You are on page 1of 30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

Khoa Tài chính – Ngân hàng


----------

BÀI THẢO LUẬN

Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Vận dụng vào xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.

Nhóm thực hiện : Nhóm 4


Mã học phần : 23105HCMI0111
Giảng viên giảng dạy : Ngô Thị Huyền Trang
Vũ Thị Thu Hà
Môn học : Tư tưởng Hồ Chí Minh

Hà Nội, 2023
BẢNG ĐIỂM THẢO LUẬN NHÓM

Lớp: 23105HCMI0111- Tư tưởng HCM

Nhóm: 4

Nhóm trưởng: Đỗ Hà My

Thư ký: Nguyễn Thảo Linh

Điểm TB nhóm: ……………………....

Điểm tổng nhóm (điểm trung bình x số thành viên tham gia):……

Điểm SV
STT Họ và tên Mã SV Phân công công việc thảo ký
luận tên

1 21D185125 - 1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của


Hoàng Diệu
CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
Linh
Thứ hai, về kinh tế

2 21D185126 - 1.2.1. Mục tiêu của CNXH ở Việt


Lê Diệu Linh
Nam

3 21D185127 - 1.1.2. Tiến lên CNXH là một tất


Nguyễn
yếu khách quan
Khánh Linh
- Làm Word + Powerpoint

4 Nguyễn Thảo 21D185128 - 1.2.2. Về động lực của CNXH ở


Linh Việt Nam

5 Nguyễn Thị 21D185129 - 2.1. Những thành tựu và nguyên


Thuỳ Linh nhân

6 21D185130 - 1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của


Nguyễn Thuỳ
CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
Linh
Thứ tư, về chủ thể xây dựng CNXH

7 Phạm Khánh 21D185152 - 1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí


Linh

1
Minh về CNXH

- 2.2. Những hạn chế và nguyên


nhân

8 Nguyễn Duy 21D185131 - 2.2. Những hạn chế và nguyên


Long nhân

9 21D185132 - 1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của

Vương Ngọc CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh

Mai Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các


quan hệ xã hội

10 21D185133 - 1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của


CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đỗ Hà My
Thứ nhất, về chính trị

- Làm Powerpoint

Ngày 07 tháng 10 năm 2023


Nhóm trưởng
(Ký và ghi rõ họ tên)
My
Đỗ Hà My

2
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU----------------------------------------------------------------------------4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CHXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam-----------1
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH-------------------------------------------------1
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH-------------------------------------------1
1.1.2. Tiến lên CNXH là một tất yếu khách quan----------------------------------------2
1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh-------------3
1.2. Tư tưởng HCM về xây dựng CNXH ở Việt Nam-------------------------------5
1.2.1. Mục tiêu của CNXH ở Việt Nam---------------------------------------------------5
1.2.2. Về động lực của CNXH ở Việt Nam-----------------------------------------------7
II. Vận dụng tư tưởng HCM vào xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay-------10
2.1. Những thành tựu và nguyên nhân------------------------------------------------10
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân--------------------------------------------------12
2.2.1. Hạn chế và nguyên nhân-----------------------------------------------------------12
2.2.2. Giải pháp khắc phục hạn chế------------------------------------------------------15
KẾT LUẬN------------------------------------------------------------------------------17
TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------------------------18

3
LỜI MỞ ĐẦU

Nguyễn Ái Quốc người anh hùng Nghệ An, một người An Nam nhỏ bé nhưng đã
làm chấn động cả thế giới với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc, là kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng vĩ
đại của Đảng và nhân dân ta trong suốt công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với tư tưởng đúng đắn sáng
tạo- tư tưởng Hồ Chí Minh- đã đưa xã hội Việt Nam trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa,
mà ở đó mọi người dân đều làm chủ, mọi tài sản đều là của chung, một xã hội không có
giai cấp, không có bóc lột, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên mặc dù
chúng ta đang ở trên bến bờ xã hội chủ nghĩa nhưng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh thì vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của Đảng và dân ta. Trên cơ sở đó mà nhóm
chúng em đã chọn và tiến hành nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, chúng em mong rằng đề tài sẽ giúp
người đọc biết rõ hơn về con đường mà chúng ta đang đi và nhận thức về nó sâu sắc hơn,
từ đó sẽ xác định được những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải làm trong tương lai.

4
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHXH VÀ XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM

1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH


1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH
Hồ Chí Minh không định nghĩa về chủ nghĩa xã hội. Với cách diễn đạt dung dị, dễ
hiểu, dễ nhớ, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được Người tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó (như kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học-kỹ thuật, động lực, nguồn lực,…) của chủ nghĩa xã hội. Theo Người: “Nói một
cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc.”
So sánh các chế độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử để thấy sự khác nhau về bản chất
giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ khác, Hồ Chí Minh viết: “Trong xã hội có giai cấp
bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là
được thoả mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại,
trong chế độ chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ,
thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần
công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ
phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá
nhân mới có điều kiện được thoả mãn”. Người khẳng định mục đích của cách mạng Việt
Nam là tiến đến chủ nghĩa xã hội, rồi đến chủ nghĩa cộng sản vì: Chủ nghĩa cộng sản có
hai giai đoạn. Giai đoạn thấp, tức là chủ nghĩa xã hội; giai đoạn cao, tức là chủ nghĩa
cộng sản. Hai giai đoạn ấy giống nhau ở chỗ: Sức sản xuất đã phát triển cao; nền tảng
kinh tế thì tư liệu sản xuất đều là của chung; không có giai cấp áp bức bóc lột. Hai giai
đoạn ấy khác nhau ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội vẫn còn chút ít vết tích xã hội cũ. Xã hội
cộng sản thì hoàn toàn không còn vết tích xã hội cũ.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu của
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng xã hội xã hội
chủ nghĩa không còn áp bức, bóc lột, xã hội do nhân dân lao động làm chủ, trong đó con
người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất,
vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.

1
1.1.2. Tiến lên CNXH là một tất yếu khách quan
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã khẳng định rằng sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, theo tuyến quá trình
này sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như
nhau. Điều đó đã được khẳng định trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản vào
tháng 2 năm 1848 của C.Mác và Ph.Ăngghen. Vận dụng học thuyết đó để nghiên cứu tiến
trình lịch sử, Hồ Chí Minh cho rằng cách sản xuất và sức sản xuất phát triển biến đổi mãi,
do đó mà tư tưởng của con người, chế độ xã hội cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta đều
biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây búa đá đã phát triển dần
đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ Công xã nguyên
thủy lên Chiếm hữu nô lệ lên Phong kiến lên Tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa
loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa, sự phát
triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được, Hồ Chí Minh khẳng định.
Tuy nhiên, ngay năm 1953, Hồ Chí Minh đã nhận thấy tùy hoàn cảnh mà các dân
tộc phát triển theo con đường khác nhau, có nước thì đi thẳng lên Chủ nghĩa xã hội như
Liên Xô, có nước thì phải kinh qua Chế độ dân chủ mới rồi tiến lên Chủ nghĩa xã hội như
các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta. Hồ Chí Minh luôn đứng trên nguyên tắc
lịch sử để nhận thức và đưa ra những cách hiểu khác nhau về quá trình tiến lên Chủ nghĩa
xã hội, về các hình thức quá độ lên Chủ nghĩa xã hội chứ không thể lấy một mô hình nào
đó, một quan điểm nào của các nhà kinh điển Mác-xít để dập vào các nước trong khi các
nước có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng rất khác nhau. Người giải thích,
Chế độ dân chủ là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đã
đánh đổ Đế quốc và phong kiến trên nền tảng liên minh công-nông, nhân dân lao động
làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Đối với Việt Nam hàng nghìn năm dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến
thực dân, nhiều khuynh hướng cứu nước, cứu dân đều đã được thử nghiệm nhưng đều
không đem lại kết quả cuối cùng. Nhân dân ta từng sống dưới chế độ phong kiến cả ngàn
năm, chế độ thực dân, Phát xít, Đế quốc, cho nên người dân việt nam đã thấu hiểu nỗi
thống khổ của người dân bị mất nước, bị áp bức bóc lột. Do đó, chỉ có Chủ nghĩa xã hội
mới đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Dân tộc khao khát đạt
được Chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của tự do, bình đẳng bác ái, xóa bỏ những bức
tường dày ngăn cản con người đoàn kết yêu thương nhau.

2
Như vậy, theo Hồ Chí Minh tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu tuân
theo những quy luật khách quan, trước hết là quy luật trong sản xuất vật chất, đặc biệt đó
chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng phát triển
sản xuất. Tuy nhiên, tùy theo bối cảnh cụ thể mà thời gian, phương thức tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc sẽ diễn ra một cách khác nhau. Con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung, của Việt Nam nói riêng vừa là một tất yếu lịch
sử, vừa đáp ứng được những khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội trong quá
trình đấu tranh tự giải phóng mình.
1.1.3. Một số đặc trưng cơ bản của CNXH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
Là xã hội có bản chất khác hẳn các xã hội khác đã tổn tại trong lịch sử, xã hội xã
hội chủ nghĩa có nhiều đặc trưng, song, nếu tiếp cận từ những lĩnh vực lớn của xã hội, xã
hội xã hội chủ nghĩa có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chính trị: Xã hội chủ nghĩa là xã hội do nhân dân làm chủ.
Xã hội chủ nghĩa trước hết là xã hội do nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản trên nền tảng liên minh công - nông. Trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, địa vị cao nhất là nhân dân. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong
mọi cấu tạo quyền lực. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lợi, quyền lực,
quyền hạn thuộc về nhân dân và mọi hoạt động xây dựng bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ
xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đặc trưng chính trị trong xã hội xã hội
chủ nghĩa không chỉ cho thấy tính nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh mà còn cho thấy
người nhận thức sâu sắc về sức mạnh, địa vị và vai trò của nhân dân; về sự thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội khi Đảng lãnh đạo dựa vào nhân dân, huy động được nhân lực, tài lực;
trí lực của nhân dân để đem lại lợi ích cho nhân dân.
Thứ hai, về kinh tế: Xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản nên xã hội xã hội chủ nghĩa phải có nền kinh tế phát triển cao hơn nền kinh tế của
chủ nghĩa tư bản, đấy là nền kinh tế dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ sở hữu
tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa xã hội biểu hiện:
Công cụ lao động, phương tiện lao động trong quá trình sản xuất “đã phát triển dần đến
máy móc, sức điện, sức nguyên tử”. Quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa được

3
Hồ Chí Minh diễn đạt là: Lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung; là tư liệu
sản xuất thuộc về nhân dân. Đây là tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ công hữu tư liệu sản
xuất chủ yếu trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về văn hoá, đạo đức và các quan hệ XH: Xã hội xã hội chủ nghĩa có trình
độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong các quan
hệ xã hội.
Văn hóa, đạo đức thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống song trước hết là ở các
quan hệ xã hội. Sự phát triển cao về văn hóa và đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa thể
hiện: xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người; con người được tôn trọng, được
bảo đảm đối xử công bằng, bình đẳng và các dân tộc đoàn kết, gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới “chú ý xem xét những lợi ích
cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn”; “chỉ ở trong chế độ xã hội chủ
nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính
cách riêng và sở trường riêng của mình”.
Chủ nghĩa xã hội là cơ sở, là tiền đề để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm
no, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, việc làm cho mọi người và vì mọi người; không
còn phân biệt chủng tộc, không còn gì có thể ngăn cản những người lao động hiểu nhau
và thương yêu nhau.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm tính công bằng và hợp lý trong các quan hệ xã hội. Đó là
xã hội đem lại quyền bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân; mọi cộng đồng người
đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; ai cũng phải lao động và
ai cũng có quyền lao động, ai cũng được hưởng thành quả lao động của mình trên nguyên
tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng, tất nhiên
là trừ những người chưa có khả năng lao động hoặc không còn khả năng lao động.
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh của người
lao động luôn diễn ra ngày càng quyết liệt nhằm thủ tiêu chế độ người bóc lột người.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân, do nhân dân làm chủ, lợi ích của
cá nhân gắn liền với lợi ích của chế độ xã hội nên chính nhân dân là chủ thể, là lực lượng
quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chủ nghĩa xã hội . Trong sự nghiệp xây
dựng này, Hồ Chí Minh khẳng định “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân

4
chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.Chỉ có sự lãnh đạo của
một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đến thành công”.
1.2. Tư tưởng HCM về xây dựng CNXH ở Việt Nam
1.2.1. Mục tiêu của CNXH ở Việt Nam
Mục tiêu tổng quát: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của
Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là mục tiêu tổng quát theo cách
diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy bỏng mà
Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng của thế giới.
Mục tiêu cao nhất: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời
sống nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn nâng
cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời
sống nhân dân, quan điểm này có ý nghĩa sâu sắc đối với các thế hệ người Việt Nam
trong quá trình xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Cách tư duy lấy chủ nghĩa xã hội
làm điểm xuất phát tuyệt đối, làm cơ sở cho mọi hoạt động thực tiễn cần phải được bổ
sung bằng sự tác động trở lại và chủ nghĩa xã hội cũng phải được làm rõ bởi hàng loạt
các quan hệ khác. Mục đích nâng cao đời sống toàn dân là tiêu chí tổng quát để khẳng
định và kiểm nghiệm tính chất xã hội chủ nghĩa của các lý luận chủ nghĩa xã hội và chính
sách thực tiễn. Trượt ra khỏi quỹ đạo đó thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu, hoặc không
có gì tương thích với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu trong các lĩnh vực:
Mục tiêu về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ.

5
Chế độ dân chủ trong mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Hồ Chí Minh
khẳng định và giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ” ,
“Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Khi khẳng định “dân làm chủ” và “dân là chủ”, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền
lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị của nhân dân. Người chỉ rõ: Tất cả lợi ích đều vì
dân, tất cả quyền hạn đều của dân, công cuộc đổi mới là trách nhiệm của dân, sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước là công việc của dân, các cấp chính quyền do dân cử ra, các
tổ chức đoàn thể do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Mục tiêu về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó mật thiết
với mục tiêu về chính trị.
Khái quát mục tiêu về kinh tế của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh xác định: Đây phải là nền kinh tế phát triển cao “với công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến”, là “một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể”. Mục tiêu này phải gắn bó chặt chẽ với mục tiêu về chính
trị vì “Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển”. Theo Người, “kinh tế
quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà
nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên… Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập
thể của nhân dân lao động. Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp cho nó
phát triển”.
Mục tiêu về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa
học, đại chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Hồ Chí Minh cho rằng mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế là mối
quan hệ biện chứng. Chế độ chính trị và kinh tế của xã hội là nền tảng và quyết định tính
chất của văn hóa; còn văn hóa góp phần thực hiện mục tiêu của chính trị và kinh tế.
Người đã từng nói: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy”; “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục
ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước”.
Về vai trò của văn hóa, Người khẳng định: Trình độ văn hóa của nhân dân được
nâng cao sẽ góp phần phát triển dân chủ, góp phần xây dựng nước ta thành một nước hòa
bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh; nền văn hóa phát triển là điều kiện cho
nhân dân tiến bộ. Theo Người, “để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn

6
hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức”, “Phải triệt để tẩy trừ mọi
di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ
thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng”.
Mục tiêu về quan hệ xã hội: Phải bảo đảm dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo Hồ Chí Minh, với tư cách làm chủ, là chủ của đất nước, nhân dân phải làm
tròn nhiệm vụ của người chủ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó mọi người đều có
quyền làm việc; có quyền nghỉ ngơi; có quyền học tập; có quyền tự do thân thể; có quyền
tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, biểu tình; có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào; có quyền bầu cử, ứng cử. Mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm
cấm lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân.
Như vậy, xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo
đảm cho nó được thỏa mãn để mỗi người có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình,
phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình trong sự hài hòa với đời sống
chung, lợi ích chung của tập thể.
Mục tiêu về con người XHCN, phải có phẩm chất cơ bản sau:
Con người có tinh thần và năng lực làm chủ; có đạo đức XHCN: cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; có kiến thức khoa học kỹ thuật; có tinh thần sáng tạo, nhạy bén với
cái mới. Đó cũng là động lực quan trọng nhất để xây dựng CNXH.
Phải quan tâm đến phụ nữ (một nửa của xã hội), phải giải phóng phụ nữ, xây dựng
bình đẳng nam - nữ.
1.2.2. Về động lực của CNXH ở Việt Nam
Động lực được hiểu một cách tóm tắt, đó là tất cả những gì góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội thông qua hoạt động của con người. Tư tưởng của Hồ Chí Minh
về động lực của chủ nghĩa xã hội là một nội dung quan trọng, thể hiện trí tuệ, tầm nhìn
vượt thời đại, và trên hết là tấm lòng luôn hướng về nhân dân, về đất nước.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa rất phong phú, bao hàm những động lực cả trong quá khứ, hiện tại và tương

7
lai; cả về vật chất và tinh thần, nội lực và ngoại lực,... ở tất cả các lĩnh vực như kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục,... Bác rất coi trọng phát triển kinh tế, sản xuất kinh
doanh, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh tế
với xã hội. Người cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh
thần không thể thiếu của CNXH.
Tất cả các động lực nêu trên đều rất quan trọng và có mối quan hệ biện chứng với
nhau nhưng giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân dân nên để thúc đẩy tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo lợi ích của dân, dân chủ của dân, sức
mạnh đoàn kết toàn dân.
Thứ nhất, lợi ích của dân. Hồ Chí Minh quan tâm đến lợi ích của cả cộng đồng
người và lợi ích của những con người cụ thể. Trong xã hội chủ nghĩa mỗi người đóng góp
một phần công lao nhất định để nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở
trường riêng của mình. Chính vì thế, Người đã nhấn mạnh: “việc gì có lợi cho dân phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Thứ hai, dân chủ. Dân chủ trong chủ nghĩa xã hội là dân chủ của nhân dân. Có dân
chủ lợi ích mới vì dân; có dân chủ quyền hành và lực lượng mới ở nơi dân, công việc đổi
mới và xây dựng mới là công việc của dân, là trách nhiệm của dân. Với tư cách là những
động lực thúc đẩy tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của dân và dân chủ của
dân không thể tách rời nhau.
Thứ ba, sức mạnh đoàn kết toàn dân. Đây là lực lượng mạnh nhất trong tất cả các
lực lượng và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ của nhân
dân về quyền lợi và quyền hạn, trách nhiệm và địa vị dân chủ của mình; với sự lao động
sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Những yếu tố trên chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình thông qua hoạt
động của những cộng đồng người và những con người Việt Nam cụ thể.
Về hoạt động của những tổ chức, trước hết là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ
chức chính trị-xã hội khác, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản giữ vai trò quyết
định. Đảng như người cầm lái, người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, thực
hiện chức năng quản lý xã hội để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực.
Các tổ chức chính trị-xã hội đều nhất quán về chính trị và tư tưởng dưới sự lãnh đạo của

8
Đảng, quản lý của Nhà nước; hoạt động vì lợi ích của các thành viên của mình trong sự
thống nhất với lợi ích của dân tộc.
Về con người Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” - là những con người của chủ
nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa. Những tư tưởng và tác phong
mới mà mỗi người cần bồi dưỡng là: Có ý thức làm chủ nhà nước, có tinh thần tập thể xã
hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có tinh thần tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và phải chống lại những tư tưởng,
tác phong lệch lạc (Chủ nghĩa cá nhân; quan liêu, mệnh lệnh; tham ô, lãng phí; bảo thủ,
rụt rè…)
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì còn
phải kết hợp được sức mạnh nội lực (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn vốn, sức
mạnh của hệ thống dân chủ…) với sức mạnh ngoại lực (khoa học - kỹ thuật, sức mạnh
của hệ thống xã hội chủ nghĩa); tăng cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước phải
gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả
khoa học, kỹ thuật thế giới...Về mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, Người xác định
rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Trong tư duy Hồ Chí Minh
để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải chủ động tạo ra sức mạnh của chính
mình. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.

9
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HCM VÀO XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

2.1. Những thành tựu và nguyên nhân


Gần 40 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là một thành
tựu lý luận nổi bật, có ý nghĩa to lớn thúc đẩy đổi mới, nhất là vào lúc này khi chúng ta
tiếp tục đổi mới sáng tạo để thực hiện khát vọng phát triển vào giữa thế kỷ XXI, làm cho
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc cường thịnh, trường tồn.
Về chính trị: Tư tưởng và Di sản của Người là ngọn cờ dẫn đường đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Nguyên nhân: Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ra
sức thực hiện chỉ dẫn của Người qua cẩm nang kỳ diệu mà Người trao cho chúng ta “Dĩ
bất biến ứng vạn biến”. Đó vừa là quan điểm và nguyên tắc, vừa là phương pháp và
phương châm trong ứng xử và hoạt động để giữ vững lập trường và phương hướng chính
trị, để linh hoạt sáng tạo, phù hợp với tình hình và hoàn cảnh, tìm ra giải pháp tốt nhất để
giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Đó là khoa học và nghệ thuật đấu tranh cách mạng,
là văn hóa chính trị của Đảng cầm quyền. Thấm nhuần bài học này trong tiến trình Đổi
mới, Đảng ta đã sáng tạo cả lý luận và phương pháp, cả đường lối và chính sách, biện
pháp và bước đi để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thậm chí có lúc hiểm nghèo khi đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, khi Liên Xô đổ vỡ, hệ thống
XHCN thế giới tan rã, cách mạng thoái trào mà Việt Nam vẫn thoát hiểm và đứng vững,
vẫn tiếp tục đi lên thông qua đổi mới. Giải quyết thành công cuộc khủng hoảng, không để
xảy ra khủng hoảng chính trị, đó là thành công và bản lĩnh của Đảng, từ sự vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về kinh tế: Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyên nhân: Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về Đổi mới
và Hội nhập, bắt nguồn từ định nghĩa kinh điển của Người về “cách mệnh là phá cái cũ
đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”, Đảng ta khởi xướng đường lối đổi mới mang
tầm vóc của một cuộc cách mạng. Phát triển sáng tạo của Đảng ta là bắt đầu từ đổi mới tư
duy, nhất là tư duy kinh tế, trước hết phải đổi mới kinh tế, trên cơ sở đổi mới kinh tế đã

10
bước đầu cho thấy kết quả mà từng bước đổi mới chính trị một cách thận trọng, từ đổi
mới hệ thống chính trị tiến đến đổi mới chính trị, đồng bộ với đổi mới kinh tế và thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Nhờ có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn và giải pháp phù hợp, trong hơn 30
năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển kinh tế gây ấn tượng,
được thế giới đánh giá cao, sức mạnh kinh tế của đất nước tăng lên nhiều. Sau 10 năm
đổi mới (1996) đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội; sau 25 năm đổi mới
(năm 2010) đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, bước vào nhóm
nước có thu nhập trung bình. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh
mẽ đến nước ta, gây ra những thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố
gắng một cách vượt bậc, đất nước ta đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn
so với những năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, thì
kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng cao nhất thế giới.
Gần đây, từ Đại hội XIII, Đảng ta nhấn mạnh, phải đổi mới thể chế phát triển, thực
hiện 3 đột phá chiến lược (thể chế kinh tế thị trường, hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và
chất lượng nguồn nhân lực), tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền. Đổi mới gắn liền với mở cửa và hội nhập, từ hội nhập kinh
tế đến hội nhập quốc tế, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, từ ổn định đến phát triển,
từ phát triển tới phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước. Trù tính chiến lược của
Đảng ta là đưa đất nước từ lạc hậu, chậm phát triển tới trình độ một nước đang phát triển,
tiến tới nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, phấn đấu xây dựng quốc gia XHCN
có nền công nghiệp hiện đại định hướng XHCN thông qua chiến lược CNH, HĐH.
Về văn hoá, xã hội và con người: Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách và từng
bước phát triển
Nguyên nhân: Phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã tập trung mọi
nỗ lực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện chỉ dẫn của Người, phải làm
cho Đảng thực sự là một Đảng Cách mạng chân chính “giữ chủ nghĩa cho vững” và “ít
lòng tham muốn về vật chất” (Đường Cách mệnh, 1927), ra sức “Sửa đổi lối làm việc của
Đảng”, 1947, thực hiện 12 điều xây dựng Đảng (“Sửa đổi lối làm việc”, 1947), “nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969) và Di chúc (1969) để xứng

11
đáng là một Đảng cầm quyền. Phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta gắn
chặt xây dựng với chỉnh đốn Đảng, mở rộng nội dung xây dựng Đảng trên các lĩnh vực
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Đảng về văn hóa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền, chính phủ liêm chính, định hình văn hóa liêm chính trong thể chế,
giáo dục danh dự, liêm sỉ trong Đảng, áp dụng các chế tài để giám sát, kiểm soát đảng
viên, dựa vào dân mà xây dựng Đảng với 19 điều cấm đảng viên không được làm. Đó
cũng là bước chuẩn bị để xây dựng bộ Luật đạo đức trong xã hội, trước hết là trong Đảng.
Đảng ta đã đề ra chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính sách và từng bước
phát triển. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế;
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hóa vừa là mục tiêu vừa
là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đồng
thời mở rộng giao lưu văn hóa thế giới, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại,
làm phong phú hơn đời sống văn hóa, con người Việt Nam.
Đảng ta đã quan tâm phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, coi phát
triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Tiến hành
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển
và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học và ngành học. Mở rộng giáo dục
mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Phát triển mạnh
dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Trong hơn 30 năm đổi mới, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước là giảm
nghèo bền vững đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính đáng; chú trọng các
chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc
thiểu số. Mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn
2021-2025 là duy trì mức giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều từ 1 đến 1,5%
mỗi năm. Cụ thể, năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 4,03%. Thành tựu về giảm nghèo
của Việt Nam được Liên Hiệp quốc công nhận và đánh giá cao.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Hạn chế và nguyên nhân
Trong hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi

12
lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc chưa cụ
thể.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng
bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống
chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với
nhiệm vụ. Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ
thấp.
Do hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, thiếu tính thực tiễn,
còn có kẽ hở, chồng chéo như là luật phòng chống tham nhũng, các quy định về xử lý vi
phạm hành chính chưa được thể hiện, rõ ràng, đầy đủ. Cụ thể, Bộ luật Hình sự năm 2015,
chương các tội phạm về Tham nhũng quy định 07 hành vi phạm tội, trong khi tại Điều 2,
Luật Phòng chống tham nhũng năm 2018 quy định 12 hành vi tham nhũng, nên 05 hành
vi còn lại của Luật Phòng, chống tham nhũng còn thiếu chế tài để xử lý, chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể nên gây khó khăn và kẽ hở trong quá trình vận dụng vào thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử tội phạm về tham nhũng.
Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân
dân còn có những mặt hạn chế. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương một số
nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng;
hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; kỷ cương phép
nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý
chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
phát triển đất nước. Đội ngũ cán bộ, viên chức chưa tinh gọn; phẩm chất, năng lực, uy tín
ở một bộ phận còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới. Vấn đề đổi mới đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa,
xã hội; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước có một
số mặt còn lúng túng.
Về kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát
triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững. Đặc biệt
trong 10 năm gần đây, chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh
quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ;
chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại

13
đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân là do Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển, lại bị tác động nặng nề do hậu quả
của chiến tranh để lại. Trong điều kiện đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà Việt Nam đang xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ,
xét trên cả hai khía cạnh, tính thị trường và tính xã hội chủ nghĩa, như mức độ hoàn thiện
và hiện đại của các thể chế cho phát triển thị trường; khả năng kiến tạo của Nhà nước;
trình độ phát triển của thị trường các nhân tố sản xuất; năng suất lao động; hiệu quả hoạt
động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là của doanh nghiệp nhà nước;
mức độ hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế; thu nhập của nhân dân, sự
bình đẳng trong phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn; sự phát
triển hài hòa với tự nhiên và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu... Chính vì vậy,
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định đây là một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn, phức
tạp, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì, linh hoạt và sáng tạo.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường,
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy
sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận thức và giải
quyết có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong xây dựng nền văn hóa
là chính sách và việc triển khai thực hiện của hệ thống các cơ quan quản lý trong hệ
thống quản lý nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống và tính chất của văn hóa,
chưa tương ứng với quyết tâm chính trị của Đảng. Như ta biết, văn hóa luôn đa dạng và
vận động không ngừng. Mỗi một vùng miền lại có một văn hóa riêng và nó luôn biến đổi
theo nhu cầu của con người - chủ nhân của văn hóa. Thế nhưng, các chính sách và việc
triển khai chính sách liên quan đến văn hóa của Nhà nước còn cứng nhắc, chưa phù hợp.
Về đạo đức xã hội, có một số mặt xuống cấp; một mặt do văn hóa phẩm độc hại, lai
căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội, mặt khác do công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho người dân còn hạn chế khiến cho một bộ phận người dân chưa có
một lý tưởng đúng đắn, thiếu niềm tin, ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, quá
đề cao chủ nghĩa cá nhân. Đồng thời, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, khiến
môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác động đến Việt

14
Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Bên cạnh đó, quá trình dân chủ hóa ở nước ta còn đã và đang gặp không ít khó
khăn, thách thức, nhiều vấn đề tồn tại chưa được giải quyết và nhiều biểu hiện tiêu cực
như: tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân
dân chưa được đẩy lùi, ngăn chặn. Trên thực tế, nạn tham nhũng đã và đang làm cho đất
nước bị tổn thất cả về mặt kinh tế lẫn uy tín quốc tế.
2.2.2. Giải pháp khắc phục hạn chế
Một là, phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng bước xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã
hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và cải thiện đời sống
nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nhất
là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh,
bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả
vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới phân phối toàn cầu. Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông - lâm – ngư nghiệp một cách toàn
diện, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn.
Phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại,
du lịch, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông, điện, nước, các công trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng bằng,
trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cơ
chế thị trường được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể, ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa,
xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với

15
xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường,
định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Ba là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân dân, nhà
nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các cam kết quốc tế;
giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân; nghiêm trị
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; có tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh;
có đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực cao; có cơ chế kiểm soát, ngăn
ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân
chủ của nhân dân.
Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả các
cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích
của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân. Dân chủ đi đôi với
kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh để tập hợp,
đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài. Xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân trong việc tập hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây
dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững. Cần xác định phát triển văn hóa và
xây dựng con người là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền và cả
hệ thống chính trị. Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm, dành nguồn lực thỏa đáng để
đầu tư cho văn hóa. Văn hóa giữ vai trò điều tiết xã hội bằng hệ thống giá trị, chuẩn mực
văn hoá của cộng đồng, văn hóa giữ vai trò định hướng sự phát triển của xã hội bằng mục
đích nhân văn của mình và cột mốc văn hóa trong tâm trí con người luôn là cột mốc vững
chắc nhất. Do vậy, đầu tư cho văn hóa là đầu tư lâu dài để hướng tới tương lai.

16
17
KẾT LUẬN

Như vậy, có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng đó đã
được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to
lớn, song vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Để tiếp tục xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta cần không ngừng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho hệ
không chuyên lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội
[2]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021): Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – dành cho hệ
chuyên lý luận chính trị, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội
[3]. Nguyễn Thị Huyền Trang (2022), ‘Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ
nghĩa xã hội và sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay’, giaoduclyluanhcma.vn, truy
cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5]. PGS, TS. Nguyễn Xuân Trung (2020), ‘Vận Dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nghiên cứu, phát triển sáng tạo lý luận ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay’,
tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[6]. Nguyễn Thị Hoa (2020), ‘Xây dựng và phát huy nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay’, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Khoa học Xã hội và Nhân văn,
6D (129), 131-140.
[7]. Võ Thanh Tùng (2023), ‘Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của Chủ nghĩa
Xã hội và những yêu cầu đặt ra ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay’,
truongchinhtri.haugiang.gov.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[8]. G.S TS Hoàng Chí Bảo (2022), ‘Sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng Cộng sản VN
trong bối cảnh mới’, hdll.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[9]. Xuân Đức (2022), ‘Giai đoạn 2021-2025: Giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo
đa chiều từ 1-1,5%, mỗi năm’, nhandan.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[10]. NGUYỄN THẾ TRUNG (2019), ‘Thực hiện phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay:
Thực trạng và giải pháp’, isos.gov.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[11]. PGS, TS. PHẠM NGỌC ANH (2011), ‘Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam’, tuyengiao.vn, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.
[12]. Hoàng Thùy – Viết Tuân (2021), ‘10 giải pháp phát triển giá trị văn hóa, sức mạnh
người Việt’, vnexpress.net, truy cập ngày 01 tháng 10 năm 2023.

19
Đề tài 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Vận dụng vào xây dựng nhà nước Việt Nam hiện nay.
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
1.1. Bản chất giai cấp của nhà nước

- Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân.


- Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền:
- Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển đất nước.
- Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc:
- Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất
nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc.
- Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất quán
mục tiêu vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của dân tộc làm nền tảng.
- Nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc giao phó.

1.2. Nhà nước của nhân dân

- Tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân, Nhà
nước của dân tức là “dân là chủ”.
- Nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ
gián tiếp.
- Dân chủ trực tiếp: Nhân dân trực tiếp quyết định mọi vấn đề liên quan đến vận
mệnh của quốc gia, dân tộc và quyền lợi của dân chúng.
- Dân chủ gián tiếp hay dân chủ đại diện: Nhân dân thực thi quyền lực của mình
thông qua các đại diện mà họ lựa chọn, bầu ra và những thiết chế quyền lực mà họ
lập nên
- Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân.
- Nhân dân có quyền kiểm soát, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại
biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà
họ đã lập nên.
- Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân.

1.3. Nhà nước do nhân dân

- Nhà nước do dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhà nước do nhân dân còn có nghĩa là “dân làm chủ”.

20
- Trong nhà nước do nhân dân làm chủ, nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân
được thực thi những quyền mà Hiến pháp và pháp luật dã quy định, hưởng dụng
đầy đủ quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ làm chủ của mình.
- Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời nhân dân
cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ của mình.

1.4. Nhà nước vì nhân dân

- Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc
lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính
- Hồ Chí Minh có nói: “việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì phải
tránh
- Trong nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đầy tớ, nhưng vừa phải là người lãnh đạo
nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền

2.1. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp

- HCM luôn chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà nước Việt Nam
mới.
- 3/9/1945, HCM đề nghị tổ chức Tổng tuyển cử để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra
Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến, thể hiện quyền lực tối cao của nhân
dân.
- 6/1/1946: cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi.
- Ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và
các chức vụ chính thức của Nhà nước.

2.2. Nhà nước thượng tôn pháp luật

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện
pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp và bằng pháp
luật.
- Để quản lý bằng Hiến pháp và pháp luật, theo Hồ Chí Minh cần phải:
- Làm tốt công tác lập pháp. Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng hệ thống luật
pháp dân chủ, hiện đại.
- Chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành
và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.
- Nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật.
- Khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát quá
trình Nhà nước thực thi pháp luật.

21
- Không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân
thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.

2.3. Pháp quyền nhân nghĩa

- Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, chăm lo
đến lợi ích của mọi người.
- Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện.
- Nhà nước trong sạch, vững mạnh

3.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước

- Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu.
- Về hình thức kiểm soát quyền lực NN, theo Hồ Chí Minh thì cần phải:
- Cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc
phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước.
- Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực NN vì thế nhân dân có quyền kiểm soát
quyền lực của NN.

3.2. Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước

- Những tiêu cực sau cần đề phòng và khắc phục:


 Đặc quyền, đặc lợi.
 Tham ô, lãng phí, quan liêu.
 “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo” là những căn bệnh gây mất đoàn kết, gây rối
cho công tác.
- Nguyên nhân của những tiêu cực trong Nhà nước:
 Nguyên nhân chủ quan, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ sự thiếu tu dưỡng, rèn
luyện của bản thân cán bộ.
 Nguyên nhân khách quan, do công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước chưa tốt; do
cách tổ chức, vận hành trong Đảng, trong Nhà nước, sự phối hợp giữa Đảng và
Nhà nước chưa thật sự khoa học, hiệu quả; do trình độ phát triển còn thấp của đời
sống xã hội; do tàn dư của những chính sách phản động của chế độ thực dân,
phong kiến…
- Biện pháp phòng, chống tiêu cực trong bộ máy Nhà nước:
 Nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng rãi, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là giải pháp căn bản và có ý nghĩa lâu dài.
 Pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh.

22
 Cần coi trọng giáo dục, lấy giáo dục, cảm hoá làm chủ yếu.
 Cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao, trách nhiệm nêu
gương càng lớn.
 Phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc chiến chống lại tiêu
cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy nhà nước.

II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân vào xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2.1.Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân
* Thành tựu đạt được

- Việc phát huy dân chủ và quyền dân chủ trong các tổ chức nhà nước và xã hội có
nhiều chuyển biến, tiến bộ, nâng cao.
- Hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, của Chính phủ, Tòa án nhân
dân, Viện Kiểm sát nhân dân được xây dựng bảo đảm giữ vững bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động.
- Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
hơn. Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN được củng cố.
- Quyền lực nhà nước đã phân công một cách khá hợp lý, được giới hạn chặt chẽ hơn
bằng Hiến pháp và pháp luật.
- Vị trí tối cao của Hiến pháp và luật đã được khẳng định một cách rõ ràng. Nhân dân
đã trở thành chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và được nhận diện rõ ràng hơn
trách nhiệm trong từng cơ quan nhà nước.
- Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Mọi việc liên quan đến nội bộ,chính
sách đều do dân quyết mà không có sự can thiệp ở bên ngoài.
- Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh
về mọi mặt của đất nước được nâng lên…;

* Nguyên nhân
- Nhờ lực lượng lãnh đạo và đảng cộng sản
- Nhờ sự đoàn kết và tham gia của nhân dân đã tạo ra sự đồng thuận và sự cống hiến
trong việc thực hiện CNXH.

23
- Khả năng quản lý nhà nước của chính quyền Việt Nam đem lại hiệu quả bằng cách
thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội, duy trì sự ổn định, và cung cấp các dịch vụ cơ
bản cho người dân.
- Sự thu hút đầu tư và sự hợp tác quốc tế, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất
nước.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế

- Nhà nước dân chủ:


 Đời sống của nhân dân vẫn khó khăn chưa được nâng cao ở một số khía cạnh
 Nhân dân bày tỏ sự quan tâm, lo lắng về công tác tuyên truyền, giáo dục về
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có mặt còn hạn chế, nhất là giáo dục liêm
chính, chi công, vô tư
 Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc,chênh lệch về mức sống giữa nhóm
giàu với nhóm nghèo có xu hướng dãn ra.
- Nhà nước pháp quyền :
 Tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp
luật dẫn đến nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của người dân, doanh
nghiệp và thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước;làm giảm tính minh bạch
của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng,
hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh thấp
 Tính ổn định của pháp luật thấp, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung dẫn đến
những tác động tiêu cực tới quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức, gây nên
nhiều khó khăn trong thực hiện pháp luật, đồng thời cũng gây khó khăn cho
chính hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước.
 Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật chưa bảo đảm, chưa phù hợp thực
tiễn, tính khả thi thấp, còn tình trạng ban hành văn bản pháp luật sai về nội dung
và thủ tục, hình thức.
 Hạn chế về năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức xây dựng pháp luật,
chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm chưa được quy định đầy đủ, hợp lý
 Nhà nước trong sạch vững mạnh
 Tham nhũng luôn là vấn nạn nhức nhối xã hội. Trong khi công tác quản lý tình
hình tư tưởng có biểu hiện thiếu chủ động, nhạy bén, chưa thực sự bám sát tình
hình, thiếu tính dự báo, giải quyết thiếu kiên quyết kịp thời, còn để xảy ra vụ việc
vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiêm trọng.

24
 Nhiều cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý rất quan liêu, mệnh lệnh không sát công
việc thực tế, qua nhiều tầng nấc trung gian, tốn nhiều giấy tờ văn phòng phẩm,
làm việc đại khái chung chung, vô bổ, tắc trách
 Tình trạng thất thoát, lãng phí trách nhiệm đang trở nên phổ biến trong các cấp,
các ngành, ở một bộ phận không nhỏ các cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức,
viên chức; gây ra những hậu quả khôn lường, làm thất thoát, lãng phí lòng tin của
nhân dân với Đảng, với Nhà nước

* Nguyên nhân:

- Công tác nghiên cứu, giáo dục chính trị về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh còn hạn chế.
- Hầu hết các cán bộ lãnh đạo trẻ đều không có cơ hội trải nghiệm trong môi trường
đấu tranh cách mạng, lại được đào tạo, giáo dục từ nhiều luồng tư tưởng, môi
trường, văn hóa khác nhau.
- Một số cán bộ có bản lĩnh chính trị chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện dao động
về lập trường, quan điểm; lười học tập, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Cán bộ ,quan chức Nhà nước chưa đặt quyền lợi của dân lên tất thảy, chưa thực sự
phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân và làm mất lòng tin của quần chúng
nhân dân, không được lòng dân.

2.2. Giải pháp khắc phục hạn chế

- Tiếp tục tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của
Nhà nước, bảo đảm nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực đều thuộc về nhân dân
- Tiếp tục nâng cao hơn nữa hoạt động của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội; đẩy
mạnh hoạt động cải cách hành chính

25

You might also like