Professional Documents
Culture Documents
Khu vực kinh tế nhà nước đóng góp 38,4% của GDP.
Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% tỷ lệ GDP.
Hợp tác và hợp tác xã đóng góp 6,8% vào GDP.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 15,9% của GDP.
Như vậy, việc phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không chỉ là sự sáng tạo lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là việc lựa
chọn và xác định hướng phát triển trong thực tế, đánh dấu sự đổi mới của Việt
Nam. Tuy nhiên, việc xây dựng mô hình này là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp và
kéo dài theo thời gian, vì nó hoàn toàn mới mẻ, đòi hỏi sự đổi mới liên tục và còn
nhiều vấn đề lý luận cần nghiên cứu. Hy vọng rằng thực tế sẽ làm rõ các vấn đề
này và làm phong phú hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến tới chủ
nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam hiện nay.
2.3. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam hiện nay
Chính trị đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội và
quốc gia. Việc xử lý các vấn đề chính trị một cách khoa học và tinh tế không chỉ
đảm bảo ổn định chính trị mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, văn hóa và
xã hội, cũng như sự tiến bộ của con người và quốc gia. Chính trị lý tưởng hướng
đến xây dựng một xã hội nhân đạo và tiến bộ, với văn hóa chính trị đúng nghĩa.
Đảng luôn đặt sự xây dựng Đảng là ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo lãnh đạo
quốc gia và đối mặt với các thách thức, Đảng cần có đội ngũ cán bộ chất lượng,
có văn hóa chính trị cao và khả năng thực hiện nhiệm vụ chính trị một cách có
trách nhiệm. Để đạt được điều này, Đảng tiến hành các biện pháp để đổi mới và
cải cách tổ chức Đảng, xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sáng, duy trì đoàn kết
và uy tín của Đảng trong tâm hồn của nhân dân. Văn hóa chính trị tiến bộ đã bám
trụ và giúp loại bỏ quan liêu, tham nhũng, xa hoa và lãng phí.
Trong những năm gần đây, Đảng đã tiến hành các biện pháp đổi mới và cải
cách Đảng, duy trì sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong tâm hồn của nhân dân.
Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, tại
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta chỉ rõ: “Nghị quyết
Trung ương 4 khoá XII về xây dựng Đảng đã được triển khai thực hiện nghiêm
túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột
phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà
nước và chế độ...”
Một trong những bài học kinh nghiệm quý báu được đánh giá, tổng kết trong
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà
nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”. Nhân dân là trung tâm,
là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương;
chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng và lợi ích chính
đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, chế độ XHCN. Nhờ đó, mở rộng và nâng cao hệ thống chính trị và xã hội;
tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của
nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước.
Tôn trọng ý kiến của nhân dân, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội
và thúc đẩy sự đổi mới quan trọng. Để nhận thức đúng và giải quyết tốt những
vấn đề thực tiễn, Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng từ trung ương đến
địa phương hoạch định đúng đắn đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng,
phát triển đất nước đúng hướng, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu; giữ vững
những thành tựu đã đạt được, vượt qua khó khăn và thách thức, thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở ra con đường bước vào kỷ nguyên toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức.
Hiện nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế
tri thức đã và đang làm cho các quốc gia, dân tộc vận động, biến đổi. Các thành
tựu và nỗ lực trong hội nhập quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển của nước ta. Thời
cơ, vận hội đã và đang đến với từng quốc gia, dân tộc và đang mở ra cho quốc
gia, dân tộc đi tới và phát triển. Đảng cần tiếp tục phát huy những thành tựu này
để xây dựng một xã hội đạo đức và văn minh.
2.4. Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan trên lĩnh vực văn hóa, xã hội ở Việt Nam hiện nay
Phát triển lĩnh vực văn hóa-xã hội luôn giữ một vị trí quan trọng trong
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nguyên
tắc phát triển lĩnh vực văn hóa-xã hội ở nước ta dựa trên việc tôn trọng khách
quan và khai thác tính năng động chủ quan. Xem xét áp dụng nguyên tắc này
vào nhiều khía cạnh, ta có thể nhấn mạnh một số trọng điểm sau:
- Thứ nhất, về khía cạnh tôn trọng khách quan, vật chất quyết định ý thức,
chúng ta thấy rằng sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế đã ảnh hưởng đến cơ cấu xã
hội. Điều này đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các tầng lớp xã hội và tạo ra
các biến đổi xã hội đáng kể tại Việt Nam sau đổi mới.
Trước năm 1986, do chủ chương đẩy mạnh cải tạo tất cả các thành phần kinh
tế gọi là xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xây dựng nền kinh tế “thuần nhất”
dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức quốc
doanh và tập thể, kéo theo sự ra đời của cơ cấu xã hội đơn giản, gồm giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, và tầng lớp trí thức xuất thân từ công nông. Giản
lược trong thành phần, cơ cấu dẫn tới sự thiếu hụt trong chính sách hưởng lợi
ích và thực hiện nghĩa vụ trong xã hội. Do đó, cơ cấu xã hội được hình thành
dựa trên một lối tư duy chủ quan, không phản ánh đúng thực tế xã hội và làm
hạn chế trong việc thực hiện chính sách xã hội.
Khi chuyển sang thời kì mới, cùng với quá trình nền kinh tế thị trường nhiều
thành phần, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh
tế tri thức thì cơ cấu xã hội đã biến đổi theo hướng ngày càng phong phú hơn.
Việc này phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Đảng và nhà nước về sự đa dạng
của tầng lớp xã hội. Cơ cấu xã hội không chỉ bao gồm các giai tầng xã hội, mà
còn bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau như cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã
hội - tôn giáo, cơ cấu xã hội - lao động - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - nhân khẩu.
Ngay trong từng giai tầng xã hội cũng diễn ra sự phân tầng về nghề nghiệp, trình
độ học vấn, chuyên môn và thu nhập. Có cả những nhóm vượt trội và nhóm yếu
thế.
Thực tế đã chứng minh, sự biến đối của cơ cấu giai tầng xã hội đã có tác
dụng cho từng người, từng gia đình phải khai thác mọi tiềm năng kinh tế, lao
động, kĩ thuật, kinh nghiệm để lo cho cuộc sống bản thân, gia đình và góp phần
xây dựng đất nước. Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê, đã có khoảng
80 - 85% gia đình tự đánh giá có mức sống khá lên so với trước. Tổng sản phẩm
quốc nội tính bình quân đầu người đã tăng từ 200 USD năm 1990 lên 835 USD
năm 2007. Đặc biệt, khi xét về các giai cấp, giai tầng trong nền kinh tế thị
trường, sự hình thành tầng lớp (hay đội ngũ) doanh nhân là một tất yếu tự nhiên
và làmột xu hướng tích cực đối với phát triển, tôn trọng yêu cầu khách quan của
thực tế. Đại hộilần thứ X đã ghi nhận các doanh nhân được phép phát triển kinh
doanh “không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”1.
Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng cả về kinh tế và xã hội, và tăng lên
một cách nhanh chóng. Năm 2011, Việt Nam có trên 600.000 doanh nghiệp, 1
triệu hộ kinh doanh cá thể, 133.000 hợp tác xã và trang trại, có tới khoảng 3
triệu hộ kinh doanh cá thể hoạt động trong khu vực không chính thức không
đăng ký kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế theo quy định. Cơ cấu kinh tế
thị trường định hướng cơ cấu xã hội đã góp phần giải phóng sức sản xuất, đẩy
mạnh lao động, vị thế và vai trò của người lao động, doanh nghiệp và doanh
nhân… Đồng thời, các chính sách xã hội được mở rộng và cải thiện dựa trên sự
thay đổi về cơ cấu xã hội, tăng quyền tự chủ, đảm bảo quyền lợi cho các thành
phần xã hội như: có các chính sách quan tâm tới các đối tượng yếu thế, thua
thiệt; các thể chế pháp lý đảm bảo cho sự phát triển kinh tế định hướng vào phát
triển một xã hội có tăng trưởng cao đi liền với công bằng xã hội: Luật Lao động,
Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật thuế… Chính sách kinh tế và chính sách xã hội
gắn liền với nhau, tạo ra sự thống nhất giữa kinh tế - xã hội, vì mục tiêu phát
triển con người và xã hội, cá nhân và cộng đồng.
Việc đổi mới cơ cấu xã hội ở Việt Nam cũng thể hiện tính năng động chủ
quan khi các doanh nhân trở nên quan trọng hơn trong tình hình hội nhập quốc
tế. Sự tham gia tích cực của các thành phần xã hội trong phát triển kinh tế cũng
là một ví dụ cho sự khai thác đầy đủ và chủ quan trong quá trình đổi mới xã hội.
- Thứ hai, Đảng và nhà nước đã thừa nhận vai trò quan trọng của giáo dục
trong quá trình đổi mới đất nước. Các biện pháp đổi mới giáo dục đã đạt được
những thành tựu bước đầu. Kinh phí ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo đã
tăng lên trên 20% tổng ngân sách, và đã có sự huy động nguồn lực xã hội để
phát triển giáo dục. Quy mô giáo dục tiếp tục mở rộng và đến năm 2010, tất cả
các tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn về phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ
người lao động qua đào tạo đã tăng lên, đạt 40% tổng số lao động đang làm việc.
Hiện tại, có hơn 1,8 triệu người sở hữu trình độ đại học và cao đẳng, với số
lượng tiến sĩ và thạc sĩ đang tăng lên. Quản lý khoa học và công nghệ có sự đổi
mới, và thị trường khoa học và công nghệ bắt đầu hình thành. Đầu tư vào lĩnh
vực này cũng được tăng cường.
Giáo dục đóng góp quan trọng vào việc xây dựng con người theo hướng xã
hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho sự phát huy tính năng động chủ quan của con
người. Quan điểm đề cao con người là trung tâm và chủ thể phát triển đã được
Đảng khẳng định tại Đại hội XI (tháng 1-2011). Con người trong xã hội chủ
nghĩa, phát huy tính năng động chủ quan cùng với tôn trọng khách quan mở
khóa cho sự thành công trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://www.tailieudaihoc.com/3doc/2417098.html
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, X, XI, XIII
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát
huy tính
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát
huy tính năng động chủ quan
Các bài viết, bài báo của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về vấn đề này
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
Báo tạp chí Cộng Sản