Professional Documents
Culture Documents
II.Nỗi ưu tư thế sự
1. Khái niệm
Nỗi ưu tư thế sự nghĩa là nỗi lo nghĩ sâu sắc, kín đáo về việc đời. Người nghệ sĩ luôn suy tư,
trăn trở, chiêm nghiệm về nhân tình thế thái, họ đặt ra những vấn đề về tương lai, thực tại
ngang trái, bất công của loài người, sự biến chất về nhân cách, suy đồi về đạo đức.. Họ xót
thương cho những số phận bất hạnh, bất mãn trước thực tại đổi trắng thay đen, bất công,
ngang trái… nhưng không biết giãi bày cùng ai chỉ có thể gửi nỗi niềm ấy vào trong văn
chương để kiếm tìm sự đồng cảm. Từ đó, người nghệ sĩ bộc lộ suy nghĩ, nỗi lo và mong
muốn đối với cuộc đời, con người, thời đại.
b) Nỗi ưu tư thế sự trong thơ văn của một số tác giả trung đại
Trước thế sự rối ren và sự nổi chìm của số phận, thơ chữ Hán của Nguyễn Du bộc lộ phần sâu
kín trong tâm tư, tình cảm của một con người “thương đời” mà không “cứu được đời”...
+ Bài thơ “Quỳnh Hải nguyên tiêu” của ông thể hiện nỗi đau buồn vì hoàn cảnh gia đình tan
tác cũng là sự phản ánh xã hội tao loạn lúc bấy giờ:
- Hay trong thơ của Nguyễn Khuyến, ông thể hiện nỗi trăn trở, suy tư trước đời sống khổ sở,
vất vả nhân dân
(Chốn quê)
- Hay như nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, lựa chọn lối sống ẩn dật, an nhàn trước xã hội loạn
lạc
(Cảnh nhàn)
Hay
“Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng
Hoa thì hay héo , cỏ thường tươi “
( Tự thuật , bài 9 – Quốc âm thi tập )
Câu thơ có dáng dấp tục ngữ . Lối viết này ta gặp rất nhiều “ ở thế nhiều phen thấy khóc
cười”, “ hoa thì hay héo cỏ thường tươi “=> tô đậm cho âm điệu của nó trầm uất , nội dung
là vạch ra cái trớ trêu, phi lí, đen bạc của cuộc đời
Ngặt một nỗi, càng yêu đời, yêu nước, thương dân Nguyễn Trãi càng mang nặng nỗi niềm
trăn trở về cuộc sống, về lẽ đời, về con người. Bất mãn với triều chính, Nguyễn Trãi tìm đến
với thơ ca để bày tỏ lòng mình, bày tỏ những nhận thức sâu cay về thế sự:
- Nỗi lòng của Nguyễn Trãi trước thực tại bất hạnh, đau đớn của nhân dân.
+ Nguyễn Trãi đau đớn khi chứng kiến nghịch cảnh éo le của xã hội:
+ Từ nỗi đau trước thói đời đen bạc, nhà thơ khao khát sự hoàn thiện của con người và mơ ước
về một xã hội thái bình, thịnh trị:
+ Và cũng như bao nhà Nho hành đạo khác, khi khát vọng xả thân thực hiện lý tưởng “trí quân
trạch dân” không thực hiện được. Tận sâu trong tâm hồn thi nhân luôn mang nặng một nỗi
niềm canh cánh:
*Trước thế sự đen bạc, Nguyễn Trãi lựa chọn quan niệm sống thanh cao, cứng cỏi,
kiêu hãnh như cây tùng, cây mai.
- Tâm thái của Nguyễn Trãi khi đứng trước danh lợi
+ Công danh vốn là tiêu đích của các trang nam nhi thời phong kiến. Vốn dòng dõi thế phiệt,
ra vào chốn quan trường từ nhỏ nhưng Nguyễn Trãi nhận thấy:“Hiểm hóc cửa quyền chăng
đụt lẩn”, với những âm mưu, thủ đoạn khó lường:“Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc/Cho hay
đường lợi cực quanh co”. Trước chức vị của mình, Nguyễn Trãi vừa nhận thấy trách nhiệm to
lớn mà mình phải gánh vác, vừa lo trước nguy cơ để đất nước lỡ vận: “Dưới triều Trần, vua,
quan lại và các tướng lĩnh mặc sức hưởng thụ không đoái hoài đến dân chúng vi phạm đạo của
nhà cầm quyền nên trời đã mượn tay họ Hồ truất ngôi… và, tuy ta lấy đại nghĩa mà được lòng
người, nhưng cũng bởi trời chán ghét mà phó thác cho ta vậy” “Một con người đã“Say hết tấc
lòng hồng hộc”, cả cuộc đời “xốc xốc nẻo tam cương” như Nguyễn Trãi rồi cũng có lúc chua
chát thốt lên“Cửa quyền hiểm hóc ngại thồn chân”. Bỏ hết mối lo cho sự hiểm nguy của mình
để cống hiến cho dân cho nước mà liều thân bền chí:“Chí cũ ta liều nhiều sự hóc”. Tấm lòng
ấy của Nguyễn Trãi có ai thấu, để rồi chính ông cũng phải than thở: “Nước chẳng còn có Sử
Ngư”. Nguyễn Trãi mang nỗi “ta oán” của những kẻ đem lòng “trúc thông” phải ở lẫn chốn
“xô bồ”. Càng bước sâu trên đường danh, càng thấy những ngặt nghèo:“Dưới công danh đeo
khổ nhục/Trong dại dột có phong ba”. Đi hết quãng đời đầy vinh quang nhưng cũng không ít
phen khổ nhục, Nguyễn Trãi thấy công danh như cái lụy phải mang:“Khỏi quyền đã kẻo lụy
chưng danh”. Một đời phụng sự lòng “trung” mà cuối cùng lại “thác bởi danh”. Bay hết biển
danh bằng sải cánh của chim bằng để rồi lại chết bởi chính cái danh ấy và cả dòng họ của ông
cũng gánh mối họa lây với án oan Lệ Chi Viên trải khắp ba đời.