Professional Documents
Culture Documents
1.the Lotus Case
1.the Lotus Case
1. Tổng quan
Name of the Case: The Lotus Case (France vs Turkey).
The Court: Permanent Court of International Justice ( Tòa án Thường
trực Công lý Quốc tế)
Year of decision: 1927.
Hậu quả:
Tàu Bozkourt bị chìm và 8 công dân của Thổ Nhĩ Kỳ thiệt mạng
và 10 người sống sót trên tàu Bozkourt đã được đưa về Thổ Nhĩ
Kỳ trên tàu Lotus của Pháp.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, sĩ quan trực ban của tàu Lotus (đại úy Demons,
quốc tịch Pháp) và thuyền trưởng của tàu Bozkourt đã bị Tòa án
Thổ Nhĩ Kỳ kết tội ngộ sát
7/9/1927: PCIJ ra phán quyết: Việc tòa án Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành các
thủ tục tố tụng kết án Demons không vi phạm luật quốc tế
PCIJ coi hành vi phạm tội của Demons gây ra ảnh hưởng trên tàu của
Thổ Nhĩ Kỳ - nơi được đồng nhất với lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ nên được
coi là phạm tội ở Thổ Nhĩ Kỳ
Theo dữ kiện thì vụ tranh chấp xảy ra vào năm 1926, tức là thời điểm
xảy ra trước khi có Công ước 1952 về Biển cả và Công ước Luật
Biển 1982. Như vậy căn cứ pháp lý để giải quyết vụ tranh chấp này là
các Tập quán quốc tế về lĩnh vực biển liên quan tới vụ tranh chấp này
được các bên tuân theo.
Theo quan điểm pháp lý quốc tế truyền thống thì tập quán quốc tế là
những quy tắc xử sự chung được hình thành trong thực tiễn quan hệ
quốc tế được các quốc gia thừa nhận, tự nguyện thực hiện.
Như vậy, Lotus case đã đặt nền móng cho nguyên tắc Lotus. Có một số quy
tắc đặc biệt đã được đưa ra liên quan đến Lotus case để giải quyết va chạm,
khiếu nại địa phương, v.v.
=> Từ nguyên tắc Lotus, có thể hiểu rằng một quốc gia hoặc tiểu
bang được trao quyền tự do đặc biệt trong lãnh thổ của mình. Không có
hạn chế về luật pháp quốc tế. Trong trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, Boz-
Kourt, tàu của họ được coi là lãnh thổ của chính họ. Điều này đã trao cho
Thổ Nhĩ Kỳ quyền đưa ra bất kỳ hành động nào chống lại Pháp và
Mr.Demons.
Pháp khẳng định rằng: Quốc gia treo cờ của một con tàu có quyền
tài phán độc quyền đối với các hành vi phạm tội xảy ra trên con
tàu ở vùng biển.
Tòa án không đồng ý. Tòa án quyết định rằng cả Thổ Nhĩ Kỳ và
Pháp đề có quyền xử lý đối với toàn bộ vụ việc, nói cách khác, cả 2
nước có phạm vi xử lý chung.
Tòa án quyết định rằng mỗi tàu trên biển được đồng hóa với
lãnh thổ của flag state. Quốc gia này có thể thực hiện quyền tài
phán của mình đối với con tàu, giống như cách nó thực hiện quyền
tài phán đối với vùng đất của mình, loại trừ tất cả các Quốc gia khác.
Trong trường hợp này, Tòa án coi tàu Thổ Nhĩ Kỳ là lãnh thổ của
Thổ Nhĩ Kỳ, do đó, việc áp dụng luật hình sự Thổ Nhĩ Kỳ là hoàn
toàn hợp pháp, ngay cả đối với các hành vi phạm tội do người nước
ngoài thực hiện ở đó.
Thổ Nhĩ Kỳ có thẩm quyền xử lý vụ án này.
2.4. Customary International Law
Lotus Case đã đưa ra một tuyên bố quan trọng về việc tạo ra Customary
International Law.
Pháp khẳng định rằng các vấn đề thẩm quyền trong các trường
hợp va chạm hiếm khi xuất hiện trong các vụ án hình sự, vì các
quốc gia thường chỉ truy tố trước các flag state. Pháp lập luận rằng
việc không truy tố này chỉ ra một quy tắc tích cực trong luật tục về va
chạm.
Tòa án không đồng ý và cho rằng: Trên thực tế, các quốc gia sẽ né
tránh việc tiến hành tố tụng hình sự, họ không tự nhận mình có nghĩa
vụ phải làm như vậy. Tòa án cho rằng việc không truy tố không đủ
để chứng minh sự xuất hiện của một quy tắc tập quán, việc không
truy tố có thể được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, không nhất
thiết là do các quốc gia thừa nhận nghĩa vụ pháp lý để không truy tố.
Nói cách khác, việc các quốc gia không truy tố không đồng nghĩa
với việc họ nhận thức mình phải tuân theo một nguyên tắc pháp
luật, cụ thể ở đây là trong trường hợp va chạm trên biển. Điều này có
nghĩa là việc một số quốc gia không tiến hành việc truy tố trong các
vụ va chạm không chứng tỏ sự xuất hiện của một luật tập quán quốc
tế mà bắt buộc họ không truy tố.
Thay vào đó, có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến việc không
truy tố. Có thể các quyết định chiến lược, tức là quốc gia chọn không
truy tố vì họ cho rằng truy tố không mang lại lợi ích cho họ, có thể vì
lý do đối với quan hệ quốc tế hoặc lợi ích kinh tế. Ngoài ra, việc
không truy tố cũng có thể phụ thuộc vào việc quốc gia có thể tin rằng
việc này không phù hợp với các quy tắc pháp luật quốc tế hoặc
không tương thích với sự kỳ vọng của cộng đồng quốc tế.
Tóm lại, Tòa án phản đối việc sử dụng việc không truy tố làm cơ
sở để xác định quy tắc tập quán.
+ Khả năng xảy ra lạm dụng: Đặt quá nhiều tập trung vào chủ quyền của
mỗi quốc gia có thể dẫn đến việc lạm dụng quyền hành pháp tùy ý. Một số
quốc gia có thể sử dụng quyền này một cách thiếu cân nhắc hoặc không có
trách nhiệm, dẫn đến tình trạng xung đột hoặc việc vi phạm quyền của các
quốc gia khác.
+ Cản trở sự hợp tác quốc tế: Quan điểm chủ nghĩa lạc hậu có thể cản trở
sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề chung. Việc mỗi quốc
gia tự do hành động mà không cần xem xét đến tác động đối với cộng đồng
quốc tế có thể gây ra sự mất cân đối và tạo ra tình trạng không ổn định.