You are on page 1of 13

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN


CHUYÊN ĐỀ: TÂM LÝ DẠY HỌC ĐẠI HỌC

Họ và tên: Nguyễn Thị Ánh Nguyệt


Ngày sinh: 21/07/1993
Nơi sinh: Nghệ An
Đơn vị công tác:

Năm 2024

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐH-CĐ : Đại học – Cao đẳng
ĐH: Đại học
PTTH : Phổ thông trung học
KHCN : Khoa học công nghệ
SV: Sinh viên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://tailuanvan.com/mot-so-dac-diem-tam-ly-cua-sinh-vien.html
2. https://nls.hcmuaf.edu.vn/contents.php?
ids=14782&ur=nls&lng=vn&title=mot-so-dac-diem-tam-ly-co-ban-cua-
sinh-vien
3. https://tailuanvan.com/mot-so-dac-diem-tam-ly-cua-sinh-vien.html
4. Theo tài liệu Tâm lý học Đại Học của trường Đại Học Giáo Dục Đại Học Quốc
Gia Hà Nội
Câu 1: Anh/Chị hãy trình bày khái quát về những đặc điểm tâm lý của sinh viên
và làm rõ những đặc điểm hoạt động cơ bản của sinh viên?

1. Những đặc điểm tâm lý của sinh viên


Về phương diện xã hội, sinh viên cũng giống thanh niên học sinh là nhóm
người chưa ổn định, còn phụ thuộc về địa vị xã hội do chưa thực sự tham gia
vào guồng máy sản xuất của xã hội.Vì vậy, đặc điểm tâm lí của họ có phần
khác so với thanh niên cùng lứa tuổi nhưng đã có việc làm ổn định và trưởng
thành về nghề nghiệp.

Những đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên bị chi phối bởi những đặc
điểm phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ
sống và hoạt động.Đây là một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho
việc tham gia vào cuộc sống tinh thần của xã hội.Những đặc điểm phát triển
tâm lý ở những thanh niên sinh viên rất phong phú đa dạng và không đồng đều.

1.1 Tính tự chủ và tự quản

SV thường có xu hướng muốn tự quản lý cuộc sống và học tập của mình.
Họ muốn tự chủ trong việc lên kế hoạch, tự thực hiện và tự đánh giá kết
quả.

1.1.1 Tự quản lý thời gian

SV tự chủ và tự quản cần có khả năng lập kế hoạch và sắp xếp thời
gian một cách hiệu quả. Điều này bao gồm việc ưu tiên công việc và
tối ưu hoá thời gian học tập

1.1.2 Quản lý tài chính

SV cần tự chủ trong việc quản lý tài chính cá nhân, từ việc quản lý
chi tiêu hàng ngày đến việc học phí, chi phí sinh hoạt

1.1.3 Tự chủ trong học tập

Bao gồm việc SV tự chủ trong việc xác định mục tiêu học tập của
mình và phát triển kế hoạch để đạt được những mục tiêu đó

Hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của sinh viên có
những nét đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với các lứa tuổi trước đó.Để
hoạt động học tập có kết quả, trong thời gian đầu ở trường ĐH-CĐ, sinh viên
phải thích nghi với hoạt động học tập, hoạt động xã hội cũng như các sinh hoạt
trong đời sống tập thể sinh viên. Quá trình thích nghi này tập trung chủ yếu ở
các mặt:

– Nội dung học tập mang tính chuyên ngành.

– Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học.

– Môi trường sinh hoạt mở rộng phạm vi quốc gia, thậm chí quốc tế

– Nội dung và cách thức giao tiếp với thầy, cô giáo, bạn bè và các tổ chức xã
hội phong phú, đa dạng v.v…

Bản chất hoạt động nhận thức của những người sinh viên trong các trường ĐH
– CĐ là đi sâu, tìm hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể
một cách chuyên sâu để nắm được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp, qui luật
của các khoa học đó, với mục đích trở thành những chuyên gia về các lĩnh vực
nhất định. Hoạt động nhận thức của họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ
thống những thành tựu đã có, mặt khác lại phải tiệm cận với những thành tựu
của khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời sự. Chính vì vậy, nét đặc trưng
cho hoạt động học tập của sinh viên là sự căng thẳng nhiều về trí tuệ, sự phối
hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa,
khái quát hóa .

Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học,
những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách của
người chuyên gia tương lai.Hoạt động nhận thức của họ vừa gắn kết chặt chẽ
với nghiên cứu khoa học, vừa không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người
chuyên gia.

– Hoạt động học tập của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích,
nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp đào tạo theo thời gian một
cách chặt chẽ nhưng đồng thời không quá bị khép kín, quá câu nệ mà lại có tính
chất mở rộng khả năng theo năng lực, sở trường để họ có thể phát huy được tối
đa năng lực nhận thức của mình trong nhiều lĩnh vực. Phương tiện hoạt động
nhận thức của sinh viên được mở rộng và phong phú với các thư viện, phòng
đọc, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa học cần thiết
của từng ngành đào tạo. Do đó phạm vi hoạt động nhận thức của sinh viên đa
dạng: vừa rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, vừa phát huy việc học nghề
một cách rõ rệt.

Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo cao.
Hoạt động tư duy của sinh viên trong quá trình học tập chủ yếu là theo hướng
phân tích, diễn giải, chứng minh các định đề khoa học.
Tóm lại hoạt động nhận thức của sinh viên thực sự là loại hoạt động trí tuệ đích
thực, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt.Hoạt động trí tuệ này vẫn
lấy những sự kiện của các quá trình nhận thức cảm tính làm cơ sở. Song các thao
tác trí tuệ đã phát triển ở trình độ cao và đặc biệt có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế
và uyển chuyển, linh động tùy theo từng hoàn cảnh có vấn đề. Bởi vậy đa số sinh
viên lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén những vấn đề mà thầy, cô giáo trình bày.Họ
thường ít thỏa mãn với những gì đã biết mà muốn đào sâu, suy nghĩ để nắm vấn đề
sâu hơn, rộng hơn .

Theo B.G.Ananhev và một số nhà tâm lý học khác, tuổi sinh viên là thời kỳ
phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ,
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ.Những tình cảm này biểu hiện rất phong
phú trong hoạt động và trong đời sống của sinh viên.Đặc điểm của nó là tính có
hệ thống và bền vững so với thời kỳ trước đó.Hầu hết sinh viên biểu lộ sự chăm
chỉ, say mê của mình đối với chuyên ngành và nghề nghiệp đã chọn. Để thỏa
mãn tình cảm trí tuệ, họ học tập không chỉ ở giảng đường và thư viện trường
ĐH mà còn mở rộng và đào sâu kiến thức của mình bằng nhiều cách: học thêm
ở khoa khác, trường khác, tìm đọc ở nhiều thư viện, học trên các phương tiện
truyền thông v.v…. Chính tình cảm trí tuệ này làm cho lượng tri thức mà sinh
viên tích lũy được thường rất lớn, vượt xa những sinh viên không có loại tình
cảm này về mọi mặt

Hơn ai hết sinh viên là người yêu vẻ đẹp thể hiện ở hành vi phong thái đạo đức,
cũng như vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật hiện tượng của thiên nhiên hoặc con
người tạo ra. Khác với những lứa tuổi trước, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ ở tuổi sinh viên biểu lộ một chiều sâu rõ rệt.Họ yêu thích cái gì họ đều có
thể lý giải, phân tích một cách có cơ sở. Cá biệt có những sinh viên đã xây dựng
được “triết lý” cho cái đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định. Điều này lý
giải tại sao ở độ tuổi này sinh viên đã có cách cảm, cách nghĩ riêng, có phong
cách kiến trúc, hội họa, điêu khắc riêng v.v….

1.1.4 Tự quản lý sức khoẻ và cân đối cuộc sống

Tự quản lý sức khoẻ và cân đối cuộc sống không chỉ giúp sinh viên duy trì
sức khoẻ tốt mà còn giúp họ có thể hoàn thiện tốt hơn trong học tập và công
việc. Đây là một phần quan trọng của quá trình phát triển cá nhân.

SV cần phải chú ý đến việc duy trì một lối sống lành mạnh bằng việc ăn
uống cân đối, tập luyện thể dục thể thao đầy đặn và ngủ đủ giấc. Việc này
giúp SV cải thiện sức khoẻ vật lý và tinh thần làm tang hiệu suất học tập.

SV thường phải đối mặt với áp lực từ học tập, công việc và cuộ sống cá
nhân. Việc học cách quả lý căng thẳng và xử lý áp lực một cách hiệu quả là
rất quan trọng để duy trì sức khoẻ tinh thần.
SV cũng cần phải tự chủ trong việc xử lý những thói quen xấu tiêu cực như
hút thuốc, uống rượu và sử dụng chất kích thích. Việc này đảm bảo họ có
một cuộc sống lành mạnh không bị ảnh hưởng bởi các hậu quả tiêu cực của
những thói quen này.

SV cần phải biết cân đối giữa việc học tập và giải trí. Mặc dù học tập là
quan trọng, nhưng thời gian giải trí cũng đóng vai trò quan trọng trong việc
giảm căng thẳng giữ cho tinh thần luôn tỉnh táo và sảng khoái.

1.1.5 Tự quản lý mối quan hệ xã hội

Tình bạn cùng giới, khác giới ở tuổi sinh viên tiếp tục phát triển theo chiều sâu.
Những bạn bè thời trung học phổ thông vẫn tiếp tục chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống sinh viên. Nhiều sinh viên mặc dù lên ĐH – CĐ, không còn
được hằng ngày gần gũi, tiếp xúc với bạn mình thời PTTH, nhưng họ vẫn giữ
tình bạn đẹp đẽ, sâu sắc và thường tìm mọi cơ hội để liên lạc với bạn mình. Ở
nhiều sinh viên, tình bạn này là mãi mãi.Bên cạnh đó, chính trong những năm ở
trường ĐH – CĐ, sinh viên lại có thêm những tình bạn mới không kém phần
bền vững sâu sắc.Tình bạn ở tuổi sinh viên đã làm phong phú thêm tâm hồn,
nhân cách của sinh viên rất nhiều

Bên cạnh tình bạn, tình yêu nam nữ ở tuổi sinh viên là một lĩnh vực rất đặc
trưng.Loại tình cảm này có mầm mống ở giai đoạn dậy thì, có sự thể nghiệm ở
giai đoạn đầu tuổi thanh xuân và đến thời kỳ này thì phát triển với một sắc thái
mới.Như phần trên đã trình bày, sinh viên là lứa tuổi phát triển một cách toàn
diện, hoàn thiện và hoàn mĩ về thể chất cũng như tư tưởng, tinh thần. Họ bước
vào lĩnh vực của tình yêu nam nữ với một “tư thế” hoàn toàn khác với lứa tuổi
trước đó do vị thế xã hội, trình độ học lực và tuổi đời qui định. Song loại tình
cảm này cũng không thể hiện đồng đều ở sinh viên.Điều này lại tùy thuộc vào
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc vào quan niệm và kế hoạch đường
đời của mỗi người.

Nhân cách của thanh niên sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú. Sau
đây chỉ xin nêu những đặc điểm đặc trưng nhất:

– Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên.

Tự đánh giá (self evaluation) là một trong những phẩm chất quan trọng, một
trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều
chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt mục đích, lý tưởng sống một
cách tự giác. Nó giúp con người không chỉ biết người mà còn “biết mình”. Tự
đánh giá ở tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận
thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về
chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ
hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và
phát triển…
Đặc điểm tự đánh giá ở sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc.Biểu hiện
cụ thể của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình có tính
chất bên ngoài, hình thức mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân
cách. Tự đánh giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi: Tôi là ai? mà còn: Tôi là
người thế nào? Tôi có những phẩm chất gì?Tôi có xứng đáng không?v.v… Hơn
thế họ còn có khả năng đi sâu lý giải câu hỏi: Tại sao tôi là người như thế?
Những cấp độ đánh giá ở trên mang yếu tố phê phán, phản tỉnh rõ rệt.Vì vậy, tự
đánh giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức, tự giáo dục.

Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết
về thái độ, hành vi, cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo
những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội.

Một số kết quả nghiên cứu tự ý thức, tự đánh giá ở sinh viên cho thấy: mức độ
phát triển của những phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực
cũng như kế hoạch sống trong tương lai của sinh viên. Những sinh viên có kết
quả học tập cao thường chủ động, tích cực trong việc tự nhìn nhận, tự đánh giá,
tự kiểm tra hành động, thái độ cư xử, cử chỉ giao tiếp để hướng tới những thành
tựu khoa học, lập kế hoạch học tập, nghiên cứu khoa học một cách cụ thể nhằm
tự hoàn thiện ngày càng cao. Còn những sinh viên có kết quả học tập thấp dễ tự
đánh giá không phù hợp.Có những sinh viên tự đánh giá mình quá cao, thường
bị động trong học tập, nhu cầu giao tiếp thường mạnh hơn nhu cầu nhận
thức.Hoạt động của họ hướng chủ yếu vào các quan hệ.Ngược lại có một số
sinh viên đánh giá mình quá thấp, thường bi quan trước kết quả hoạt động hoặc
thụ động trong quan hệ giao tiếp với bạn bè.Họ ít phấn đấu vươn lên trong học
tập nên việc tự giáo dục, tự hoàn thiện đạt mức thấp.

Tự đánh giá về mức độ trí tuệ là thành phần quan trọng trong tự ý thức, tự giáo
dục ở sinh viên: Những sinh viên đánh giá mình quá thấp về mặt này thường
gây khó khăn cho họ trong quá trình học tập. Vì vậy cần giúp những sinh viên
này thay đổi sự tự đánh giá ở mức lạc quan, tự tin hơn là điều rất cần thiết. Điều
này sẽ làm thay đổi thái độ chung đối với bản thân người sinh viên. Nhờ đó
lòng tự tin, tính tự trọng phát triển theo chiều hướng tốt, tạo điều kiện cho sự
vươn lên trong học tập và phấn đấu, rèn luyện nhân cách

Tóm lại, những phẩm chất nhân cách: tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự tự ý
thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Chính những phẩm chất nhân
cách bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản
thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai.

– Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên

Định hướng giá trị là một trong những lĩnh vực rất cơ bản, quan trọng đối với
đời sống tâm lý của người sinh viên.Có rất nhiều quan niệm khác nhau về định
hướng giá trị.Song có thể nêu những nét cơ bản sau đây về khái niệm định
hướng giá trị.
Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá
cao, có ý nghĩa định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể
nhằm vươn tới những giá trị đó. Ví dụ: những giá trị về chân, thiện, mĩ đã định
hướng cho sự phấn đấu của loài người trong bao nhiêu thế kỷ. Giá trị hòa bình,
độc lập dân tộc, tự do, chủ nghĩa xã hội đã là những định hướng giá trị cho bao
thế hệ thanh niên Việt Nam….

Định hướng giá trị có nhiều tầng bậc, phạm vi khác nhau. Có những giá trị là
định hướng cho một quốc gia, một thế hệ, cũng có những định hướng giá trị có
phạm vi hẹp chỉ trong một nhóm nào đó. Định hướng giá trị có tính bền vững
tương đối là một khái niệm động, không phải bất biến nên có thể thay đổi tùy
theo hoàn cảnh, điều kiện kinh tế chính trị, xã hội.

Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên, đầu tuổi thanh niên
khi họ phải đứng trước việc chọn nghề, chọn các chuyên ngành khác nhau trong
việc thi vào các trường ĐH – CĐ. Những nghiên cứu về định hướng giá trị của
chương trình KHCN cấp Nhà nước, với đề tài KX-07-04 của một số tác giả (1)
cho thấy trong hệ thống các giá trị chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao các
giá trị: hòa bình, tự do, tình yêu, công lý, việc làm, niềm tin, gia đình, nghề
nghiệp, tình nghĩa, sống có mục đích, tự trọng .

Về những định hướng giá trị đối với nhân cách, đa số sinh viên đã chọn và nhấn
mạnh các phẩm chất sau đây ngoài những giá trị chung khác: có tư duy kinh tế,
biết tính toán hiệu quả, năng động, nhanh thích nghi với hoàn cảnh, sử dụng
thành thạo tiếng nước ngoài, dám nghĩ, dám làm, chấp nhận mạo hiểm.

Những định hướng giá trị nghề nghiệp được sinh viên lựa chọn là: biết xây
dựng cuộc sống gia đình hoà thuận, nghề có thu nhập cao, nghề phù hợp sức
khoẻ, trình độ, nghề phù hợp hứng thú, sở thích, nghề có điều kiện chăm lo gia
đình,…[1]

Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và
kế hoạch đường đời của họ.Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý
tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực, được điều chỉnh trong quá
trình học tập ở trường ĐH. Tính viển vông, huyễn tưởng của những điều trừu
tượng xa vời nhường chỗ cho kế hoạch đường đời cụ thể do việc học để trở
thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Sinh viên không chỉ đặt
ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó theo
những giai đoạn nhất định. Họ ấn định cụ thể bao giờ thì học xong chứng chỉ tin
học, ngoại ngữ và những bằng khác.Nhiều sinh viên ngay từ khi ngồi trên ghế
giảng đường ĐH đã có kế hoạch riêng về nhiều mặt để đạt được mục đích cuộc
đời của mình.Họ không ngần ngại tìm việc làm thêm để thỏa mãn những yêu
cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành nghề sau
này.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên,
trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một
cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với
các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình
cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu
cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử
thách. Song, do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong
việc chọn lọc, tiếp thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt
động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên [2].
Những đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên bị chi phối bởi những đặc điểm
phát triển thể chất, môi trường và vai trò xã hội cụ thể mà trong đó họ sống và hoạt
động.Đây là một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị trực tiếp cho việc tham gia
vào cuộc sống tinh thần của xã hội.Những đặc điểm phát triển tâm lý ở những
thanh niên sinh viên rất phong phú đa dạng và không đồng đều [3].
2. Những đặc điểm hoạt động cơ bản của sinh viên
Những đặc điểm hoạt động cơ bản của sinh viên bao gồm các hoạt động mà họ
thực hiện trong quá trình học tập và cuộc sống hằng ngày.
- Tham gia lớp học và hoạt động ngoại khoá.
- Tìm kiếm và nghiên cứu thông tin
- Chuẩn bị bài tập và các kỳ thi.
- Thực hiện dự án và các bài tập nhóm.
- Tham gia vào các hoạt động xã hội và văn hoá trường học.
- Tìm kiếm cơ hội thực tập và làm việc part-time.
- Tìm kiếm xây dựng mối quan hệ xã hội trong và ngoài trường ĐH.
Kiểu nhân cách sinh viên là sự phân loại nhân cách sinh viên dựa trên tổ hợp các xu
hướng phát triển và định hình nhân cách của họ.
Các nhà xã hội học Mỹ đề xuất bốn kiểu thái độ của sinh viên đối với học tập như sau:
Kiểu “W”: Họ học vì nghề nghiệp tương lai hẹp, không quan tâm đến các
lĩnh vực tri thức và hoạt động xã hội khác. Họ chỉ thực hiện bài tập theo yêu
cầu, chỉ cần
đạt điểm trung bình; ngoài sách bắt buộc, họ chỉ đọc theo ý thích không liên quan
đến sự phát triển nghề nghiệp.
Kiểu “X”: Là những sinh viên thích những môn học mà họ coi là những tri thức về
cuộc sống nói chung trên cơ sở lựa chọn riêng của cá nhân. Họ quan tâm đến thế
giới tư tưởng và sách. Ngoài giờ học bắt buộc, họ tự nguyện tham gia vào các
chuyên đề tự chọn, những giờ học phụ đạo, các buổi hoà nhạc v.v..., họ muốn hiểu
biết những lĩnh vực mà họ quan tâm, họ chỉ tham gia vào các tổ chức khoa học, né
tránh các tổ chức tập thể, các công việc xã hội không liên quan trực tiếp đến việc
học tập. Đối với họ, việc học đại học là để thoả mãn lòng khao khát tri thức và
kinh nghiệm sống.
Kiểu “Y”: Là những sinh viên “nhang nhác” với kiểu “X”, mặc dù cũng ham
thích sách vở và học tập nhưng vẫn tham gia các hình thức hoạt động và đời
sống tập
thể. Họ cố gắng đạt điểm cao trong các kỳ thi, coi hoạt động tập thể, tuy không
phải là cơ bản, nhưng có ảnh hưởng tích cực đến cá nhân họ.

Kiểu “Z”: Những sinh viên thuộc kiểu này chú ý đến các hoạt động xã hội của
trường đại học hơn bản thân các khoa học. Họ gắn bó với trường, tham gia tích cực
vào các hoạt động bề nổi. Đối với họ, thời sinh viên không chỉ có nghĩa là thời của
giảng đường, mà còn là thời của các câu lạc bộ, các tổ chức sinh viên...Họ cũng
phái cố để có mảnh bằng nhưng ít khi vượt quá ngưỡng tối thiểu.
Một cách phân loại khác dựa trên bốn tiêu chuẩn cơ bản như sau: (a) Thái độ đối
với học tập; (b) Tính tích cực chính trị, xã hội, khoa học; (c) trình độ hiểu biết tổng
quát (generale connaissance); (d) Tinh thần tập thể. Từ đó, các tác giả Xô Viết cũ đề
xuất 6 kiểu nhân cách sinh viên như sau:
- Kiểu 1: Là những sinh viên “kiệt xuất” khi đối chiếu với bốn tiêu chí nói trên, nói
cách khác, đây là nhóm ưu tú nhất.
- Kiểu 2: Là những sinh viên có kết quả học tập vào loại “khá”, coi việc có được một
nghề nào đó là mục đích duy nhất của việc học tập. Họ quan tâm đến các khoa học
trong khuôn khổ chương trình. Nhiệt tình hoạt động xã hội, gắn bó với tập thể, đối xử
tốt với bạn bè.
- Kiểu 3: Là những sinh viên học xuất sắc. Xem khoa học là phạm vi chủ yếu của hứng
thú và hoạt động. Gắn bó với tập thể thông qua các hoạt động khoa học. Không tự
nguyện tham gia các hoạt động quần chúng.
- Kiểu 4: Sức học trung bình khá, thích các khoa học ngoài chương trình, ít thường
xuyên tham gia nghiên cứu khoa học; văn hoá chung hạn chế; đặc biệt tích cực, say
mê trong công tác xã hội và đời sống tập thể.
- Kiểu 5: Học trung bình, khá. Coi chuyên môn và văn hoá là lĩnh vực hứng thú chủ
yếu nhưng ít tham gia tích cực. Miễn cưỡng tham gia các hoạt động xã hội; gắn bó với
tập thể bởi những hứng thú cá nhân có tính giải trí và văn nghệ; có khả năng sáng tạo
văn hoá nghệ thuật.
- Kiểu 6: Học kém. Học vì “mốt”, không yêu nghề; thụ động tham gia các công tác xã
hội, coi nghỉ ngơi giải trí là lĩnh vực chủ yếu của hứng thú và hoạt động; gắn bó với
tập thể cũng chỉ ở phương diện này.[4,tr34,35]
Câu 2: Anh/Chị hãy trình bày những vấn đề trong giao tiếp sư phạm đại học. Liên hệ
với thực tế bản thân, Anh Chị đã tiến hành giao tiếp với người học như thế nào và làm
thế nào để quá trình giao tiếp đó được diễn ra thuận lợi?

Giao tiếp sư phạm đại học cần có tính mô phạm, sự đồng cảm, tôn trọng và cả thiện
chí trong giao tiếp. Nếu thiếu một trong các vấn đề trên quá trình giao tiếp sư phạm đại
học khó có thể thuận lợi.

- Thiếu sự tương tác và sự quan tâm từ SV có thể xảy ra khi sv không hứng thú
hoặc không tham gia tích cực trong quá trình học tập, dẫn đến việc giao tiếp
không hiệu quả. Giải pháp đó là tạo điều kiện thuận lợi để kích thích sự tương
tác và tham gia của sv bằng cách sử dụng các phương pháp dạy học linh hoạt
và thú vị, khuyến khích hỏi đáp thảo luận nhóm.
- Thiếu kỹ năng giao tiếp của giảng viên giảng dạy có thể dẫn đến hiểu lầm, mất
hiệu quả trong việc truyền đạt thông điệp hoặc khó khăn trong việc tạo ra một
môi trường học tập tích cực. Giải pháp đưa ra đó là tham gia vào các khoá học,
chương trình huấn luyện hoặc tìm kiếm hỗ trợ từ các chuyên gia có thể giúp
cải thiện kỹ năng giao tiếp.
- Thiếu sự đồng thuận và sự hiểu biết về mục tiêu giáo dục có thể dẫn đến
những hiểu lầm và mất mát trong quá trình học tập. Giải pháp đó là tạo cơ hội
cho giảng viên và sv thảo luận và làm rõ về mục tiêu giáo dục, cũng như tham
gia vào việc đề xuất và định hình các mục tiêu cụ thể cho mỗi bài học hoặc
khoá học.

Bên cạnh đó giao tiếp sư phạm đại học cũng cần phải chú trọng việc tôn trọng sinh
viên : sinh viên là lớp thanh thiếu niên với nhiều tính cách nhau, dôi khi có cả sự bốc
đồng thiếu kiên nhẫn, có cả sự tự tôn, cái tôi,..v…. Trong quá trình giao tiếp sư phạm
đại học nên chấp nhận sự khác biệt của các sinh viên, không áp đặt, xúc phạm và càng
phải biết lăng nghe, thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông…đặc biệt làm chủ hành vi, cảm xúc
bản thân nhưng cũng cần thể hiện sự yêu cầu sinh viên tôn trọng mình.

Giao tiếp sư phạm đại học cũng cần đánh giá sinh viên theo hướng đề cao mặt tích cực
nhưng cũng động viên, khích lệ có định hướng, thay đổi các mặt tiêu cực, luôn cư xử
bình đẳng, không thiên vị, không thành kiến, trù dập….đó là thiện chí trong giao tiếp
sư phạm đại học.

Mặt khác sinh viên đang trong lứa tuổi trưởng thành với nhiều thay đổi bản thân và
tâm sinh lý, cần phải tinh tế nhạy cảm, đặt mình vào vị trí của sinh viên để thấu hiểu,
cảm thông, chia sẻ, đồng cảm và cũng là điểm tựa tin cậy cho sinh viên.

Trong quá trình công tác của tôi, mỗi khi ở trên giảng đường, tôi gặp rất nhiều sinh
viên khác nhau với những tính cách, suy nghĩ, cảm xúc cá nhân khác nhau. Tất cả tạo
nên một tập thể sinh viên rất đa dạng nhưng lại cũng rất đồng nhất. Là giảng viên, tôi
luôn cố gắng thay đổi để tạo ra một môi trường học tập thoải mái và tích cực, khuyến
khích sự tương tác và thảo luận. Đặt mình vào từng vị trí các em sinh viên, chỉa sẻ về
cá nhân tôi trước để có thể nhận lại những tâm tư từ các em, từ đó tôi có thể đồng cảm
với những suy nghĩ, âu lo và cả chung vui cùng các em sinh viên. Tôi cũng cố gắng chỉ
bảo hết mình những gì tôi có như kiến thức, trải nghiệm, thể hiện phong cách trẻ trung,
không áp đặt, với các em để hoà mình vào lứa tuổi sinh viên. Tạo cơ hội cho các em
được chia sẻ ý kiến, đề xuất và phản hồi về quá trình học tập, liên tục đánh giá và điều
chỉnh phương pháp giao tiếp dựa trên phản hồi của các em từ đó rút ra kinh nghiệm
cho bản thân.

You might also like