You are on page 1of 44

Trường đại học Ngoại Ngữ - Tin Học TP.

HCM
Khoa du lịch - khách sạn

ĐỀ TÀI: NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA


NHO GIÁO VIỆT NAM

Thực hiện: Nhóm 5


GVHD: Trần Thị Ánh

Thành phố Hồ Chí Minh 3/2021


DANH SÁCH SINH VIÊN

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ

1 Trần Thị Bích Ngân 20DH170820

2 Quãng Thị Huỳnh Như 20DH171323

3 Lê Lâm Kim Huyền 20DH170994

4 Lê Thị Mai Nhi 20DH170825

5 Trần Phương Thùy 20DH171170

6 Nguyễn Hoàng Mỹ Hạnh 20DH171378


Nhận xét đánh giá
.....................................................................................................
.....................................................................................................
.....................................................................................................
.....................................................................................................
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO VÀ ĐIỀU KIỆN DU
NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về Nho giáo
1.1.1. Vài nét về Khổng Tử - người đặt cơ sở cho sự ra đời của Nho giáo
Khổng Tử (551 - 479 TCN), sống vào thời Xuân Thu. Ông tên là
Khâu, hiệu là Trọng Ni, người nước Lỗ (tỉnh Sơn Đông ngày nay). Ông là
một nhà tư tưởng lớn và là một nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc
cổ đại. Khổng Tử từng giữ một số chức quan lớn trong mấy năm nhưng ông
dành phần lớn thời gian của cuộc đời đi đến nhiều nước để trình bày chủ
trương chính trị của mình và mở trường để dạy học. Tương truyền rằng, số
học trò của Khổng Tử có tới 3000 người.
Về việc dạy học, Khổng Tử có năm tác phẩm kinh điển của Nho gia
bao gồm: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu được gọi chung là Ngũ kinh.
Tư tưởng của Khổng Tử gồm bốn mặt là triết học, đạo đức, chính trị
và giáo dục.
Về mặt triết học: Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc của vũ
trụ, do đó ông đã thể hiện một thái độ không rõ rệt về trời đất quỷ thần. Một
mặt, ông cho rằng trời chỉ là giới tự nhiên, trong đó bốn mùa thay đổi, trăm
vật sinh trưởng, nhưng mặt khác, ông lại cho rằng trời là một lực lượng có
thể chi phối số phận và hoạt động của con người, do đó con người phải sợ
mệnh trời. Đối với quỷ thần, một mặt Khổng Tử tỏ thái độ hoài nghi khi
nói rằng: “chưa biết được việc thờ người, làm sao biết được việc chết”;
nhưng mặt khác ông lại rất coi trọng việc cúng tế, tang ma và ông cho rằng
“tế thần xem như có thần”.
Về mặt đạo đức: Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn
mực để duy trì trật tự xã hội. Nội dung quan điểm đạo đức của Khổng Tử
bao gồm nhiều mặt như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng,… nhưng quan trọng
nhất vẫn là “nhân”.
Về đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương phải dựa vào đạo đức.
Ông nói: “ cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà
dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ.
Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân
sẽ biết liêm sỉ và thực lòng quy phục”. Nội dung của đức trị theo Khổng Tử
gồm ba điều: làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học
hành. Bên cạnh những chủ trương mang ít nhiều tính chất đổi mới, Khổng
Tử cũng có mặt bảo thủ. Ông cho rằng những quy chế, lễ nghi được đặt ra
từ thời Tây Chu là không được phép thay đổi.
Về giáo dục: Khổng Tử có những đóng góp quan trọng. Ông là người
đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Phương châm giáo
dục của Khổng Tử là “tiên học lễ hậu học văn1”. Phương châm giáo dục thứ

1
Khổng Tử nói: “Các trò vào phải hiếu với cha mẹ, ra phải kính mến các anh, nói năng phải thận trọng và thành
thực, yêu thương mọi người và gần gũi người có lòng nhân. Sau khi thực hành đầy đủ các điều nói trên thì dành sức
lực để học văn hóa”.
hai của Khổng Tử là “học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế”.
Trong quá trình dạy học, Khổng Tử rất coi trọng phương pháp giảng dạy.
Ông chú ý dẫn dắt học trò từng bước một để họ có thể suy nghĩ rút ra kết
luận. Ông còn tùy theo trình độ, tình cách từng học trò mà dùng những
phương pháp giảng dạy khác nhau.
Tóm lại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn và là nhà giáo dục lớn
của Trung Quốc cổ đại. Tuy nhiên, trong thời Xuân Thu, chủ trương chính
trị của ông chưa được các vua chư hầu chấp nhận.

Ảnh: Khổng Tử (551- 419 TCN)


Nguồn:https://www.google.com.vn/search?tbm=isch&q=%E1%BA%A3nh%20kh
%E1%BB%95ng%20t%E1%BB%AD#imgrc=8W11wVU-V7CHIM
1.1.2. Vài nét về Mạnh Tử và Đổng Trọng Thư - những người đã kế thừa và
phát huy học thuyết Nho giáo
1.1.2.1. Mạnh Tử (371-289 TCN)
Mạnh Tử là người nước Trâu (Sơn Đông ngày nay) là học trò của
Tử Tư (tức Khổng Cấp) cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa
và phát triển học thuyết Nho giáo thêm một bước.
Quan điểm triết học của Mạnh Tử trước hết biểu hiện ở lòng tin
vào mệnh trời. Mọi việc ở đời đều do trời quyết định.
Về đạo đức, tư tưởng Mạnh Tử có hai điểm mới:
- Một là, Mạnh Tử cho rằng đạo đức của con người là một yếu tố bẩm
sinh gọi là tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi mới sinh ra và được
biểu hiện ở bốn mặt nhân, nghĩa, lễ, trí. Trên cơ sở những biểu hiện đạo
đức bẩm sinh ấy, nếu được giáo dục tốt thì sẽ đạt đến chỗ cực thiện.
Ngược lại nếu không được giáo dục bản tính tốt sẽ mấy đi và tiêm
nhiễm tính xấu.
- Hai là, trong bốn biểu hiện đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử coi
trọng nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý đến lợi. Nếu từ vua quan
đến dân thường đều tranh nhau lợi thì nước sẽ nguy. Trái lại, chưa từng
thấy có người có “nhân” lại bỏ rơi người thân, chưa từng thấy người có
“nghĩa” lại quên vua.
Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và
thống nhất. Điểm nổi bật trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư
tưởng quý dân.2 Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của Mạnh
Tử là thống nhất. Bên cạnh việc chăm lo đời sống của nhân dân, Mạnh
Tử chủ trương phải chú ý mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn mà
trước hết là để dạy cho học sinh cái nghĩa, hiếu, lễ.
Như vậy, trong đường lối trị nước của Mạnh Tử có những đề xuất
rất đáng trân trọng, nhưng thời Chiến Quốc là thời kì đang diễn ra cuộc
chiến tranh để thôn tính lẫn nhau nên chủ trương của Mạnh Tử bị coi là
viễn vông không sát thực tế, do đó cũng không được các vua chấp nhận.

Ảnh: Mạnh Tử (371-289 TCN)


Nguồn:https://www.google.com.vn/search?tbm=isch&q=m%E1%BA%A1nh%20t
%E1%BB%AD#imgrc=kP0BjyomY-7ZuM

1.1.2.2. Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)


Đổng Trọng Thư – nhà triết học duy tâm thời Tây Hán, một đại
diện tiêu biểu của Nho học. Ông là người Quảng Xuyên ( thuộc huyện

2
Mạnh Tử nói: “Dân quý nhất, đất nước thứ hai, vui thì coi nhẹ”.
Táo Cường tỉnh Hà Bắc hiện nay), ông xuất thân trong một gia đình đại
địa chủ, thuở nhỏ đã khổ công học tập.
Sau khi nước Tần thống nhất Trung Quốc, triều Tần tiếp tục sử
dụng tư tưởng Pháp gia làm đường lối trị nước, vì vậy triều Tần sớm bị
lật đổ.
Năm 136 TCN, chấp nhận ý kiến của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã
ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”3. Từ đó nhà Nho bắt đầu
trở thành hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc.
Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho giáo được phát triển thêm
một bước, nhất là về tư tưởng triết học và đạo đức.
Về triết học, Đổng Trọng Thư có hai điểm mới đó là thuyết “thiên
nhân cảm ứng”4 , đồng thời dùng âm dương ngũ hành để giải thích mọi
sự vật. Bên cạnh đó, Đổng Trọng Thư còn dùng thuyết âm dương ngũ
hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn vật của ông, do vậy ông cũng
phát triển thuyết âm dương ngũ hành thêm một bước. Đối với ngũ hành,
Đổng Trọng Thư nêu ra quy luật là liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau
thì thắng nhau. Ông còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm
dương ngũ hành để giải thích số lượng các đốt xương và các bộ phận
của con người.
Về đạo đức, Đổng Trọng Thư đóng góp quan trọng trong việc nêu
ra các phạm trù tam cương, ngũ thường, lục kỉ.
Tam cương là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ.
Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Lục kỉ là sáu mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, mẹ,
với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.
Tam cương ngũ thường do Đổng Trọng Thư nêu ra đã trở thành
những tiêu chuẩn đạo đức chủ yếu của Nho giáo và đã đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Về chính trị, Đổng Trọng Thư không có chủ trương gì mới mà chỉ
cụ thể hóa tư tưởng của Khổng Mạnh trong hoàn cảnh lịch sử mới5.
Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư
tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho giáo đã được hoàn chỉnh.
Đồng thời Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học.

3
Bỏ các phái khác đề cao một mình phái Nho.
4
Tức là quan hệ tác động qua lại giữa trời và người.
5
Như hạn chế sự chênh lệch giàu nghèo, hạn chế sự chiếm đoạt ruộng đất, bỏ nô tì, trừ các tệ chuyên quyền giết
người, giảm nhẹ thuế khóa, bỏ bớt lao dịch, chú trọng việc giáo dục.
Ảnh: Đổng Trọng Thư (179 – 104 TCN)
Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%95ng_Tr%E1%BB%8D
ng_Th%C6%B0#/media/T%E1%BA%ADp_tin:Dong_zhongshu.jpg
1.2 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.2.1. Thời Tiên Tần
Trung quốc là một nước có nền văn hóa, lịch sử lâu đời, với các triều đại liên
tiếp nhau. Theo tư liệu lịch sử Trung Quốc, mở đầu là nhà Hạ, nhà Thương, tiếp
theo là nhà Chu đã đánh chiếm nhà Thương, thời gian trị vì nhà Chu tương nối dài
và đã phân làm hai giai đoạn là Tây Chu và Đông Chu. Đông Chu lại được chia
nhỏ ra là thời Xuân Thu và Chiến Quốc6.
Trên cơ sở thì Nho giáo đã được hình thành từ thời Tây Chu, với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn được gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, lúc xã hội
đang loạn lạc, Khổng Tử 7 phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống tư tưởng
đó làm hoàn thiện, sau đó đã truyền bá. Cũng chính vì thế mà đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo.
Vào thời kì này đã xảy ra một sự kiện đã kiến người đời sau khó khăn trong
việc nắm bắt tư tưởng của Khổng Tử. Đó là vào thời Tần 8, bên cạnh những chiến
công của ông thì sự kiện “ đốt sách chôn Nho” của ông đã làm cho người đời sau
lên án. Sự kiện Tần Thủy Hoàng cho đốt nhiều loại sách vở và chôn sống nhiều
nho sĩ, diễn ra vào năm 213-212 TCN. Mục đích là loại bỏ hết tư tưởng, học thuyết
tồn tại trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chỉ độc tôn thuyết của nhà Tần.

6
Đây là thời kì mà các nước chư hầu của nhà Chu hỗn chiến.
7
551 TCN
8
Tần Thủy Hoàng, 259 TCN
Trên thực tế lệnh đốt sách không phải do Tần Thủy Hoàng đề xưởng mà là do
tể tướng đương triều Lý Tư 9. Năm 212 TCN, nhân ngày sinh nhật của Tần Thủy
Hoàng, ông đã mở đại tiệc thiết đãi quần thần ở cung Hàm Dương. Hôm đấy cuộc
thảo luận của hai vị, Thuần Vu Việt lại ngang nhiên khen chê nói lên vấn đề của
việc chia quận, huyện. Ngay sau đó, Lý Tư cũng lên tiếng tranh luận. Sau khi cuộc
tranh luận kết thúc ông cho rằng Lý Tư nói có đạo lý, vài ngày sau Lý Tư đã dâng
lên bản tấu đề xuất việc “ đốt sách”. Lí do dâng tấu là vì Lý Tư cho rằng nhiều
người lấy chuyện xưa so sánh, phê phán chuyện nay, lấy cái học riêng của mình
chê bai pháp luật của nhà vua, khiến uy quyền của nhà vua giảm sút, trong triều
đình kết bè, kết phái làm nhiễu loạn thiên hạ. Chấp nhận lời thỉnh cầu Tần Thủy
Hoàng hạ lệnh đóng cửa các trường học tư, đồng thời hạ lệnh nếu không phải sách
của nước Tần, trừ sách y dược, chiêm bốc10, trồng trọt ra thì tất cả sẽ bị thiêu hủy
hết. Vậy những cuốn sách bị thiêu hủy là: sử ký của các nước trước khi thống nhất,
Thi-Thư cất giữ trong nhân gian và lời của Bách gia11. Vì sợ các kẻ phản nghịch
làm loạn nên đồng thời nhà Tần còn chế định ra luật rằng: lấy ngụ ngôn trong Thi,
Thư thì sẽ đem bêu đầu ở chợ; lấy xưa mà chê nay, giết cả họ; thấy biết mà không
báo lên thì coi như cùng tội; lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ xăm
mặt và bắt làm phu xây dựng trường thành; còn rất nhiều luật khác nữa. Nhưng
theo sử thi ghi lại nhà Tần không đốt hết tất cả sách vẫn còn để lại trong tàng thư
của triều đình. Nhưng sau khi nhà Tần bị sụp đổ thì bút tích cũng gần như bị thiêu
hủy.
Thực hư sự việc chôn người theo Nho giáo, nguồn gốc của việc chôn Nho,
ngày trước Tần Thủy Hoàng luôn muốn được “ Trường sinh bất tử” nên ông cho
đạo sĩ trên khắp đất nước tìm kiếm ra phương thuốc có thể sống lâu. Đạo sĩ trên
khắp thiên hạ đều truyền nhau và tập trung tới Hàm Dương. Tần Thủy Hoàng cũng
rất có tâm ý đối với các đạo sĩ chỉ cần nói ra phương pháp ông liền thưởng ngay
một khoản tiền lớn. Ông chẳng cần phân biệt rằng đây có phải đạo sĩ hay lừa gạt,
tất cả đều không thành vấn đề. Ông đối đãi với đạo sĩ như thượng khách nhưng
thời gian cứ trôi qua nhưng vị tiên thuốc, thần thuốc trường sinh vẫn chưa thấy đâu.
Trong các đạo sĩ ông tin tưởng có hai người là Lư Sinh và Hầu Sinh, hai người này
biết rằng trên đời này không có cái gọi là thuốc trường sinh bất lão nên họ đã tìm
cách lừa gạt và cao bay xa chạy. Tần Thủy Hoàng vô cùng tính nhiệm hai người họ
nhưng lại bị học lừa gạt mình, nên ông tức giận đùng đùng, đối với những yêu cầu
của họ ông đều đáp ứng. Hai người này không hề nghĩ rằng việc mình chạy trốn lại
dẫn đến kết cục bi thảm cho những đồng môn mình đang còn ở Hàm Dương. Sau
đó, Tần Thủy Hoàng ra lệnh, tất cả các đaọ sĩ ở Hàm Dương hay đã rời khỏi, đều
bị tầm nã12, bắt về quy án. Các đạo sĩ đều bị tra tấn, có những người không chịu
nỗi cực hình đã cáo giác, vu khống lẫn nhau. Dẫn đến kết cục là có hơn 460 người

9
284-208 TCN

10
Xem tử vi, bói toán.
11
Còn được gọi là Bách Gia Chư Tử, là những triết lý và tư tưởng thời kì Xuân Thu và Chiến Quốc.
12
Truy bắt khắp nơi những người đang lẫn trốn
bị đem đi chôn sống, noi gương cho thiên hạ. Như vậy có thể thấy là thật chất là
Đạo sĩ bị chôn chứ không phải Nho sĩ “ Đến cuối đời Tần, đốt Thi Thư, chôn đạo
sĩ”13.
1.2.2 Thời Lưỡng Hán.
Tiếp nối nhà Tần là nhà Hán, sau khi Tần Thủy Hoàng mất 5 năm, chính là sự
sụp đổ của nhà Tần. Hán Cao Tổ14 xuất thân trong gia đình nông dân bình thường,
nhưng ông rất có tài dẫn binh, ông đã dẫn binh chống lại sự hà khắc của nhà Tần,
ông tượng trưng cho một nhân tài hào hiệp, sau khi khởi binh thành công, lên trị
nước ông rất có tài trong việc dùng người và tiếp thu ý kiến. Nhà Hán được xem là
một trong những triều đạo huy hoàng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Hán
được chia thành hai giai đoạn khác nhau là Tây Hán và Đông Hán.
Lúc đầu khi cai trị ông cũng ỷ lại vào vũ lực, coi thường tri thức và văn hóa.
Theo như ghi chép ông từng nói với Lưu Giả15 “ Ta ngồi trên lưng ngựa mà được
thiên hạ, cần gì phải đọc Thi, Thư”. Nhưng sau đó ông biết rút kinh nghiệm từ nhà
Tần, nghe theo các lời khuyên của các vị trọng thần, bãi bỏ các hình phạt hà khắc,
giảm thuế, sử dụng trí thức để trị dân. Sau đó Hán Vũ Đế16 vị vua thứ bảy của nhà
Hán. Theo lời khuyên của Đổng Trọng Thư17 “bãi bỏ bách gia, độc tôn nho
học” ,Hán Vũ Đế đã tiếp nhận kiến nghị này và ông là vị vua đầu tiên đưa Nho
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng.
Nho giáo từ đây đã trở thành hệ tư tưởng chính thống và công cụ tinh thần bảo vệ
chế độ phong kiến Trung Hoa suốt hai nghìn năm lịch sử, không những thế Nho
giáo đã được truyền bá khắp các nước Đông Nam Á, Khổng Tử được tôn lên bậc
thánh, tên tuổi ông được khắp thế giới biết đến rất nhiều. Nho giáo giai đoạn này
còn được gọi là Hán Nho để phân biệt với Nho giáo nguyên thủy. Hán nho giai
đoạn này là đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Dùng “ lễ trị” để che đậy
“ pháp trị”. Thực chất Hán Nho có thừa hưởng, kế thừa của Nho giáo nguyên thủy.
Đổng Trọng Thư còn chú trong việc xây dựng trường học, sử dụng nhân tài để làm
xã hội tốt đẹp hơn, bên cạnh đó việc thi cử cũng rất quan trọng, địa phương hiến
hiền tài để giúp nước. Triết học Nho giáo của ông có sự lồng ghép nhiều yếu tố
trong đó có quan niệm về tự nhiên và chính trị xã hội, đồng thời ông mưu toan kết
hợp thần quyền và vương quyền vào cá nhân vua, người đứng đầu xã hội còn được
mệnh danh là “Thiên tử”18. Ông đã lồng ghép vào tư tưởng của họ, mọi việc trên
thế gian này đều do trời quyết định , nếu trái lại ý trời sẽ bị trừng phạt như là thiên
tai, dịch bệnh,..Tác dụng của nó vô cùng hiệu quả và ăn sâu hơn cả “ pháp trị”
Thuyết “ Tam cương”19 và “ Ngũ thường”20 cũng hình thành từ đây. Từ đời
nhà Hán về sau, vai trò của văn hóa cũng bị thu hẹp, chỉ yếu chỉ giới hạn trong
13
Sử kí Tư Mã Thiên Thiên Liệt Truyện, NXB Văn Học
14
Hán Cao Tổ tức Lưu Bang, 256-195 TCN
15
Mưu thần nhà Hán, 204-170 TCN
16
Hán Vũ Đế tên thật Lưu Triệt, 156-87 TCN
17
Ông là chuyên gia tư tưởng cho Hán Vũ Đế
18
Người con của trời.
19
Quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ-chồng
20
Nhân- Lễ- Nghĩa-Trí-Tính
khuôn khổ, nhưng tất cả chỉ có lợi cho vương quyền. Kinh Thi được giải thích theo
lối cao quý, tao nhã, nam nữ bị ngăn cách “nam nữ thụ thụ bất thân”21, còn những
nghề ca hát vào giai đoạn này được coi là cái nghề rẻ mạc, bị mọi người khinh rẻ
“ xướng ca vô loài”22.
Như vậy có thể thấy rằng quan niệm của Khổng-Mạnh đã được thay thế thành
Hán nho nhằm mục đích cai trị quốc gia của các vị vua. Hán nho đã được đem ra
Đông Nam Á, và đặc biệt đã được nhà Hán và các triều đại về sau rất đề cao.
Trong đó Việt Nam cũng có sử dụng Nho giáo cho việc trị quốc của mình nhưng
nó đã có thay đổi.
1.2.3 Thời Tống- Minh- Thanh
Triều đại nhà Tống được chia làm hai giai đoạn riêng biệt: Bắc Tống và
Nam Tống. Vào thời kỳ này Nho giáo đã có những chuyển biến mới. Thời Lưỡng
Tống trong giới tư tưởng học thuật xuất hiện “ Lý học”. Trong đó tư tưởng Nho
giáo lại chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo. Sau khi Hán Võ Đế “ độc tôn
Nho giáo”, thì Khổng-Mạnh là kinh điển của Nho Giáo, từ Hán đến Đường thì Nho
giáo được coi như là chính thống. Nhưng sau đó thì Nho, Phật, Đạo đã có sự giao
thoa lẫn nhau.
Chu Đôn Di là nhà sáng lập ra Lý học đời Bắc Tống. Nhưng người đã phát
huy, mở mang nó là hai anh em Trình Hạo và Trình Di cùng với Chu Hy đời Nam
Tống. Cả hai đều là học trò của Chu Đôn Di. Chu Đôn Di đã cống hiến cho cái gọi
là “tâm tính nghĩa lý”, “tâm tính nghĩa lý” chỉ ra vấn đề tính mệnh, đạo đức, nó là
chủ đề của Nho học đời Tống Minh. Khi nói đến Nho giáo thời Tống nó điểm khác
biệt với Nho giáo nguyên thủy của Khổng Tử, cải biên “ Vô cực đồ23” thành “Thái
cực đồ24”. Cho thấy rằng khi Phật giáo được truyền vào Trung Quốc, việc giải
quyết vấn đề theo tính Phật đã làm cho thuật ngữ tâm tính của Nho giáo, từ đó làm
biến thể Nho giáo. Cái học của Chu Đôn Di chú trọng đến cái tâm tính đã được
Tống Nho tán thưởng, nhưng thực chất nó đã được soi sáng bằng tư tưởng của Phật
giáo.
Khi nói đến Nho giáo thời Tống Minh, Chu Hi25 là một đạo học nổi tiếng,
có sức ảnh hưởng đến lý thuyết Nho giáo, đặc biệt là ảnh hưởng đến tư tưởng của
nhà Minh sau này. Ông là người phát triển học thuyết lí-khí của Trình Hạp và
Trình Di, đã đưa lý học lên thành một hệ thống duy tâm khách quan hoàn chỉnh,
còn được gọi là Trình Chu lý học. Chu Hi cho rằng trong thế gian vạn sự, vạn vật
đều có vạn lý, đó chính là “thái cực”, “thiên lý”. Nó biểu hiện trong chính trị, luân
lý, chính là “quân thần, phụ tử, phu thê” cho đến “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, “tam

21
Nam nữ không được phép đụng đến nhau, trừ khi đã được cưới gả, còn không xe được xếp vào hành vi không
đứng đắn.
22
Nghĩa là trong các nghề nghiệp hợp pháp của xã hội đường thời thì nghề này không được đáng xếp vào loại nào
cả.
23
Là hình ảnh sáng tạo của thời nhà Tống, dùng để chỉ sự vận động của vũ trụ.
24
Chỉ đến học thuyết âm dương của phương Đông.
25
Chu Hi hiệu Chu Tử, 1130-1200
cương ngũ thường”. Tư tưởng, quan niệm này được lưu truyền đến tầng lớp thống
trị và rất được đề cao.
Nho giáo thời Minh-Thanh không thể không kể đến Vương Dương Minh26,
ông là người văn võ song toàn. Triết học của Dương Minh có liên quan mật thiết
đến cuộc đời ông. Ông cho rằng vạn vật biến hóa trong vũ trụ là nhờ cái tính và cái
nhất, mọi phiền não, buồn khổ trong cuộc đời một người đều là do tâm người sinh
ra, vậy nên dưỡng tâm chính là giải pháp để an vui, tự tại. Ông đã dùng chính thể
ngộ của bản thân để hoàn thiện và hình thành hệ thống “Tâm học” của riêng mình.
Ông cho rằng sự vật không thể tìm ra đạo lý mà đạo lý là chính bản thân ta. Có thể
thấy tư tưởng Nho học của ông đã có sự tiến bộ và khác biệt hơn so với trước. Đặc
biệt đạo phái do chính ông sáng lập ra có sực ảnh hưởng đến các nước láng giềng
và đặc biệt là Nhật Bản. Vương Dương Minh được đánh giá cao trong giới Nho
học, ảnh hưởng lớn đến Nho học thời Minh – Thanh.
1.3. Nội dung cơ bản của học thuyết Nho giáo
1.3.1. Tổ chức xã hội
Trong thế giới quan Nho giáo, cả ba yếu tố Quốc gia - Gia đình - Cá nhân
đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nho giáo xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu
thành nên gia đình và xã hội. Sách Đại học viết:

Muốn trị quốc tốt trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình. Người
trong gia đình, gia tộc mình mà không giáo dục được thì sao có thể giáo dục
được người khác... Một nhà thực hiện nhân ái có thể dấy lên cả nước một
phong trào nhân ái. Một nhà thực hiện khiêm nhường, có thể dấy lên cả nước
một phong tục khiêm nhường. Còn nếu một người tham lam tàn bạo, tất dấy
lên cả nước phạm thượng, làm loạn... Nếu bản thân mình che giấu những
hành vi không hợp với đạo trung thứ thì sao có thể giáo dục được người khác
làm theo đạo trung thứ. Cho nên muốn trị nước tốt, trước hết phải chỉnh đốn
tốt gia đình, gia tộc mình.
Bàn luận về lòng trung thành, Khổng Tử nói "Yêu con mà không dạy con phải chịu
khó nhọc được ư? Trung với vua mà không khuyên can vua theo đường chính ư? ".
Về quan hệ vua tôi, Khổng Tử viết: “Vua lấy lễ mà đãi bề tôi, bề tôi lấy trung mà
thờ vua” còn Mạnh Tử đã bảo Tề Tuyên Vương rằng: “Vua xem bề tôi như tay
chân, thì bề tôi xem vua như bụng như lòng. Vua xem bề tôi như chó ngựa, thì bề
tôi xem vua như người lạ trong nước. Vua xem bề tôi như đất như cỏ thì bề tôi xem
vua như giặc như thù", “Kẻ làm hại đức nhân gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi
là tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là một người thường mà thôi. Tôi từng nghe vua
Vũ Vương chỉ giết một người thường là Trụ mà thôi, chứ tôi chưa hề nghe Vũ
Vương giết vua”. Tuân tử cũng nói: “Tru bạo quốc chi quân, nhược tru độc
phu” (Giết một ông vua tàn bạo cũng như giết một kẻ ác độc). Sách Đại học có câu:
"Làm vua thì hết mình thực hiện đức nhân. Làm bề tôi thì hết mình thực hiện đức
kính. Làm con thì hết mình thực hiện đức hiếu. Làm cha thì hết mình thực hiện đức
từ. Cùng người trong nước quan hệ với nhau phải hết mình thực hiện đức tín."
26
Tên thật Thủ Nhân, tự là Bá An là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng xuất sắc thời nhà Minh
Nhà nghiên cứu Kim Định viết: “…cái bổn gốc của Nho giáo là “chí trung”,
mà trung là không cậy dựa, “trung lập nhi bất ỷ cường tai kiểu”. Đó là cốt yếu
những bài học dạy học của Khổng Tử. Đừng đem những câu Hán học như “trung
thần bất sự nhị quân” hay “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” mà gán vào
miệng ông. Làm thế là thiếu óc khoa học. Cha ông ta tuy về phê bình chưa đạt cao
lắm nhưng không để cho những câu tầm gửi kiểu trên làm thui chột chí bất
khuất” Cùng quan điểm, trong bài “Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta”,
học giả Phan Khôi có nói: "Ở Nam kỳ đây, hạng tầm thường, hay lặp đi lặp lại cái
câu “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu”,
họ cho là lời thánh nói ra. Nhiều người đem hỏi tôi, tôi phải lấy làm lạ. Hoặc giả có,
mà tôi lâu nay ít hay ôn nhuần lại sách cũ rồi quên đi chăng, chớ theo như cái trí
nhớ trong đầu tôi, thì câu này chẳng có trong sách nào hết, chẳng ông thánh nào
nói hết, mà chừng như là lời của Lê Tử Trình nói trong tuồng Sơn hậu hồi thứ ba!
Đó, một hạng người nữa, cứ ù ù cạc cạc, hễ nghe câu chữ Nho, thấy cuốn sách chữ
Nho, thì cho là đạo Khổng Tử ở đó".
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội an hòa, Nho giáo nêu nguyên tắc
quản lý xã hội như sau:
 Thực hiện "Chính danh": nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo
đúng cương vị, địa vị của mình: vua phải theo đạo vua, tôi phải theo đạo tôi, cha
phải theo đạo cha, con phải theo đạo con, chồng phải theo đạo chồng, vợ phải theo
đạo vợ... Nếu như mọi người không chính danh thì xã hội ắt trở nên hỗn loạn.
 Thực hiện "Văn trị - Lễ trị - Nhân trị - Đức trị": Đây là nguyên tắc có tính chất
đường lối căn bản của Nho giáo. Văn trị là đề cao cai trị bằng tri thức, bằng sự
sáng suốt. Lễ trị là dùng các nghi lễ, các quy tắc trong quan hệ giữa người và người
để tạo ra một xã hội hài hòa. Nhân trị là trị quốc bằng lòng nhân ái. Đức trị là cai
trị bằng đạo đức của người lãnh đạo.
 Đề cao nguyên lý công bằng xã hội: Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo
không đều, Không lo nghèo mà lo dân không yên". Sự không công bằng là mầm
mống của rối loạn xã hội.

Từ thời nhà Hán, Nho giáo đã trở thành trung tâm cho việc quản lý xã hội.
Nhờ đạo Nho, các triều đình ít phải can thiệp vào đời sống của dân, cho các làng tự
lập hương ước mà gần như tự trị. Một học giả châu Âu khen người Trung Hoa tổ
chức xã hội giỏi hơn người La Mã và mọi đế chế khác. Các kẻ sĩ ở mỗi làng, tổng,
huyện (một vị trưởng lão trong làng, một thầy đồ hay một vị khoa bảng)... được
dân tin, giúp chính quyền được nhiều việc cai trị, giáo dục, hòa giải các vụ kiện, trị
bệnh, giữ an ninh. Họ được dân coi trọng hơn cả các quan lại, mà quan lại cũng
phải nể họ. Đặc biệt là cứ mỗi lần đất nước bị họa vong quốc thì lại có hàng trăm
kẻ sĩ Nho giáo sẵn sàng liều mình chống ngoại xâm, nếu chẳng may thất bại thì họ
liền tuẫn quốc chứ không chịu sống nhục. Đã vậy, không chỉ nam giới liều thân hộ
quốc nơi tiền tuyến mà phụ nữ ở hậu phương cũng một lòng chung thủy để người
nam nhi an tâm ra đi gánh vác mệnh nước, nếu chồng hy sinh họ sẵn sàng tuẫn tiết
để giữ lòng son. Đó là đặc điểm của những dân tộc thấm nhuần đạo Khổng.
1.3.2 Lễ nghi
Khổng Tử hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực có thể duy trì trật tự xã hội.
Nội dung của quan điểm đạo đức của Khổng Tử bao gồm rất nhiều mặt như:
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng,... nhưng trong đó quan trọng hơn cả là Nhân
Nhân một mặt là lòng thương người,” điều mà mình không muốn thì đừng làm
cho người khác”, trái lại “mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân mình
muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt. Đồng thời đối với bản thân thì
phải “kiềm chế mình làm đúng theo lễ”, nếu “không hợp với lễ thì không nhìn
không hợp với lại thì không nghe không hợp với lễ thì không nói không hợp với lễ
thì không làm”. Ngoài ra nhưng còn bao gồm các nội dung khác như cung kính,
nghiêm túc thành đạt, dũng cảm, rộng lượng. cần cù,... Nếu vậy nhân là một phạm
trù rất rộng, hầu như đồng nghĩa với đạo đức.
Bên cạnh nhân Khổng Tử còn chú trọng đến “lễ”, nhưng lễ theo Khổng Tử
không phải là mục tiêu chuẩn đạo đức hoàn toàn độc lập và là một vấn đề luôn
luôn gắn liền với nhân. Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ, nhân là gốc, là nội
dung, còn lễ là biểu hiện của nhân. Ví dụ “trong các lễ, xa xỉ chẳng bằng tiết kiệm,
trong lễ tang đầy đủ mọi nghi thức không bằng thương xót”. Do đó đó người
không có lòng nhân thì thực hành lễ sao được vì nói về lễ không phải chỉ có lụa
ngọc mà thôi.
Lễ không những chỉ là biểu hiện của nhân mà lễ còn có thể điều chỉnh đức
nhân cho đúng mực. Khổng Tử nói “cung kính vào không biết lễ thì mệt nhọc, cẩn
thận mà không biết lễ thì nhút nhát, dũng cảm và không biết lễ thì làm phật ý người
khác”.
Ngoài “nhân” và “lễ” Khổng Tử cũng đã nhắc đến “trí”, “tín” nhưng ông bàn về
các nội dung này chưa nhiều.
1.3.3 Quan hệ xã hội
Theo Nho giáo, trong xã hội có các năm mối quan hệ cơ bản là: vua - tôi, cha
- con, vợ - chồng, anh - em, bạn bè. Để thực hiện tốt năm mối quan hệ này cần có
năm đức tính: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử chủ trương "Vua sử dụng bề tôi phải theo
lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung". Nho giáo đề cao sự trung thành đối với
nhà nước quân chủ. Khổng Tử đề cao vua Vũ Vương vì khi đã có hai phần ba thiên
hạ vẫn phụng thời triều Ân.
Trong mọi hoàn cảnh, con người cần kiềm chế cảm xúc, làm chủ bản thân.
Sách Trung Dung viết "Khi tình cảm như: vui mừng, hờn giận, đau thương, khoái
lạc chưa biểu hiện ra thì gọi là trung; biểu hiện ra rồi nhưng phù hợp, đúng mức thì
gọi là hòa. Trung là điều cơ bản lớn nhất trong thiên hạ. Hòa là chuẩn tắc phổ biến
nhất trong thiên hạ. Trung hòa mà đạt đến tột cùng thì mọi cái trong trời đất đều ở
vị trí thỏa đáng, vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở"
Nho giáo nêu lên quan niệm về Trung dung: "Lời nói và việc làm của người quân
tử thì phù hợp với chuẩn tắc trung dung, còn kẻ tiểu nhân thì phản lại trung dung.
Người quân tử luôn giữ được trạng thái trung hòa, không để thái quá hay bất cập.
Kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè ai hết, nên cách nói năng của và
hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập". Người quân tử phải
giữ trọn đạo Trung dung trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nói về đạo Trung dung trong
dân chúng, Khổng Tử từng than thở: "Đạo Trung dung này rất mực tốt đẹp. Từ lâu
dân chúng đã thiếu hẳn đạo này. ".
Khổng Tử nói "Người quân tử hòa hợp nhưng không cùng quan điểm. Kẻ
tiểu nhân cùng quan điểm nhưng không hòa hợp. (Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu
nhân đồng nhi bất hòa)". Không nên oán giận người không hiểu mình, không sợ
người không hiểu ta mà chỉ sợ ta không hiểu người. Nói về sự giải quyết thù hận,
Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tề thường cho quan những hận thù cũ nên người oán
hận họ rất ít. Kinh Pháp Cú của Phật giáo cũng có ý tương tự "Với hận diệt hận thù,
đời này không có được. Không hận diệt hận thù, là định luật ngàn thu." Mặt khác
nên dùng sự ngay thẳng để báo đáp oán thù, dùng ân đức để báo đáp ân đức. Mình
không muốn bị người khác đối xử thế nào thì cũng không nên đối xử với người
khác như vậy.
Nho giáo khuyên con người sống phù hợp với hoàn cảnh và địa vị xã hội của
mình. Sách Trung Dung viết: "Người quân tử nên dựa vào địa vị hiện tại của mình
mà làm việc, không nên ham những cái ngoài bổn phận của mình... Người quân tử
ở bất kỳ hoàn cảnh nào đều có thể điềm nhiên tự tại, bình tĩnh tự đắc, không kêu ca
phàn nàn. ". Mỗi người đều có vị trí riêng trong hệ thống phân công lao động xã
hội. Khổng Tử nói "Không ở vào chức vị nào thì đừng bàn tính về chính sự của
chức vị ấy ". Bàn luận về địa vị và con người, sách Trung Dung viết "Khi ở địa vị
cao, không lăng mạ chèn ép người dưới; khi ở địa vị dưới, không nịnh bợ cầu cạnh
người trên; lúc nào cũng giữ bản thân ngay thẳng, chẳng cầu mong xin xỏ người
khác, được như vậy thì trên không oán trời, dưới không trách người, luôn ở địa vị
ổn định để chờ mệnh trời. Còn kẻ tiểu nhân buộc phải mạo hiểm để theo đuổi chức
vụ, địa vị ngoài khả năng của mình ". Theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì con
người sống trong xã hội không nên tranh chấp vì danh lợi mà nên giữ hòa khí,
dùng lễ để đối đãi với nhau[51]. Khi chưa có chức vụ, địa vị thì "Không sợ buồn vì
không có chức vụ địa vị, chỉ buồn vì không có tài đức để làm tròn chức vụ địa vị
ấy. Không sợ người khác không biết mình, mà phải cầu mong làm sao có năng lực
làm cho người khác hiểu mình ".
Nho giáo đề cao sự thành thật. Khổng Tử nói "Con người ta sống được là
nhờ ngay thẳng. Kẻ không ngay thẳng tuy nhiên cũng sống được, nhưng chẳng qua
nhờ may mắn mới tránh được tai họa đó thôi ". Theo sách Trung Dung "Muốn bản
thân thành thật cũng có cách của nó: nếu không hiểu rõ thế nào là đức thiện, tính
thiện thì cũng không thể bồi dưỡng cho mình có lòng thành thật với bản thân".
Cũng theo Nho giáo, có một số người vốn dĩ tự nhiên đã thành thật, một số khác
phải rèn luyện bản thân để trở nên thành thật bằng cách kiên trì làm điều thiện, học
tập sâu rộng, hỏi han kỹ lưỡng, suy nghĩ thận trọng, phân biệt cho sáng tỏ, thực
hành cho thấu đáo. Việc nịnh hót người khác, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá,
đem oán hận giấu kín trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo bị Nho giáo
đánh giá là hành vi xấu. Khổng Tử nói:
"Dùng những lời lẽ hay ho để nịnh hót, làm vừa lòng người và tỏ vẻ hiền
lành, như vậy không phải là người có lòng nhân "... "Những người dùng lời
lẽ trau chuốt ngọt xớt, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá, loại người này
theo Tả Khâu Minh là rất đáng sỉ nhục. Khâu ta cũng cho là rất đáng sỉ nhục.
Đem oán hận giấu kín ở trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo với
người, loại người như vậy Tả Khâu Minh cũng cho là đáng sỉ nhục. Khâu ta
cũng cho là đáng sỉ nhục.
Trong quan hệ bạn bè, Tăng Tử nói "Người quân tử dùng tri thức văn chương để
tập hợp bạn bè, dùng sự giúp đỡ của bạn bè để bồi dưỡng nhân đức". Tử Cống hỏi
về cách đối đãi với bạn bè. Khổng Tử nói "Thành tâm thành ý khuyên bạn, nhẫn
nại chỉ rõ mọi điều hơn lẽ thiệt, mà bạn vẫn không nghe thì thôi, đừng tự mình
chuốc lấy nhục nhã". Người có thể cùng nói chuyện mà không nói là bỏ mất người.
Người không có thể cùng nói chuyện mà lại nói là uổng mất lời. Người trí không
bỏ mất người cũng không uổng mất lời.
Nói về cách đánh giá con người, Khổng Tử nói: "Nhìn kỹ cách người ta
làm, xét người ta làm vì cái gì, rồi xét kỹ người ta có vui lòng mà làm hay không.
Như vậy người ta không có cái gì có thể giấu được, làm sao mà giấu được? ". Tử
Cống từng hỏi: "Thế nào là người quân tử?". Khổng Tử nói: "Trước hết thực hành
lời mình nói đã, sau mới nói ra.". Sức lực của mỗi người không giống nhau nên kết
quả cũng khác nhau.
Khổng Tử nói: "Dám mạnh dạn đấu tranh, phê bình, chỉ trích tệ hại, thói hư
tật xấu thì tự nhiên họa hại sẽ tiêu tan. ". Về việc phê bình cho tế nhị, Tử Du nói:
"Phụng thờ vua nếu chỉ biết luôn can gián vua thì sẽ chuốc lấy nhục nhã. Đối đãi
với bè bạn, nếu cứ luôn luôn góp ý kiến cho bạn thì bạn sẽ xa mình. ". Ngược lại,
người mắc sai lầm cũng cần sửa chữa sai lầm. Một lần có người chỉ ra sai lầm của
Khổng Tử, ông nói "Ta thật may mắn, giả dụ có sai lầm thì người ta cũng biết
được". Tuy nhiên cũng theo Khổng Tử "Người có thể cùng nói chuyện được mà
không nói, như vậy là bỏ mất người. Người không có thể cùng nói chuyện được mà
lại nói, như vậy là uổng mất lời. Người trí không bỏ mất người cũng không uổng
mất lời".
Nho giáo cũng phê phán tệ bè phái, chia rẽ trong xã hội, xem tinh thần đoàn
kết là một phẩm chất đạo đức của người quân tử còn óc bè phái là đặc tính của kẻ
tiểu nhân. Khổng Tử nói: "Người quân tử đoàn kết rộng rãi với mọi người, chứ
không phải chỉ câu kết phe cánh. Kẻ tiểu nhân chỉ biết câu kết phe cánh, chứ không
biết đoàn kết rộng rãi với mọi người".
1.3.4. Thuật lãnh đạo
Nho giáo chủ trương: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý nhất,
rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua)". Khổng Tử từng nói "Cao quý thay vua
Thuấn và vua Vũ! Được cả thiên hạ mà vẫn cảm thấy việc này không có gì đáng
vui hoặc kiêu hãnh cả. ".
Muốn cai trị thiên hạ, theo Khổng Tử người lãnh đạo phải chính danh. Tử Lộ hỏi
"Nếu vua nước Vệ mời thầy đi làm quan quản lý chính sự, thầy làm việc gì trước
tiên?". Khổng Tử nói "Việc trước tiên nhất định phải là chính danh đã".
Về việc cai trị bằng nhân nghĩa, sách Đại Học viết:
"Người nhân dùng của cải của mình để hoàn thiện phẩm đức. Kẻ bất nhân
dùng sinh mệnh của mình để vơ vét thêm của cải. Chưa từng có bậc vua nào
yêu điều nhân mà dân chúng lại không yêu điều nghĩa. Chưa từng có người
nào hiểu điều nghĩa mà lại làm việc không hết lòng... Điều này nói lên rằng:
người trị quốc không nên xem tài sản là vốn quý, mà nên xem nhân nghĩa là
vốn quý ".
Nho giáo có quan niệm cai trị bằng nhân nghĩa, bằng cách giáo dục quần chúng.
Khổng Tử nói: "Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình
phạt để quản lý dân, làm như vậy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm
pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, dùng lễ nghĩa để
giáo hóa dân thì dân sẽ hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, sẽ cam tâm
tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ tư tưởng". Người lãnh đạo ra
lệnh cho dân chúng thực hành nhân ái nhưng mình lại tàn bạo, thì dân nhất định
chẳng nghe theo. Nếu bậc thiện nhân lãnh đạo quốc gia, sau một trăm năm có thể
cảm hóa kẻ tàn bạo thành lương thiện, không cần gì đến hình phạt nữa. Không nên
gào thét và nghiêm sắc mặt để giáo hóa dân chúng vì có thể cướp cờ, đoạt tướng
giữa ba quân, nhưng không thể cướp đoạt được chí khí của một người dân bình
thường. Người có thể ban ân cho dân chúng và cứu giúp chúng sinh không chỉ là
người nhân mà đáng gọi là bậc thánh nhân. Người lãnh đạo phải thuận theo lòng
dân, thích những điều dân thích và ghét những điều dân ghét.
Về đạo đức người lãnh đạo, sách Đại Học có câu:
"Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu như bỏ gốc mà lấy ngọn, thì sẽ tranh lợi
với dân, cướp bóc dân. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết phát ra những
mệnh lệnh trái lẽ, chỉ lo tích tụ tài sản châu báu ngọc ngà, thì dân chúng sẽ
đối xử lại bằng những điều phản nghịch, khiến cho triều đình ngày một
khánh kiệt".
Cầm quyền lãnh đạo quốc gia dựa vào đạo đức thì dân chúng đều quy thuận.
Người bề trên ngay thẳng, dù không ra lệnh, người dưới vẫn làm theo. Người bề
trên không ngay thẳng, tuy có mệnh lệnh rất nghiêm, người dưới cũng chẳng theo,
chỉ cần giữ mình một cách thành thật, thì tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình vô sự.
Người lãnh đạo phải tự mình làm gương cho dân noi theo, chịu khó nhọc cùng
những công việc khó nhọc của dân. Nếu người trên có hiếu với cha mẹ, tôn trọng
bậc huynh trưởng, thật lòng thương xót kẻ côi cút cô đơn góa bụa, thì nhân dân
cũng tự mà noi theo như vậy. Phải làm cho dân chúng hoàn toàn tâm phục thế mới
gọi là hiểu được cái gốc của đạo lý.
Khổng Tử nói "Người bề trên coi trọng lễ thì lãnh đạo dân chúng rất dễ".
Trong quan hệ cấp trên với cấp dưới thì quan điểm của Khổng Tử là "Người bề
trên đối với kẻ dưới không khoan dung rộng lượng, chấp hành lễ không nghiêm túc
kính cẩn, cử hành tang lễ không đau buồn, thương xót, làm sao ta có thể chịu được?
". Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới không phải là quan hệ một chiều. Tử Lộ hỏi
về đạo thờ vua, Khổng Tử nói "Không được lừa dối vua. Nhưng nếu vua sai lầm,
phải hết sức khuyên can dù phải xúc phạm đến vua".
Thuật lãnh đạo của Nho giáo đề cao những lãnh đạo biết quý trọng tài năng, biết
dùng người. Vua Vệ Linh Công là người vô đạo nhưng không bị diệt vong theo
Khổng Tử "bởi vì nước Vệ có Trọng Thúc Ngữ giỏi việc ngoại giao tiếp đãi tân
khách, Chúc Đà quản lý tốt việc tế lễ tông miếu, Vương Tôn Giả giỏi thống lĩnh
quân đội. Biết dùng người như vậy thì làm sao mà mất nước được? ". Nên dùng
người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng, mưu tính khi đối mặt với công việc để đạt
thành công. Nho giáo xem hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy "Phát hiện người
có tài đức mà không đề bạt cất nhắc hoặc không trọng dụng, đây là khinh rẻ người
có tài đức vậy. Phát hiện kẻ bất lương làm sai trái mà không bãi chức, bãi chức rồi
mà không đuổi ra nơi xa xôi hẻo lánh, đây gọi là dung túng cho kẻ bất lương vậy.
Ưa thích cái mà mọi người ghét bỏ, ghét bỏ cái mà mọi người ưa thích, thế gọi là
làm trái bản tính con người, tai họa nhất định giáng xuống kẻ ấy. Cho nên, làm
người quân tử cần nhớ kỹ đạo lý lớn này: phải dựa vào trung tín mới được thiên hạ,
còn nếu kiêu ngạo, phóng túng thì nhất định mất thiên hạ ". Khổng Tử nói "Cất
nhắc người ngay thẳng để trên kẻ tà ác thì có thể biến kẻ tà ác thành ngay thẳng".
Người lãnh đạo phải có học vấn mới thực hiện tốt công việc của mình.
Khổng Tử phản đối quan niệm của học trò ông là Tử Lộ "Làm quan thì có dân để
cai trị, có thần xã tắc để tế lễ, không cần phải chọn kẻ có học làm huyện trưởng,
sau làm mới là học". Người lãnh đạo còn phải thấm nhuần đạo Trung dung. Khi
còn ở nước Trần, Khổng Tử nói "Về đi! Về đi! Những học trò của quê hương ta,
chí hướng thì rất cao xa mà việc làm thì rất giản lược, không câu nệ tiểu tiết; về
văn chương đều có thể có thành tích khả quan. Nhưng họ chẳng biết xem xét, sửa
mình theo đạo Trung dung. ". Người tự ý làm càn, chuyên quyền độc đoán hay bảo
thủ thì nhất định gặp tai họa. Bậc đại trí như vua Thuấn là người ham hỏi han, để
tâm suy xét cả những lời thiển cận bình thường, bỏ qua cho những ai bày tỏ điều gì
xấu, tán dương những ai nêu lên được điều gì tốt, đồng thời chọn lấy cái ở giữa mà
thi hành. Khổng Tử là người không dựa vào ý riêng của mình, không cho mình
luôn đúng, không cố chấp và vô ngã. Giữ chức vụ gì cũng không biết mệt, làm việc
gì cũng phải trung chính. Muốn nhanh được việc sẽ không thành công, tham lợi
nhỏ thì việc lớn không thành. Phải nghe nhiều, có điều gì nghi ngờ thì giữ lại,
những điều đáng tin thì nói thận trọng; phải quan sát nhiều, điều gì sai đừng làm,
điều gì đúng thì làm thận trọng. Ngày nào cũng nên tự đổi mới mình và khuyến
khích nhân dân đổi mới.
Điều quan trọng nhất trong việc cai trị thiên hạ là lễ nhạc, luật lệ và văn tự. Nếu
nắm vững ba điều này thì ít phạm sai lầm. Sách Trung Dung đưa ra 9 nguyên tắc
lớn trong đạo trị quốc là :
 Tu dưỡng bản thân thì đạo đức được xác lập.
 Tôn trọng hiền tài thì không bị mê hoặc, ngu tối.
 Yêu quý thân tộc thì chú bác, anh em không oán hận.
 Kính trọng đại thần thì công việc ít phạm sai lầm.
 Săn sóc quần thần thì kẻ sĩ tận lực báo đáp.
 Quan tâm đến dân thì dân chúng thực hiện tốt mọi điều bề trên đề ra.
 Khuyến khích bách nghệ phát triển thì vật dụng, hàng hóa buôn bán đủ đầy, sung
túc.
 Trọng đãi người nước ngoài đến nước mình làm ăn sinh sống thì bốn phương quy
thuận.
 Vỗ về chư hầu thì khắp thiên hạ sẽ kính phục.

Khổng Tử từng nói "Thái Bá là con người có đức hết mực. Nhiều lần ông ta đem
thiên hạ nhường cho người khác, nhưng không để dân chúng biết mà ca ngợi công
đức của mình.". Điều này cho thấy Nho giáo nguyên thủy muốn xây dựng xã hội
hài hòa, thiết lập quan hệ tốt đẹp giữa người cai trị và dân chúng, đào tạo ra người
lãnh đạo tài đức chứ không phải là công cụ của giai cấp thống trị bảo vệ chế độ
chính trị của họ, thậm chí Nho giáo rất gần với tư tưởng về nhà nước dân chủ.
1.3.5 Chữ hiếu
Tranh vẽ của Nhật Bản mô tả Dương Hương (杨香), cô gái 14 tuổi đã dám đánh
hổ cứu cha. Cô được các nhà Nho xếp vào một trong Nhị thập tứ hiếu (24 tấm
gương hiếu thảo)
Nho giáo cho rằng hiếu đễ là gốc của đạo nhân. Hữu Tử nói: "Người biết
hiếu thuận với cha mẹ, có nết đễ với người lớn tuổi hơn mình mà lại thích cãi cọ,
va chạm, xung đột, mạo phạm cấp trên là hiếm thấy. Người không mạo phạm cấp
trên mà lại thích làm loạn là không có. Người quân tử là người chuyên tâm nắm
vững cái gốc của tu thân. Nắm vững được cái gốc của tu thân thì đạo lập thân xử
thế tự nhiên phát sinh ra trong lòng mình. Hiếu đễ là cái gốc của đạo nhân".
Nói về đức hiếu, trong chương đầu Khai tông minh nghĩa của Hiếu Kinh, thuật lại
lời Khổng Tử nói với Tăng Tử:
“ Này đây, HIẾU là căn bản của ĐỨC, do giáo dục mà sinh ra. Hãy ngồi trở
xuống, ta nói cho ngươi biết. Thân thể, hình hài, tóc tai, da thịt là do cha
mẹ sinh ra không được gây hư hại là nết đầu của chữ Hiếu. Sau lo lập
thân, hành đạo để lại tiếng thơm cho đời sau là nết cùng của chữ Hiếu.
Này đây, chữ Hiếu lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu, kế đến thờ vua,
sau rốt là lập thân." ”

Một hình vẽ trong sách Nhị thập tứ hiếu. Đạo hiếu là đức tính được nhà Nho coi là
nền tảng cho đạo đức xã hội
Việc kính trọng cha mẹ trong quan niệm về đạo hiếu của Nho gia qua cách
nhìn của Khổng Tử: "Ngày nay, thấy ai có thể nuôi dưỡng được cha mẹ, thì người
ta gọi là có hiếu. Nhưng đến như giống chó ngựa thì người ta cũng nuôi được vậy.
Cho nên nếu không có lòng hiếu kính cha mẹ trong khi nuôi dưỡng, thì nuôi cha
mẹ và nuôi chó ngựa có gì khác nhau? Cha mẹ lúc còn sống, phải theo lễ mà đối
xử phụng sự. Cha mẹ chết, phải theo lễ mà an táng, cúng tế, đó mới là hiếu. Chứ
còn như có việc gì cần làm, con cái làm thay cho cha mẹ, có gì ngon thì mời cha
mẹ ăn, đây chắc gì đã là có hiếu". Để thể hiện sự kính trọng đối với cha mẹ thì
"Phụng dưỡng cha mẹ phải nhẹ nhàng khuyên giải, can ngăn. Nếu cha mẹ không
chịu nghe thì vẫn phải cung kính, không được trái ý nguyện của cha mẹ, đừng để
cha mẹ bận tâm gây nên oán hận". Đạo hiếu còn thể hiện qua những điều đơn giản
như "Cha mẹ già còn sống không được đi chơi xa, nếu có đi phải nói rõ nơi nào cụ
thể... Tuổi tác của cha mẹ không thể không nhớ kỹ trong lòng. Một là vì cha mẹ
trường thọ mà vui mừng, hai là biết lo toan chuẩn bị hậu sự khi cha mẹ về già".
Khổng Tử nói: "Khi người cha còn sống thì quan sát chí hướng của người
con, khi người cha chết thì quan sát hành vi của người con. Nếu ba năm sau khi
cha mất, người con không thay đổi những quy tắc của đạo làm con đối với cha, đó
là người con có hiếu vậy". Tăng Tử tóm lược: "Hiếu đạo có 3 điều: Đại hiếu là tôn
kính cha mẹ, thứ đến là không làm gì gây tai tiếng cho cha mẹ, sau cùng là nuôi
dưỡng cha mẹ". Mạnh Tử bàn về chi tiết chữ “Hiếu” như sau: “Việc phụng sự cha
mẹ của người con hiếu là: Cư xử hết lòng kính trọng, dưỡng nuôi cố làm đẹp lòng,
bệnh đau tận tâm lo lắng, ma chay hết sức xót thương, tế lễ nghiêm trang rất mực”.
Sách Nhị thập tứ hiếu (24 tấm gương hiếu thảo) đã khái quát:

Người tai mắt đứng trong trời đất,


Ai là không cha mẹ sinh thành,
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên,
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu.
1.3.6. Vai trò của gia đình
Ngay từ 2.500 năm trước, Khổng Tử đã thấy rõ vai trò của gia đình như một
tế bào của xã hội. Nếu mỗi gia đình được yên ấm thì mỗi thành viên của nó mới có
điều kiện tu dưỡng bản thân, đạo đức mới được đề cao, xã hội mới được thịnh trị.

Hình vẽ trong Hiếu Kinh của Nho giáo kể về đạo thờ phụng cha mẹ vào thời Tống
Vua Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về cách cai trị, Khổng Tử đã trở lời: "Phải
làm sao cho mọi người làm tròn chức vụ của mình. Vua ở cho hết phận vua, tôi ở
cho hết phận tôi, cha ở cho hết phận cha, con ở cho hết phận con".
Sách Đại Học đề cao tầm quan trọng của gia đình đối với quốc gia xã
hội: "Nếu trong một nhà mà mọi người đều nhân hậu, lần ra cả nước đều nhân hậu.
Nếu trong một nhà mà mọi người đều lễ nhượng thì lần ra cả nước đều lễ nhượng.
Một người mà tham lam, trái ngược, lần ra cả nước đều rối loạn. Cái cơ là như
vậy đó. Bởi đó, người xưa có truyền lại rằng: Một lời làm hại cả công việc, một
người làm yên cả nước" hay "Một nhà hòa thuận mới có thể giáo dục cả nước hòa
thuận."
 Người đứng đầu gia đình là người có trách nhiệm lớn lao nhất trong sự duy trì,
phát triển gia đình. Trong gia đình nhiều thế hệ, vị trí người gia trưởng thuộc về
người cụ, người ông hay người cha thuộc ngành trưởng. Tôn ti trật tự gia đình này
tuân thủ các quy định về trưởng - thứ, nam - nữ, nội - ngoại hết sức chặt chẽ tạo
nên chế độ gia trưởng tông tộc bền vững. Chính vì vậy người đứng đầu gia đình
phải có đạo đức tốt vì "tự bản thân mình không tu dưỡng tốt thì không lấy gì chỉnh
đốn tốt gia đình, gia tộc được". Việc chỉnh đốn gia đình (tề gia) là việc không dễ
dàng vì "... con người ta đối với người mình thân thích thì thường có sự thiên lệch...
Cho nên ưa thích ai lại biết được khuyết điểm của người ấy, khi ghét bỏ ai lại biết
được ưu điểm của người ấy, người làm được như vậy là hiếm có trong thiên hạ".
 Nho giáo coi trọng nguồn gốc con người, coi gia đình gắn chặt với họ hàng, coi
tuyệt tự, quên mất tổ tiên là tội lỗi với tổ tiên. Do đó, việc ghi chép gia phả, cúng tế
tổ tiên, họp mặt họ tộc... là việc đặc biệt quan trọng, không được bỏ bễ.
 Nho giáo đề cao chữ Hiếu, đề cao lễ nghĩa, tiết hạnh, bảo vệ gia đình, gia tộc, tông
tộc. Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ mất thì phải chôn cất chu đáo, cư
tang để đền đáp ân nghĩa.
 Trong hôn nhân, Nho giáo đề cao tình nghĩa vợ chồng, không cho phép ngoại tình
sau khi kết hôn. Người vợ phải biết Tam tòng, tứ đức, ngược lại người chồng cũng
không được lạm dụng uy quyền để hành hạ vợ (bởi như thế là hành vi "Bất nhân,
bất nghĩa").
 Nho giáo coi trọng trinh tiết, đối với việc quan hệ tình dục trước hôn
nhân hoặc sống thử, đạo Nho rất phê phán, xem đó là hành động vô đạo đức, làm
nhục gia quy. Nhiều người thời hiện đại phê phán tư tưởng này là "cổ hủ, chà đạp
quyền tự do", nhưng nếu suy nghĩ sâu xa thì quy định này đảm bảo sự bền vững
của mỗi gia đình cũng như xã hội: con gái biết quý trọng trinh tiết nên không lo
bị Sở Khanh lừa gạt, con trai thì có ý thức giữ gìn bản thân không sa đọa vào nữ
sắc, nạn mại dâm không thể lan tràn, bệnh hoa liễu và nạo phá thai được giảm thiểu
tối đa (điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh y học thời xưa còn lạc hậu).
 Trái với cách nghĩ của nhiều người cho rằng Nho giáo "chà đạp phụ nữ", thực sự
chính Nho giáo đã bảo vệ quyền lợi vật chất cũng như tinh thần của người phụ nữ
trong một xã hội luôn bị thiên tai, dịch bệnh đe dọa (đàn ông không được ngoại
tình, đánh mắng vợ vì lo sợ bậc trưởng thượng và gia tộc của anh ta phê phán,
người mẹ già không lo bị con cái bỏ rơi, kẻ cưỡng hiếp phụ nữ bị luật pháp trừng
trị rất nghiêm khắc). Ngược lại, Nho giáo cho rằng người phụ nữ cũng phải tu
dưỡng bản thân, rèn luyện những mỹ đức như Công-Dung-Ngôn-Hạnh, chăm sóc
gia đình chu đáo, làm đẹp lòng họ tộc, có như vậy gia đình và dòng tộc mới được
yên ấm.
 Ở quy mô rộng, xây dựng gia đình êm ấm không chỉ là để cho bản thân và các
thành viên khác có hạnh phúc mà còn là việc quan trọng để xây dựng xã hội thịnh
trị. Do vậy, các triều đình luôn có những phần thưởng nhằm tuyên dương những
gia đình mẫu mực, lấy họ làm gương cho xã hội. Những người phụ nữ thực hiện
xuất sắc Tam tòng tứ đức được phong danh hiệu "Liệt nữ". Làng xã nào có nhiều
tấm gương về đạo Hiếu sẽ được phong tặng danh hiệu “Làng hiếu thảo”. Những
phần thưởng này có giá trị không kém gì việc đỗ đạt Khoa bảng, là niềm tự hào
không chỉ của mỗi gia tộc mà còn của cả địa phương đó. Sách Đại học có đoạn
"Muốn trị quốc tốt trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình. Bởi vì
người trong gia đình, gia tộc mình giáo dục không được, mà lại có thể giáo dục
được người khác thì đây là điều không thể có. Cho nên người quân tử không cần
ra khỏi nhà mà vẫn giáo dục tốt dân một nước". Đối với bậc quân vương thì "Bậc
vua hiền xử sự ở địa vị một người làm cha, làm con, làm anh, làm em đề trở thành
tấm gương cho cả gia tộc noi theo, thì nhân dân mới noi theo. Như vậy là muốn
nói trị quốc tốt trước hết là ở chỗ chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình".

Gia phả dòng họ Nguyễn Đông Tác (bản sao chép năm Nhâm Thân(1932). Soạn
Gia phả được xem là việc làm thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với tổ tiên,
cũng là công cụ hữu ích để giáo dục thế hệ sau
Có thể nói Nho giáo đề cao gia đình hơn bất cứ một học thuyết nào khác.
Quan hệ gia đình theo Nho giáo là quan hệ đặc biệt chặt chẽ, phải được tái sinh, tái
lập, và mở rộng theo trách nhiệm nghĩa vụ, và đồng thời giữ gìn trật tự kỷ cương.
Chúng ta thường nghe nói "Nước có quốc pháp, nhà có gia phong", là câu nói răn
dạy con người sống có phép tắc, đồng thời còn là biểu tượng tự hào về truyền
thống văn hóa dân tộc là nguyên khí tinh thần độc lập, tự cường của một dân tộc, là
bản sắc riêng về truyền thống văn hóa.
Hiện nay, mô hình gia đình ở Đông Á chuyển mình mạnh mẽ từ truyền
thống sang hiện đại. Sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường tới gia đình đã
làm cho lối sống, nếp sống, chuẩn mực của gia đình truyền thống đã bị mai một.
Bên cạnh đó, nhiều hiện tượng tiêu cực về đạo đức, văn hoá gia đình đã xuất hiện
như: cha mẹ vô trách nhiệm với con cái, con cái vô lễ ông bà cha mẹ, anh em bất
hoà, vợ chồng mâu thuẫn, ngoại tình… khiến các giá trị gia đình bị suy thoái nặng
nề, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội.
Trước nguy cơ các nét đẹp về trật tự và đạo đức của gia đình truyền thống bị mất
mát, khuynh hướng nuối tiếc các tập quán gia đình tốt đẹp mà Nho giáo đã tạo
dựng, hy vọng phục hồi trở lại các trật tự gia đình "cha ra cha, con ra con, chồng
ra chồng, vợ ra vợ"… cũng trở nên ngày một mạnh mẽ. Nhiều nghiên cứu gần đây
đã khẳng định đạo đức gia đình Nho giáo vẫn còn nhiều điều hữu ích cần được
nuôi dưỡng trở lại để giáo dục trẻ em, tạo dựng gia đình nề nếp, góp phần làm lành
mạnh xã hội.
1.3.7 Vai trò của cá nhân
Một buổi lễ khen thưởng những học sinh giỏi và những gương sống tốt tại Miếu
thờ Khổng Tử tại Đài Loan
Nho giáo đặc biệt coi trọng con người, coi con người cùng với Trời và Đất
là “Tam tài”. Con người có vai trò tham phối với Trời Đất, góp phần vào sự hóa
dục (vạn vật) của Trời Đất (Trung dung). Xã hội được tạo ra từ nhiều cá nhân. Cá
nhân là căn bản của xã hội. Vì vậy từ Khổng Tử, Nho giáo đã coi trọng cõi người,
quan hệ giữa người và người, việc tu dưỡng thành người. Nhân tính và đạo đức là
linh thiêng, không có đạo đức thì con người chẳng khác gì cầm thú và các vật vô tri.
Đã là người thì phải học, phải tu dưỡng, đặc biệt người cầm quyền phải biết lo giáo
hóa, phải làm cho thuần phong mỹ tục trở nên tốt đẹp. Học thuyết chính trị - đạo
đức mà trung tâm là tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, được xây dựng trên cơ sở
khuynh hướng nhân bản đó.
Nho giáo nêu ra bát mục gồm cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ. Sách Đại Học viết:
“ Khi đã nghiên cứu sự vật, tri thức mới chu đáo. Tri thức đã chu đáo, ý
mình mới thành thật. Ý mình đã thành thật, lòng dạ mình mới ngay thẳng.
Lòng dạ mình đã ngay thẳng, bản thân mới có thể tu dưỡng. Bản thân đã tu
dưỡng, gia đình mới yên ấm. Gia đình đã yên ấm, nước mới cai trị tốt.
Nước đã cai trị tốt, thiên hạ mới bình an. ”
Nho giáo xem đạo đức của con người quan trọng hơn tài sản. Khổng Tử nói
"Người quân tử quan tâm đến đạo đức, kẻ tiểu nhân khao khát ruộng vườn nhà cửa.
Người quân tử quan tâm đến phép tắc, kẻ tiểu nhân mong cầu ân huệ".
Khổng Tử nêu lên ngũ thường (ngũ luân) với thuyết chính danh và chữ "Nhân" để
làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Ngũ thường: ngũ là năm; thường là bình thường, thông thường, vĩnh hằng. Ngũ
thường nghĩa là năm phẩm chất đạo đức thông thường của con người. Người ta
phải giữ năm đạo đó làm thường, không nên để rối loạn. Ngũ thường
gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
 Nhân: Theo Luận ngữ, Nhân là sự phô bày rất thực tiễn và ngoại tại các phẩm tính
của con người.
o Khổng Tử nói "Muốn tu thân phải tuân theo đạo lý. Muốn tuân theo đạo lý, phải
thực hiện nhân. Nhân tức là tính người, là kính yêu người trong thân tộc, yêu
nhân dân của mình. Đó là điều lớn nhất trong chữ nhân.". Ngoài ra, Khổng Tử
cũng từng cho biết: "Chỉ có người có đức nhân mới có thể hay yêu người và hay
ghét người" Cùng chính Khổng Tử cũng từng cảm thán "Ta chưa từng nhìn thấy
ai thích đức nhân như thích sắc đẹp".
o Để đánh giá người có đức nhân hay không hãy nhìn vào sai lầm của người đó.
Khổng Tử nói: "Sai lầm người ta mắc phải có quan hệ đến loại người. Loại
người như thế nào thì sẽ phạm sai lầm như thế ấy. Xem sai lầm của một người đã
phạm, có thể biết người đó có đức nhân hay không ".
o Theo Khổng Tử, muốn làm người nhân đức không khó. Ông nói "Không lẽ điều
nhân xa chúng ta như vậy ư? Ta nghĩ muốn đạt được điều nhân thì điều nhân sẽ
đến". Tuy nhiên theo ông: "Ta chưa thấy người nào đạt đến điều nhân mà không
tốn sức tốn công rèn dũa. Người không mất sức mà đạt đến nhân, đại khái cũng
có thể có, nhưng ta chưa gặp bao giờ ". Tăng Tử, học trò của Khổng Tử, lại cho
rằng "Kẻ sĩ không thể không có hoài bão lớn lao, ý chí kiên cường, tinh thần
kiên nghị. Bởi vì trách nhiệm gánh vác của kẻ sĩ rất nặng mà đường lại còn xa.
Gánh điều nhân làm trọng trách của mình chẳng lẽ không phải là quá nặng nề ư?
Chỉ đến khi chết rồi mới ngừng nghỉ, chẳng lẽ không phải đường dài lắm đó ư?
".
 Nghĩa: Khổng Tử từng nói: "Người quân tử đối với mọi việc trên thế gian, không
nhất định phải làm việc này hoặc không làm việc kia, mà xem việc đó có hợp nghĩa
hay không, nếu hợp nghĩa thì làm.". Ông cũng cho rằng "... Nhìn thấy việc chính
nghĩa không dám làm, là không có dũng khí ". Tinh thần trọng nghĩa khinh tài của
Nho giáo được thể hiện trong câu nói của Khổng Tử "Người quân tử chỉ biết điều
nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều lợi".
 Lễ: Khổng Tử nói: "Cung kính mà thiếu lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận
mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành loạn nghịch.
Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ ". Trong ứng xử, lễ thể hiện qua điệu bộ,
cử chỉ, phong thái. Trước khi chết Tăng Tử dặn dò học trò "Người quân tử giữ đạo
lý nên đặc biệt coi trọng 3 điều: Cử chỉ, dung mạo điềm đạm, dáng điệu khoan thai,
đàng hoàng sẽ giữ cho mình tránh thô bạo và phóng túng. Giữ sắc mặt đoan trang
sẽ giúp mình giữ được chân thật và thành thực với mọi người. Nói năng chú ý giữ
được điệu bộ, giọng điệu sẽ giúp mình tránh được thô bỉ và sai sót ".
 Trí: Khổng Tử nói "Người có trí lực bậc trung trở lên có thể dạy cho họ những đạo
lý cao sâu. Người có trí lực từ bậc trung trở xuống không thể dạy cho họ những
đạo lý cao sâu ". Bậc trí giả tùy thời mà sống, Khổng Tử nói: "Ninh Vũ Tử, khi
nước nhà yên ổn thái bình được tiếng là người có đức trí, khi nước nhà loạn lạc bị
mang tiếng là ngu đần. Trí như Ninh Vũ Tử thì người khác có thể theo kịp, chứ còn
giả ngu đần như Ninh Vũ Tử thì thiên hạ không có cách nào đuổi kịp ".
 Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này được
tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị trên. Khổng
Tử nói: "Một người không có chữ tín, không biết có thể làm gì được. Cũng giống
như xe lớn không có chốt, xe nhỏ cũng không có chốt, thì làm sao có thể đi được?
". Để giữ được chữ tín thì phải cẩn thận trong lời nói, không hứa hẹn những điều
vượt quá khả năng của mình vì như Khổng Tử nói "Người xưa không để khinh suất
khi nói ra, bởi sợ xấu hổ vì không thực hiện được lời mình đã nói ".

Những phẩm chất đạo đức này đều có liên hệ với nhau. Hữu Tử nói: "Giữ được
chữ tín là đã tiếp cận với nghĩa, có như vậy lời hứa mới thực hiện được. Giữ được
cung kính là đã tiếp cận với lễ, có như vậy mới tránh xa được điều sỉ nhục". Khổng
Tử cho rằng "... Người có đức nhân luôn yên tâm làm điều nhân. Người có đức trí
ham muốn làm điều nhân ".
Khổng Tử chia con người thành ba hạng:
 Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao minh triết.
 Quân tử: Người có đạo đức, cao nhã, luôn phấn đấu để làm điều chân chính.
 Tiểu nhân: Kẻ "hèn mọn", hành động không màng tới đạo đức.

Bia tiến sĩ tại Văn Miếu Hà Nội. Những người học giỏi đỗ đạt được khắc tên tuổi,
quê quán lên bia đá để lưu danh vào lịch sử, qua đó biểu dương tinh thần học tập
và làm gương cho đời sau
Muốn trở thành quân tử tức là người có trí tuệ và đạo đức, trí dũng song toàn thì
phải học tập không ngừng suốt cả đời. Học được điều gì thì phải thường xuyên ôn
tập. Khổng Tử nói "Người xưa học cho mình. Người đời nay học cho người".
Ngoài ra, Khổng Tử còn nói: "Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta,
chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm được những việc đáng
cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình". "Muốn nhân mà không
muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn học thì bị cái che mờ
là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại nghĩa, muốn trực
mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà không muốn
học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái che mờ là
táo bạo khinh suất.".
Sách Trung Dung đã tổng kết lại những điều mà người quân tử theo quan điểm
Nho giáo nên làm:
"Người quân tử vừa ra sức coi trọng đạo đức vốn có của mình, vừa ra sức
chăm lo học tập; vừa phấn đấu đạt đến tầm rộng lớn của đạo, vừa nắm hết
chỗ tinh vi tận cùng của đạo. Muốn có được đạo đức cao minh, phải thông
hiểu đạo lý trung dung, ôn tập những kiến thức đã nắm chắc, từ đó mà thu
hoạch thêm những kiến thức mới; trung hậu, chất phác, giản dị lại ham
chuộng lễ nghi nghiêm túc. Khi ở ngôi cao thì không kiêu ngạo, khi làm kẻ
dưới thì chẳng dám gây điều trái nghịch, bất chấp lễ nghĩa. Khi nước có đạo,
người quân tử có thể ra giúp nước, nghĩ mưu kế để khiến nước nhà hưng
thịnh. Khi nước không có đạo, người quân tử có thể dựa vào trí sáng suốt
của mình, tránh cho mình khỏi bị tai ương họa hại".
Trong mối quan hệ với mọi người và với kẻ tiểu nhân, Khổng Tử nói: "Người quân
tử nếu không có thái độ trang trọng thì không giữ được uy nghiêm, có học tập cũng
không củng cố được thành quả đã học. Làm người phải lấy trung tín làm chính.
Không kết giao bạn bè với người chẳng như mình. Có sai lầm không sợ sửa chữa".
Ngoài ra, Tăng Tử nói "Mình làm được lại đi hỏi người không làm được, mình biết
nhiều mà lại đi hỏi người biết ít. Có tài học mà lại giống như không, tri thức đầy đủ
mà lại như không có gì. Người khác xúc phạm mình mà mình cũng không tranh
biện. Bạn của ta từ trước đã từng làm được như vậy". Khổng Tử nói "Người quân
tử ung dung, khoan thai nhưng không kiêu ngạo, phóng túng. Kẻ tiểu nhân ngạo
mạn, phóng túng nhưng không có tác phong đàng hoàng".
Chính vì khéo cư xử nên người có đạo đức không bao giờ bị cô lập, nhất định có
bè bạn gần gũi thân thiết. Tử Cống hỏi "Người cả làng đều khen thì người ấy là
người như thế nào?". Khổng Tử nói "Chưa hẳn là người tốt". Tử Cống lại hỏi
"Người cả làng đều ghét thì người này là người như thế nào?". Khổng Tử nói
"Chưa hẳn là người xấu. Không bằng người thiện trong làng khen, kẻ ác trong làng
ghét, mới có thể cho là người tốt".

Trạng Lường Lương Thế Vinh (1441-1496), một nhà Nho nổi tiếng tài trí trong
lịch sử Việt Nam
Người có đạo đức và trí tuệ cao hơn quân tử là thánh nhân. Quân tử là người
thực hành các đạo lý do thánh nhân truyền dạy còn thánh nhân là người thông hiểu
đạo lý trời đất; người có thể soạn ra cương lĩnh, biện pháp lớn để quản lý thiên hạ.
Sách Trung Dung viết:
"Chỉ có bậc chí thánh trong thiên hạ mới có đủ: Tài trí thông minh, nhìn xa
thấy rộng, đủ sức để cai trị thiên hạ. Có lòng khoan dung độ lượng đủ để
bao dung dân chúng và vạn vật. Tính tình cương nghị quyết đoán đủ để cầm
nắm việc chính sự. Thái độ đoan chính ngay thẳng để mọi người kính nể.
Văn chương điển lý tinh tế, xét đoán minh bạch đủ để phân biệt phải trái.
Đạo đức của bậc chí thánh rộng lớn, sâu xa vô bờ bến, bao la rộng lớn như
trời cao, sâu như vực thẳm... Chỉ có bậc thánh nhân có đức thật cao cả mới
có thể soạn ra được cương lĩnh, biện pháp lớn để quản lý thiên hạ, xây dựng
bồi đắp cái gốc lớn cho thiên hạ, thông hiểu hết đạo lý trời đất nuôi dưỡng
vạn vật...".
Giáo sư Vũ Khiêu đã nhận xét: "Nho giáo đã nhận thức được thực tế là những
người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân.
Đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại.
Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải "tu thân" để làm tấm gương cho
người dưới. Với việc đề cao tu thân, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có
đạo đức... Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân
đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng
nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền
phải luôn "tu, tề, trị, bình".
Trong Nho giáo, "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín" được đặt ra trong quan hệ của con người
với chính bản thân mình để tu thân, còn chính danh là yêu cầu đạo đức được đặt ra
trong quan hệ với người khác (với xã hội) để làm cho xã hội ổn định, phát triển.
Những quan niệm này của Nho giáo cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và có ý
nghĩa thời sự của nó. Trong điều kiện hiện nay, khi mối quan hệ của con người với
con người càng được mở rộng, khi xã hội đang có những biểu hiện xuống cấp về
mặt đạo đức, tệ quan liêu, hối lộ, tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thì tư tưởng
về đạo làm người trong mối quan hệ với xã hội của Nho giáo lại càng có ý nghĩa,
góp phần điều chỉnh hành vi của mỗi người để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.
1.3.8 Triết lý giáo dục
Nho giáo xem trọng hiền tài. Các triều đại quân chủ tôn sùng Nho giáo chủ
trương tuyển dụng nhân tài cho đất nước qua các kỳ Khoa bảng . Các thí sinh đỗ
đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho
triều đình.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo là chủ trương khuyến khích giáo dục,
coi trọng người hiền tài:

“ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia


Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh
Nguyên khí yếu thì quốc gia suy ”

Các thí sinh dự thi khoa bảng nếu đỗ sẽ được nhận áo mũ vua ban.
Nho giáo có nhiều yếu tố tiến bộ khi quan niệm rằng giáo dục là cần thiết
cho tất cả mọi người, "hữu giáo vô loại" (việc dạy dỗ không phân biệt loại người)
nên ai cũng có cơ hội được học tập và giáo dục, đây là biện pháp để hướng con
người tới những phẩm chất cao quý như "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Nho giáo cho
rằng, giáo hóa con người là một trong những nhiệm vụ cơ bản của nhà cầm quyền
và cũng là phương tiện hữu hiệu để đưa xã hội từ loạn lạc thành "thái bình thịnh
trị".
Trước thế kỷ V, cách tuyển chọn quan chức ở Trung Quốc chủ yếu là
theo “cửu phẩm trung chính chế”, tức là chủ yếu dựa vào hoàn cảnh xuất thân, vì
thế, con em của các nhà quý tộc luôn được chọn vào các bậc quan cao, gây lũng
đoạn chính sách địa phương. Chế độ khoa cử đã đánh đổ điều này, thúc đẩy một số
đông người từ tầng lớp bình dân chuyển lên tầng lớp trên, từ đó đảm bảo được sự
đổi mới của đội ngũ quan lại. Một là tầng lớp nhà nho kinh điển bước vào hệ thống
quan lại để thực hiện lý tưởng "trị quốc bình thiên hạ", mặt khác, do xuất thân ở
tầng lớp dưới của xã hội, họ có thể hiểu được nỗi khổ của nhân dân và những cái
xấu tốt, lợi hại trong việc cai trị, trong một mức độ có thể giảm bớt những sự hư
hỏng, hạn chế hủ bại của chế độ. Do đã tiếp thu giáo dục văn hoá có hệ thống, nắm
vững những tri thức lý luận về phương pháp quản lý quốc gia, được bồi dưỡng đạo
đức tương đối tốt, đội ngũ quan lại có trình độ tương đối cao, có lợi cho việc nâng
cao hiệu suất hành chính. Nhờ hệ thống khoa cử các quốc gia Đông Á thời trung cổ
được cai trị bằng một tầng lớp tinh hoa có học vấn cao, không phân biệt xuất thân
chứ không phải bằng một tầng lớp quý tộc cha truyền con nối như tại phương Tây.

Lễ Tế Khổng Đại Điển tại đền thờ Khổng Tử ở Đài Loan năm 2013
Chế độ khoa cử bắt đầu từ nhà Tuỳ, định kỳ tiến hành những cuộc thi, thông
qua những cuộc thi mà tuyển chọn quan chức, biện pháp này cũng gọi là “khai
khoa cử sĩ” (mở khoa thi, chọn quan lại), kết thúc vào đời Thanh, tồn tại trong xã
hội Đông Á hơn 1400 năm, nó đã có ảnh hưởng to lớn với sự phát triển của xã hội
Đông Á. Chế độ khoa cử có tính cạnh tranh bình đẳng nhất định về trình độ, có ích
cho sự thống nhất và phổ cập văn hoá, cho việc ổn định và củng cố sự thịnh trị của
các vương triều nên nó rất được coi trọng, bất kỳ hành vi gian lận nào đều bị trừng
phạt rất nghiêm khắc. Nhiều triều đình còn cho dựng bia đá, chép sách lưu danh
Tiến sĩ để nêu gương muôn thuở.
Những người đố đạt được triều đình ban thưởng rất hậu và cho làm quan, gia
đình dòng họ thì tự hào vì đã làm rạng rỡ tông môn. Người không đỗ đạt thì ở nhà
dạy học, bốc thuốc, trở thành những người truyền bá văn hoá, tạo thành một xã hội
có phong tục tốt đẹp và truyền thống hiếu học.
Do giáo dục được coi trọng, người có kiến thức và văn hóa được xã hội tôn
trọng. Từ xưa đến nay, dù là quý tộc hay dân thường, dù giàu hay nghèo thì đều
tìm mọi cách đưa con cháu đi học để thành người có đạo đức và tri thức. Địa vị của
người thầy rất cao, dân gian có nhiều cách nói về tôn trọng người thầy, ví dụ
như “Tôn sư bất luận quý tiện bần phú” (bất kể giàu nghèo sang hèn đều phải tôn
trọng người thầy), “nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (Một ngày làm thầy, cả đời
làm cha)... Từ thường dân đến hoàng đế đều rất tôn trọng người thầy, thể hiện
trong mọi mặt cuộc sống xã hội. Hiện nay, một số nước như Trung Quốc chọn
ngày 10/9, Đài Loan chọn ngày 28/9, Việt Nam chọn ngày 20/11... làm Ngày Nhà
giáo để thể hiện sự tôn trọng đối với nghề giáo. Ví dụ, Ngày Nhà giáo tại Đài Loan
là một ngày lễ rất lớn, được tổ chức ở hầu khắp các đền thờ Khổng Tử, lễ này còn
được gọi là Tế Khổng Đại Điển , được chỉ đạo tổ chức bởi hậu duệ đứng đầu dòng
họ Khổng của Khổng Tử (người này được chính quyền Đài Loan tặng chức vụ
danh dự "Đại thành chí thánh tiên sư phụng tự quan" và cấp ngân sách cho việc tế
tự Khổng Tử). Trong buổi lễ luôn có phần trao giải thưởng cho các nhà giáo có
nhiều cống hiến quý giá cho nền giáo dục.

Một lớp học chữ Nho vào khoảng năm 1895 ở Việt Nam
Triết lý giáo dục của Nho giáo chủ trương giáo dục toàn diện. Khổng Tử nói:
"Người quân tử không thể giống như khí cụ là chỉ có một tác dụng". Ngoài ra, ông
cũng từng nói "Học ba năm mà chẳng để chí vào việc cầu bổng lộc, chẳng dễ mà
có được người như vậy".
Nho giáo nêu quan điểm đề cao Đức dục. Đức dục phải được đặt lên trên Trí dục.
Khổng Tử nói: "Tuổi trẻ muốn nên người, ở nhà cần phải hiếu thuận với cha mẹ, ra
ngoài phải tôn kính người hơn tuổi mình, hành vi phải cẩn thận, lời nói phải giữ
điều tín, yêu thương rộng rãi mọi người, biết gần gũi người có đức nhân. Làm được
vậy rồi, nếu còn dư năng lực, thời gian thì học tập tri thức."
Về phương pháp học tập, Khổng Tử nói: "Học mà không suy nghĩ sẽ chẳng
có thu hoạch gì, chỉ suy nghĩ mà không học sẽ rất nguy hiểm". Sách Trung
Dung có đoạn "Trừ khi không chịu học, đã học mà chưa hiểu thì chưa dừng lại,
nếu đã chịu hỏi mà chưa rõ, đã chịu suy nghĩ mà chưa tìm ra giải pháp, đã tranh
luận mà chưa ra nhẽ, đã chịu làm theo mà chưa tốt, thì đều chưa dừng lại. Người
khác làm một lần, mười lần mà có thể đạt được, mình hãy bỏ công một trăm lần,
một nghìn lần. Nếu chịu làm theo phương pháp này, thì dù cho có ngu độn đến
mấy cũng trở thành thông minh, dù cho có nhu nhược đến mấy cũng trở nên cứng
rắn".
Khổng Tử đề cao tinh thần dân chủ trong giáo dục. Ông nói "Kẻ nào không ấm ức
vì chưa hiểu được, thì ta chẳng gợi mở cho mà thông hiểu được. Kẻ nào không
hậm hực vì không bày tỏ ý kiến ra được, thì ta chẳng hướng dẫn cho mà nói được.
Người học đã biết rõ một góc mà chẳng biết xét để biết ba góc kia thì ta chẳng dạy
cho kẻ ấy nữa".
Tinh thần học tập của Nho giáo có thể khái quát trong câu nói của Khổng Tử "Buổi
sáng biết được chân lý thì dù cho buổi chiều có chết cũng cam tâm".

CHƯƠNG 2. TIẾN TRÌNH DU NHẬP NHO GIÁO VÀO VIỆT


NAM VÀ NHỮNG ĐIỂM HẠN CHẾ CỦA NHO GIÁO
2.1. Bối cảnh lịch sử
 Điều kiện địa lý, lịch sử:
- Về vị trí địa lý, Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á27, về hướng Bắc, cả
trên đất liền và biển, Việt Nam đều tiếp giáp Trung Quốc, giữ vai trò là cửa ngõ,
thuận lợi nhất cho Trung Quốc nếu muốn xuống phía Nam. Xuất phát từ vị trí
địa lý đó, từ xa xưa Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra sự giao lưu kinh tế -
văn hoá giữa các tộc người thuộc hai quốc gia trong một không gian có không ít
tương đồng về địa lý, lịch sử và văn hóa. Là sản phẩm của Trung Quốc cổ đại,
Nho giáo được truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường giao lưu
văn hóa bình thường mà thông qua con đường xâm lược.
- Bằng nhiều thủ đoạn khác nhau, qua các thời điểm khác nhau dưới thời Bắc
thuộc, giai cấp phong kiến thống trị phương Bắc đã truyền bá Nho giáo vào
Việt Nam, xem đó là công cụ tinh thần để thống trị và đồng hóa người Việt.
Đầu thế kỷ XV, sự xâm lăng của nhà Minh trên đất nước ta với những chính
sách cai trị tàn bạo, xét ở một phương diện nào đó, đã củng cố cho sự phát triển
sâu rộng của Nho giáo ở Việt Nam.
- Bên cạnh con đường của sự xâm lược, các yếu tố văn hóa Trung Hoa28 trong
đó có tư tưởng Nho giáo cũng tràn vào đất phương Nam theo dấu chân của các
đoàn thương gia. Đồng thời, hoạt động đối ngoại của các sứ giả triều đình trong
mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử đã tạo cơ
hội để người Việt hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho giáo Trung Quốc, tiếp
nhận kinh điển Nho giáo.
 Điều kiện chính trị:
- Các triều đại phong kiến Việt Nam khi đã thiết lập bộ máy chính quyền của
mình với sự tập trung cao độ quyền lực vào một dòng họ thống trị, đứng đầu là
một ông vua thì việc tìm được một hệ tư tưởng có khả năng phản ánh lợi ích,
địa vị thống trị của triều đại mình, đồng thời giúp đỡ cho hoạt động quản lý xã
hội, cai trị đất nước của vương triều là một điều hết sức thiết yếu. Cùng với
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo29 cũng sớm du nhập Việt Nam và tạo ra ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội.
- Tuy nhiên, Phật giáo và Đạo giáo trong bản chất không phải là một đạo trị
nước mà chỉ có Nho giáo ở góc độ một học thuyết chính trị - đạo đức, chủ
trương quyền hành phải tập trung vào thiên tử, bảo vệ quyền lợi của dòng họ
thống trị và các địa vị tôn quý của nó, đồng thời đưa ra cái gọi là “tam
cương”30, “ngũ thường”31 như là những chuẩn mực cho hành vi ứng xử của
con người đã tỏ ra là một công cụ hữu hiệu giúp các triều đại củng cố sự thống
trị giai cấp, ổn định trật tự xã hội nói chung, đáp ứng được yêu cầu của giai cấp
phong kiến thống trị. Do đó, các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bước
tạo điều kiện cho Nho giáo phát triển, biến nó thành ý thức hệ vững chắc để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị.Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở

27
ở vào phía đông nam của châu Á, bao gồm hai bộ phận lớn bán đảo Ấn - Trung và quần đảo Mã Lai
28
ban đầu để chỉ mảnh đất giàu văn hóa Hà Nam
29
là một nhánh triết học và tôn giáo của Trung q, được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của đất nước này
30
đã được giải thích ở mục 1.2.2
31
đã được giải thích ở mục 1.2.2
Việt Nam gắn với xu thế đi lên tập quyền và thống nhất của chế độ phong kiến
dân tộc.
 Điều kiện kinh tế - xã hội:
- Nền kinh tế nước ta trong xã hội Việt Nam trước đây về thực chất, là một nền
kinh tế nông nghiệp lúa nước mang tính lạc hậu, khép kín, ổn định. Chính cơ
sở kinh tế ấy khiến cho con người ta có sự cố kết cộng đồng hơn, hoà nhập vào
thiên nhiên, chịu ảnh hưởng của thiên nhiên và sùng bái thiên nhiên (trời, đất),
khiến con người trong các xã hội ấy tôn trọng tuổi tác, tôn trọng những người
có kinh nghiệm, tôn trọng trật tự trong gia đình và xã hội, chú trọng sự hài hoà,
hoà hợp… - Trong nền sản xuất tiểu nông ấy, người nông dân tiến hành 8 canh
tác với kỹ thuật thô sơ và lối làm ăn riêng lẻ, đồng thời mỗi gia đình trở thành
một đơn vị sản xuất hoàn chỉnh và vai trò của người chủ gia đình hết sức được
đề cao. Nền sản xuất ấy trong xã hội phong kiến đã tồn tại trên một chế độ
ruộng công, tạo ra các làng xã tự trị có tính chất như một công xã nông thôn.
Cùng với quan hệ đẳng cấp của xã hội phong kiến, quan hệ gia trưởng phụ
quyền, thị tộc góp phần làm tăng thêm tôn ti trật tự của gia đình, làng xã. Đó
chính là mảnh đất thuận lợi nhất để Nho giáo tồn tại và phát triển ở Việt Nam.
 Điều kiện văn hóa - giáo dục:
- Sau thời Bắc thuộc32, Nho giáo du nhập Việt Nam gắn với nhu cầu phát triển
văn hóa - giáo dục của các triều đại phong kiến nước nhà. Để nắm quyền quản
lý đất nước, các triều đại Lý - Trần đã quan tâm đến việc nâng cao tri thức.
Đồng thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà nước phong kiến, nên việc
bổ nhiệm quan lại bằng con đường cũ - con đường “nhiệm tướng” và “thủ sĩ”
không đáp ứng được, mà cần phải có một phương thức đào tạo và tuyển lựa
quan lại mới để bổ sung vào đó.
- Điều này chỉ thực hiện được bằng việc phát triển một nền giáo dục mới, với
chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài mà lúc này, chỉ có Nho giáo, với hệ thống lý
thuyết đầy đủ về giáo dục và khoa cử, mới có thể đảm đương được nhiệm vụ
lịch sử đó. Do vậy, từ cuối thời Trần, số người tiến thân bằng con đường cử
nghiệp ngày càng nhiều, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước.
- Từ thời Lê đến thời Nguyễn, cho dù thời cuộc biến động, chủ trương chung
của nhà nước phong kiến vẫn là mở mang, phát triển giáo dục Nho học, tuyển
lựa nhân tài cho đất nước. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy
tàn của chế độ phong kiến và việc bãi bỏ giáo dục, khoa cử Nho học, Nho giáo
cũng mất đi vị trí và vai trò của mình. Sự tồn tại của Nho giáo trong xã hội
phong kiến Việt Nam gắn bó không thể tách rời với việc giáo dục, khoa cử của
nhà nước phong kiến.
2.2. Quá trình truyền bá Nho giáo vào nước mình
2.2.1 Giai đoạn Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam
- Giai đoạn đầu Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam tương ứng với thời kỳ
Bắc thuộc trong lịch sử dân tộc, Nho giáo được truyền vào Việt Nam một cách
32
chỉ thời kỳ Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình Trung Quốc, nghĩa là thuộc địa của Trung Quốc
áp đặt trong âm mưu đồng hóa dân tộc của các thế lực phong kiến phương Bắc,
do đó thời kỳ này người Việt tiếp nhận Nho giáo hết sức chậm chạp, thụ động,
tiếp thu chủ yếu những yếu tố kỹ thuật, văn hóa mang tính thực dụng và gần
gũi với truyền thống người Việt.
- Lực lượng truyền bá Nho giáo lúc này chủ yếu là chính quyền đô hộ, các viên
quan cai trị như Tích Quang33, Nhâm Diên34, Sĩ Nhiếp35... Bên cạnh đó, các
nho sĩ di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam vì nhiều lý do khác nhau cũng tham
gia vào quá trình truyền bá Nho giáo và văn hóa Hán ở Giao Châu36 bấy giờ.
- Sau khi xâm lược nước ta, cùng với việc chia lại khu vực hành chính và tổ
chức bộ máy cai trị trên vùng đất mới chiếm được theo chế độ quận huyện của
Trung Quốc, lực lượng đô hộ thực hiện một loạt các chính sách, biện pháp
nhằm đồng hóa nhân dân ta mà theo đó Nho giáo được truyền bá vào: Thứ nhất,
bắt nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán theo người Trung Quốc; Thứ hai,
phổ biến tiếng Hán và chữ Hán trong nhân dân nhằm thay đổi ngôn ngữ, chữ
viết của người Việt; Thứ ba, mở trường dạy học để truyền bá Nho giáo nhằm
đồng hóa dân tộc ta về tư tưởng tinh thần.
2.2.2. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận chủ động ở Việt Nam
- Xuất phát từ nhu cầu củng cố nhà nước quân chủ tập quyền và trật tự của xã
hội phong kiến, nhu cầu phát triển văn hóa giáo dục, từ thời Lý - Trần, nhà
nước phong kiến đã chủ động tiếp nhận và sử dụng Nho giáo trong quản lý đất
nước. Nho giáo trong giai đoạn này được truyền vào Việt Nam chủ yếu thông
qua các hoạt động như: Các chuyến đi sứ; Xin sách, nhân bản sách; Những
luồng người nhập cư. Về cách thức Nho giáo được tiếp nhận ở Việt Nam:
 Thứ nhất, các vị vua thời Lý - Trần đã cho mở mang giáo dục Nho giáo, xem
trọng khoa cử Nho học và từng bước đưa nó trở thành công cụ chính để tăng
cường sự thống trị của giai cấp phong kiến, tạo nên sức mạnh cho bộ máy nhà
nước;
 Thứ hai, Nho giáo được phổ biến và gây ảnh hưởng trong xã hội cùng với sự
mở rộng và vị thế ngày càng tăng của tầng lớp nho sĩ;
 Thứ ba, sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn này còn
thông qua đóng góp của của các tăng sĩ - những người có ảnh hưởng lớn trong
triều đình 10 và xã hội bấy giờ. Sự ảnh hưởng của Nho giáo trong lĩnh vực giáo
dục đã tác động trực tiếp vào sự hình thành đội ngũ trí thức dân tộc, tạo nên
những bậc danh nho, danh tướng lẫy lừng, những người có đóng góp lớn trong

33
quê ở Tây Thành, Hán Trung (nay là An Khang) thời Hán Ai đế Lưu Hân (6-1 TCN) làm thứ sử Giao Châu, rồi
đổi làm thái thú Giao Chỉ
34
tên tự Trường Tôn, quê Nam Dương. Năm đầu niên hiệu Kiến Vũ (25) hoàng đế gọi y về cho đi nhậm chức thái
thú Cửu Chân
35
là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như một
quốc gia độc lập từ 187 đến 226.
36
là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao
gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Quốc ngày nay.
lịch sử dân tộc Việt Nam như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán
Siêu, Chu Văn An, Cao Bá Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Lê Phụng
Hiểu, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Trần
Khánh Dư...
2.2.3. Giai đoạn Nho giáo được tiếp nhận làm hệ tư tưởng chính thống của nhà
nước phong kiến Việt Nam
- Nhằm củng cố và tăng cường chế độ tập quyền phong kiến trung ương, chuẩn
mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự xã hội, từ thời Lê sơ trở đi, giai cấp cầm
quyền đã hết sức đề cao Nho giáo, xem đó là cơ sở lý luận để xây dựng đất nước,
làm bệ đỡ tư tưởng bảo vệ lợi ích của vương triều. Nho giáo trong giai đoạn này
được truyền bá vào nước ta thông qua nhiều hoạt động: hoạt động chính trị, ngoại
giao hai nước, trao đổi ấn phẩm, dịch thuật sách chữ Hán và sự tiếp xúc với những
người di cư. Từ thời Lê đến thời Nguyễn, nhà nước phong kiến đã tiến hành rất
nhiều biện pháp nhằm phổ biến Nho giáo trong nhân dân, làm cho nó trở thành tư
tưởng chi phối sâu sắc toàn diện xã hội: Thứ nhất, giai cấp thống trị thời kỳ này hết
sức chú trọng mở mang giáo dục và khoa cử Nho học; Thứ hai, thời kỳ này, nhà
nước phong kiến còn ban hành các văn bản chính trị - xã hội dựa trên hệ thống
quan điểm Nho giáo; Thứ ba, nhằm đề cao Nho giáo, triều đình còn thi hành những
biện pháp hạn chế Phật giáo, Đạo giáo. Thông qua các chính sách, biện pháp đó,
Nho giáo đã từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực xã hội, đi sâu vào các thiết chế
làng xã, tác động lớn đến thế giới quan, nhân sinh quan của những người theo học
đạo nho. Giai đoạn này gắn liền với tên tuổi của những nhà nho xuất sắc như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Quý Đôn, Ngô Thì
Nhậm, Lê Thánh Tông và Minh Mệnh... những người với tài năng, trí tuệ và bản
lĩnh của mình đã có những đóng góp to lớn, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lịch
sử nước nhà.
2.3. Ưu điểm và hạn chế của Nho giáo
Tư tưởng Nho giáo chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư
tưởng Trung quốc. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống mọi mặt
của xã hội Trung quốc suốt hơn 2000 năm lịch sử và một số nước á đông khác như
Nhật bản, Triều tiên, Hàn quốc... Bắt đầu từ thời kỳ nhà Hán cho đến triều Mãn
Thanh, Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính thống của các triều đại phong kiến
Trung Hoa.
Muốn duy trì một trật tự xã hội, lý thuyết phương Đông là mong muốn duy
trì ổn định xã hội. Ngày nay, dưới góc độ ổn định xã hội thì những bài học triết lý
của Nho giáo có tác dụng ổn định quan hệ chính trị - xã hội, quan hệ gia đình. Nho
giáo tin tưởng vào bản tính thiện của con người, vì vậy mà rất đề cao giáo dục. Tuy
Nho giáo cũng có nhiều tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao nhưng không
quán xuyến và sâu sắc.Nho giáo vào Việt nam từ những năm cuối trước Công
nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành
quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của truyền thống dân tộc Việt
nam và Phật giáo. Ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta có cả mặt tích cực và
tiêu cực.
2.3.1 Ưu điểm
Thứ nhất: Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và
bảo vệ chủ quyền dân tộc. Quá trình du nhập, tiếp thu và cải biến. Nho giáo ở
người Việt không chỉ đáp ứng được yêu cầu quản lý đất nước của giai cấp phong
kiến dân tộc bấy giờ mà còn góp phần vào việc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ của
người Việt nói chung trước triều đình phương Bắc. Trước hết, quá trình Nho giáo
du nhập Việt Nam đã cung cấp nền tảng tư tưởng cho việc quản lý và cai trị đất
nước của các triều đại phong kiến, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước quân chủ
tập quyền, thống nhất. Các quan điểm về mệnh trời, chính danh định phận, tam
cương, ngũ thường, trung hiếu lễ nghĩa,... của Nho giáo Trung Quốc đã trở thành
nền tảng tư tưởng cho triều đình Việt Nam tổ chức nên hệ thống cai trị, quy định
nên các sinh hoạt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán,... mang
sắc thái Việt Nam. Từ thời Lê sơ, những nguyên tắc chính trị - đạo đức của Nho
giáo bắt đầu được vận dụng vào việc chuẩn mực hóa kỷ cương triều đình và trật tự
xã hội, góp phần củng cố và tăng cường chế độ tập quyền phong kiến trung ương.
Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam, trong đó có
nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì
Nhậm. Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ
đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh hưởng rất đậm
nét ở Việt Nam, nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở
thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến.
Thứ hai: Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo
Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa
giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng nhân dân sử
dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như:
+ "Tiên học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa
đến nay. Hồ Chí Minh ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn
thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” 37
+ Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại" 38 của Khổng Tử đã
được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.
Đức nhân, nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan
dung, độ lượng với nhau. Cùng với việc đề ra những chuẩn mực, quy phạm đạo
đức, Nho giáo khẳng định: tu thân là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan
trọng nhất trong việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Quan niệm tu thân của Nho giáo
37
Chủ tịch Hồ Chí Minh(2011), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hồ Chí Minh: Toàn tập, tr.208.
38
Nghĩa là việc dạy dỗ không phân biệt đẳng cấp, Khổng Tử và những đệ tử của mình biên soạn(551 TCN - 479
TCN), Luận Ngữ , Tr.82
càng phát huy ý nghĩa to lớn trước: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo
và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất
nước”39. Nhận diện và kế thừa những ảnh hưởng tích cực trong quan niệm giáo dục
Nho giáo về tu dưỡng đạo đức là hết sức cần thiết. Chính quá trình không ngừng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân sẽ giúp cho mỗi người không bị sa đọa, dối
trên, gạt dưới, mưu lợi cá nhân. Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng
không phải ở trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển và củng cố”40.
Thứ ba: Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự
xã hội. Sự du nhập, kế thừa và vận dụng học thuyết Nho giáo của giai cấp phong
kiến thống trị Việt Nam không những đã cải biến chế độ chính trị - xã hội còn
nhiều yếu tố đơn sơ, chất phác của thời kỳ Văn Lang -Âu Lạc, không những đã xóa
bỏ những tàn tích nô lệ và phụ thuộc của thời kỳ Bắc thuộc, biến Việt Nam thành
một xã hội phong kiến độc lập, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội đó nhanh chóng
đi đến chỗ tập quyền và thống nhất. Nho giáo với các tư tưởng chính trị - đạo đức
như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân chính" luôn luôn là bài học quý giá và được
vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam. Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" 41đã
viết: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", và "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Đem
chí nhân để thay cường bạo". Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với
khẩu hiệu: "Dân giàu, nước mạnh" và "Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng". Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ
những tư tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ.
Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân bất nghị" tức là dân thường không có
quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai
trò của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương nam nữ bình quyền.
2.3.2 Nhược điểm
Bên cạnh những “đóng góp” của Nho giáo đến Việt Nam một phần đáng kể,
Nho giáo đã trực tiếp và gián tiếp gây hại cho nền văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội
của Việt Nam.
- Trên lĩnh vực chính trị: Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và
duy tâm về mặt triết học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội
phong kiến trong lịch sử. Tư tưởng trung quân của Nho giáo khiến cho nhiều nho
thần, nho sĩ Đại Việt đều dốc sức bảo vệ ngai vàng, khôi phục ngai vàng cho
39
Đảng Cộng Sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia,
tr.173.
40
Hồ Chí Minh(2013), Toàn tập- tập 11, Nxb . Chính trị quốc gia - Sự Thật, tr.612.
41
Tác phẩm dùng để thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng
chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai
của Việt Nam, Nguyễn Trải(1429), Bình Ngô đại cáo
những dòng vua, những ông vua ăn hại, bù nhìn. Thay vì làm cho non sông nhất
thống, họ lại làm cho chính sự suy đồi, đất nước loạn lạc, dân chúng lầm than. Nhà
Mạc giết vua cướp ngôi, sau khi mất nước lại dấy binh làm loạn, vẫn được nhiều
người tôn phò để tái lập vương triều ở Cao Bằng. Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh,
một gã lang thang bất tài vô tướng, làm vua Lê Trang Tông để tái lập nhà Lê, chỉ vì
y là con cháu nhà Lê. Trịnh Tùng và con cháu giết hại các vua Lê, nhưng không
chính thức cướp ngôi, không phải vì sợ cái uy tín đã tiêu mòn của các vua Lê, mà
vì tư tưởng trung quân sâu nặng trong xã hội Đàng Ngoài. Nguyễn Gia Long thống
nhất đất nước, chấm dứt chiến tranh, nhiều người vẫn nhân danh khôi phục nhà Lê
để khởi binh chống lại, gây loạn lạc kéo dài trên đất Bắc. Tệ hại hơn nữa, những kẻ
ngu trung hoặc lợi dụng chữ trung còn vứt bỏ cả liêm sỉ, lòng tự hào dân tộc, để
làm tay sai cho giặc, mãi quốc cầu vinh. Lê Chiêu Thống “cõng rắn cắn gà nhà”,
vẫn được các cựu thần, hoàng tộc tôn phò. Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại là
những vua bù nhìn, nhưng vẫn được triều thần phò tá, trung thành, dẫu biết rằng
trung quân như vậy thực chất là trung thành với Pháp. Thời trước, những châm
ngôn như: “Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất
hiếu” là châm ngôn cửa miệng của nhà nho. Bao nhiêu đạo và đức mà bậc chính
nhân quân tử cần phải có, chung quy lại đều không qua được cái đạo trung quân vô
điều kiện. Nho giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong
kiến ở Á Đông nói chung và ở Việt nam nói riêng.
- Trên lĩnh vực xã hội: Quan điểm bất bình đẳng của Nho giáo đã chà đạp
phụ nữ Việt Nam xuống đất đen. “Đạo” mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là
đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. “Đức” mà Nho
giáo dạy cho phụ nữ là tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”. Tất cả là để cho người
phụ nữ làm tròn chức trách phục vụ đàn ông. Đã thế, nền giáo dục và khoa cử theo
Nho giáo cũng chỉ dành cho nam giới; gần 100% phụ nữ Việt Nam bị gạt ra ngoài,
chỉ được thụ hưởng giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất hiếm người được học
chữ, học hỏi kiến thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong suốt thời trung đại, toàn bộ
việc làng, việc nước là việc của đàn ông. Việc của phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”,
có thể kiêm thêm việc chạy chợ, chạy đồng, đầu tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà
địa vị trong gia đình, xã hội của họ được nâng lên. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo,
truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán,
bất bình đẳng.
- Trên lĩnh vực kinh tế: Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân
kìm hãm sản xuất phát triển ở Việt Nam. Sự độc tôn Nho giáo đã kiềm hãm kinh tế
Việt Nam, làm suy yếu các nguồn nội lực, là một trong những nguyên nhân làm
cho Việt Nam mất nước. Do ý thức hệ Nho giáo, một số nghề nghiệp trong xã hội
Việt Nam đã bị coi khinh, mặc dù cần thiết, có ích cho cuộc sống của con người
như nghề xướng ca, nghề thương mại... Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, Nho giáo
không thúc đẩy không thúc đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên bởi phương
phấp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm đến đạo đức,học và dậy làm
người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Tuy vậy, thời Nam Bắc
phân tranh, do nhu cầu tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, các chính quyền Đàng
Ngoài và Đàng Trong đều thi hành chính sách mở cửa giao thương, hình thành
cảng thị như Phố Hiến, Hội An, Nông Nại đại phố, Mỹ Tho đại phố, Sài Gòn, Hà
Tiên. Bước sang thời nhà Nguyễn, khi đất nước thống nhất, ý thức hệ Nho giáo
hoàn toàn thắng thế, chính sách “trọng nông ức thương”, “bế quan tỏa cảng” trở
thành một thứ quốc sách, kìm hãm đất nước trong vòng lạc hậu đói nghèo, là một
trong những nguyên nhân dẫn đến mất nước về tay Pháp.
Chính vì những lẽ trên, Nho giáo càng đạt tới tột đỉnh quyền uy thì đất nước
Việt Nam càng suy yếu, văn hóa Việt Nam càng suy thoái. Tệ hại hơn nữa, là khi
đụng độ với văn minh vật chất vượt trội của Phương Tây, nguy cơ mất nước đã gần
kề, những đồ đệ trung thành của cửa Khổng sân Trình vẫn còn bám vào những tư
tưởng “siêu việt” của Nho giáo để dè bỉu bọn “Tây di”, từ chối các yêu cầu cải
cách, duy tân. Trước nạn vong quốc, Nho giáo đã bất lực và tàn lụi. Khi Việt Nam
trở thành thuộc địa và đất bảo hộ của thực dân, Nho giáo trở thành đống rác cũ,
nhưng vẫn được chế độ thực dân bán phong kiến lưu dụng để tiếp tay cho chúng nô
dịch nhân dân. Phải đến đầu thế kỷ XX, phong trào Duy Tân - Đông Du do các trí
thức Nho học và Tây học khởi xướng mới thật sự kết liễu số phận của Nho giáo,
mở ra cho đất nước một chặng đường mới trong quá trình tiếp biến văn hóa
Phương Tây và hội nhập văn hóa thế giới.

CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA


QUÁ TRÌNH NHO GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM
3.1. Đặc điểm của Nho giáo
3.1.1. Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam
Tính phức tạp của quá trình Nho giáo du nhập Việt Nam thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, Nho giáo được truyền bá và tiếp nhận ở Việt Nam không hoàn toàn đi
theo quy luật giao lưu văn hóa thông thường mà trước hết là do sự áp đặt của các
thế lực xâm lược phương Bắc với âm mưu đồng hóa về văn hóa, tư tưởng đối với
nhân dân ta. Thứ hai, sự truyền bá và tiếp nhận Nho giáo vào Việt Nam diễn ra liên
tục, ở nhiều thời điểm, với mục đích, nội dung và tính chất khác nhau.
Ở giai đoạn đầu tiên của quá trình du nhập, với âm mưu bành trướng lãnh
thổ, đồng hóa nhân dân Việt Nam, Nho giáo truyền vào Việt Nam buổi đầu phải là
Hán Nho. Tuy nhiên, nếu sự truyền bá Nho giáo diễn ra mạnh mẽ, chủ động và chủ
yếu là áp đặt thì sự tiếp nhận diễn ra chậm chạp, thụ động và bị ép buộc. Lúc này,
nhân dân ta chủ yếu học hỏi, tiếp thu kĩ thuật canh tác nông nghiệp, văn hóa phong
tục tập quán từ người Trung Quốc như về phục trang, hôn thú, lễ nghi,.. chứ không
phải tiếp nhận những quan điểm hệ thống về chính trị, đạo đức, bản thể của Nho
giáo như ở các giai đoạn sau. Đồng thời, người Việt lại lựa chọn tiếp nhận Phật
giáo và Đạo giáo như là cách thức để chống lại sự áp đặt và đồng hóa văn hóa của
thế lực xâm lược. Sau thời Bắc thuộc, trước yêu cầu đặt ra về việc xây dựng và
phát triển nhà nước Đại Việt, giai cấp phong kiến bản địa với sứ mệnh xây dựng
một quốc gia phong kiến độc lập tự chủ giàu mạnh đã chủ động tiếp thu Nho giáo
thông qua giao lưu kinh tế, văn hóa, ngoại giao với Trung Hoa. Sự tiếp nhận Nho
giáo lúc này đạt được những kết quả nhất định về phát triển văn hóa, giáo dục và
sự hình thành đội ngũ nho học. Những quan niệm về vũ trụ vạn vật, trời đất, con
người, về những vấn đề chính trị - xã hội, đạo đức, nhân sinh của Hán Nho và
Tống Nho đã có những tác động nhất định vào đội ngũ những người học Nho. Tuy
nhiên, do bối cảnh đất nước ở giai đoạn mới giành tự chủ còn chưa ổn định, yếu tố
truyền bá diễn ra chưa thật mạnh mẽ, sâu sắc và sự tiếp nhận Nho giáo cũng chưa
diễn ra trên bình diện rộng. Từ thế kỷ XV, quá trình du nhập Nho giáo mới diễn ra
thật sự mạnh mẽ, Nho giáo đã thay thế vị trí của Phật giáo để đóng vai trò là trung
tâm của tam giáo, trở thành nền tảng của mọi thiết chế chính trị, xã hội, ảnh hưởng
sâu sắc đến mọi hoạt động văn hóa của nước nhà. Nho giáo được tiếp thu lúc này
đã mang tính hệ thống hơn, về mặt học thuật và lý luận cũng được chú ý nhiều hơn.
Các nhà nho Việt Nam từ thời Lê - Nguyễn cho đến đầu thế kỷ XX chỉ lấy các sách
của Khổng, Mạnh, Trình, Chu làm kinh điển. Họ mong muốn tìm thấy ở Nho giáo
những quan điểm, tư tưởng hữu ích cho việc xây dựng một quốc gia thái bình, một
vương triều thống nhất, một xã hội ổn định. Mặc dù cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ
XVIII, phong trào Thực học của nhà Thanh đã có ảnh hưởng đến tầng lớp học Nho
Việt Nam, tuy vậy, Tống Nho vẫn là học thuyết được truyền bá và có ảnh hưởng
sâu sắc nhất ở Việt Nam, hơn nữa càng về sau với sự độc tôn Nho giáo ngày một
cực đoan đã khiến cho sự tiếp thu Tống Nho ngày càng phiến diện, khuôn sáo,
cộng với chế độ khoa cử hư danh khiến cho phong trào học thuật suy thoái.
3.1.2. Tính dung hợp của quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam
Thuật ngữ “dung hợp” bắt nguồn từ chữ Synkretimos trong tiếng Hy Lạp cổ,
nghĩa là sự liên kết, kết hợp, pha trộn, vay mượn các bộ phận, yếu tố trong các hệ
thống khác nhau. Theo Hoàng Phê, trong Từ điển tiếng Việt, dung hợp là trạng thái
hòa vào nhau để tạo thành một thể thống nhất quá trình Nho giáo du nhập Việt
Nam, tính chất đó được thể hiện rõ rang nhất ở sự dung hợp của Nho giáo với Phật
giáo và Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam. Tam giáo du
nhập và tồn tại đồng hành ở Việt Nam không phải với tư cách từng học thuyết,
từng yếu tố văn hóa, tôn giáo đơn lập, tách biệt mà giữa chúng có nhiều mặt thâm
nhập vào nhau, hòa quyện vào nhau, chi phối như một tổng lực đối với tâm thức
người Việt. Sự dung hợp này xuất phát chủ yếu từ tính hài hòa và dung hợp của
văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở một nền văn hóa bản địa vững chắc mà ý thức hệ cốt
lõi trước hết là tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, người Việt đã tiếp nhận,
dung hợp và biến đổi các học thuyết Nho, Phật, Đạo một cách linh hoạt. Tính dung
hợp của Nho giáo với Phật giáo và Đạo giáo trong quá trình Nho giáo du nhập Việt
Nam biểu hiện cụ thể ở các phương diện: chính trị - xã hội; tư tưởng, đạo đức; văn
hóa dân gian.
Trước hết, trong lĩnh vực chính trị - xã hội, sự dung hợp của Nho giáo với
Phật giáo và Đạo giáo được biểu hiện ở sự phân công hợp tác và bổ trợ cho nhau
giữa Nho, Phật, Đạo nhằm phục vụ cho mục đích cai trị đất nước, quản lý xã hội
của nhà nước phong kiến Việt Nam. Dưới chế độ phong kiến Việt Nam, Nho, Phật,
Đạo đều có vị trí, vai trò nhất định trong đời sống chính trị - xã hội. Với tư tưởng
tôn quân quyền, đường lối tu tề, trị, bình, nguyên tắc chính danh định phận, tư
tưởng thiên mệnh trung hiếu... Nho giáo đã dần dần trở thành hệ tư tưởng cần thiết,
hữu ích và thiết thực đối với giai cấp phong kiến trong việc định hướng triển khai
đường lối cai trị, duy trì trật tự, kỷ cương xã hội và lợi ích cũng như địa vị thống trị
của họ. Còn đối với Đạo giáo và Phật giáo, giai cấp phong kiến Việt Nam khai thác
các yếu tố “tôn giáo”, “an thần”, để ổn định nhân tâm, dẫn dắt và thu phục long
người, giải tỏa những nhu cầu về mặt nhận thức. tâm linh tinh thần nói chung của
con người. Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo được tiếp nhận và sử dụng nhằm hỗ trợ,
bổ sung cho nhau cùng đáp ứng những nhiệm vụ của thực tiễn đất nước, của đời
sống xã hội trong lịch sử.
Thứ hai, trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, sự dung hợp Nho giáo vớiPhật giáo,
Đạo giáo được biểu hiện rõ nét ở sự xâm nhập, hòa quyện vào nhau trong quan
niệm về vũ trụ, vạn vật, con người, về chính trị - xã hội đặc biệt là trong triết lý đạo
đức nhân sinh của người Việt Nam. Theo Trần Thái Tông, các vị sáng lập ra Nho,
Phật, Lão vốn là những nguời bạn đồng hành: “Người chưa hiểu chia bừa thành
tam giáo, Giác ngộ rồi thấu hiểu một chữ tâm”42 . Chính vì vậy, các nhà nho một
mặt đề cao lý tưởng Nho giáo, phấn đấu theo tiêu chuẩn đạo đức Nho gia, nhưng
mặt khác, họ cũng am hiểu và tin theo Phật, Đạo, nhất là khi đứng trước những
thay đổi của cuộc đời, những biến động xã hội. Sự tồn tại của Phật giáo, Đạo giáo
ở Việt Nam bên cạnh Nho giáo được xem như một “duyên nợ”, nó giúp cho các
nhà nho “vừa hóa giải được cách nhìn cứng nhắc của hệ tư tưởng Nho giáo trong
họ, vừa có tác dụng nâng đỡ tâm hồn họ, giúp cho tình cảm của họ trở nên thanh
thản và cũng thêm uyển chuyển mềm mại, qua một thoáng trầm mặc siêu hình. Và
sau những giờ phút phải đặt mình vào cái khuôn “nhất nguyên” Nho giáo, lý trí
nặng như đá đeo vì những chuẩn mực trung, hiếu, tiết, nghĩa
khô cứng, bao giờ nhà Nho cũng bằng cách này hay cách khác tìm sự thăng bằng
trở lại cho tâm hồn họ trong các biện pháp “phóng niệm”, “buông xả” của Phật
giáo và Đạo; nó là một phương thức tiếp nhận “đa nguyên” đầy ý nghĩa, một
chuyển động ngầm nhưng hầu như khó cưỡng”. Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa dân
gian, sự dung hợp Nho giáo với Phật giáo, Đạo giáo biểu hiện ở sự thâm nhập của
tam giáo trong văn học dân gian hay trong tín ngưỡng của người Việt. Trong bộ
phận văn học dân gian Việt Nam, chúng ta thường xuyên bắt gặp những câu dân ca,
ca dao, tục ngữ đề cập đến các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo, Phật giáo, hay
Đạo giáo. Các câu chuyện cổ tích, thần thoại Việt Nam, các vị thánh thần, tiên,
Phật luôn luôn có mặt để nhắc nhở con người tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ,
đồng thời các câu chuyện cũng giáo dục con người về đạo hiếu, sự trung trinh, tình

42
Viện văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội-Hà Nội, tr.65.
nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em, bè bạn... Bên cạnh đó, sự dung hợp Nho giáo với
Phật giáo, Đạo giáo trên cơ sở văn hóa truyền thống được thể hiện trong các tín
ngưỡng dân gian của người Việt như tín ngưỡng thờ trời, tín ngưỡng thờ cúng âm
hồn, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.... Tóm lại, xuất phát từ nhờ truyền thống cởi mở,
khoan dung của người Việt, Nho giáo trong quá trình du nhập Việt Nam từ đầu
Công nguyên đến thế kỷ XIX đã đồng hành và kết hợp với Phật giáo, Đạo giáo tạo
thành hiện tượng dung hợp tam giáo ở nước ta. Trên nền tảng đó, các dòng tư
tưởng, tôn giáo này khi vào nước ta đã có nhiều biến đổi để thích ứng với thực tiễn
xã hội và đời sống tư tưởng của dân tộc ta. Đồng thời, tồn tại bên cạnh nhau, chúng
không chỉ ảnh hưởng lẫn nhau mà hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, vừa phục vụ cho nhu
cầu của giai cấp thống trị, đồng thời đáp ứng được những nhu cầu của đời sống
tinh thần của con người.
3.1.3. Tính Việt hóa của quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam
Nho giáo được truyền vào nước ta đã trải qua một quá trình bản địa hóa,
được tiếp thu, hấp thụ, được cải tạo trên cơ sở truyền thống và hệ giá trị của người
Việt trong đó, tinh thần yêu nước, ý thức độc lập tự chủ, tính gắn kết cộng đồng,
lối sống trọng tình nghĩa,... là những yếu tố cơ bản.Quá trình du nhập của Nho giáo
vào Việt Nam đã cho thấy quy luật về sự tác động qua lại giữa yếu tố yếu tố nội
sinh và yếu tố ngoại sinh. Trong đó, những yếu tố giữa yếu tố yếu tố nội sinh và
yếu tố ngoại sinh. Trong đó, những yếu tố ngoại sinh phải trải qua quá trình: lúc
đầu bị phản ứng quyết liệt, sau đó là cộng sinh và cuối cùng là hòa nhập; người
Việt cũng tiếp nhận yếu tố ngoại sinh đó và biến đổi nó theo trật tự: lúc đầu là tiếp
thu, tiếp đó là hệ thống hóa và cuối cùng là Việt hóa nó, tức là được người Việt
biến thành cái của mình. Trong mối quan hệ với yếu tố ngoại sinh, những yếu tố
nội sinh đã được biến đổi theo ba bước là: tháo rời cấu trúc cũ, sau đó sắp xếp lại
(tái cấu trúc) và cuối cùng được hiện đại hóa43 Tính chất Việt hóa của Nho giáo
trong quá trình du nhập Việt Nam được thể hiện ở ba điểm cơ bản:
Thứ nhất, người Việt đã thông diễn lại tư tưởng Nho gia bằng tiếng Việt để
làm rõ các vấn đề nghĩa lý trong kinh điển như là sự bản địa hóa các yếu tố học
thuật Trung Quốc; Việc thông diễn lại kinh điển Nho gia bằng việc phiên dịch,
diễn dịch, chú giải, chú sớ... trong tiếng Việt là con đường làm cho tư tưởng Nho
gia phù hợp với tư duy người Việt, nhu cầu tư duy tư tưởng, triết học bằng tiếng
Việt. Những hoạt động của các nhà nho như truyện, chú, tiên sớ, luận, khảo, giải
nghĩa, diển nghĩa, huấn hỗ, khảo chứng, diễn ca, quốc âm ca, ước giải, lược giải,
giải âm,... đều nhằm mục tiêu đó.
Thứ hai, người Việt không tiếp nhận toàn bộ nội dung Nho giáo Trung Quốc
mà chỉ tiếp nhận những gì gần gũi, phù hợp. Trong sự tiếp thu này, người Việt
“không bàn nhiều về lý luận phức tạp, mà chú trọng vào củng cố nhân luân hiếu đễ,
củng cố nền kinh tế nông nghiệp, củng cố khối cộng đồng gia đình - họ tộc - xóm

43
Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin-Hà Nội,
tr.220.
làng, củng cố việc học hành khoa cử” 1 . Họ đã “tinh giảm Nho giáo thành một loại
hình ý thức hệ đặc thù, tách khỏi các dòng chủ lưu của Nho học Trung Quốc bằng
cách chỉ lấy một vài phần có giá trị thực dụng để bảo vệ Tổ quốc khỏi ách ngoại
xâm hoặc gắn kết cho quyền lực của kẻ thống trị. Người Việt chỉ nhặt nhạnh những
gì hữu ích nhất cho các mục đích thực dụng và không đụng đến phần còn lại”44
Thứ ba, khi tiếp nhận các khái niệm của Nho giáo, người Việt đã biến đổi nó,
tái cấu trúc và sắp xếp lại thang bậc các giá trị. Khi vào Việt Nam, “các khái niệm
phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo đã được tái cấu trúc thành hệ thống mới chứ
không còn là những yếu tố của hệ thống cũ”45 . Do đó, nếu như ở Trung Quốc, các
phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo như trung, hiếu, nhân và các tiêu chuẩn
khắt khe đối với con người trong các mối quan hệ xã hội chủ yếu hướng đến việc
củng cố quyền uy tuyệt đối của quân quyền, phụ quyền, nhấn mạnh sự phục tùng
tuyệt đối của kẻ dưới đối với bề trên thì khi du nhập Việt Nam, chúng được thêm
nội dung yêu nước và nội dung này mới là nền tảng cho những quan niệm đó được
thực hiện. Những chuẩn mực đạo đức, tam cương ngũ thường đã không dễ dàng
thay đổi được lối sống của người Việt mà còn hòa vào thiết chế cộng đồng làng xã,
chịu sự tái tạo của hệ giá trị người Việt Nam trong suốt các thời kỳ lịch sử khác
nhau. Trong quá trình người Việt tiếp nhận và vận dụng Nho giáo như một học
thuyết chính trị để xây dựng và bảo vệ đất nước, Nho giáo được biến đổi, bổ sung
và dung hợp những yếu tố mới của văn hóa, truyền thống bản địa tạo thành Nho
giáo của người Việt mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là Việt Nho.
4.1. Vai trò của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam
4.1.1. Đối với văn hóa - giáo dục
Trên phương diện văn hoá - giáo dục, ngay từ thời Lý, khi được coi trọng
và giữ vị trí là nền giáo dục chính thức của nhà nước phong kiến, Nho học đã
thể hiện rõ vai trò của một nền giáo dục có cơ chế, bài bản và đầy sức sống. Do
đó, nó đã tạo ra một bước tiến vượt bậc về nội dung giáo dục, cũng như về mặt
tổ chức và thực thi việc giáo dục và thi cử. Sang thời Trần, nhờ sự phát triển
của nền giáo dục Nho học mà tầng lớp Nho sĩ ngày càng đông đảo. Họ tích cực
tham gia chính sự, cũng như tham gia vào các hoạt động văn hoá nghệ thuật,
học thuật và tư tưởng đương thời. Chính vì thế, lúc bấy giờ, Nho giáo đã thực
sự thúc đẩy các hoạt động văn hoá của nước Đại Việt tiến lên phía trước. Khác
với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo đến nhà nước phong kiến, ảnh hưởng
của Nho giáo đối với gia đình, dòng họ và làng xã Việt Nam diễn ra chậm hơn.
Trong thời Lý - Trần, ảnh hưởng đó còn mờ nhạt. Các thành viên của gia đình,
dòng họ và làng xã còn chịu ảnh hưởng nặng của những giá trị đạo đức truyền
thống và một phần của những giá trị đạo đức Phật giáo. Phải đến thế kỷ XV,
khi Nho giáo được độc tôn, thì nhà nước phong kiến và các Nho sĩ mới áp đặt
được những quy phạm đạo đức của Nho giáo xuống các gia đình, dòng họ và
44
Nguyễn Hùng Hậu (2005), “Một số đặc điểm của Nho Việt”, Nghiên cứu tôn giáo, số 1, tr.36-37
45
Doãn Chính - Nguyễn Sinh Kế (2004), “Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến
thế kỷ XIX)”, tr.38.
làng xã thông qua các điều luật, các chỉ dụ, các huấn điều và những quy ước về
nghi lễ, như tang lễ, hôn lễ.
Vào các thế kỷ XVII và XVIII, việc học hành và thi cử của Nho học tuy có
những nét tiêu cực, nhưng cũng chính nền giáo dục Nho học lúc bấy giờ đã sản
sinh ra những nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học và y học kiệt xuất, như Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm, v.v..
4.1.2. Đối với gia đình
Nho giáo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc giáo dục đạo đức trong
gia đình. Giáo dục đạo đức trong gia đình đồng thời cũng là cái cốt lõi của học
thuyết chính trị- đạo đức. Giáo dục đạo đức gia đình là giáo dục những chuẩn
mực đạo đức trong gia đình để điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản: cha - con,
anh - em, chồng - vợ.
4.1.3. Đối với xã hội
Do đáp ứng được những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam như trên
đã nói, nên ngay từ thời Lý – Trần, Nho giáo đã đóng vai trò là cơ sở tư tưởng
của việc xây dựng nhà nước quân chủ tập quyền, quản lý xã hội và hoạch định
chính sách của triều đình phong kiến. Mặc dù xã hội thời Lý - Trần rất tôn sùng
đạo Phật, nhưng căn cứ lý luận để xây dựng và phát triển hai triều đại này lại là
những nguyên lý của Nho giáo. Từ những lời phát biểu của Đào Cam Mộc
nhằm đưa Lý Công Uẩn lên ngôi đến Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, Chiếu
nhường ngôi cho Trần Cảnh của Lý Chiêu Hoàng đều lấy những nguyên lý
trong kinh điển của Nho giáo làm căn cứ. Những văn kiện quan trọng có liên
quan đến việc phát động chiến tranh giữ nước, như bài văn Lộ Bố khi đánh
Tống của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại
cáo của Nguyễn Trãi, v.v. thường sử dụng một số khái niệm của Nho giáo.
5.1. Ý nghĩa của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam
5.1.1. Về phương diện văn hóa
Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt
động văn hóa tinh thần. Trong văn hóa tổ chức cộng đồng, ở cấp độ gia đình,
Nho giáo phối hợp với văn hóa Hán làm hình thành chế độ gia đình phụ hệ đi
đôi với nam quyền cực đoan, tồn tại song hành với truyền thống trọng nam đi
đôi với trọng nữ của văn hóa dân gian. Trong gia đình, gia tộc, quốc gia, Nho
giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho
con trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự
cho con trai út của dân gian. Trên bình diện quốc gia, Nho giáo là cơ sở làm
hình thành tổ chức nhà nước của Đại Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ
chức quân sự, quan chế, lương bổng... mô phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành
với tổ chức cộng đồng cấp làng quê ra đời từ thời Văn Lang - Âu Lạc.
5.1.2. Về phương diện tư tưởng, đạo đức
Với tư cách là học thuyết chính trị - đạo đức, Nho giáo coi đạo đức là
phương tiện để thực hiện mục đích chính trị. Nói cách khác nhà sáng lập Nho
giáo đề cao đạo đức trong việc thiết lập trật tự xã hội và tiến tới xây dựng mô
hình xã hội lý tưởng. Về thực chất, mục đích xây dựng mô hình xã hội lý tưởng
theo tinh thần Nho giáo không phải từ tổ chức xã hội từ thấp lên cấp cao hơn,
mà là “khôi phục” mô hình xã hội được xác nhận là xã hội thời Nghêu Thuấn.
Mô hình đó được xây dựng và vận hành theo nguyên tắc đạo đức thông suốt từ
vua tới thường dân, theo đó vua coi dân như con. Mọi người trong xã hội đó
coi như anh em một nhà, của cải trong xã hội đều là của chung, kẻ dưới phục
tùng, kính trọng người trên, người trên làm mẫu mực về mọi mặc cho kẻ dưới.
5.1.3. Về phương diện chính trị, xã hội
Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trị để phát triển
kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.
Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng của
Nho giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh tế,
xã hội đặc biệt chú trọng Nho giáo cổđại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo
sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một
cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ trong việc áp
dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy
chữ tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng
mức đến chất lượng sản phẩm
Hết

Tài liệu kham khảo


Giáo trình “Lịch sử văn minh thế giới”, Vũ Dương Ninh, NXB giáo dục Việt Nam
-Luận án: Ảnh hưởng Nho giáo đến giáo dục đạo đức ở Việt Nam (slideshare.net)
-Ảnh hưởng của Nho giáo trong văn hóa Việt Nam (vass.gov.vn)
Đề tài: “Nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam” - TaiLieu.VN
https://voer.edu.vn/m/qua-trinh-hinh-thanh-va-phat-trien-nho-giao/e318497e
https://tiengtrunganhduong.com/khai-quat-lich-su-trung-quoc-qua-cac-trieu-dai.ht
m
https://www.ntdvn.com/van-hoa/tan-thuy-hoang-dot-sach-chon-nho-dai-an-oan-thi
en-co-p-1-61784.html
Tài liệu: Tư Trị Thông Giám ,2020 ,Tư Mã Quan ,dịch Bùi Thông, NXB Văn Học
https://diemsach.info/van-hoa-doc/cac-van-de-van-hoa/dot-sach-chon-nho-toi-dau-
phai-o-tan-thuy-hoang/
Tống nho triết học khảo luận, Bửu Cầm, 1954, NXB Nhân Văn Thư Xã.
https://onggiaolang.com/48-su-hinh-thanh-cua-ly-hoc/
https://bongdentoiac.wordpress.com/2009/12/10/chu-hi/
Nho giáo Trung Quốc, Nguyễn Tôn Nhan, 2004, NXB Văn hóa thông tin.
https://tinhhoa.net/triet-gia-vuong-duong-minh-phien-nao-deu-boi-tam-tu-tai-cung-
do-tam.html

You might also like