You are on page 1of 52

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

----------

BÀI TẬP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN

Chủ đề: Di dân và thực trạng tại Hà Nội

Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 2:


Nguyễn Thảo Anh – 11220449
Lê Thị Phương Hà – 11221904
Vũ Thị Hà – 11222001
Phạm Thị Thu Hiền – 11222237
Dương Lam Kiều – 11223192
Phan Thanh Lan – 11223279
Nguyễn Thị Minh Thư – 11226122

Hà Nội, tháng 6 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU:......................................................................................................
I. Di dân:.............................................................................................................
1. Khái niệm:....................................................................................................
2. Phân loại di dân:..........................................................................................
3. Đặc trưng cơ bản của di dân:.....................................................................
4. Nguyên nhân và động lực di dân:..............................................................
5. Xu hướng di dân:.........................................................................................
6. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá di dân:.........................................
7. Ảnh hưởng của di dân đến dân số và phát triển kinh tế xã hội:.............
II. Thực trạng di dân tại Việt Nam hiện nay:...................................................
1. Thực trạng:.................................................................................................
2. Đặc trưng cơ bản của di dân tại Hà Nội:.................................................
3. Ảnh hưởng:.................................................................................................
4. Nguyên nhân:..............................................................................................
5. Giải pháp:....................................................................................................
KẾT LUẬN............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO:...................................................................................

2
Lời nói đầu
Việt Nam là một đất nước hình nhỏ bé hình chữ S nằm gần phía trung tâm của
Đông Nam Á - một vị trí đắc địa cho các hoạt động thương nghiệp trong nước và
ngoài nước. Nhờ vào lợi thế vô cùng thuận lợi ấy, các doanh nghiệp nước ngoài
đang nhắm đến thị trường kinh tế của Việt Nam để đầu tư trực tiếp. Cũng nhờ vậy,
Việt Nam đang dần hình thành các trung tâm công nghiệp lớn với những khu công
nghiệp hiện đại, mở rộng cơ hội việc làm, ổn định thu nhập cho nhiều người lao
động tại nước ta. Người lao động có xu hướng di chuyển từ các vùng nông thôn lên
những đô thị lớn để làm ăn. Và dần dần, việc di dân cũng đồng thời tạo ra xu
hướng đô thị hóa mạnh mẽ ở nước ta.
Chính vì sức nóng của xu hướng này, nhóm chúng em đã quyết định lựa chọn
nghiên cứu về đề tài "Di dân" cho bài tập nhóm học phần Dân số và Phát triển của
mình. Do thời gian chuẩn bị gấp rút cũng như kiến thức còn hạn chế, phần bài tập
của chúng em sẽ còn nhiều những thiếu sót không đáng có. Chúng em rất mong có
được sự góp ý từ cô để bài viết của chúng em được hoàn chỉnh hơn. Chúng em
cảm ơn cô!
I. DI DÂN
1. Khái niệm di dân
Theo Liên Hiệp Quốc 1958, di dân là một hình thức di chuyển trong không
gian của con người từ một đơn vị địa lí này đến một đơn vị địa lí khác, kèm theo sự
thay đổi nơi cư trú thường xuyên trong khoảng thời gian di dân xác định. Định
nghĩa này đã loại ra những trường hợp người sống lang thang, dân du mục, di dân
theo mùa và di dân theo kiểu con lắc (đi về hàng ngày).
Nhìn chung, ở đa số các nước, người dân di chuyển nơi cư trú ra khỏi giới hạn
hành chính của một quốc gia, thành phố, tỉnh, huyện trong một khoảng thời gian
nhất định được xem là di dân.
Theo Lee (1966), di dân là sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hoặc vĩnh viễn.
Không có bất cứ sự hạn chế nào giữa khoảng cách di cư; sự tự nguyện hay không
tự nguyện di cư, và không phân biệt giữa di dân nội địa và di dân quốc tế. Khái
niệm này tương đối khái quát hơn, không còn bó hẹp quy luật di dân trên cả khía
cạnh lựa chọn cá nhân và khoảng cách địa lí. Cách hiểu này cũng phần nào phản
ánh được xu hướng di dân toàn cầu hóa hiện nay.
Di dân (di cư) gồm 2 quá trình:
 Di dân đi (xuất cư): Xuất cư là quá trình chuyển đi của dân cư từ một vùng
này hay một quốc gia này sang một vùng khác hay một quốc gia khác để sinh sống
thường xuyên hoặc tạm thời (trong một khoảng thời gian dài).
 Di dân đến (nhập cư): Nhập cư là quá trình chuyển đến của dân cư từ một
vùng hay một quốc gia khác để sinh sống thường xuyên hay tạm thời (trong một
khoảng thời gian dài).
Cả hai quá trình xuất cư và nhập cư đều có những ảnh hưởng đến cơ cấu và động
lực tăng dân số của một vùng hay của một quốc gia, nhất là quá trình nhập cư đôi
khi đóng vai trò quyết định trong việc hình thành dân cư ở một số khu vực, ví dụ
như Hoa Kì, Canada và Úc.
4
2. Phân loại di dân
a. Theo độ dài thời gian cư trú
 Di dân lâu dài:
Bao gồm các hình thức thay đổi nơi cư trú thường xuyên và nơi làm việc
Mục đích: định cư sinh sống lâu dài tại nơi mới đến
Nguyên nhân di cư: do điều động công tác, người tìm cơ hội việc làm mới,
thoát li gia đình. Những đối tượng này thường không quay trở về sống tại quê
hương cũ.

 Di dân tạm thời: là loại hình di chuyển diễn ra thường xuyên hoặc không
thường xuyên trong đó di dân mùa vụ là trường hợp đặc biệt.
Sự vắng mặt tại đầu đi diễn ra không lâu, khả năng quay trở về của người di
chuyển là chắc chắn.
Bao gồm các hình thức: di chuyển làm việc theo mùa vụ, đi công tác dài ngày,
ra nước ngoài học tập rồi về nước
Hình thái di chuyển này thường không được phản ánh trong các con số thống
kê về biến động dân số, và do đó khó có thể biết được chính xác quy mô của nó.

 Di dân chuyển tiếp:


Là hình thức di chuyển mà không thay đổi cơ quan công tác, nhưng do tính
chất công việc họ phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác, chẳng hạn như các công
ty xây dựng cầu đường, các công trình năng lượng điện, thăm dò địa chất.
Hình thức di chuyển này gợi ý cho các nghiên cứu điều tiết thị trường, ổn định
cuộc sống vật chất và tinh thần cho loại lao động này cho bản thân người làm và cả
gia đình, đặc biệt về cơ sở hạ tầng như điện nước, thông tin liên lạc y tế, trường
học, nơi vui chơi giải trí.

5
Ngoài ra, di dân còn bao gồm loại hình di chuyển con lắc là dòng di chuyển của cư
dân nông thôn vào thành phố trong thời kỳ những dịp nông nhàn, hoặc trong điều
kiện thiếu việc làm. Hình thái di chuyển này có xu hướng tăng trong thời kỳ đầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước đang phát triển.
b. Theo không gian
 Di dân quốc tế là di dân giữa các quốc gia.
Lịch sử di dân ghi nhận những bước ngoặt trong việc phân bố và phân bố lại
dân cư trong các châu lục, đặc biệt từ thế kỉ XV, XVI các cuộc chuyển cư ngày
càng lớn từ các nước châu Âu sang châu Mỹ, châu Đại Dương, châu Phi; từ châu
Phi sang châu Mỹ. Quá trình này gắn liền với việc xâm chiếm thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân cũ.
Trong giai đoạn hiện nay, di dân quốc tế thường gắn với quá trình di chuyển
lao động từ các nước đang phát triển đến các nước phát triển, từ các nước đông dân
tới các nước giàu mà thưa dân, thiếu lao động.
Số lao động này không chỉ những nhân công làm việc giản đơn mà có cả những
lao động trí óc, những chuyên gia tạo hiện tượng di dân lao động có kỹ năng từ các
nước đang phát triển sang các nước phát triển. Chẳng hạn: các chuyên gia công
nghệ tin học của Ấn Độ xuất cư sang làm việc ở Anh, Mỹ, Canada.. Di dân theo
quốc tế theo hướng trên thường gắn với việc hoạch định chính sách xuất khẩu lao
động của mỗi quốc gia.
Việt Nam cũng là một trong những nước đang phát triển có định hướng chiến
lược xuất khẩu lao động. Trong các thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, VN đã đưa
hàng trăm nghìn lao động có thời hạn sang các nước Đông Âu. Quá trình này gọi là
hợp tác lao động thay vì xuất khẩu lao động theo tính chất của liên kết kinh tế và
chính trị.
Hiện nay, xuất khẩu lao động được xem là quốc sách ở nước ta. Trong xu thế
hội nhập, tìm kiếm thị trường để xuất khẩu lao động đang là nhiệm vụ quan trọng

6
trong khi các thị trường lao động Đông Âu đang bị thu hẹp hoặc bị mất, thay đổi cả
tính chất và nội dung. Các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản và
một số nước có dầu mỏ ở Trung Đông đang là một hướng mới.
Di dân quốc tế phù hợp với luật pháp được gọi là di dân hợp pháp và ngược lại.
Hình thức di dân này đôi khi mang tính chất chính trị, dưới diện tị nạn hay tị nạn
chính trị. Sau các cuộc chiến tranh có thể có các cuộc di tản hoặc di cư, vượt biên
bất hợp pháp từ các nước không ổn định về chính trị hoặc nghèo về kinh tế đến các
nước ổn định hơn và kinh tế phát triển hơn.
 Di dân nội địa là di dân giữa các vùng, các đơn vị hành chính, trong một
quốc gia.
Di dân nội địa luôn là một nội dung được ưu tiên nghiên cứu nhằm phục vụ
việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Việt Nam, do tính lịch sử của sự phân chia địa giới trong quá trình dựng nước,
có các hình thức di dân: giữa ba miền Bắc, Trung, Nam; giữa các vùng kinh tế và
giữa các đơn vị hành chính.
c. Theo hình thái di dân
 Di dân có tổ chức
Là hình thái di chuyển dân cư theo kế hoạch và các chương trình dự án do nhà
nước, chính quyền các cấp vạch ra, tổ chức và chỉ đạo thực hiện., với sự tham gia
của các tổ chức đoàn thể xã hội.
Thông qua các hỗ trợ ban đầu về tài chính, lương thực, nhà ở, di dân có tổ chức
có thể giảm bớt khó khăn cho những người di cư, tăng nguồn lực sức lao động địa
phương, có thể tránh được việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi gây ảnh
hưởng xấu tới môi trường sinh thái.
Các chương trình di dân có tổ chức thường bao gồm việc di chuyển nơi thường
trú của hộ gia đình hay cộng đồng.

7
 Di dân tự do
Hình thái di dân này mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển hoặc bộ
phận gia đình quyết định, di dân tự phát không có và không phụ thuộc vào kế
hoạch và sự hỗ trợ của nhà nước và các cấp chính quyền.
Người di dân chịu trách nhiệm và tự trang trải các chi phí có liên quan đến sự
di chuyển và lựa chọn nơi đến. Di dân tự phát tuy được thừa nhận song không
được khuyến khích hay hỗ trợ.
Ngoài ra còn có di dân tự nguyện và di dân không tự nguyện.
 Di dân tự nguyện thường gắn với mục đích kinh tế bao gồm những đối
tượng di dân tìm việc làm, hoặc cơ hội kinh tế, di dân tự nguyện phản ánh
động lực có chủ đích của di dân.
 Di dân không tự nguyện hay ép buộc diễn ra chủ yếu do bạo lực, xung đột,
chiến tranh, lừa gạt, thiên tai hay thảm họa do con người hoặc môi trường
gây ra.
Trong một quyết định di dân, yếu tố tự nguyện và và không tự nguyện không
tách rời nhau (ví dụ di dân gắn với buôn bán phụ nữ, trẻ em hoặc đưa người trái
phép qua biên giới). Thông thường yếu tố tự nhiên hay ép buộc chỉ được nhận ra
sau khi quá trình di dân đã kết thúc.

d. Các hình thức di dân khác


Một số loại di dân đáng chú ý khác như: di dân cá nhân hay hộ gia đình, di dân
tản mạn nhiều hướng hay thành dòng di dân. Hình thức di dân khá quan trọng là di
dân giữa hai khu vực thành thị và nông thôn.

8
3. Đặc trưng cơ bản của di dân
a. Đặc trưng theo tuổi và giới tính
 Đặc trưng theo tuổi:
Nhóm dân số trẻ thường là thành phần tích cực tham gia trong di dân. Cụ thể là
nhóm tuổi 20 - 25 có mức độ di động nhiều nhất, sau đó giảm dần theo độ tuổi và
có thể nhích lên sau độ tuổi 65 do sự di chuyển nơi cư trú của nhóm người cao
tuổi.
Có những lí do khác nhau thúc đẩy thanh niên di dân như nhu cầu tìm việc làm,
đi học, kết hôn, hoặc mong muốn mở rộng hiểu biết và cơ hội.
Ở nơi đến, dân số thường có cơ cấu trẻ hơn, còn ngược lại ở nơi đi, cơ cấu dân
số trở nên già hơn. Tình trạng trẻ em, người già ở lại thay thế cho lao động đi làm
ăn xa là một thực tế rất đáng lưu tâm.
 Đặc trưng theo giới tính:
Ở các nước châu Mỹ La tinh và Đông Nam Á, phụ nữ thường chiếm ưu thế
hơn trong các dòng di dân.
Tại các nước châu Phi và Nam Á, tỷ lệ nam giới chiếm đa số trong tổng số
người di dân.
Các luồng di dân thường có sự chênh lệch giữa nam và nữ tùy thuộc vào hướng
di chuyển, mục đích di chuyển,…
Di dân nông thôn - đô thị có sự tham gia đông đảo của phụ nữ do nhu cầu sức
lao động ở khu vực công nghiệp nhẹ, kinh doanh và dịch vụ ở các thành phố lớn.
Di chuyển của lực lượng vũ trang và cán bộ công chức thì nam giới vẫn chiếm
số đông.
Di dân nông thôn - nông thôn thường liên quan đến sự chuyển cư của cả hộ gia
đình gắn với sản xuất nông nghiệp và do vậy có được mức độ cân bằng về giới tính
trong nhóm người di dân.

9
Nhìn chung, sự mất cân bằng về giới tính do di dân có thể dẫn đến những bất
ổn định trong đời sống tình cảm giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái.
b. Đặc trưng theo tình trạng hôn nhân
So với những người đã kết hôn, những người trẻ tuổi, đặc biệt là nữ thanh niên
chưa có gia đình thường có mức độ di chuyển cao hơn và dễ dàng hơn do còn độc
thân nên gia đình không phải là rào cản, cản trở ý định di dân.
Thông thường, di dân cũng gắn liền với sự thay đổi tình trạng hôn nhân. Không
ít người đã kết hôn sau khi chuyển cư, bởi di dân còn là phương tiện để thay đổi vị
thế, nghề nghiệp, quan hệ về hoàn cảnh kinh tế - xã hội.
Những người ly hôn, góa cũng có mức độ di chuyển cao hơn so với những
người hiện có vợ/chồng. Lý do là việc chia tay với người bạn đời hoặc sự ra đi của
họ luôn dẫn tới những thay đổi về cư trú thông qua phân chia, thừa kế tài sản, tái
hôn, hoặc về sống với con cháu.

c. Đặc trưng theo trình độ học vấn và trình độ chuyên môn


Những người có trình độ học vấn cao có xu hướng di chuyển nhiều hơn so với
những người có trình độ học vấn thấp, đặc biệt với những hình thái di dân theo
khoảng cách xa.
Những người có bằng cấp, tay nghề thường tìm đến những thị trường lao động
phù hợp, thậm chí còn tìm đến những quốc gia xa xôi để có việc làm và thu nhập
tương xứng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di dân lao
động có kỹ năng từ khu vực các nước kém phát triển đến khu vực các nước đã phát
triển, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế hiện nay.
Nguyên nhân: những người có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cao có
thể giảm thiểu tối đa được những rủi ro di cư như khả năng tìm việc làm, khả năng
thích ứng với cuộc sống, văn hóa,.. thông qua việc nắm bắt thông tin để lựa chọn
nơi đến phù hợp và nhanh chóng thích nghi với môi trường mới. Điều này hoàn

10
toàn hạn chế với những người học vấn thấp và không có tài sản, ruộng đất, ít tiếp
cận thông tin.

11
d. Đặc trưng theo mức sống và thu nhập
Đây là đặc trưng khá rõ đối với di dân tự nguyện vì mục đích kinh tế.
Những thành viên trong các gia đình có thu nhập trung bình và khá mức độ di
dân cao hơn.
Tuy nhiên, trong nhóm hộ nghèo, các gia đình tương đối nghèo lại có mức độ
di dân cao hơn những gia đình rất nghèo, bởi lý do các hộ gia đình quá nghèo
không có được các điều kiện cần thiết để di dân như sức khỏe, học vấn, quan hệ xã
hội..
Mục đích di dân khác nhau đối với những hộ gia đình có mức sống khác nhau.
 Ở nông thôn nước ta hiện nay, các gia đình có mức sống cao thường đầu tư
cho con cái ra thành phố học tập.
 Con cái của những gia đình nghèo di dân đến thành phố để lao động, kiếm
sống và trợ giúp cho gia đình.

e. Đặc trưng theo cung - cầu lao động và sự phát triển kinh tế
Sự tồn tại nhu cầu nhân công và dịch vụ ở đầu đến là nguyên nhân dẫn đến sự
gia tăng khả năng cung cấp lao động và dịch vụ thông qua di dân.
Mối quan hệ giữa di dân và trình độ phát triển có hình chữ U ngược: tỉ lệ di dân
tăng lên cùng chiều với sự phát triển kinh tế của một quốc gia khi mà nhiều người
có khả năng chi trả cho việc di cư đến nơi ở mới. Sau đó, khi quốc gia tiếp tục phát
triển, tỷ lệ di dân quốc tế có xu hướng giảm và đồng thời những động lực khuyến
khích di dân cũng thay đổi.

f. Hình thành các dòng di dân


Di dân hiện nay không còn mang tính chất đơn lẻ, dựa trên quan điểm của mỗi
cá nhân trong việc quyết định di dân hay lựa chọn nơi đến. Kiểu mẫu mới cho thấy,
di dân không phân phối đồng đều giữa các quốc gia mà có xu hướng hình thành
nên dòng di dân hay còn gọi là mạng lưới di dân.

12
Đặc trưng cơ bản của mạng lưới này:
 Sự liên kết các mối quan hệ giữa những người di dân và không di dân, giữa
người di dân trước và người đến sau, dựa trên mối quan hệ bạn bè gia đình..
trong việc cung cấp thông tin, hỗ trợ cần thiết tại nơi đến hoặc như một bằng
chứng về sự cải thiện đời sống hoặc thu nhập để thu hút vòng di dân thứ hai
lặp lại.
Mạng lưới di dân không chỉ hình thành dựa trên ảnh hưởng của các yếu tố văn
hóa - xã hội, giữa con người với con người mà còn thể hiện mối liên hệ giữa hai
quốc gia thông qua quan hệ xâm chiếm thuộc địa cũ, hoặc dòng đầu tư, thương
mại,..
Sự hình thành mạng lưới này khẳng định sự tồn tại lâu dài cả di dân.
4. Nguyên nhân và động lực di dân: 3 trường phái
a. Trường phái tân cổ điển: Quy luật di dân của Ravenstein, Mô hình Lực
hút – Lực đẩy của Lee và Lý thuyết quá độ di dân (Wilbur Zelinsky)
 Quy luật di dân của Ravenstein
Các luật lệ hà khắc, thuế khóa nặng nề, khí hậu không thuận hòa, môi trường
xã hội không cởi mở, thậm chí có sự cưỡng bức => nguyên nhân cơ bản
Khát vọng vươn lên tìm kiếm điều kiện sống tốt hơn, mong muốn trốn tránh
hoàn cảnh không thuận lợi  động cơ di dân
 Mô hình Lực hút – Lực đẩy của Lee
Lực đẩy: xuất hiện ở nơi ở gốc: sự nghèo đói, thất nghiệp, gia tăng dân số
nhanh, địa vị xã hội thấp, đàn áp chính trị…
Lực kéo: xuất hiện ở nơi đến: thu nhập và triển vọng thu nhập tốt hơn, hệ thống
giáo dục chất lượng và phúc lợi xã hội tốt, môi trường và điều kiện sống tốt, tự do
chính trị…
Trở ngại trung gian: khoảng cách địa lý, chi phí di cư, rào cản văn hóa, chính
trị…

13
 Nguyên nhân chính: sự chênh lệch về kinh tế (góc độ vĩ mô) và lựa chọn duy
lý của mỗi cá nhân (góc độ vi mô).
Vĩ mô: Todaro & Harris đã chỉ ra rằng di dân được quyết định bởi chênh
lệch thu nhập trông đợi.
Vi mô: (lý thuyết di dân dựa trên vốn con người của Torado và Sjaastad):
nguyên nhân của di dân là do sự lựa chọn duy lý của mỗi cá nhân khi cân đối
những lợi ích - chi phí trong quyết định di dân.
 Lí thuyết quá độ di dân: học thuyết về dịch chuyển di dân của Wilbur
Zelinsky: mô hình 5 giai đoạn, phân tích việc hình thành luồng di dân từ
nông thôn lên thành thị, luồng di dân giữa các thành thị và giữa các quốc gia
theo từng giai đoạn phát triển của xã hội.
 Giai đoạn 1: xã hội truyền thống tiền hiện đại: di dân có giới hạn, trong
phạm vi địa phương do kết hôn hoặc sản xuất nông nghiệp
 Giai đoạn 2: giai đoạn đầu xã hội chuyển đổi: di dân nông thôn – thành
thị quy mô lớn, di dân đến đến quốc gia khác để định cư hoặc do sự xâm
chiếm thuộc địa
 Giai đoạn 3: giai đoạn sau xã hội chuyển đổi: giảm thiểu di dân nông
thôn – thành thị và di dân quốc tế
 Giai đoạn 4: xã hội hiện đại: di dân giữa các khu vực thành thị, tạo nên
dòng di dân quốc tế của lao động kỹ năng cao và chuyên gia
 Giai đoạn 5: xã hội cực thịnh trong tương lai: suy giảm các hình thức di
dân

14
b. Trường phái học thuyết kinh tế mới của di dân lao động (NELM): 4 yếu
tố quyết định di dân
 Lý thuyết về sự thiếu thốn tương đối (yếu tố thiếu thốn tương đối so với
cộng đồng):
Những người có thu nhập thấp sẽ di cư để nhằm cải thiện vị trí tương đối của
họ trong cộng đồng làm hình thành nên các dòng di dân từ nông thôn lên thành thị,
từ các nước kém phát triển đến các nước phát triển hơn.
 Quyết định di dân là dựa trên sự đồng thuận của người di dân và gia
đình (vai trò của một nhóm người sẽ ảnh hưởng đến quyết định di dân).
Di dân được coi như 1 chiến lược để giảm thiểu rủi ro và đối mặt với sự
không hoàn hảo của thị trường:
Các hộ gia đình khuyến khích 1 trong những thành viên của họ di dân thường
để bảo hiểm rủi ro đối với thu nhập trong tương lai và đối mặt với sự không hoàn
hảo của thị trường.
 Di dân là một quá trình của sự đổi mới, thích nghi và lan tỏa:
Kinh nghiệm của những người di cư đầu tiên với mong muốn đổi mới sẽ cung
cấp nguồn thông tin giá trị để giảm thiểu rủi ro di cư cho những người đến sau.
c. Trường phái cấu trúc lịch sử
 Lý thuyết thị trường lao động kép
Lý thuyết này cho rằng thất nghiệp cấu trúc là nguyên nhân chính dẫn đến di
dân quốc tế. Sự thiếu hụt nguồn lao động ở thị trường thứ cấp ở những quốc gia
phát triển sẽ thu hút một lượng lớn lao động nước ngoài. (xuất khẩu lao động)
 Lý thuyết hệ thống toàn cầu (Wallerstein)
Những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến di dân là thương mại và vốn. Sự mở
rộng sản xuất dẫn đến dòng vốn đầu tư lớn từ những nền kinh tế phát triển dến kém
phát triển hơn  di dân khu vực và di dân khoảng cách xa.

15
 Lý thuyết mạng lưới (Massey et al) và lý thuyết hệ thống (Mabogunje)
Di dân được quyết định tùy thuộc theo điều kiện xã hội, văn hóa, kinh tế và tổ
chức ở cả quốc gia đến và đi => hình thành không gian phát triển diễn ra dòng di
dân.

16
 Nguyên nhân di dân không chỉ xuất phát từ hành vi cá nhân mà còn
mang bản chất xã hội:
Vĩ mô: di dân là kết quả sự kết hợp các yếu tố kinh tế vĩ mô, chính trị,
những yếu tố thuộc về cấu trúc mạng lưới, hệ thống ở quốc gia đi và đến.
Vi mô: trình độ kỹ năng, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tuổi tác, sự lựa chọn
duy lý của mỗi các nhân khi cân nhắc chi phí – lợi ích của di cư, yếu tố gia
đình.

5. Xu hướng di dân: 3 xu hướng


a. Di dân nội địa
Chủ yếu diễn ra ở những quốc gia đang phát triển; ở những quốc gia đã phát
triển thì xu hướng này có xu hướng giảm dần, thậm chí diễn ra theo chiều ngược
lại.
Mô hình Lực hút – Lực đẩy của Lee: ở các nước đang phát triển, nền kinh tế
chỉ tập trung vào nông nghiệp, đời sống nhân dân nghèo đói, khó khắn  lực đẩy;
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã hình thành nhiều các ngành dịch vụ và
khu công nghiệp lớn  lực hút. 2 yếu tố này đã làm hình thành dòng di dân từ
nông thôn ra thành thị.
Học thuyết NELM: sự chênh lệch lớn về mức sống, thu nhập  khuyến khích
di dân.
b. Di dân quốc tế
Diễn ra trong mỗi thời kỳ do nhiều nguyên nhân khác nhau:
 Thời kỳ phong kiến: việc chuyển cư thường diễn ra ở những vùng đói kém,
bệnh tật.
 Thời kỳ tư bản: chuyển cư quốc tế diễn ra mạnh hơn ở các nước Tây Âu,
đặc biệt từ khi có các cuộc phát kiến địa lý và tìm ra tân lục địa

17
Các yếu tố lực hút, lực đẩy ở cả quốc gia đi và đến đóng vai trò quan trọng
giúp hình thành dòng di dân các thời kỳ. Yếu tố rào cản trung tâm thời kỳ này chủ
yếu là khoảng cách di chuyển.
Trong xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa hiện nay, di cư lao động trở thành
nhân tố không thể thiếu trong việc thúc đẩy tăng trưởng. Những quốc gia có nguốn
cung dồi dào trở thành những quốc gia xuất khẩu lao động tới những quốc gia có
cầu về lao động ngày càng tăng. Trong mối quan hệ cung cầu lao động, xuất hiện
các dòng di cư lao động chất lượng thấp tới các quốc gia phát triển và các dòng di
cư lao động chất lượng cao từ các nước chậm phát triển đến các nước phát triển.
Song song với 2 dòng di cư lao động chính là hình thái di cư chính thức và
dòng di cư phi chính thức, mà chủ yếu là di cư bất hợp pháp của lao đọng phổ
thông.
c. Xu hướng hồi cư trong di dân
Là quá trình hồi cư của những người di dân ra thành phố hoặc đã thoát ly. Theo
lý thuyết quá độ di dân của Zelinsky, mức độ hồi cư gia tăng cùng với quá trình đô
thị hóa và hiện đại hóa nhưng giảm xuống theo thời gian khi con người ít lệ thuộc
vào quê hương và người thân. Tuy nhiên, xu hướng hồi cư hoặc duy trì mối liên hệ
với làng quê vẫn tồn tại nhiều hơn thực tế.
6. Các chỉ tiêu và phương pháp đánh giá di dân
Để đánh giá di dân, ta phải ước lượng được số lượng người di dân sau đó tính
các tỷ suất di dân.
 Số lượng người di dân
So với các sự kiện sinh đẻ và tử vong, số liệu di dân không được thu nhập ngay
khi hành vi di dân xảy ra. Mặc dù có một số quốc gia, việc đi lại nhập cư và xuất
cư cần được đăng ký, báo cáo với chính quyền địa phương, phương thức này cần
diễn ra chậm chạp, không phản ánh và cập nhật đúng thực tế. Để ước lượng được

18
số lượng người di dân, ta có 2 phương pháp: phương pháp trực tiếp và phương
pháp gián tiếp:
- Phương pháp trực tiếp: xác định số lượng người di dân dựa trên những
thông tin trực tiếp thu được tại các cuộc điều tra, khảo sát có liên quan đến
di dân, các sổ sách chuyên môn đăng kí di chuyển. Xác định lượng người di
dân thường sử dụng 4 câu hỏi: (i) câu hỏi về nơi sinh; (ii) thời gian cư trú tại
vùng điều tra; (iii) nơi cư trú cuối cùng trước thời điểm điều tra; (iv) nơi cư
trú cuối cùng vào một thời điểm xác định trước.
Các loại sổ sách liên quan đến sự di chuyển: Di dân nội địa có thể nắm bắt qua
hệ thống đăng ký hộ tịch, hộ khẩu các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Độ chính xác của
các con số thống kê tuỳ thuộc vào mực độ khai báo và cập nhật thực tế. Di dân
quốc tế có thể ước tính được qua số lượng người xuất nhập cảnh chính thức tại các
cửa khẩu biên giới. Tuy nhiên số người di chuyển không chính thức và bất hợp
pháp lại thường không được phản ánh trong các báo cáo thống kê. hai quốc gia
khác nhau có thể có những số liệu khác nhau về con số và đặc điểm di chuyển của
công dân đi lại và di chuyển giữa hai quốc gia. Đây là những nguyên nhân dẫn đến
sự khó khăn trong nghiên cứu di dân, đặc biệt là di dân quốc tế.
Tổng Điều tra dân số (TĐTDS): Trong các cuộc TĐTDS thường có các câu hỏi
để đo lường di dân như : Nơi sinh, thời gian cư trú, nơi cư trú cuối cùng, nơi cư trú
vào một thời điểm xác định trước đó, thời điểm di chuyển lần cuối. Nếu có thêm
thông tin về không gian gắn liền với các mốc thời gian, người ta có thể xác định
phân loại được người không di chuyển và người di chuyển theo vùng lãnh thổ và
địa bàn khảo sát. Mỗi câu hỏi được sử dụng có những ưu nhược điểm khác nhau.
Câu hỏi khác nhau quy định thể loại số liệu khác nhau sẽ thu được qua TĐTDS.
Xu hường hiện nay là kết hợp 2-3 câu hỏi khác nhau trong cùng phiếu điều tra để
có thể thu được các thông tin cơ bản cần thiết cho việc phân tích.

19
Các cuộc khảo sát: Thông thường đó là các khảo sát mẫu dân số – xã hội học
có tác dụng cập nhật và bổ xung cho 2 nguồn số liệu trên. khác với TĐTDS, thông
tin thu được qua khảo sát mẫu chi tiết, ủ và sâu cho phép phân tích các tương quan
thống kê. Việc chọn mẫu do một cuộc khảo sát thường bao gồm đối tượng chuyển
cư và không chuyển cư nhằm so sánh sự khác biệt di cư và tác động của quá trình
này. Tuy nhiên lựa chọn mẫu trong các khảo sát di dân là một vấn đề phức tạp do
việc đảm bảo tính ngẫu nhiên, đại diện không dễ dàng đối với nhóm dân cư biến
động. Vì lý do đó, tiến hành một cuộc khảo sát quốc gia về di dân đòi hỏi đầu tư
lớn về chi phí và kỹ thuật. Giá trị của số liệu khảo sát mẫu là rất lớn, nhất là lý do
di chuyển và lịch sử di chuyển của đối tượng.
- Phương pháp gián tiếp: ước lượng di dân dựa trên các số liệu thống kê,
thông qua áp dụng các phương pháp:
 Phương trình dân số cơ bản: Biến động chung của dân số bao gồm biến động
tự nhiên và biến động cơ học.
Biến động cơ học (I-O) = Biến động chung dân số (Pt -P0 ) - Biến động tự
nhiên (B-D)
Pt = P0 +B – D + I – O
I – O : Di cư thuần túy ( Net Migration – NM)
 NM = Pt – P0 – B + D
NM < 0 : Xuất cư ; NM > 0 : Nhập cư
Lưu ý: Phương pháp này chỉ xác định được lượng di dân thuần túy, không phân
tích riêng được số người xuất cư và nhập cư, cũng không có các thông tin chi tiết
về giới tính, tuổi và những đặc trưng cần thiết khác.
 Ước lượng dựa vào hệ số sống: Thực ra đây là một dạng của phương trình
dân số cơ bản được áp dụng chi tiết cho từng nhóm tuổi và giới tính
NMx+n =P x+n,t+n – S.P x,t
NMx+n là lượng di dân thuần túy của nhóm tuổi x+n tại thời điểm t+n
20
P x+n,t+n là dân số điều tra ở độ tuổi x+n tại thời điểm t+n
P x,t là dân số ở điều tra độ tuổi x tại thời điểm t
S là hệ số sống của dân số khi chuyển từ độ tuổi x sang độ tuổi x+n
Phương pháp này thường được áp dụng cho thời gian giữa hai kỳ tổng điều tra
dân số khi có đầy đủ thông tin về dân số ở từng nhóm tuổi và giới tính ở hai thời
điểm khác nhau này.

21
 Các tỷ suất di dân
Các tỷ xuất di dân, bao gồm tỷ suất xuất cư và tỷ suất nhập cư, thường
được ước tính qua các công thức dưới đây:
- Tỷ suất xuất cư: Biểu thị số người di dân đi khỏi địa phương tính bình quân
trên 1000 dân số của địa phương đó trong một năm hay một thời kì nhất
định.
O
OR = P ×1000 ¿‰)

O: Số người xuất cư khỏi địa bàn.


P: Dân số trung bình của địa bàn đó.
- Tỷ suất nhập cư: Biểu thị số người di dân đến địa phương tính bình quân
trên 1000 dân số của địa phương đó trong một năm hay một thời kỳ nhất
định.
I
IR= ×1000 ¿‰)
P
Trong đó:
I: Số người nhập cư vào địa bàn.
P: Dân số trung bình của địa bàn đó.
- Tỷ suất di dân thuần túy: Biểu thị số người dân thuần túy tại địa phương
tính bình quân trên 1000 dân số của địa phương đó trong 1 năm hay 1 thời kì
nhất định.
I −O
NMR= × 1000 ¿‰)
P

22
Hình: Tỷ suất nhập cư, tỷ suất xuất cư, tỷ suất di cư thuần của thành phố Hải
Phòng qua các năm
Nguồn: Tỷ suất nhập cư, tỷ suất xuất cư, tỷ suất di cư thuần của thành phố Hải
Phòng qua các năm, Tổng Cục Thống Kê

7. Ảnh hưởng của di dân đến dân số và phát triển kinh tế xã hội
Di dân là một quá trình dẫn đến các tình huống rất đa dạng, phản ánh sự
thay đổi trong xã hội. Theo thời gian, bản thân quá trình di dân sẽ làm thay
đổi các điều kiện đã làm nảy sinh ra nó cũng như nhận thức, thái độ và ý
định di chuyển của người di cư.
Ảnh hưởng của di dân đến phát triển dân số
Quy mô dân số: Trên phạm vi toàn thế giới, di dân không làm ảnh hưởng đến
số lượng dân số nói chung. Tuy nhiên, đối với từng địa bàn, từng nước, từng khu

23
vực di dân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Di dân có tác động trực tiếp đến quy mô
dân số. Sự ra đi của một bộ phận dân cư sẽ làm cho quy mô dân số và sức ép dân
số tại nơi đó giảm đi và ngược lại, số người nhập cư nhiều làm cho quy mô dân số
tăng nhanh.
Chất lượng dân số: Người di cư mang theo đặc trưng nơi sinh sống cũ tới
nơi ở mới tạo ra sự đa dạng văn hóa vùng miền, nâng cao chất lượng dân số.
Nhưng đó cũng chính là con dao hai lưỡi khi ý thức mỗi con người là khác
nhau.
Cơ cấu dân số: Các cơ cấu tuổi và giới tính của dân số cũng chịu ảnh
hưởng của di dân. Tỷ số giới tính có thể được biến đổi với sự có mặt của dân
số nhập cư. Do tính chọn lọc của di cư nên trong nhiều trường hợp cơ cấu
tuổi và giới tính có những thay đổi đáng kể do di cư.
Các chỉ tiêu dân số học: Bên cạnh việc làm thay đổi quy mô, chất lượng
và cơ cấu dân số, di dân còn gián tiếp tác động đến các quá trình sinh, chết
và hôn nhân. Di dân từ nông thôn ra thành phố không nhất thiết làm tăng
mức sinh, trong khi đó di dân từ nông thôn ra thành thị nói chung làm giảm
mức sinh ở khu vực đầu đi.
Ảnh hưởng của di dân đến sự phát triển kinh tế - xã hội
 Di dân với phát triển kinh tế

Di dân có ảnh hưởng không nhỏ trong việc phân bố lại lực lượng sản xuất,
nguồn lao động theo lãnh thổ và khu vực kinh tế. Do sự tác động của di dân giữa
nông thôn với thành thị, giữa các vùng làm tăng cung về lao động của thành thị,
khu công nghiệp và các vùng kinh tế.
Với việc đáp ứng phần lớn nhu cầu việc làm do phát triển khu công nghiệp, đầu
tư trực tiếp và chuyển một phần tiền thu nhập về những khu vực nghèo hơn ở Việt
Nam, di cư đã tạo ra cơ hội đáng kể cho sự phát triển đồng đều hơn và rộng rãi

24
hơn. Từ đó, góp phần giảm sự chênh lệch thu nhập, mức sống giữa các vùng miền,
điều hòa phát triển giữa các vùng. Di dân chủ yếu từ nông thôn ra thành phố để
phát triển rồi lại nhân rộng ra nhiều thành phố khác, và cả dòng di dân trở lại nông
thôn, thực hiện thành thị hóa nông thôn.
Di dân đóng góp tích cực vào khai thác tài nguyên, phát triển sản xuất,
do biến động tự nhiên qua sinh chết cùng với di dân mà phạm vi không gian
sống được mở rộng hơn; tạo điều kiện hoàn thành và hình thành nên nhiều
thị trường lao động.
Bên cạnh đó, việc di dân đến các thành phố lớn tăng lên nhanh hơn nhiều
so với tăng trưởng trong khu vực sản xuất đã làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở
khu vực thành thị. Trong khi lực lượng sản xuất nông nghiệp ở nông thôn
giảm mạnh, bỏ phí nhiều tiềm năng nông nghiệp, thiếu vắng lực lượng sản
xuất dẫn đến sản lượng nông nghiệp giảm mà nhu cầu về lương thực thực
phẩm ngày càng tăng, căng thẳng trong tình trạng thiếu lương thực, ảnh
hưởng tới phát triển kinh tế ngành nông nghiệp.
Ngoài ra, các dòng di dân trong nước không có kế hoạch gây ra những
biến động lớn trong cung lao động, gây khó khăn cho các khu nông nghiệp.
Di dân quốc tế không có tổ chức và bất hợp pháp cũng đe dọa trật tự an ninh
kinh tế xã hội và thậm chí thể chế chính trị của nhiều nước cũng như ảnh
hưởng tới các mối quan hệ quốc tế, an ninh khu vực....
 Di dân với phát triển xã hội
Thái độ, hành vi, phong tục tập quán, thói quen của con người không thể
thay đổi ngay mà được bảo lưu mang theo đến nơi cư trú mới, phát huy tác
dụng trong một thời gian dài. Điều này mang đến những ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển của xã hội:
Các ảnh hưởng tích cực
 Tăng phúc lợi và an sinh xã hội cho người di dân
25
 Góp phần vào sự phát triển đồng đều, giảm sự khác biệt giữa các vùng
 Phát triển khai sáng nhiều vấn đề văn hoá xã hội; tạo sự giao lưu văn hoá
giữa các vùng miền...
 Góp phần tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, xoá đói giảm nghèo.
Các ảnh hưởng tiêu cực:
 Sự hiện diện của những người di dân mới đến sinh sống với nền văn hoá và
đặc điểm sắc tộc khác nhau có thể gây nên sự xung đột, phân biệt đối xử
trong cộng đồng nơi đến.
 Di dân góp phần tạo nên sự đô thị hoá quá mức cho phép dẫn tới sức ép cơ
sở hạ tầng, vấn đề nhà ở, an ninh, tệ nạn xã hội, kinh tế, giáo dục và y tế.
 Vấn đề người tỵ nạn, chảy máu chất xám đang là vấn đề làm đau đầu nhiều
chính phủ và các nhà lãnh đạo, đặc biệt là những nước chậm và đang phát
triển – những nước mà tiềm năng tri thức là vấn đề sống còn cho sự phát
triển.
 Di dân không có tổ chức góp phần tàn phá môi trường và tài nguyên thiên
nhiên, làm biến đổi khí hậu theo chiều hướng xấu, ảnh hưởng đến đời sống,
sức khỏe con người.

26
Giải pháp khắc phục
Chính quyền địa phương tăng cường phối hợp cùng toàn thể quần chúng nhân
dân tuyên truyền, giáo dục, vận động người dân hiểu rõ được việc di cư tự do làm
ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, gây nên tình trạng
khó khăn cho địa phương nơi có dân đến. Bên cạnh đó, triển khai hiệu quả các
Chương trình, dự án kinh tế – xã hội, tập trung giải quyết các nhu cầu bức thiết của
người dân như vấn đề về nhà ở, đất ở, đất sản xuất, canh tác, nước sinh hoạt, sinh
kế,… để người dân ổn cư tại chỗ.
Đầu tư phát triển kinh tế tại địa phương, ưu tiên chính sách phát triển cho vùng
sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng dân cư đặc biệt khó khăn.
Chuyển dự án công nghiệp từ thành phố về khu vực nông thôn; một mặt để giảm
tải các vấn đề xã hội ở thành phố, mặt khác lại giúp địa phương giải quyết được
vấn đề việc làm, lao động tại chỗ.
Chính quyền địa phương phải tăng cường quản lý dân cư, nắm chắc về hộ
khẩu, nhân khẩu, kịp thời phát hiện cá nhân, hộ gia đình di cư tự do nhằm vận
động nhân dân ở lại nơi ở và sẽ có chính sách hỗ trợ kịp thời.

II. Thực trạng:


1. Thực trạng

Theo kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở trên địa bàn Hà Nội, đến
1/4/2019 dân số Hà Nội 8,053 triệu người (2,22 triệu hộ dân cư). Trung bình mỗi
năm, dân số Thủ đô tăng thêm khoảng 160.000 người, tương đương một huyện lớn.
Dân số Hà Nội trong 5 năm từ 2014 đến 2019 tăng thêm 1,3 triệu người, riêng khu
vực nội thành tăng 1,2 triệu người, trong đó phần lớn là gia tăng cơ học từ người
nhập cư. Theo Viện Dân số và các vấn đề xã hội, trung bình mỗi năm có khoảng
120.000 trẻ ra đời, cộng với tỷ lệ nhập cư về Hà Nội liên tục tăng khoảng 80.000 -
100.000 người/năm, Hà Nội đang phải đối mặt với bài toán đảm bảo quy mô dân

27
số hợp lý. Có đến 32 phường, xã Hà Nội có tỷ lệ người nhập cư chiếm trên 30%
dân số của phường, xã đó. Các phường, xã này nằm chủ yếu tại các quận Cầu
Giấy, Thanh Xuân, Hà Đông, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm, những khu vực đang
đô thị hóa rất mạnh và biến động cơ học bất thường.

N
guồn: Tỉ suất nhập cư, xuất cư và di cư thuần ở Hà Nội năm 2017 – 2021
Tổng cục Thống kê

2. Đặc trưng cơ bản của di dân tại Hà Nội

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, người di cư có vai trò rất quan trọng
trong việc bổ sung lực lượng lao động góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở địa
phương. Năm 2021, trong tổng số di cư từ 15 tuổi trở lên trên phạm vi cả nước, có
tới 76,0% tham gia vào lực lượng lao động, tương đương 678,2 nghìn người, cao
hơn so với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số 8,2 điểm phần trăm
(67,8%). Trong đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người di cư ở Hà Nội là
64,3% tương đương 58,2 nghìn người. Chênh lệch về giới trong tỷ lệ tham gia lực

28
lượng lao động của người di cư ở khu vực Hà Nội không đáng kể, với giới tính
nam và giới tính nữ lần lượt là 66,8% và 62,0%.

Số lượng và phân bố người di cư tham gia lực lượng lao động, năm 2021
(Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2021, Tổng cục Thống kê)
Với những đóng góp như vậy, lực lượng di cư đã góp phần tác động đến
thay đổi cơ cấu lao động, cụ thể ở bài viết này sẽ đề cập đến các lĩnh vực giới tính,
độ tuổi, trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật và các ngành.

29
Đặc trưng theo giới tính

Số liệu các cuộc Tổng Điều tra dân số và Điều tra lao động việc làm gần đây
cho thấy, xu hướng “nữ hoá di cư” vẫn tiếp tục duy trì và mặc dù có xu hướng
giảm song tỷ trọng nữ giới trong di cư luôn ở mức cao.
Kết quả điều tra di cư nội địa quốc gia, năm 2015 cho thấy, 17,3% dân số ở độ
tuổi 15 - 59 trong cả nước là người di cư. Thành thị - nơi kinh tế phát triển và có
nhiều cơ hội giáo dục, đào tạo là điểm đến di cư. Trong đó, nữ giới chiếm tỷ lệ di
cư ngày càng cao. Xu hướng này thể hiện rõ ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và
các vùng, ngoại trừ trung du và miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long lại
có xu hướng ngược lại. Theo báo cáo điều tra lao động và việc làm của Tổng cục
Thống kê năm 2021, số người di cư từ 15 tuổi trở lên là 892,7 nghìn người, trong
đó phụ nữ chiếm tới 53,6%.

Tỷ lệ di cư theo vùng kinh tế - xã hội, thành thị/nông thôn, giới tính (Đơn vị:
%)
Nguồn: Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015, Tổng cục Thống kê)

Sự giảm cầu lao động trong các hoạt động nông nghiệp tại nông thôn, gia tăng thời
gian nhàn rỗi và các cơ hội việc làm cho lao động nữ tại khu vực sản xuất - dịch vụ

30
ở các thành phố và các khu công nghiệp là những lý do chính dẫn đến tỷ lệ nữ giới
di cư này.

Tuy nhiên, cơ cấu lao động di cư theo giới đang chuyển hướng cân bằng hơn.
Số lượng lao động nữ di cư trên 15 tuổi giảm từ 60,1% năm 2012 xuống còn
50,7% năm 2018 trong khi lao động nam di cư tăng từ 39,9% lên 49,3% năm 2018.

Nguồn: Nghiên cứu vấn đề về giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh
tế ở Việt Nam - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Đặc trưng theo độ tuổi

So sánh số liệu về cơ cấu nhóm tuổi của người di cư qua hai kỳ điều tra di cư
cho thấy, phân bố phần trăm người di cư trong nhóm tuổi 15 đến 19 năm 2015 có

31
sự gia tăng so với năm 2004, tương ứng là 13,1% và 11,5%. Đây là nhóm tuổi có
sự thay đổi phân bố phần trăm lớn nhất trong 9 nhóm tuổi. 70% người di cư đến
trong nhóm tuổi này có tình trạng hoạt động kinh tế là “đi học/đào tạo”, 25% là
“đang làm việc”.

Cơ cấu nhóm tuổi của người di cư qua hai kỳ điều tra di cư 2004 và 2015
(Đơn vị: %) Nguồn: Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015, Tổng cục Thống
kê)

Qua đó cho thấy, giáo dục đã mở rộng và di cư vì mục đích giáo dục tăng lên ở
nhóm tuổi này. Các học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học có nhiều sự
lựa chọn hơn cho con đường học tập của mình để mở mang kiến thức, cũng như
mong muốn có một công việc, thu nhập ổn định.
Ngoài ra, nhu cầu tuyển dụng lao động vào làm việc tại các khu chế xuất, khu
công nghiệp cũng làm tăng nhóm di cư trong độ tuổi 15 đến 19.

32
Đặc trưng theo trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật

Trình độ học vấn và chuyên môn của người di cư lao động đóng góp một vai
trò quan trọng trong quá trình đi tìm việc làm và tham gia vào việc sản xuất kinh
doanh của chính bản thân người di cư. Những người di cư thành công là những
người có trình độ cao hơn và trẻ tuổi. Tuy nhiên, người lao động di cư có trình độ
cao chiếm tỷ lệ không nhiều.
Trình độ học vấn lao động di cư ngày một nâng cao là kết quả của việc đầu tư
chăm lo giáo dục. Các hộ gia đình sử dụng di cư như một sự đầu tư cho một số
thành viên trong gia đình nhằm đa dạng hóa các nguồn thu nhập. Bên cạnh đó,
nhiều hộ gia đình đầu tư vào con cái không nhằm mục đích thu nhập cho hộ gia
đình mà chỉ đơn thuần là giúp con cái có cuộc sống tốt hơn.
Kết quả Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015 cho thấy, khoảng một phần
ba người di cư có trình độ chuyên môn, kỹ thuật (31,7%), tiếp theo là những người
tốt nghiệp phổ thông trung học (27,0%). Trong khi đó, tỷ lệ người không di cư tốt
nghiệp trung học cơ sở là cao nhất (29,5%). Người không di cư đã tốt nghiệp tiểu
học và tốt nghiệp trung học phổ thông có tỷ lệ tương ứng là 24,5% và 18,2%. Như
vậy, người di cư có trình độ học vấn cao hơn người không di cư. Ở khu vực nông
thôn, tỷ lệ người di cư có trình độ học vấn cao gấp hơn 2 lần người không di cư,
tương ứng là 26,2% và 12,8%.

33
Nguồn: Điều tra di cư nội địa quốc gia năm 2015, Tổng cục Thống kê)

Phân bố phần trăm người di cư và không di cư theo trình độ học vấn và


chuyên môn kỹ thuật, thành thị/nông thôn (Nguồn: Điều tra di cư nội địa quốc gia
năm 2015).
Nhìn chung, người di cư đến khu vực thành thị có tỷ lệ được đào tạo chuyên
môn kỹ thuật cao hơn so với người di cư đến khu vực nông thôn. Cùng xuất phát
điểm ở khu vực nông thôn, nhóm di cư đến thành thị có tỷ lệ đào tạo chuyên môn
kỹ thuật cao hơn so với nhóm di cư đến khu vực nông thôn.

34
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người di cư 15 tuổi trở lên theo luồng di cư (%)
(Nguồn: Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, 2019)

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, thị trường lao động nước ngoài là
nơi thu hút nhiều lao động nhất ở nhóm lao động đã qua đào tạo chuyên môn, kỹ
thuật (54,0%). Nhóm lao động phổ thông chủ yếu là đi làm ăn ngoại tỉnh và các
vùng trong nội tỉnh (46,0%). Như vậy, số liệu trên cho thấy, những lao động di
chuyển đến nơi xa có trình độ học vấn cao hơn so với những lao động di chuyển
đến nơi gần.
Người di cư thường ở lứa tuổi trẻ hơn, do đó năng động hơn và có nhiều khả
năng tìm kiếm cơ hội học tập cao hơn. Ngược lại, những người không di cư có
trình độ chuyên môn hạn chế hơn, ít có điều kiện đi ra ngoài để học tập nâng cao
hiểu biết và vốn kiến thức xã hội.

Đặc trưng theo lĩnh vực, ngành

Cơ cấu lao động có việc làm theo khu vực kinh tế giai đoạn 2000-2019 có sự
chuyển dịch rõ rệt, ngành nông - lâm - thủy sản có xu hướng giảm dần, thay vào đó

35
là các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng có xu hướng tăng dần
tỷ trọng.
Nếu như năm 2005 lao động trong nông nghiệp chiếm tới trên 55% tổng lực
lượng lao động toàn xã hội thì đến năm 2009 giảm xuống còn 51,5%, và cũng
trong thời gian đó, tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
tăng ứng từ 17,6% và 27,1% lên 20% và 28,5%. Sang giai đoạn 2009-2019,
chuyển dịch cơ cấu lao động tiếp tục diễn ra nhưng với cường độ mạnh mẽ hơn,
trong giai đoạn này lao động trong ngành nông nghiệp đã giảm 17 điểm phần trăm
từ 51,5% xuống còn 34,5%, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp tăng trên
10 điểm phần trăm, từ 20% năm 2009 lên 30,2% năm 2019, ngành dịch vụ có sự
chuyển dịch từ 28,5% lên 35,3% trong cùng kỳ (tăng gần 7 điểm phần trăm).

Như vậy có thể thấy, hiện nay tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn còn lớn,
chiếm tới trên 1/3 tổng lực lượng lao động xã hội. Trong khi nông nghiệp là ngành
đang có năng suất lao động thấp hơn tương đối so với các ngành khác của nền kinh
tế, việc chuyển lao động từ khu vực/ngành nghề có năng suất thấp sang khu
vực/ngành nghề có năng suất cao hơn là xu thế tất yếu của quá trình đổi mới. Đáng
chú ý là trong giai đoạn 2009-2019 tốc độ giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp
đang nhanh hơn tốc độ giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP, cụ thể, tỷ trọng lao
động nông nghiệp trong tổng lực lượng lao động xã hội giảm 17 điểm phần trăm
trong khi tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm tương ứng 5,2 điểm phần trăm
trong cùng kỳ.
Các nghiên cứu cũng đưa ra một thực trạng khá bao quát về quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế trong các giai đoạn, ngành nông - lâm -
thủy sản dần có xu hướng giảm xuống, thay vào đó các ngành công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ đang có xu hướng tăng lên.

36
3. Ảnh hưởng

a. Mặt tích cực

Ở mức độ nhất định, di dân vào Hà Nội góp phần thúc đẩy sự phát triển đa
dạng của các lĩnh vực và các ngành nghề, dịch vụ, có ý nghĩa đối với sự tăng
trưởng kinh tế của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Chính những người di
cư tới Hà Nội để tìm kiếm việc làm đã góp phần bổ sung nguồn lực lao động cho
thành phố, đặc biệt là thúc đẩy phát triển ngành kinh tế dịch vụ, ngoài ra họ tham
gia vào phát triển khu vực phi kết cấu góp phần thỏa mãn nhu cầu về các ngành
nghề như: mộc, nề, rèn…; cung cấp các mặt hàng lương thực và thực phẩm…Hơn
nữa, họ cũng tham gia vào lĩnh vực hoạt động lao động phổ thông mà nhà nước
chưa bao quát được trong quá trình đô thị hóa như: xích lô, vận chuyển hàng hóa,
chuyên chở hành khách và nhiều hình thức hoạt động lao động khác.
Nhìn chung, tác động tích cực của di dân ngoại tỉnh vào Hà Nội tới quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô tuy không xác định được chính xác, nhưng rõ
ràng vai trò của nó là không thể phủ nhận. Người dân di cư ngoại tỉnh vào Hà Nội
với mục đích tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập. Tính năng động trong việc tìm
kiếm việc làm của họ rất cao, tùy thuộc vào trình độ chuyên môn, sức khỏe, khả
năng của mỗi người để sẵn sàng tham gia vào các lĩnh vực khác nhau. Do đó,
những người lao động này đã bù đắp cho nguồn lực lao động ở Hà Nội khi tham
gia vào những công việc mang tính chất lao động giản đơn, hoặc lao động nặng
nhọc nhưng rất cần thiết cho đời sống kinh tế, xã hội.

b. Mặt tiêu cực

Bên cạnh những mặt tích cực, tình trạng di dân tự do tới Hà Nội tìm việc làm
cũng đang đặt ra những vấn đề cấp bách trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Bài viết đưa ra những vấn đề cấp bách nổi bật sau:

37
 Vấn đề gia tăng sức ép về việc làm cho Thủ đô:
Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở Hà Nội thực tế đã tồn tại nay lại càng
gia tăng do tình trạng di dân ngoại thành vào thành phố. Đồng thời đây cũng là
nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt
kinh tế, xã hội cho thành phố.
 Gây quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở:
Những năm trở lại đây, Hà Nội tuy đã được Nhà nước chú ý đầu tư về cơ sở hạ
tầng, về điều kiện nhà ở nhưng vẫn tồn tại hiện tượng thiếu và không đồng bộ.
Thực tế quỹ nhà ở, công trình công cộng mới xây dựng mặc dù tăng nhanh nhưng
không đáp ứng được nhu cầu đô thị hóa (trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thoát
nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi trường đô thị). Các vấn đề này càng trở nên
trầm trọng hơn khi thêm vào đó khối lượng lớn người di cư ngoại tỉnh tới Hà Nội.
Về nhà ở, trong những năm gần đây, Hà Nội đã xây dựng mới hàng triệu m2 nhà
để phục vụ nhu cầu của nhân dân. Song dân số đô thị tăng nhanh đã làm giảm diện
tích bình quân nhà ở. Bên cạnh đó, hiện nay nhiều khu nhà hư hỏng và xuống cấp,
không an toàn hoặc đã hết hạn sử dụng. Người di dân tự do vào Hà Nội thì vấn đề
nhà ở là vấn đề lo ngại nhất, đặc biệt với một số người di dân mùa vụ do không đủ
tiền thuê nhà. Họ thường tập trung ở các vỉa hè hoặc ở các khu nhà trọ rẻ tiền, điều
kiện ăn ở rất khó khăn, họ làm đủ mọi nghề như bán hàng rong, khuân vác, đánh
giày, xe ôm… Hiện nay, Hà Nội đang phải chịu cảnh buôn bán và làm các nghề
dịch vụ tự phát lấn chiếm lòng đường, hè phố, gây cản trở giao thông và mất trật tự
đô thị. Ngoài ra, đã và đang xuất hiện nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội từ tình trạng
những người di dân ngoại tỉnh về Hà Nội.
Về môi trường, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và điều đó cũng tất yếu dẫn
tới mâu thuẫn giữa môi trường và sự gia tăng dân số. Những mâu thuẫn đó đã tác
động không tốt tới đời sống của người dân thành phố, ví dụ như:

38
 Chất thải sinh hoạt, mức gia tăng dân số quá nhanh hiện nay luôn gắn với
việc ô nhiễm môi trường và gây bất lợi cho hệ sinh thái. Hà Nội mỗi ngày
có khoảng gần 2.000 m3 rác thải, trong khi chỉ giải quyết được khoảng 50%
số rác đó. Như vậy, dân số đông với tốc độ tăng quá nhanh, trong khi khả
năng xử lý rác thải chưa đáp ứng được đang đặt ra một vấn đề lớn về tình
trạng ô nhiễm vệ sinh môi trường của thành phố.
 Nước sinh hoạt, mặc dù có những cải thiện về hệ thống cấp nước, nhưng
lượng nước sạch bình quân đầu người của thành phố vẫn không tăng. Hiện
nay, một số mạch nước ngầm của thành phố cũng bị ô nhiễm do khai thác
quá tải và không tuân thủ quy trình công nghệ khai thác.
 Không khí và tiếng ồn, cùng với quá trình đô thị hóa, với sự phát triển của
công nghiệp và giao thông vận tải đã làm tăng các loại khí gây độc hại
trong thành phố. Sự ô nhiễm trong các khu vực gần nhà máy và các trục
giao thông chính vượt quá giới hạn cho phép, trung bình trong 1m3 không
khí ở Hà Nội có 80 µg bụi khí PM10, vượt tiêu chuẩn quy định 50 µg/ m3,
bụi khí SO2 cũng vượt tiêu chuẩn châu Âu 20 µg/m3, nồng độ bụi cao hơn
tiêu chuẩn cho phép 2,5 lần.
 Tình trạng gây mất trật tự công cộng và gia tăng sức ép về quản lý cho
các cấp chính quyền:
Các cuộc điều tra cho thấy, những người di chuyển về Hà Nội có những hạn
chế nhất định về chuyên môn, tay nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ các
loại công việc. Cuộc sống tạm bợ qua ngày của những người lang thang và di dân
tự do hình thành nên các tụ điểm chợ lao động như: cầu Mai Động, Ngã tư Sở, dốc
Minh Khai… gây mất trật tự công cộng và mỹ quan thành phố. Sau khi làm việc
căng thẳng và mệt mỏi, người lao động thường tập trung qua đêm ở các xóm lao
động và nhà trọ bình dân rẻ tiền. Điều kiện nghỉ ngơi và sinh sống trong các khu
vực này không được đảm bảo. Do tính chất công việc, hàng ngày họ phải tiếp xúc

39
với nhiều tầng lớp trong xã hội, dễ dàng tiếp thu cả cái tốt và cái xấu. Vì vậy, ở họ
rất dễ mắc các tệ nạn xã hội gây ảnh hưởng cho vấn đề an ninh trật tự và khó khăn
cho các nhà quản lý.
 Khó khăn về tiếp cận các dịch vụ xã hội:
Lao động di cư thường gặp khó khăn về tiếp cận các dịch vụ xã hội, có 90%
lao động di cư gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội công,
70% không tiếp cận được các dịch vụ y tế công và chỉ có 44% có bảo hiểm y tế và
sử dụng thẻ bảo hiểm y tế. Tỷ lệ người lao động di cư có bảo hiểm y tế thấp một
phần do nhận thức, một phần do gặp khó khăn về hộ khẩu và thủ tục phức tạp nên
khó khăn khi mua. Nhóm lao động này thường tập trung trong khu vực phi chính
thức, làm các công việc như thu gom rác, bán hàng rong, giúp việc trong gia đình
hoặc các cơ sở dịch vụ nhỏ lẻ… Họ không có hợp đồng lao động, không có bảo
hiểm y tế để hỗ trợ giảm thiểu những rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi
già…

Bên cạnh đó, hầu hết lao động phi chính thức thường không có bảo hiểm xã hội
chiếm 97,9% và chỉ có 0,2% được đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, còn lại 1,9%
đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, điều này dễ dẫn đến tình trạng người lao động
không có cơ hội thụ hưởng những chính sách an sinh xã hội của Nhà nước, nhất là
khi hết độ tuổi lao động.
 Gia tăng khoảng cách kinh tế – xã hội:
Mối quan hệ giữa di cư và phát triển là tương đối phức tạp. Trong khi di cư có
đóng góp tích cực cho bản thân người di cư và sự phát triển của nơi đến, di cư
cũng góp phần làm gia tăng khoảng cách kinh tế – xã hội giữa nơi đến và nơi đi,
giữa thành thị và nông thôn và giữa các vùng. Các khu vực nông thôn và các vùng
xuất cư chủ yếu như Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Cửu
Long chịu nhiều thiệt thòi hơn trong khi khu vực thành thị, đặc biệt các tỉnh, thành

40
phố lớn và các vùng nhập cư chủ yếu như Hà Nội được lợi từ những người di cư
trẻ tuổi, thường là những người có vốn xã hội tốt hơn. Các kế hoạch và chính sách
phát triển vùng và quốc gia cần tính đến những biện pháp để bảo đảm đóng góp tốt
nhất của di cư tới phát triển. Nếu không có những chính sách phù hợp, phần lớn
những người di cư sẽ phải đối mặt với thực trạng là chuyển nghèo khó từ nơi này
sang nơi khác, xuất hiện những “lệch pha” về văn hóa và lối sống, dẫn đến những
hệ lụy mang tính xã hội.

4. Nguyên nhân
Sở dĩ người dân thường đổ về Hà Nội vì những nguyên nhân sau:
 Thứ nhất, nhu cầu việc làm. Do nông nghiệp nước ta có những bước phát
triển vượt bậc trong việc tăng năng suất và sản lượng dẫn tới hiện tượng “dư
thừa” lao động. Hơn 50% số người di dân lâu dài và 90% di dân mùa vụ di
chuyển đến các thành phố lớn vì nguyên nhân này. Đặc biệt là vùng đồng
bằng sông Hồng “đất chật người đông”, thời gian dư thừa lao động chiếm tới
30 - 40%, đồng thời mật độ dân số đông, diện tích canh tác có hạn. Điều đó
tất yếu dẫn đến việc một bộ phận người lao động đi tìm việc ở các thành phố
lớn nhằm tăng thêm thu nhập. Sự khác biệt về tiền lương và thu nhập giữa
các vùng, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị là yếu tố thúc đẩy quá trình di
dân tới đô thị. Họ chấp nhận những công việc nặng nhọc, vất vả để mưu sinh
và có tiền gửi về cho gia đình.
 Thứ hai, chính sách của nhà nước. Nhà nước ban hành hệ thống chính sách
kinh tế vĩ mô hướng vào thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước trên cơ sở đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các chính sách này tác động mạnh đến
quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, qua đó, tạo ra nhu cầu rất lớn về lao
động, tạo sức hút hấp dẫn lao động di cư tới thành phố. Các chính sách khác
như: chính sách khuyến khích đầu tư trong nước và FDI; chính sách khuyến

41
khích phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc
doanh; chính sách đất đai, tín dụng và thuế; chính sách khuyến khích phát
triển ngành, nghề nông thôn; chính sách phát triển nguồn nhân lực thông qua
giáo dục, đào tạo và dạy nghề là các chính sách vĩ mô tác động vào tăng
trưởng kinh tế, tạo nhiều việc làm và tăng tổng cầu lao động phi nông nghiệp
để tạo nhu cầu thúc đẩy thu hút lao động tới đô thị.
 Thứ ba, nhu cầu thay đổi cuộc sống. Hà Nội là miền đất hứa của nhiều người
về môi trường giáo dục và đào tạo, với điều kiện y tế và chăm sóc sức khỏe
tốt, đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đa dạng các phương tiện thông tin
đại chúng và dịch vụ tiện ích khác… Họ đến đây để học tập, làm việc, mưu
cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn, sau đó lại kéo theo gia đình, người thân nhập
cư. Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa lớn của cả nước,
với những lợi thế về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội, thực sự đã trở
thành lực hút của dòng di dân ngoại tỉnh, cụ thể:
o Về đặc điểm tự nhiên: Thành phố Hà Nội nằm ở đồng bằng Bắc Bộ
trù phú (diện tích Hà Nội mở rộng lên tới 3.324, 92 km2). Hà Nội mở
rộng hiện nay có một hệ thống sông hồ dày đặc, thuận tiện cho giao
thông đường thủy cũng như các hoạt động nuôi trồng thủy sản nước
ngọt. Với vị trí và địa thế thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa và khoa học lớn; là đầu mối giao thông quan trọng
của cả nước. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Hà Nội tiêu biểu cho khí
hậu Bắc Bộ: mùa hè nóng ẩm và mưa nhiều, mùa đông lạnh khô và
mưa ít, nhiệt độ trung bình là 23,60C, độ ẩm trung bình là 79%, lượng
mưa trung bình hàng năm là 1,800 mm/năm. Hà Nội có hai dạng địa
hình chính là đồng bằng và đồi núi. Địa hình đồng bằng chủ yếu thuộc
địa phận Hà Nội cũ và một số huyện phía Đông của Hà Tây cũ, chiếm

42
khoảng 3/4 diện tích tự nhiên. Phần lớn địa hình đồi núi thuộc địa
phận các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức.
o Về đặc điểm kinh tế - xã hội: Hà Nội là một thành phố lớn và đông
dân, có mật độ dân số cao. Theo số liệu thống kê ngày 1/4/2009, dân
số Hà Nội vào khoảng 6.448.837 người (chiếm khoảng 7,5% dân số
cả nước), mật độ dân số trung bình là 1926 người/km2 (cao gấp 7,4
lần so với cả nước). Hà Nội hiện có trên 4,000 di tích và danh thắng,
trong đó xếp hạng quốc gia trên 900 di tích và danh thắng; có hàng
trăm đền, chùa, công trình kiến trúc, danh thắng nổi tiếng, nhiều lễ
hội, ẩm thực phong phú, các làng nghề truyền thống. Với đặc điểm đó,
Hà Nội trở thành một trung tâm du lịch lớn, du khách có dịp khám phá
nhiều công trình kiến trúc văn hóa - nghệ thuật được xây dựng qua
nhiều thế hệ trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Hà Nội là
trung tâm và đầu mối giao thông của cả nước, từ đó có thể đi khắp
mọi miền đất nước bằng bất cứ phương tiện nào. Đường bộ có hệ
thống phương tiện giao thông công cộng (xe bus, taxi) phủ khắp thành
phố, giao thông cá nhân (xe máy, ô tô), có các quốc lộ lớn chạy qua
thành phố, như: QL1, QL2, QL3…
Ngoài ra, Hà Nội cũng là đầu mối của tuyến giao thông đường sắt và
đường hàng không trong nước và quốc tế. Thành phố Hà Nội có
khoảng 70 trường Đại học, 20 trường cao đẳng 60 trường trung cấp,
dạy nghề, nhiều trung tâm đào tạo của nước ngoài. Hàng năm có rất
nhiều học sinh, sinh viên tập trung về đây học tập. Hà Nội là một
trong hai đầu tàu kinh tế của cả nước, với các ngành dịch vụ, du lịch
và bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố.
Trong lĩnh vực công nghiệp, Hà Nội đã xây dựng hoàn chỉnh 9 khu
công nghiệp và 11 cụm công nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều sản phẩm

43
công nghiệp, trong đó có một số sản phẩm mới của ngành công
nghiệp điện tử, công nghiệp phần mềm, chế tạo khuôn mẫu… đã đứng
vững trên thị trường. Thời gian tới, Hà Nội sẽ tiếp tục chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp,
phát triển các ngành, các lĩnh vực và sản phẩm công nghệ cao…
Với những đặc điểm và lợi thế đó, Hà Nội thực sự là mảnh đất hấp dẫn dân
nhập cư.

5. Giải pháp
a. Nhóm giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực của di dân
ngoại tỉnh vào Hà Nội.
Cần phải có chiến lược quy hoạch mở rộng thành phố Hà Nội, phát triển các
khu đô thị vệ tinh, thông qua đó giảm áp lực cho sự gia tăng dân số quá mức ở khu
vực nội thành, đồng thời tạo thế phát triển về kinh tế và xã hội cho Thủ đô trong
tương lai.
Chủ động thu hút và quản lý luồng di dân vào các ngành nghề phù hợp. Di
dân ngoại tỉnh vào các đô thị lớn cũng như vào Hà Nội là một xu hướng tất yếu
trong quá trình phát triển của đất nước. Do vậy, cần có những biện pháp chủ động
nhằm tổ chức thu hút lực lượng lao động theo nhu cầu của thị trường thay vì hạn
chế bằng các rào cản hành chính. Là một trong những trung tâm kinh tế lớn của cả
nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong những năm qua là khá cao (trên
10%). Bên cạnh khu vực công nghiệp hiện đại, thì các hoạt động dịch vụ đời sống
như các công việc nội trợ, chăm sóc trẻ em, vận tải nhỏ, buôn bán nhỏ… là các
hoạt động mang tính truyền thống. Do vậy, một trong những giải pháp vừa mang
tính chất cấp bách, vừa mang tính chất lâu dài là phải hình thành và phát triển các
loại hình dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu kể trên. Việc phát triển các loại hình dịch
vụ có tổ chức thông qua các trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm, ,các loại hình

44
doanh nghiệp… sẽ tạo điều kiện thu hút và quản lý hiệu quả hơn tình trạng di dân
ngoại tỉnh về Hà Nội, tránh được tình trạng tự phát như hiện nay.
Hoàn thiện chính sách quản lý nhân khẩu, hộ khẩu. Trước kia, trong cơ chế
tập trung bao cấp, việc nhập khẩu vào Hà Nội được quản lý chặt chẽ không chỉ vì
lý do an ninh mà còn vì lý do kinh tế như chế độ phân phối lương thực - thực
phẩm… Hiện nay, khi chuyển sang cơ chế thị trường việc lưu chuyển lao động
cũng linh hoạt và đa dạng hơn. Nhu cầu về các loại lao động đa dạng hơn. Do đó,
việc quản lý nhân khẩu hộ khẩu không phải chỉ là việc thực hiện các thủ tục hành
chính, mà còn cần lưu ý đến các yếu tố kinh tế, xã hội khác như nhu cầu có việc
làm và đảm bảo đời sống - quyền cơ bản của người dân

b. Các giải pháp giải quyết các vấn đề tiêu cực xảy ra từ di dân
 Đầu tiên là vấn đề việc làm
Cần phải quy hoạch nơi ở và nơi giao dịch việc làm cho người di dân theo mùa
vụ. Đối với người di cư mùa vụ làm việc ở Hà Nội thì vấn đề thông tin việc làm
đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nhà ở lại là một vấn đề khó khăn đối với
họ. Do vậy, việc hỗ trợ về chỗ ở cho người di cư, ví dụ như: dịch vụ cho thuê
phòng trọ giá rẻ, quy hoạch khu trọ cho người di dân và nơi giao dịch việc làm là
giải pháp thiết thực cho người di dân, đồng thời đem lại hiệu quả tốt hơn cho nhà
quản lý.
Xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội. Việc xây dựng các chính sách
xã hội và đưa vào thực tế đối với người lao động đang là một yêu cầu thiết yếu
hiện nay. Các chính sách đó nhằm giải quyết hàng loạt các vấn đề như: hỗ trợ việc
làm, trợ cấp thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm y tế… giúp cho người lao
động có điều kiện thực hiện các quyền cơ bản của công dân, tạo điều kiện cho họ
tham gia tốt hơn vào thị trường lao động.

45
Giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức cộng đồng, xây dựng nếp sống
văn minh đô thị cho người di cư. Một vấn đề bức xúc trong hoạt động của người
dân di cư theo mùa vụ là ý thức cộng đồng cũng như những hành động tự phát của
họ làm mất mỹ quan đô thị còn kém. Vì vậy, cần phải có các chương trình tuyên
truyền nếp sống văn minh thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.Bên cạnh
đó, cũng cần có những chế tài và hình thức xử phạt hành chính đủ nghiêm minh
đối với họ nhằm xây dựng nếp sống văn minh đô thị ngày càng tốt hơn.
Thành lập các trung tâm hỗ trợ việc làm cho người di dân. Đây là một giải
pháp nhằm tạo điều kiện giúp người di dân tìm kiếm việc làm, cũng như tăng
cường quản lý người di dân vào làm việc tại Hà Nội; đồng thời từng bước hình
thành nên thị trường lao động phù hợp giúp nhà quản lý thực hiện tốt chức năng
của mình.
 Thứ hai là vấn đề nhà ở và công trình xã hội :
Thay vì bằng mọi cách xóa bỏ các khu nhà tạm, nhà trọ, nhà ổ chuột thì chúng
ta nên xem xét, lựa chọn vị trí, giải pháp kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật, tổ chức môi
trường ở giúp cho người di dân có thể sinh sống đảm bảo trong đô thị.
Vị trí tổ chức, xây dựng các loại nhà trọ dạng này có thể lựa chọn tại các khu
đất do thành phố quản lý đã có chủ trương xây dựng các công trình công cộng, nhà
ở hoặc thương mại nhưng chưa thực hiện, có thể xây dựng tạm tại các khu đất đang
chờ chuyển đổi mục đích sử dụng…
Loại hình nhà ở xã hội dành cho người di dân thu nhập thấp có thể xây dựng
kiên cố, chiều cao tầng từ 5- 9 tầng, không gian linh hoạt từ nhà ở kiểu tập thể đến
nhà ở hộ gia đình. Đối với nhà ở dành cho người di dân thuộc nhóm nghèo đô thị,
không có thu nhập ổn định, nên đầu tư xây dựng loại hình nhà ở tạm cư, đơn giản
về hình hình thức, thấp tầng từ 1- 3 tầng để tiết kiệm chi phí cho nền móng, không
gian sử dụng khép kín, tổ chức nhiều không gian ở cho phù hợp với nhu cầu của

46
nhóm gia đình và nhóm độc thân ở tập thể. Nhà ở loại này cần thiết kế điển hình
hóa, có thể xây dựng tại nhiều địa bàn của thành phố.
Bên cạnh đó, việc sửa chữa, nâng cao chất lượng của các khu nhà trọ xuống
cấp đang là vấn đề cần được lưu ý để giúp người di dân có một môi trường sống tốt
đẹp, lành mạnh hơn.
Các cấp chính quyền bổ sung tiêu chuẩn xây dựng nhằm chuẩn hóa và nâng
cao chất lượng phòng trọ, khu nhà trọ cho thuê do cá nhân, hộ gia đình đầu tư kinh
doanh. Tường bao, tường ngăn, mái nhà làm bằng vật liệu phòng cháy và chống
thấm, nền nhà phải lát gạch hoặc láng vữa ximăng và phải cao hơn mặt đường, mặt
sân. Diện tích sử dụng bình quân không nhỏ hơn 5m2/người. Phòng phải có đèn đủ
sáng. Nếu phòng ở khép kín khu vệ sinh phải có vách ngăn với chỗ ngủ. Cổng nhà
trọ phảiphải được làm chắc chắn để bảo đảm an ninh, trật tự.
Đề xuất những chính sách hỗ trợ để các chủ nhà trọ sửa chữa, nâng cấp
giúp công nhân, người lao động có chỗ ở tốt hơn. Nhà nước tạo điều kiện cho các
chủ nhà trọ cải tạo các khu nhà trọ cho đủ chuẩn theo quy định, tức phải có đủ điều
kiện về diện tích, khoảng cách, thông gió, thoáng khí, phòng cháy chữa cháy. Nhà
nước có thể hỗ trợ bằng cách cho họ vay lãi suất ưu đãi, vay chính sách, giảm thuế.
Doanh nghiệp chi ra thêm một khoản tiền để hỗ trợ chỗ ở cho người lao
động. Người lao động nhận khoản hỗ trợ này và cam kết phải thuê nhà ở trong
những khu trọ đủ chuẩn. Công nhân phải đăng ký địa chỉ thuê nhà trọ để DN giám
sát, có thể bị cắt khoản tiền hỗ trợ chỗ ở nếu vi phạm. Những khu nhà trọ không đủ
chuẩn sẽ không được cho thuê và không có đăng ký tạm trú, công an kiểm tra cư
trú và chủ nhà sẽ bị phạt nếu cho ở... chui.Nhiều lần vi phạm, chủ nhà trọ sẽ bị rút
giấy phép kinh doanh.
c. Giải pháp trong dài hạn:
Việc làm của chúng ta không chỉ là giải quyết những ảnh hưởng xấu mà di dân
mang lại mà còn phải hạn chế sự di dân ồ ạt, không khoa học để giảm bớt gánh

47
nặng cho thành phố.
Sự chênh lệch về kinh tế, giáo dục và xã hội là động lực thúc đẩy quá trình di
dân. Suy cho cùng, đại đa số người dân di cư vào Hà Nội đều có mục đích là có
cuộc sống đầy đủ hơn và được sử dụng các dịch vụ y tế tốt hơn. Vì thế căn nguyên
của vấn đề mà chúng ta cần giải quyết trong dài hạn không phải chỉ là việc làm và
nhà ở mà là phải làm sao để tạo điều kiện cho người dân có mức sống ổn định và
nhiều cơ hội phát triển trong khu vực sống của họ.
 Giáo dục là chìa khóa để thoát nghèo vì nó liên quan trực tiếp đến các cơ hội
việc làm. Trình độ học vấn thấp thường đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp và
nghèo đói cao.Do đó, điều quan trọng là phải nâng cao trình độ học vấn và
có cơ sở giáo dục chất lượng ở các tỉnh nghèo để mọi người có thể tìm được
việc làm tốt và do đó không có động cơ di cư. Đặc biệt khi hiện nay có vô số
trường Đại học được xây dựng ở Hà Nội thu hút rất nhiều sinh viên di cư lên
thành phố để đi học.
 Việc cải thiện các tiêu chuẩn an sinh xã hội và bảo hiểm y tế ở các tỉnh
cũng rất quan trọng.Người dân địa phương phải chắc chắn rằng họ có đủ hỗ
trợ của chính phủ trong trường hợp họ cần gấp.
 Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng ở địa phương tỉnh lẻ, tạo ra
nhiều việc làm cho người dân địa phương, giúp kinh tế vùng đó phát triển.
 Cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm khuyến khích những người di
dân từ nông thôn lên đô thị tránh những xung đột xã hội, giảm tải các vấn đề
phức tạp về nhà ở và xã hội cho đô thị. Cần có chính sách hỗ trợ để người
nông dân có thể quay trở về nông thôn sinh sống. Nhà nước cần tăng cường
chính sách chăm lo đời sống tại các vùng nông thôn, tiếp tục phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương VII
(khóa X) nhất là vấn đề xây dựng nhà ở nông thôn mới. Quản lý chặt chẽ đất

48
đai sản xuất, hạn chế tối đa việc xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp
trên vùng đất có khả năng trồng trọt, canh tác tốt…

49
Kết luận
Qua nghiên cứu trên, có thể thấy di dân là xu hướng tất yếu phục vụ cho nhu
cầu cơ bản của con người. Nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng mỗi năm dân số Hà Nội
tăng lên khoảng 160.000 người do di dân, điều này xảy ra do nhu cầu về việc làm,
chính sách của nhà nước cũng như nhu cầu thay đổi cuộc sống.

Xu hướng di dân cũng đã đem lại những ảnh hưởng tích cực, phát triển nền
kinh tế, văn hoá và xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, di dân cũng dẫn tới nhiều
hệ quả tiêu cực như gia tăng sức ép về việc làm, quá tải sử dụng các công trình hạ
tầng cơ sở, ô nhiễm môi trường,… Đặc biệt, di dân cũng đã tác động chuyển dịch
cơ cấu lao động. Để tăng cường các ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực, nhóm chúng em đã đưa ra hai nhóm giải pháp tương ứng. Các giải pháp nhằm
phát huy những ảnh hưởng tích cực gồm: quy hoạch mở rộng, thu hút và quản lý
luồng di dân vào các ngành nghề phù hợp, hoàn thiện chính sách quản lý nhân
khẩu, hộ khẩu. Song song với các giải pháp phát huy mặt tích cực, ta cũng cần tiến
hành các biện pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực như: xây
dụng và thực hiện các chính sách hỗ trợ xã hội, xây dựng nhà ở xã hội, đầu tư vào
giáo dục,…

50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân (2019), Giáo trình Dân số và phát triển.
2. Tổng cục Thống kê (2019),
https://www.gso.gov.vn/du-lieu-dac-ta/2019/12/htcttk-cap-tinh-ty-suat-
nhap-cu-xuat-cu-ty-suat-di-cu-thuan/.
3. Đinh Văn Thông (2010), “Di dân ngoại tỉnh vào thành phố Hà Nội: Vấn đề
đặt ra và giải pháp.”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh
26.
4. Nguyễn Viết Định (2020), “Di dân từ nông thôn đến thành thị – Một số
khuyến nghị chính sách.”, Quản lý nhà nước
https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/12/22/di-dan-tu-nong-thon-den-thanh-
thi-mot-so-khuyen-nghi-chinh-sach/.
5. Thảo Nguyên (2019), “Hà Nội trước áp lực gia tăng dân số.”, Kinh Tế đô
thị, https://kinhtedothi.vn/ha-noi-truoc-ap-luc-gia-tang-dan-so.html.
6. TS. Phạm Quý Thọ (2000), Mối quan hệ giữa di dân nông thôn - Hà Nội với

vấn đề việc làm và mức sống.


7. Cổng thông tin điện tử Bộ Xây Dựng, Di dân và vấn đề nhà ở di dân tại

thành phố Hà Nội thực trạng và giải pháp.


8. Đoàn Văn Trường (2022), “Chuyển dịch cơ cấu lao động dưới tác động của
quá trình di cư lao động.” Tạp chí Lý luận chính trị.
9. Tổng cục thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2015), Điều tra di cư nội
địa quốc gia năm 2015: Các kết quả chủ yếu. Nhà xuất bản Thông Tấn, Hà
Nội.
10.Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2021, Nhà xuất
bản Thống kê.
11.Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2021), Nghiên cứu vấn đề về
giới trong di cư trong nước và tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.

51
52

You might also like