn, bán lỏng, bột rời,… do đó khi chiên
ở
nhiệt độ cao, sản phẩm không có sự chuyển từ pha này sang pha khác mà sẽ làm
biến đổi các trạng thái bên trong cũng như bên ngoài của sản phẩm.
- Khi chiên ở nhiệt độ cao sẽ làm cho nguyên liệu biến đổi về tính chất như: vật
lý,
hóa lý, sinh hóa, cảm quan,… Sản phẩm sau khi chiên sẽ có hai vùng cơ bản gồm
có lớp vỏ khô và nhân bên trong. Tại bề mặt phân chia của sản phẩm có nhiệt độ
bằng với nhiệt độ bốc hơi của nước (tồn tại trong thời gian ngắn) sẽ làm cho
nước
trên bề mặt sản phẩm bốc hơi. Lúc đó tỷ trọng của sản phẩm sẽ giảm làm cho sản
phẩm trở nên rỗng hơn. Khi độ rỗng tăng, độ dẫn nhiệt giảm, lượng dầu mỡ ngấm
vào sản phẩm sẽ tăng.
- Quá trình chế biến nhiệt sẽ dẫn đến sự thay đổi về cảm quan như: màu sắc, mùi
vị,
cấu trúc,… của nguyên liệu. Sự thay đổi này phụ thuộc vào quá trình gia nhiệt
và
thời gian gia nhiệt, nhiệt độ càng cao trong thời gian dài sẽ làm thay đổi
mạnh.
Ngoài ra, khi gia nhiệt ở nhiệt độ cao còn làm phân hủy các vitamin (vitamin
C,A,E,…) các acid (acid citric, malic,…) làm biến tính protein và tinh bột. Ở
nhiệt
độ cao sẽ làm thay đổi các sắc tố trong nguyên liệu như chlorophyll chuyển
thành
pheophytin, caroten cũng biến đổi mạnh. Ngoài ra, các phản ứng Maillard,
Caramel cũng xảy ra mạnh ở nhiệt độ cao, các phản ứng này làm sậm màu sản
phẩm, ảnh hưởng đến giá trị cảm quan và dinh dưỡng. Ở nhiệt độ cao, glycerin do
dầu thủy phân sẽ bị thủy phân tiếp tục tạo thành acrolein, đây là chất độc cho
cơ
thể.
2.1 Biến đổi vật lí và cấu trúc vật liệu:
- Giai đoạn đầu khi nhiệt độ sản phẩm thấp hơn nhiệt độ của dầu chiên, khi đó
nhiệt
độ trong sản phẩm tăng dần đến khi cân bằng với nhiệt độ của dầu chiên. Lúc này
hình dạng sản phẩm ở bên ngoài chưa biến đổi nhiều, nguyên sinh chất của tế bào
bắt đầu đông tụ, bắt đầu thẩm thấu vào khoảng trống giữa các tế bào dưới dạng
huyền phù.
- Giai đoạn 2 khi nhiệt độ đủ cao để làm thay đổi cấu trúc tế bào, nhiệt độ cao
làm
tế bào trương nở tăng thể tích của sản phẩm, nước trong sản phẩm bắt đầu bay
hơi
và dầu bên ngoài thấm vào mạnh hơn.
- Giai đoạn 3 là giai đoạn bay hơi nước từ bên trong tế bào và các khoảng trống
của
tế bào nên hình dạng sản phẩm bị teo lại, các tổ chức của tế bào bị phá hủy và
tạo
nên nhiều khoảng trống mới có chỗ cho dầu thấm vào nhiều hơn.
- Giai đoạn 4 là giai đoạn hình dạng sản phẩm biến đổi nhiều nhất, cấu trúc tế
bào bị
phá hủy làm cho sản phẩm trở nên khô cứng hơn (giòn)
2.2 Biến đổi hóa học:
- Trong quá trình chiên ở nhiệt độ cao, các thành phần trong nguyên liệu sẽ bị
biến
đổi. Những biến đổi này có thể có lợi hoặc cũng có thể có hại đến chất lượng
sản
phẩm sau khi chiên.
- Rau quả: Protid trong rau quả bị biến tính. Có hiện tượng caramel hóa,
Chlorophyl
chuyển thành pheophytin làm cho nguyên liệu có màu vàng, caroten ít bị phân
hủy. ưới tác dụng của nhiệt độ, gây tổn thất chất khô và vitamin( itamin ,
tổn thất ít, itamin C bị phá hủy 7- 8 ). ầu rán thấm vào nguyên liệu làm
tăng
giá trị sản phẩm.
- Tinh bột: khi chiên ở nhiệt độ cao sẽ làm cho tinh bột (có sẵn trong nguyên
liệu
hoặc được thêm vào khi tẩm ướp) bị thủy phân thành các dextrin và các chất
trung
gian, làm cho sản phẩm bị caramel làm tăng giá trị cảm quan cho sản phẩm. Các
chất này sẽ tạo 1 lớp vỏ bên ngoài của sản phảm, giúp tăng độ cứng chắc và tạo
vị
ngọt cho sản phẩm.
- Thịt cá: Protid bị biến tính, mất khả năng giữ nước làm cho thịt cá co lại và
săn
chắc. Phản ứng caramel hóa xảy ra mạnh làm sản phẩm có màu vàng.
- Protein: dưới tác dụng của nhiệt cao protein sẽ bị đông tụ, tiếp tục thủy phân
dưới
nhiệt độ cao và có thể tạo thành sản phẩm cuối cùng là NH3, Sunfua,… ít nhiều
ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm.
- Đường: lượng đường có sẵn trong sản phẩm (hoặc bổ sung vào) sẽ bị caramel hóa
tạo mùi thơm và màu sắc vàng, tăng sự hấp dẫn của sản phẩm chiên.
- Ngoài ra, dưới tác dụng của nhiệt độ cao, các acid amin và đường trong sản phẩm
sẽ kết hợp với nhau tạo thành phản ứng Melanoidin.
2.3 Biến đổi cảm quan:
- Khi chiên sản phẩm với các thông số thích hợp sẽ tăng giá trị cam quan của sản
phẩm một cách rõ rệt, đồng thời cũng tăng tính hấp dẫn cho sản phẩm đáp ứng
được thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu áp dụng quá trình hiên không
đúng kĩ thuật (nhiệt độ, thời gian chiên, độ chân không,…) sẽ làm giảm giá trị
cảm
quan, không đạt yêu cầu đối với sản phẩm, giảm giá trị kinh tế.
- Nhìn chung quá trình chiên làm cho chất lượng của sản phẩm tăng lên nhiều, đặc
biệt là chất lượng cảm quan tạo nên mùi vị, màu sắc, cấu trúc hấp dẫn, đặc
trưng
của sản phẩm chiên.
3. Biến đổi của dầu:
- Dầu là môi trường truyền nhiệt thực sự nên nhiệt độ dầu gia tăng rất cao. Khi
thực
phẩm được làm chín, nước từ trong thực phẩm sẽ di chuyển ra ngoài ở dạng hơi và
đi vào môi trường dầu, kèm theo các hợp chất màu và lipid của thực phẩm - tất
cả
các thành phần này sẽ phá hủy môi trường dầu.
- Diglixerit có tính phân cực cao hơn vì vậy khả năng tương tác của nó với hơi
nước
cũng sẽ lớn hơn. Phản ứng thuỷ phân lại tiếp tục và tạo thành monoglixerit và
axit
béo tự do. Monoglyceride nhanh chóng bị thuỷ phân tạo thành glycerol và acid
béo. Trong quá trình chiên khi đạt tới một nhiệt độ nào đó glycerol sẽ bị tách
nước
tạo thành acrolein, là một aldehyde dễ bay hơi, gây ngạt thở, kích ứng cho mắt
và
tích tụ lâu ngày có thể gây ra ung thư. Nhiệt độ đó gọi là điểm bốc khói (smoke
point).
Loại dầu Điểm bốc khói (oC) Điểm cháy (oC)
So sánh điểm bốc khói và điểm cháy của một số loại dầu
Giảm điểm bốc khói Sản phẩm oxy hoá bị phân huỷ tạo
các chất dễ bay hơi
Chỉ số acid (AV) tăng Sự tạo thành các sản phẩm oxy
hoá với các nhóm carboxyl tự
do
Hàm lượng hợp chất phân Sự phân huỷ các sản phẩm oxy
cực tăng hoá và trùng hợp
- Bộ phận chiên rán bằng hơi gồm thùng kim loại ( ), trong đó có đặt các ống
truyền nhiệt (3). Hơi đưa vào các ống qua cổ góp (2) với áp suất 8-12atm. Khay
và
các giỏ đựng nguyên liệu (4), được đặt ngập trong lớp dầu. Phía dưới lớp dầu là
lớp gối nước (5), nhiệt độ không vượt quá 600C để tránh nước không bị sôi làm
tràn dầu. Gia nhiệt dầu đến 1600C sau đó cho nguyên liệu vào chiên ở 1400C
trong
5 phút. Quá trình làm việc của thiết bị được chia thành giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: thiết bị có dầu được đun nóng dần lên tới nhiệt độ cần thiết,
thời
gian này thường kéo dài tới 60-80 phút.
- Giai đoạn hai: giai đoạn rán, nguyên liệu đựng trong khay hay giỏ rán chuyển
vào
thiết bị rán bằng tay hay bằng cơ khí. Giai đoạn này phải thường xuyên theo dõi
nhiệt độ của dầu, điều chỉnh van hơi, bổ sung dầu, kiểm tra mực dầu và nước,
kiểm tra nhiệt độ gối nước.
4.2 Thiết bị chiên chân không đốt bằng hơi nước
a. Cấu tạo:
Pressure gage: đồng hồ đo áp
suất.
Temperature transducer: bộ
biến năng nhiệt độ.
- Thiết bị chiên chân không thường sử dụng để chiên các loại rau củ quả như
khoai tây, mít, chuối… chế biến các loại thứ ăn nhanh snack, chip trái
cây,…Chiên ở áp suất chân không có nhiệt độ bốc hơi thấp do đó sẽ hạn chế
các tác động của nhiệt độ cao lên sản phẩm như làm biến tính vitamin, sẫm
màu, giảm mùi sản phẩm. Ngoài ra trong điều kiện chiên chân không, lượng
không khí trong thiết bị không nhiều nên tránh được các phản ứng oxy hóa
dầu, kéo dài được thời gian làm việc của dầu.
- Khi chiên chân không lượng nước bốc hơi nhanh ngay khi lượng protein chưa
bị đông tụ hoàn toàn thành khung chắc, khả năng trương nở của nguyên liệu
tăng, độ giòn xốp của sản phẩm tốt hơn. Mặt khác nhờ khung protein giãn nở
lớn nên sản phẩm chiên sẽ ít béo hơn, ít độc hơn.
b. Nguyên lí hoạt động:
- Thùng chân không thường được cho hoạt động trước khi chiên. Điều chỉnh độ
dầu thích hợp và tiến hành nâng nhiệt đến nhiệt độ cần thiết cho quá trình
chiên.
- Khi dầu đạt nhiệt độ, nguyên liệu được cho vào giỏ chiên, qua cửa nạp
liệu, giỏ
chứa nguyên liệu sẽ được nhúng vào trong dầu nhờ bộ phận nâng hạ khay và
đóng nắp điểu chỉnh áp suất thùng chiên đến áp suất chân không nhờ bơm
chân
không. ật liệu được chiên cho đến lúc đạt yêu cầu được nâng lên, thùng
được
điều chỉnh về áp suất khí quyển.
4.3 Ngoài ra còn có một số thiết bị chiên rán khác như:
a. Thiết bị rán liên tục, dùng điện có lớp gối nước
1. ăng tải nạp
nguyên liệu
2. Bộ phận điện trở
3. Thùng rán
4. Bộ phận làm mát
5. Nắp chóp
6. Van cấp dầu
b. Thiết bị rán liên tục, dùng điện, không có lớp gối nước
1. ăng chuyền
2. Bộ phận điện trở
3. Thùng rán
4. Bộ phận nạp nguyên
liệu
5. Nắp thùng
6. Bộ phận truyền động
c. Thiết bị chiên rán đốt bằng lửa
- Thường gặp ở các cơ sở nhỏ, thủ công.
- Nhiên liệu dùng là: than, củi gỗ dầu hỏa hay hơi đốt.
- Thiết bị là thùng hoặc chảo bằng kim loại thường là gang đúc, đáy tiếp
xúc với
ngọn lửa.
- Năng suất thấp, làm việc gián đoạn.
- Nhiệt độ dầu không đều, khó khống chế được nhiệt độ nên chất lượng sản
phẩm
rán không cao.
- Tiêu hao dầu và nhiên liệu lớn.
- Khó đảm bảo vệ sinh công nghiệp.
Nhìn chung các thiết bi chiên rán đốt bằng hơi nước có những ưu nhược điểm
sau:
- Năng suất làm việc cao, làm việc liên tục.
- Nhiệt độ dầu ổn định, có thể khống chế điều chỉnh được nhiệt độ phù hợp
với từng
loại nguyên liệu khác nhau, chất lượng sản phẩm chiên cao, đồng đều.
- Có hệ thống lọc dầu, lọc cặn tái sử dụng để tiết kiệm.
- ệ sinh thiết bị dễ dàng.
- Chi phí đầu tư lớn, chi phí vận hành cao.
- Yêu cầu người vận hành phải có kiến thức, kinh nghiệm cao.
- Máy làm việc liên tục theo dây chuyền nên đòi hỏi nguyên liệu phải đồng
đều.
- Hầu như chỉ sử dụng trong quy mô công nghiệp lớn.
- Thiết bị chiên liên tục đều bao gồm: buồn chiên, bồn dầu, hệ thống băng tải để
vận
chuyển sản phẩm vào dầu chiên, bơm, thiết bị lọc dầu chiên, thiết bị cung cấp
thêm dầu khi cần, bộ phận gia nhiệt hệ thống điều khiển nhiệt năng cung cấp cho
quá trình chiên, hệ thống thoát khí.
- Buồng chiên có dạng hình thang cân, làm bằng inox, bề dày 5 mm, cách nhiệt
xung quanh bằng bông thủy tinh. Khuôn, nắp đậy, khung truyền động làm bằng
inox. ưới đáy buồng chiên có các rãnh ngang hình chữ V, shortening sẽ được
bơm vào buồng chiên qua các rãnh này. Buồng chiên có đáy hơi nghiêng thông
với một hộp chữ nhật, gọi là hộp lược. Trong hộp này sẽ có cần gạt mì vụn rơi
ra
trong quá trình chiên để tránh làm cháy khét dầu trong buồng.
- Bên ngoài buồng chiên còn có bộ phận trao đổi nhiệt ống lồng ống, dầu sẽ được
gia nhiệt nhờ hơi nước bão hòa ở đây rồi được bơm vào buồng chiên.
3. Nguyên lí hoạt động:
- Dựa trên nguyên tác gia nhiệt gián tiếp. Dầu được bơm từ bình chứa dầu vào
trong
thiết bị trao đổi nhiệt, để đạt được nhiệt độ cần thiết rồi mới đi vào buồng
chiên.
Đầu được trao đổi nhiệt trực tiếp với mì được bơm trở lại thiết bị trao đổi
nhiệt để
được cung cấp thêm năng lượng. Ngoài ra buồng chiên còn thông với hộp lược,
cần gạt trong hộp sẽ thu mì vụn rớt ra trong buồng và trả dầu trở lại buồng
chiên.
- Vắt mì sau khi cho vô khuôn cho đi vào buồng chiên, trong buồng sẽ có nắp kết
hợp để đậy khuôn mì, tránh cho mì rớt ra khỏi khuôn. Trong quá trình chiên mì
sẽ
ngập trong dầu để loại nước và dầu thấm vào trong sợi mì làm tăng giá trị dinh
dưỡng, hương vị cho sợi mì. Khuôn mì không ngập quá sâu vào trong dầu để quá
trình thoát hơi nước diễn ra dễ dàng hơn.
- Khói, hơi bốc ra ngoài qua nắp buồng theo ống khói thải ra ngoài.
- Buồng dầu có tác dụng chứa dầu còn lại vào cuối ca sản xuất. Ở mỗi đầu ca sau
người ta cho thêm dầu vào buồng gồm lượng dầu mới và lượng dầu cũ. Lượng