You are on page 1of 11

MÔN: PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI HÀNG HÓA VÀ DỊCH VỤ

TÌNH HUỐNG THẢO LUẬN

Bài 1: Xác định luật áp dụng

1. Công ty B (doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc và là DN chế xuất trong
khu chế xuất Tân Thuận ) ký hợp đồng mua bán hàng hoá với công ty C (không
phải là DN chế xuất và nằm ngoài khu chế xuất), theo đó hàng hoá được bên bán
đưa ra khỏi khu chế xuất để giao cho bên mua và các bên đã thoả thuận chọn luật
áp dụng là pháp luật thương mại của Hàn Quốc.
2. Công ty D (doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công ích) ký hợp đồng cung cấp dịch
vụ chăm sóc cây xanh cho công TNHH 1 thành viên Thảo Cầm Viên Sài Gòn.

Xác định Luật thương mại có được áp dụng để diều chỉnh các quan hệ hợp đồng sau
không? Giải thích

Bài 2: Hợp đồng mua bán mè vàng

Nguyên đơn: Công ty TNHH Thành Cường


Có trụ sở tại 20 Thủ Khoa Nghĩa, Thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu,
tỉnh An Giang; do ông Lâm Chấn Cường, chức vụ giám đốc làm đại diện.
- Bị đơn: Doanh nghiệp tư nhân Phương Nam I
Có trụ ở tại: Khu phố I Khánh Hội, thị trấn Tân Phước Khánh, huyện Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương; do bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp tư
nhân làm đại diện.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị Ngọc Điệp; Trú tại
50/3/15 đường Hòa Bình, phường 5 Quận 11 Tp. HCM.

SỰ VIỆC:

Ngày 10/8/2006 giữa Công ty TNHH Thành Cường (gọi tắt là bên A) do ông
Lâm Chấn Cường, chức vụ giám đốc làm đại diện và Doanh nghiệp tư nhân
Phương Nam I do bà Ngô Thị Mai Hoa, chủ doanh nghiệp làm đại diện đã cùng
nhau ký kết hợp đồng mua bán số 01-MV/PN-TC với nội dung:
Bên A bán cho bên B mè vàng xô, số lượng 500 tấn (+/- 10%);

Trang 1/4
Đơn giá trước thuế: 8.080.000 đồng / tấn; thuế VAT 5%: 404.000 dồng/tấn,
thành tiền 8.484.000 đồng/tấn, tổng giá trị hợp đồng là 4.242.000.000 đồng (+/-
10%).
Phương thức giao nhận hàng: hàng được giao theo từng đợt, chậm nhất đến
ngày 25/8/2006, địa điểm tại bến Trần Văn Kiểu, Tp.HCM.
Phương thức thanh toán: Thanh toán ngay 100% bằng tiền mặt hoặc chuyển
khoản theo từng đợt giao nhận hàng.
Ngoài ra các bên còn thỏa thuận nếu có tranh chấp không tự giải quyết được
thì đưa ra Tòa Kinh tế TAND tỉnh An Giang để giải quyết.

Quá trình thực hiện hợp đồng: Ông Cường trình bày ông đại diện cho Công
ty Thành Cường ký kết hợp đồng mua bán với DNTN Phương Nam I và đã thực
hiện hợp đồng đã giao cho DNTN Phương Nam I tổng cộng 633 tấn mè vàng (ông
Cường không cung cấp được biên bản giao hàng) và DNTN Phương Nam I đã
thanh toán được gần 300.000.000 đồng, còn nợ 5.194.190.000 đồng, nay yêu cầu
DNTN Phương Nam I trả dứt điểm số nợ còn lại, không yêu cầu tính lãi. Trong
quá trình thực hiện hợp đồng không có mặt bà Điệp, bà Điệp không còn là thành
viên của Công ty Thành Cường.

Bà Hoa trình bày DNTN Phương Nam I có ký hợp đồng mua bán mè vàng
với Công ty Thành Cường; nhưng người thực hiện hợp đồng là bà Điệp, bà Điệp là
thành viên Công ty Thành Cường. DNTN Phương Nam I đã thanh toán xong tiền
hàng thể hiện bằng “Bản đối chiếu công nợ” ngày 15/11/2006 do bà Điệp ký nhận.
Do đó DNTN Phương nam I không chấp nhận thanh toán nợ theo yêu cầu của
Công ty Thành Cường.

Bà Điệp trình bày DNTN Phương Nam I là chỗ quen biết làm ăn cũ nên
khoảng tháng 8/2006 DNTN Phương Nam I ứng tiền trước cho bà để mua hàng, bà
liên hệ với Công ty Thành Cường chỉ để làm thủ tục ký kết hợp đồng và xuất hóa
đơn VAT. Bà đã giao hàng cho DNTN Phương Nam I tổng cộng 633 tấn mè vàng,
số tiền tạm ứng của DNTN Phương Nam I là 5.287.150.000 đồng bà đã thanh toán
xong, bà không đồng ý phải trả lại số tiền này cho DNTN Phương Nam I.
Ngày 15/11/2006 hai bên đã lập Bản đối chiếu giao nhận và thanh toán tiền
hàng, đại diện bên giao hàng là bà Điệp; đại diện bên nhận hàng là ông Huỳnh Văn
Tài với nội dung: Căn cứ Hợp đồng kinh tế số 01-MV/PN-TC ngày 10/8/2006 giữa
Công ty Thành Cương và DNTN Phương Nam I; căn cứ thực tế giao nhận và thanh
toán tiền hàng, bên bán đã giao cho bên mua: 633.000 kg mè vàng, kèm theo 7 hóa
đơn VAT với tổng giá trị đã bào gồm thuế VAT: 5.384.190.000 đồng; phần thanh
toán: bên mua đã ứng tiền cho bà Điệp 5.287.150.000 đồng; ông Cường trực tiếp
nhận 289.306.000 đồng; tổng cộng 5.576.456.000 đồng. Đối trừ bên mua đã
chuyển thừa 192.266.000 đồng.
Bà Điệp đã trả lại cho bên mua số tiền 192.266.000 đồng.
Bên bán đã giao hàng và xuất hóa đơn cho bên mua; bên mua đã thanh toán
đầy đủ tiền hàng và tiền thuế cho bên bán. Hai bên không còn nợ gì nhau kể từ
ngày ký biên bản.
Trang 2/4
Ngày 29/6/2007 Công ty Thành Cường đã có đơn khởi kiện đối với DNTN Phương
Nam I tới Tòa Kinh tế TAND tỉnh An Giang đề nghị thu hồi hơn 5 tỷ đồng để có
tiền trả nợ khách hàng và thuế Nhà nước.

YÊU CẦU:
Anh (chị) hãy căn cứ sự việc nêu trên và quy định pháp luật để đề ra đường
lối giải quyết vụ án của Tòa án

Bài tập 3: Giá hàng hóa


Sự việc:
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa ký ngày 30/6/2013 giữa Công ty A (bên bán)
và Công ty B (bên mua), cả hai đều có trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh, các bên thỏa thuận
Công ty A giao 10 tấn thép cuộn tấm cán nóng dày 2mm xuất xứ Hàn Quốc cho Công ty
B vào ngày 15/7/2013 với giá 12,5 triệu đồng/tấn, thanh toán trong vòng 5 ngày kể từ
ngày giao hàng.
Hàng được giao đúng thỏa thuận vào ngày 15/7/2013. Đến ngày 16/7/2013, qua
điện thoại, Công ty B đề nghị Công ty A giao thêm 5 tấn thép cùng loại, chậm nhất đến
ngày 20/7/2013 và công ty B sẽ thanh toán ngay cho cả hai lần giao hàng.
Ngay sau khi giao thêm 5 tấn thép cùng loại vào ngày 20/7/2013, Công ty A yêu
cầu công ty B thanh toán giá 5 tấn thép giao đợt sau với giá 13,0 triệu đồng/tấn với lý do
giá thép cuộn tấm cán nóng xuất xứ Hàn Quốc trung bình trên thị trường vào ngày
20/7/2009 là 13,0 triệu đồng/tấn. Cụ thể:

10 tấn x 12.500.000 đồng = 125.000.000 đồng


+
05 tấn x 13.000.000 đồng = 65.000.000 đồng
= Tổng cộng: 190.000.000 đồng

Công ty B chỉ chấp nhận trả tiền cho 5 tấn thép giao ngày 20/7/2013 bằng với giá
thép giao ngày 15/7/2013 là 12,5 triệu đồng/tấn, do Công ty B chỉ đặt thêm số lượng, còn
giá cả thì phải như đã thỏa thuận đối với 10 tấn thép cuộn tấm cán nóng dày 2mm xuất xứ
Hàn Quốc giao trước đó. Do vậy, công ty B chỉ phải thanh toán tổng cộng số tiền là
187.500.000 đồng, còn công ty A phải tự chịu rủi ro do biến động giá cả thị trường, mặt
khác công ty A cũng có thể hưởng lợi nếu giá thị trường ngày 20/7/2013 sụt giảm. Trái
lại công ty A cho rằng trường hợp hai bên không thỏa thuận giá cả thì phải áp dụng giá
thị trường.
Trang 3/4
Câu hỏi:
Anh (chị) hãy nêu ý kiến và lập luận ý kiến giải quyết bất đồng nêu trên giữa công
ty A và công ty B.

Bài tập 4: Hợp đồng cung cấp lắp đặt hệ thống thiết bị lạnh băng chuyền
Sự việc:
Công ty A và Công ty B giao kết hợp đồng ngày 27/07/2017 với nội dung Công ty
A cung cấp, vận chuyển và lắp đặt cho Công ty B một hệ thống thiết bị lạnh băng chuyền
IQF 500kg/giờ ± 5%, tôm từ 16-20 con/pound; tôm tươi lột vỏ nạp liệu bằng cách sắp
tay; tôm tươi có vỏ, tôm luộc nạp liệu tự động; nhiệt độ đầu ra trung tâm sản phẩm là -
18oC; tổng giá trị hợp đồng bao gồm cả cung cấp, vận chuyển, lắp đặt và thuế giá trị gia
tăng (5%) là 137.550 USD. Hợp đồng còn quy định về phương thức giao nhận, phương
thức thanh toán và thời gian bảo hành (12 tháng, kể từ ngày nghiệm thu bàn giao). Thực
hiện hợp đồng, Công ty B đã tạm ứng một phần tiền hàng cho Công ty A theo thỏa thuận.
Từ tháng 7 đến tháng 9-2017, Công ty A hoàn thành việc lắp đặt cho Công ty B băng
chuyền IQF 500kg/giờ.
Theo trình bày của Công ty A, trong khi chưa nghiệm thu, Công ty B đã sử dụng
băng chuyền đông lạnh này vào sản xuất mặt hàng nghêu với công suất 600kg/giờ. Sau
hơn 1 năm, kể từ ngày đưa máy vào hoạt động, Công ty B vẫn không chịu nghiệm thu và
thanh toán tiền hàng còn lại, mặc dù Công ty A liên tục yêu cầu. Do vậy, Công ty A đã
khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B thanh toán tiền hàng và tiền lãi do chậm thanh
toán.
Theo trình bày của Công ty B, việc chưa nghiệm thu là do hệ thống thiết bị lạnh
băng chuyền IQF 500kg/giờ không đạt đúng công suất đã thỏa thuận. Công ty B đã nhiều
lần yêu cầu Công ty A phải hiệu chỉnh lại hệ thống theo đúng chất lượng đã ký kết. Trong
suốt quá trình hiệu chỉnh máy, Công ty A chưa lần nào lập được biên bản xác nhận máy
chạy đạt được công suất như thỏa thuận trong hợp đồng. Hai bên cũng đã nhiều lần tổ
chức nghiệm thu máy, nhưng không thành và đến ngày 22/7/2019 (thời điểm khởi kiện ra
Tòa), hai bên vẫn chưa thống nhất được với nhau về cách thức nghiệm thu máy. Vì vậy,
một trong những yêu cầu của Công ty B là Công ty A phải đảm bảo đúng yêu cầu kỹ
thuật của hệ thống thiết bị lạnh như đã cam kết trong hợp đồng, sau khi Công ty A đảm
bảo các yêu cầu kỹ thuật thì Công ty B sẽ thanh toán tiền hàng còn lại. Công ty B cũng
không chấp nhận việc trả tiền lãi vì cho rằng Công ty A mới là người vi phạm hợp đồng.
Theo Công ty B, thực tế máy đã sử dụng một thời gian, nếu công suất không đạt được
mức 500kg/giờ thì cũng phải đạt ở mức có thể chấp nhận được (theo kết quả giám định do
Toà án trưng cầu thì công suất chỉ đạt 114,75kg/giờ).

Trang 4/4
Yêu cầu:
1. a/ Trong trường hợp khiếu nại về chất lượng hàng hóa của Công ty B là có cơ sở
thì hành vi không thanh toán tiền hàng còn lại của Công ty B có phù hợp với quy
định của pháp luật không? Giải thích?
b/ Nếu các bên thỏa thuận nghĩa vụ thanh toán tiền hàng còn lại của bên mua chỉ
phát sinh sau khi các bên ký biên bản nghiệm thu hàng hóa thì nghĩa vụ thanh toán của
bên mua có phát sinh trong các trường hợp sau đây không? Giải thích?
Trường hợp 1: Bên bán giao hàng hóa phù hợp với hợp đồng nhưng bên mua
không tiến hành nghiệm thu dù bên bán đã có yêu cầu;
Trường hợp 2: Hàng hóa được giao trên thực tế không phù hợp với hợp đồng
nhưng các bên đã ký biên bản nghiệm thu hàng hóa.
2. Do hàng hóa không đúng chất lượng như đã thỏa thuận, Công ty B cho rằng nếu
phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì Công ty B có quyền yêu cầu giảm giá, theo
đó chỉ thanh toán theo đúng giá trị thực của hàng hóa tại thời điểm lắp đặt. Quyền
yêu cầu giảm giá trong trường hợp này có phù hợp với quy định của pháp luật
không? Giải thích?
3. Giả sử Công ty B áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng để buộc bên bán phải nhận lại
máy và hoàn lại tiền, tuy nhiên Công ty A lại lập luận rằng hàng hóa đã được bên
mua đưa vào sử dụng sản xuất, cho ra sản phẩm trong thời gian dài (cụ thể sử
dụng băng chuyền đông lạnh này vào sản xuất mặt hàng nghêu với công suất
600kg/giờ trong khi chưa nghiệm thu) thì không thể trả lại cho bên bán. Anh (chị)
hãy giải quyết hậu quả pháp lý trong trường hợp yêu cầu hủy hợp đồng được chấp
nhận?

Bài tập 5: Hợp đồng lắp đặt hệ thống lọc nước


Sự việc:
Ngày 03/07/2015, công ty H và công ty D ký hợp đồng cung cấp và lắp đặt hệ
thống lọc nước tinh khiết, theo đó công ty D cung cấp và lắp đặt cho công ty H một hệ
thống lọc nước tinh khiết công suất 4m 3/giờ, giá trị hợp đồng là 40.000 USD, bao gồm
thuế VAT, thời gian thực hiện hợp đồng chậm nhất đến hết ngày 03/12/2015 phải hoàn
thành. Thời hạn bảo hành phần kỹ thuật thiết bị là 1 năm, kể từ ngày hai bên ký biên bản
nghiệm thu hệ thống lọc nước. Thanh toán được thực hiện như sau: (i) Lần 1: sau khi ký
hợp đồng, công ty H trả cho công ty D 10% giá trị hợp đồng; (ii) Lần 2: sau khi ký biên
bản nghiệm thu máy, công ty H thanh toán 70% giá trị hợp đồng; (iii) Lần 3: sau 6 tháng
sử dụng kể từ ngày nghiệm thu máy, công ty H thanh toán 15% giá trị hợp đồng và (iv)
Lần 4: sau khi hết thời hạn bảo hành, công ty H thanh toán 5% giá trị hợp đồng.
Trang 5/4
Thực hiện hợp đồng, ngày 08/11/2015, công ty D thông báo giao hàng và hai bên
có thỏa thuận về việc kiểm tra vật tư thiết bị được chuyển giao nhưng công ty H đã nhận
hàng mà không tiến hành kiểm tra. Ngày 30/11/2015, hai bên ký biên bản nghiệm thu với
nội dung hệ thống lọc nước tinh khiết đã được lắp đặt hoàn chỉnh và đã vận hành tốt,
nước đầu ra đạt kết quả kiểm nghiệm theo tiêu chuẩn nước tinh khiết của Viện Pasteur
TP.HCM. Cùng ngày 30/11/2015, hai bên ký biên bản thanh lý hợp đồng với nội dung
công ty D đã hướng dẫn quy trình kỹ thuật, cách vận hành sử dụng, chế độ bảo trì bảo
dưỡng hệ thống cho công ty H.
Sau gần 4 tháng đưa vào sử dụng, hệ thống lọc nước bị hư hỏng. Ngày
09/04/2016, hai bên lập biên bản kiểm tra hệ thống lọc nước, kết quả cho thấy các cột
siêu tinh lọc có các sợi bị gãy đoạn ở những mức độ khác nhau ở cả 6 bộ siêu lọc của hệ
thống. Công ty H yêu cầu công ty D sửa chữa các hư hỏng này và công ty H đã tháo gỡ 1
bộ siêu lọc mang về để kiểm tra xác định nguyên nhân. Trong thời gian này, do phải đảm
bảo tiến độ thực hiện hợp đồng với các bên thứ ba, công ty H đã mua 6 bộ siêu lọc khác
để thay thế và yêu cầu công ty D thanh toán chi phí mua mới 6 bộ siêu lọc này. Tuy nhiên
công ty D không đồng ý vì cho rằng chất lượng nước vẫn tốt, chỉ không đạt khối lượng
công suất như thỏa thuận, công ty D đã yêu cầu ngừng sử dụng máy để xác định nguyên
nhân nhưng công ty H không chấp nhận mà vẫn cho máy chạy hết công suất.
Các bên không thống nhất được với nhau cách thức giải quyết nên ngày
15/11/2016, công ty H khởi kiện công ty D ra Tòa án nhân dân TP.H yêu cầu trả lại thiết
bị cho công ty D và buộc công ty D hoàn trả 80% giá trị hợp đồng mà công ty H đã thanh
toán, đồng thời yêu cầu công ty D bồi thường các khoản sau: (i) tiền bồi thường 6 bộ siêu
lọc công ty H đã thay mới; (ii) tiền bồi thường do công suất máy bị giảm sút làm giảm
sản lượng sản phẩm. Công ty D có yêu cầu buộc công ty H thanh toán khoản tiền còn
thiếu và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng.
Yêu cầu:
1. Yêu cầu của công ty H về việc trả lại máy, đòi lại tiền và yêu cầu bồi thường thiệt
hại như trên có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
2. Căn cứ vào các quy định của pháp luật thương mại, công ty H có vi phạm nghĩa vụ
thanh toán không? Vì sao?

Bài tập 6: Hợp đồng mua bán logo nhựa TPR


Trang 6/4
Ngày 01/03/2017, công ty A ký hợp đồng mua bán hàng hóa với công ty B,
theo đó công ty A bán cho công ty B 41.600 logo nhựa TPR gắn trên giày thể thao
với hàm lượng Cadmium < 100mg/kg, mẫu mã do công ty B cung cấp.

Ngày 14/05/2017, công ty A giao hàng cho công ty B và sau đó, công ty B
đã gắn số logo này trên giày thể thao để xuất khẩu theo đơn hàng KJ-3360 mà công
ty C (quốc tịch Đức) đã đặt. Từ tháng 06 đến tháng 08/2017, công ty A đã xuất hóa
đơn giá trị gia tăng cho công ty B nhưng công ty B chưa thanh toán tiền đủ cho
công ty A, tổng số tiền còn thiếu là 274.000.000 VND.

Ngày 09/09/2017, công ty B nhận được email từ công ty C với nội dung
thông báo là logo nhựa gắn trên giày thể thao nói trên có hàm lượng Cadmium
vượt quá tiêu chuẩn cho phép (Cadmium > 100mg/kg), được chứng minh bằng các
kết quả mà công ty đã giám định tại Đức ngày 18/8/2017, 26/8/2017 và
01/09/2017.

Ngày 14/09/2017, công ty B gửi công văn thông báo cho công ty A về việc
logo TPR không đạt tiêu chuẩn cho phép và yêu cầu công ty A cung cấp logo TPR
của kiểu giày KJ-3360 tồn kho của cùng lô hàng đã xuất sang Đức để gửi đi kiểm
tra một lần nữa.

Ngày 27/09/2017, công ty A và công ty B đã cùng nhau niêm phong mẫu


gửi đi kiểm tra tại công ty STR. Kết quả kiểm tra của STR cho thấy hàm lượng
Cadmium trong logo nhựa TPR >100mg/kg. Dựa trên kết quả này, công ty B đã
gửi thông báo yêu cầu công ty A cùng mình trao đổi khắc phục những phí tổn
nhưng không nhận được trả lời từ phía công ty A. Sau đó, công ty A gửi mẫu này
đi kiểm tra một lần nữa tại Vinacontrol, kết quả là hàm lượng Cadmium trong logo
nhựa TPR <100mg/kg. Vì vậy công ty A yêu cầu công ty B phải tái nhập toàn bộ
lô hàng logo nhựa TPR đã xuất sang Đức, cùng nhau lấy mẫu và gửi đi giám định
một lần nữa có sự chứng kiến của cả hai bên. Nếu lô hàng không phù hợp với hợp
đồng sẽ tiến hành tái chế tại Việt Nam và sau đó xuất sang Đức. Tuy nhiên chi phí
tái nhập là rất lớn đồng thời nhận thấy thái độ không hợp tác của công ty A nên
công ty B đã không đồng ý với yêu cầu của công ty A.

Ngày 01/01/2018, công ty A đã có đơn khởi kiện công ty B ra Tòa án nhân


dân thành phố H yêu cầu thanh toán tiền hàng là 274.000.000 VND và tiền lãi do

Trang 7/4
chậm thanh toán. Công ty B không đồng ý thanh toán khoản tiền theo như thỏa
thuận trong hợp đồng mà chỉ thanh toán giá trị thực tế của hàng hóa không đạt yêu
cầu về chất lượng.
Đồng thời, công ty B yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại do việc công ty
B vi phạm đơn hàng với công ty C vì sử dụng logo do công ty A cung cấp, bao
gồm tiền phạt vi phạm hợp đồng và chi phí cho việc gia công tái chế tại Đức. Biết
rằng chi phí phát sinh cho việc tái chế tại Đức cao gấp nhiều lần so với Việt Nam
và công ty C đã đồng ý cho công ty B nhận hàng về Việt Nam để tái chế và tái xuất
nhưng do không đạt được thỏa thuận với công ty A về việc tái chế này (công ty A
vẫn cho rằng mình không có lỗi dựa trên kết quả kiểm tra của Vinacontrol và công
ty A vào thời điểm giao hàng cho công ty B không biết được số hàng này sẽ được
xuất sang nước Đức và áp dụng tiêu chuẩn chất lượng của Đức đối với hàng hóa)
nên công ty B đã không nhận hàng về.

YÊU CẦU:
1. Anh (chị) hãy căn cứ sự việc nêu trên và quy định pháp luật để đề ra
đường lối giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân thành phố H.
2. Giả sử ngày 14/12/2017 công ty B mới gửi thông báo cho công ty A về
việc hàm lượng Cadmium trong logo do công ty A sản xuất vượt quá
tiêu chuẩn cho phép và yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại thì vụ
việc trên được giải quyết như thế nào?

Bài tập 7:
Sự việc:
Ngày 15/01/2016 Công ty A (bên A) ký kết với Công ty B (bên B) một hợp
đồng môi giới. Theo đó, Công ty B có nghĩa vụ môi giới Công ty A với Công ty C
của nước C để Công ty A xuất khẩu sản phẩm thiết bị lạnh công nghiệp của mình
sang nước C. Trong hợp đồng môi giới, điều khoản về thu lao và thanh toán có
quy định như sau:
“2.1 Mức thù lao: “Bên B được hưởng thù lao bằng 1,2% giá trị hợp đồng
mà Bên A ký kết được với công ty C.”

Trang 8/4
“2.2 Phương thức thanh toán: Bên A thanh toán cho bên B bằng chuyển
khoản vào tài khoản của bên B bằng tiền đồng Việt nam theo tỷ giá của
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam tại thời điểm thanh toán.”
“2.3 Thời hạn thanh toán: Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được tiền
thanh toán của Công ty C.”
Ngày 30/6/2016 A đã ký kết được hợp đồng với C trên cơ sở môi giới của B.
Trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng hóa, A đã giao lô hàng trị giá 10 triệu USD cho
C tại cảng TP. Hồ Chí Minh. Theo hợp đồng giữa A và C thì C được trả chậm sau
90 ngày kể từ ngày được giao hàng để tạo điều kiện cho C xuất khẩu lô hàng đó
sang nước D sau khi hàng cập cảng tại nước C và dùng tiền thu được để thanh toán
tiền hàng cho A. Tuy nhiên, sau đó C không xuất khẩu được lô hàng sang nước D
nên không có tiền để thanh toán cho A.
Ngày 30/9/2016 B đã gửi công văn yêu cầu A thanh toán tiền thù lao môi
giới là 120.000 USD, thời hạn thanh toán là 15/10/2016. Trong suốt thời gian đó
đến 30/11/2018 A vẫn không thanh toán tiền thù lao môi giới cho B, nhưng do
trong thời gian đó B có nhiều thay đổi nhân sự nên không ai quan tâm đến việc
này. Đến ngày 15/12/2018 B mới lại gửi công văn yêu cầu một lần nữa A thanh
toán tiền thù lao môi giới là 120.000 USD, cộng với tiền lãi trên số tiền chậm trả
tính từ 16/10/2016 đến 15/12/2018, theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị
trường vào ngày 15/12/2018 là 18%/năm, bằng 46.800 USD, thanh toán bằng tiền
đồng Việt Nam theo tỷ giá của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chi nhánh
TP.HCM, tại thời điểm thanh toán. Thời hạn thanh toán đến 30/12/2018.
A cho rằng C chưa thanh toán tiền hàng nên A chưa phải thanh toán cho B.
Mặt khác đến thời điểm tháng 12/2018 thì thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu
thanh toán thù lao đã hết, nên đằng nào thì A cũng không có nghĩa vụ thanh toán
nữa.
Hỏi:
1. Công ty B có quyền được hưởng thù lao môi giới từ hợp đồng môi giới với
Công ty A?
2. Công ty A đã có nghĩa vụ thanh toán tiền thù lao môi giới hay chưa?

Trang 9/4
3. Công ty B có quyền yêu cầu Công ty A thanh toán tiền lãi do chậm thanh
toán như trên hay không?
4. Thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán thù lao môi giới đã kết thúc
hay chưa?

Bài tập 8: Hợp đồng mua bán thiết bị âm thanh ánh sáng
Ngày 19/5/2016, Công ty TNHH P ký kết hợp đồng với Hộ kinh doanh Âm thanh
– Ánh sáng – Nhạc cụ H (do bà Q làm chủ), theo đó Hộ kinh doanh H bán cho Công ty P
8 thiết bị điện tử (âm thanh, ánh sáng) với tổng giá trị hợp đồng là 109.366.000 đồng.
Hợp đồng và phụ lục hợp đồng còn ghi rõ số lượng, chủng loại, model, xuất xứ mỗi loại
thiết bị, thời gian giao nhận và bảo hành thiết bị.
Sau khi nhận hàng được khoảng 01 tháng Công ty P phát hiện 03 trong số 08 thiết
bị được giao không đúng xuất xứ như thỏa thuận hợp đồng. Ngày 27/7/2016 hai bên đã
lập biên bản thống nhất nội dung, theo đó: HKD H thừa nhận trong số hàng hóa đã giao
có thiết bị không đúng xuất xứ do H nhận hàng từ tổng đại lý mà sơ suất không kiểm tra
xuất xứ dẫn đến giao sai hàng, H đề nghị sẽ khắc phục bằng việc bảo hành hàng hóa; đảm
bảo hàng hóa hoạt động tốt tương tự hàng hóa đã cam kết, phù hợp với yêu cầu của Công
ty P; H trả lại cho Công ty P số tiền 8.000.000 đồng ngay sau khi Biên bản này được lập.
Sau đó Cửa hàng H đã giao 8.000.000 đồng cho Công ty P còn các thỏa thuận khác
không thực hiện. Ngày 5/9/2016, Công ty P có công văn yêu cầu H thay thế toàn bộ thiết
bị tương đương. Ngày 27/9/2016, H có văn bản trả lời là không đồng ý.
Ngày 01/11/2016, Công ty P khởi kiện ra Tòa án yêu cầu H tiếp tục thực hiện việc
khắc phục hậu quả do đã vi phạm hợp đồng: Thay thế toàn bộ thiết bị đã cung cấp cho
Công ty P hoặc nhận lại thiết bị, trả lại tiền; bồi thường thiệt hại cho Công ty P do phải
thuê thiết bị thay thế tính từ ngày 28/9/2016 đến ngày Tòa án ra quyết định với giá
500.000 đồng/ngày.
H thừa nhận lời trình bày của Công ty P về việc ký kết hợp đồng và nội dung biên
bản làm việc ngày 27/7/2016 là đúng. Do giao 3 thiết bị không đúng xuất xứ nên H đã
phải trả 8.000.000 đồng cho Công ty P để bù đắp số tiền chênh lệch do 3 thiết bị sai xuất
xứ và do Công ty P sử dụng hàng đã lâu nên không đồng ý nhận lại hàng và trả lại tiền
cũng như yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty P.
Yêu cầu:

Trang 10/4
1. Xác định biện pháp chế tài mà Công ty P đã áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp
đồng của H? Căn cứ pháp lý khi áp dụng biện pháp chế tài đó?
2. Đối với 3 thiết bị giao không đúng xuất xứ như đã thỏa thuận, H đã trả 8.000.000
đồng cho Công ty P để bù đắp số tiền chênh lệch do 3 thiết bị sai xuất xứ. Tuy
nhiên, Công ty P cho rằng mức hoàn trả 8.000.000 đồng như trên vẫn thấp hơn
khoản tiền chênh lệch giá giữa hàng theo hợp đồng mà hai bên ký kết với hàng
thực tế hai bên giao nhận đối với 3 loại thiết bị sai xuất xứ nên đã yêu cầu H phải
tiếp tục hoàn trả phần còn lại. Yêu cầu của Công ty P trong trường hợp này có phù
hợp với quy định của pháp luật không? Giải thích?
3. Giả sử Công ty P áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng để buộc bên bán phải nhận lại
hàng và hoàn lại tiền, tuy nhiên H lại lập luận rằng hàng hóa được bên mua đưa
vào sử dụng đã lâu thì không thể trả lại cho bên bán. Anh (chị) hãy giải quyết hậu
quả pháp lý trong trường hợp yêu cầu hủy hợp đồng được chấp nhận?

Trang 11/4

You might also like