Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
Chương 1. PHÂN TÍCH QUANG HỌC .........................................................................4
1.1. Bức xạ điện từ. Tính chất của bức xạ điện từ .......................................................5
1.1.1. Bản chất của bức xạ điện từ ............................................................................5
1.1.2. Tương tác bức xạ điện từ với vật chất và năng lượng các bước chuyển trong
phân tử, nguyên tử ....................................................................................................6
1.2. Các định luật cơ bản về hấp thụ bức xạ điện từ ....................................................7
1.3. Máy đo và các phương pháp phân tích phổ hấp thụ ...........................................11
1.3.1. Các bộ phận chính của máy đo quang ..........................................................11
1.3.2. Các máy so màu bằng mắt, so màu quang điện ............................................12
1.3.3. Các máy quang phổ kế ..................................................................................16
1.4. Các phương pháp đo phổ hấp thụ phân tử ..........................................................17
1.4.1. Nguyên tắc của phép đo UV-Vis ..................................................................17
1.4.2. Các phương pháp định lượng bằng UV – VIS .............................................18
1.5. Các phương pháp đo phổ hấp thụ nguyên tử ......................................................23
1.5.1. Sự xuất hiện phổ hấp thụ nguyên tử ............................................................. 23
1.5.2. Các bước đo và trang thiết bị của phép đo phổ AAS ...................................25
1.5.3. Các kỹ thuật nguyên tử hóa ..........................................................................29
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến phép đo AAS ............................................................ 35
1.6.1. Tối ưu hóa các thông số của máy đo ............................................................ 36
1.6.2. Tối ưu hóa các điều kiện nguyên tử hóa mẫu ...............................................36
1.6.3. Ảnh hưởng của nồng độ axit, loại axit trong dung dịch mẫu .......................37
1.6.4. Ảnh hưởng của cation ...................................................................................37
1.6.5. Ảnh hưởng của anion ....................................................................................38
1.7. Phân tích trắc quang ............................................................................................ 38
1.7.1. Cơ sở lí thuyết của phương pháp ..................................................................38
1.7.2. Các định luật cơ bản của sự hấp thu ánh sáng ..............................................38
1.7.3. Tính chất cộng tính của độ hấp thụ quang ....................................................41
1.7.4. Thuốc thử ......................................................................................................42
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐIỆN HOÁ ..............................................47
2.1. Khái niệm chung .................................................................................................47
2.2. Nguyên tố ganvani .............................................................................................. 48
2.3. Các loại điện cực .................................................................................................48
iii
MỞ ĐẦU
Phân loại các phương pháp phân tích lý hóa:
A. Dựa vào bản chất chung
Dựa vào bản chất chung người ta chia phương pháp phân tích thành ba nhóm
phương pháp sau đây:
- Các phương pháp phân tích hóa học: Các phương pháp này ra đời sớm nhất nên
thường được gọi là nhóm các phương pháp phân tích cổ điển. Trong phương pháp này
thường sử dụng các thiết bị, dụng cụ đơn giản (như buret, pipet, cân...) để thực hiện phản
ứng hóa học. Nhóm phương pháp này thường áp dụng định lượng các chất có hàm lượng
lớn (đa lượng) nhưng chính xác qua việc xác định khối lượng hay thể tích, cho đến nay
đây vẫn là phương pháp được dùng nhiều trong các phòng thí nghiệm phân tích. Nhóm
phương pháp này cũng có thể sử dụng cho mục đích định tính (qua màu sắc, chất chỉ
thị, điểm sôi, mùi...) và bán định lượng, dựa trên bốn loại phản ứng cơ bản là: phản ứng
axit - bazơ; phản ứng oxi hóa - khử; phản ứng tạo phức; phản ứng tạo chất ít tan.
- Các phương pháp phân tích vật lý: Đó là những phương pháp phân tích dựa trên
việc đo các tín hiệu vật lý của các chất phân tích như phổ phát xạ, phổ hấp thụ, độ phóng
xạ, cộng hưởng từ hạt nhân,...Các phương pháp này cần những máy đo phức tạp.
- Các phương pháp phân tích hóa lý: Đó là những phương pháp kết hợp việc thực
hiện các phản ứng hóa học sau đó đo các tín hiệu vật lý của hệ phân tích như sự thay đổi
màu sắc, độ đục, độ phát quang, độ dẫn điện...
- Các phương pháp phân tích hóa - lý cũng như các phương pháp phân tích vật lý
đòi hỏi phải dùng những máy đo phức tạp, vì vậy chúng có tên chung là các phương
pháp phân tích hóa lý.
Như vậy các phương pháp phân tích hóa lý được hiểu là một lĩnh vực của hóa học
phân tích để khảo sát các đối tượng mẫu bằng cách sử dụng các công cụ đặc biệt. Các
phương pháp phân tích công cụ ra đời sau các phương pháp phân tích hóa học, chúng
cho phép phân tích nhanh, có thể xác định được lượng nhỏ chất phân tích khá chính xác,
có độ chọn lọc cao, phân tích được hàng loạt mẫu trong thời gian ngắn nên được ứng
dụng rộng rãi.
B. Dựa vào tính chất vật lý đặc trưng
Dựa vào tính chất vật lý đặc trưng, có các phương pháp phân tích công cụ sau đây:
Tính chất Phương pháp
Phổ phát xạ huỳnh quang, lân quang, phát
Phát bức xạ
quang
2
Phân tích quang phổ là tên gọi chung cho một hệ các phương pháp phân tích dựa
trên cơ sở ứng dụng những tính chất quang học của nguyên tử, ion, phân tử, nhóm phân
tử. Tùy theo quan niệm, dựa theo điều kiện phân tích phổ, phương tiện thu ghi và quan
sát phổ cũng như bản chất của quá trình sinh phổ mà người ta có một số cách phân chia
thành những phép đo khác nhau. Sau đây là hai cách phân chia phổ phổ biến.
Theo đặc trưng phổ:
Theo cách này có những phương pháp phân tích quang học sau:
- Phương pháp phân tích phổ nguyên tử, bao gồm:
+ Phổ phát xạ nguyên tử;
+ Phổ hấp thụ nguyên tử;
+ Phổ huỳnh quang nguyên tử.
Đây là do sự chuyển mức năng lượng của các nguyên tử ở trạng thái hơi tự do khi
bị kích thích tạo ra.
- Phương pháp phân tích phổ phân tử, bao gồm:
+ Phổ hấp thụ phân tử trong vùng UV -Vis;
+ Phổ hồng ngoại (IR và NIR);
5
Khi Ekt tăng lên từ 0,3 đến 12 kcal/mol, electron chưa bị kích thích, λ = 2,5 - 100μm
(tương ứng bức xạ hồng ngoại gần), lúc đó sẽ có dao động phân tử và tần số bức xạ gây
nên sự dao động phân tử là:
νdđ = ΔEdđ/h, lúc đó tần số chung là ν = νquay + νdđ
Khi λkt = 190 - 800nm, Ekt lớn hàng chục, hàng trăm Kcal/mol(tương ứng các bức
xạ tử ngoại - khả kiến), phân tử hấp thụ bức xạ lớn hơn Ekt các electron, ta có:
ν = νel +νdđ + νqy
(với ν là tần số chung tương ứng các đám vạch phổ gây nên bởi các tần số νel, νdđ,
νqy).
Phổ thu được trong trường hợp này là phổ hấp thụ electron hay phổ electron. Vì phổ
electron thể hiện khi bức xạ kích thích ở vùng tử ngoại - khả kiến nên cũng được gọi là
phổ tử ngoại khả kiến (UV -Vis).
1.2. Các định luật cơ bản về hấp thụ bức xạ điện từ
Định luật Bughe-Lambe (Bouguer -Lambert):
Cường độ màu được đo bằng độ giảm cường độ chùm sáng có λ nhất định, cường
độ chùm sáng tới ký hiệu là Io (ec: cm2/sec), cường độ chùm sáng sau khi bị hấp thụ ký
hiệu là I, độ hấp thụ ánh sáng là (Io- I) hoặc Io/I hoặc là một hàm số khác. Với phân tích
đo quang, thuận tiện nhất là biểu thị độ hấp thụ ánh sáng bằng đại lượng: A (hoặc D) =
lg(Io/I)
D: mật độ quang (Optical Density - mật độ quang), A: Absorption (sự hấp thụ)
Xét sự hấp ánh sáng bởi dung dịch chất màu trong cuvet có thành song song, bề dày
lớp dung dịch là l, chia thành l phần; Khi qua lớp thứ nhất (lớp 1), cường độ dòng sáng
yếu đi n lần, ta có I1=I0/n (n>1) (1)
Sau khi đi qua lớp thứ 2: I2 = I1/n (2)
Từ (1) và (2) suy ra: I2 = Io/n2.
Khi qua hết bề dày l: I = Io/nl ↔ Io/I = nl→ A = lg(Io/I) = l.lg n = 𝑘′.l (3)
Trong đó: lg n đặc trưng cho chất nghiên cứu.
𝑑𝐼
− = 𝑘′. 𝑑𝑙 (4)
𝐼
k: hệ số đặc trưng cho sự hấp thụ ánh sáng của chất và chỉ phụ thuộc tính chất chất
ấy. Lấy tích phân phương trình (4) ta có:
𝐼1 𝑙
𝑑𝐼
∫ = −𝑘 ∫ 𝑑𝑙
𝐼0 𝐼 0
I 50 25 12,5 6,25
Hình 1.4. Đường đi của ánh sáng qua dung dịch chứa 2 cấu tử mang màu A, B
Bản chất của định luật cộng tính là tính độc lập của đại lượng hấp thụ ánh sáng của
một chất riêng biệt khi có mặt của chất khác cũng có khả năng hấp thụ ánh sáng riêng.
Giả sử có 2 cấu tử A, B có khả năng hấp thụ ánh sáng, theo định luật Bughe-Lambe-Bia,
tại một giá trị λ chiếu tới có cường độ I0, sau khi qua cấu tử A, cường độ bức xạ là I1, I1
đóng vai trò tia tới hợp phần mang màu chứa cấu tử B, sau đó ló ra còn lại cường độ I2,
độ hấp thụ quang của 2 chất A, B lần lượt là AA, AB, của hợp phần gồm 2 chất A và B
là AAB.
AA = lg(Io/I1); AB = lg(I1/I2).
Mặt khác: AAB = lg(Io/I2), đem cộng AA và AB ta có:
AA+AB = lg(Io/I1) + lg(I1/I2) = lg(Io/I2) → AAB = AA + AB
Một cách tổng quát: nếu hệ chứa n cấu tử có khả năng hấp thụ ánh sáng tại một giá
trị λ nhất định, ta có:
A = A1 + A2 +…+ An = ∑𝑛1 A𝑖
A = ε1lC1 + ε2lC2 +...+εnlCn
Tại các λ khác nhau ta có:
A1 = (11C11 + 12C12 +... + 1nC1n).l (1)
A2 = (21C21 + 22C22 +... + 2nC2n).l (2)
....... ....
An = (n1Cn1 + n2Cn2 +... + nnCnn).l (n)
Giải hệ n phương trình có n ẩn số hoặc sử dụng phổ đạo hàm, phương pháp sai số
tương đối và tuyệt đối, phương pháp cải tiến Vierode, phương pháp lọc Karlman,
phương pháp mạng nơron nhân tạo ta tìm được các giá trị nồng độ chất màu.
Lúc này độ truyền quang: TA = I1/Io; TB = I2/I1
11
Nếu góc A là 60o thì độ tán sắc góc có thể tính theo công thức:
dD dn 2
.
dλ dλ (1 n 2 )
Lăng kính ABC có chiết suất n, khác với chiết suất của môi trường. Khi chiếu chùm
sáng có bước sóng và góc tới vào lăng kính có chiết suất n, tia ló có góc lệch đi
qua lăng kính. D là góc lệch giữa tia tới và tia ló ra khỏi lăng kính.
12
Tín hiệu quang học là những photon đi vào nhân quang điện được chuyển thành
electron. Các cực 2,3,4,5,6 thường là các kim loại kiềm, có thế ở cực sau cao hơn cực
trước để tăng tốc cho e. Những thiết bị hiện nay có thể nhân 107 electron cho mỗi photon
1.3.2. Các máy so màu bằng mắt, so màu quang điện
Trong các máy so màu bằng mắt thì nguồn bức xạ liên tục chính là ánh sáng mặt
trời; đetectơ chính là mắt và bộ não của con người. Tuy nhiên mắt và bộ não chỉ có khả
năng so sánh màu chứ không có khả năng cho thông báo về giá trị cường độ hấp thụ hay
13
mật độ quang do vậy chúng ta cần có các dung dịch chất chuẩn để so sánh màu của
chúng với màu của các dung dịch cần phân tích.
Như vậy nguyên tắc chung ở đây là việc so màu của mẫu với màu của một dãy
dung dịch chuẩn để tìm ra các màu bằng nhau, tức là có nồng độ chất cần xác định như
nhau. Trong phương pháp này người ta dùng các ống nghiệm so màu Nexxler, được
chuẩn hóa sao cho bề dày của các dung dịch đều giống nhau. Với nguyên tắc này người
ta cũng tiến hành quá trình chuẩn độ so màu.
Các phương pháp so màu bằng mắt có nhiều hạn chế nhưng chúng cũng có ứng
dụng rộng rãi đối với các phép phân tích hàng loạt nếu nhu cầu về độ chính xác không
cần thật cao. Máy so màu quang điện có cấu tạo đơn giản, tương đối rẻ tiền để thực hiện
phép phân tích định lượng bằng phương pháp đo quang. Ưu điểm của chúng so với các
máy quang phổ phức tạp chính là sự đơn giản trong cấu tạo và cách sử dụng. Một máy
so màu quang điện thường có 2 chức năng đo là độ truyền quang T hoặc mật độ quang
D và bộ phận chỉ thị kết quả chỉ là thang đo hoặc màn hình digital hiện số.
• Nguồn bức xạ:
Nguồn bức xạ hay sử dụng nhất trong máy so màu quang điện để nhận được bức
xạ vùng khả kiến là sợi chỉ của đèn vonfram mà tính chất của nó gần với tính chất của
vật đen tuyệt đối, khi nung nóng đến sáng trắng sẽ phát ra bức xạ liên tục, bức xạ này
có năng lượng phụ thuộc vào nhiệt độ ở lũy thừa bậc bốn và công suất bức xạ ở một
nhiệt độ nhất định lại phụ thuộc vào độ dài sóng ở lũy thừa bậc năm. Nói chung nhiệt
độ làm việc của sợi vonfram đạt được gần đến 2870K, phần chính của năng lượng do
vậy được phát xạ trong vùng hồng ngoại, người ta dùng đèn với sợi vonfram trong
khoảng bước sóng từ 320nm đến 2500nm. Để đèn cho bức xạ liên tục và ổn định trong
vùng khả kiến phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt về hiệu thế, thường dùng máy biến thế
có hiệu thế cố định hoặc một ắc quy để cung cấp cho đèn một nguồn ổn định.
• Bộ phận tạo bức xạ đơn sắc:
Kính lọc sáng có khả năng hấp thụ một phần xác định của phổ và tách ra một
chùm bức xạ, coi như tạo được một chùm tia đơn sắc, tuy nhiên độ đơn sắc là không
cao. Các kính lọc sáng hay dùng là các thủy tinh màu hay các bản thủy tinh mà ở giữa
các bản này người ta đặt những chất nhuộm được pha trong gelatin, tùy theo máy đo sẽ
có các bộ kính lọc sáng (kính màu) với số lượng nhất định.
Kính lọc giao thoa ánh sáng có thể tạo được dải sóng hẹp hơn (khoảng 10nm),
được làm từ vật liệu trong suốt từ CaF2 hay MgF2, được đặt giữa hai bản thủy tinh mà
bề mặt của chúng được phủ bằng các màng kim loại nửa trong suốt. Bề dày của lớp vật
liệu xác định độ dài sóng của bức xạ đi ra, được kiểm tra chặt chẽ. Sự giao thoa ánh sáng
thực hiện nhờ hai lớp kim loại, tạo dải truyền quang hẹp hơn, có nghĩa là có khả năng
14
lớn hơn để tạo ra bước sóng mong muốn so với kính lọc hấp thụ. Các kính lọc giao thoa
ánh sáng được sản xuất với các giải truyền quang trong khoảng từ vùng tử ngoại cho
đến gần 6μm trong vùng hồng ngoại.
• Cuvet đựng dung dịch đo:
Các cuvet được dùng trong các máy so màu quang điện thường được chế tạo từ
thủy tinh, mặc dù các cuvet chất dẻo trong suốt cũng có một số ứng dụng. Các cuvet
phải được đặt hoàn toàn vuông góc với chùm sáng để làm giảm sự mất mát do phản xạ.
Độ tin cậy của phép đo cũng phụ thuộc nhiều vào cách làm việc đúng với cuvet. Dấu
vân tay, dầu mỡ và các chất bẩn làm thay đổi đáng kể khả năng truyền quang của chúng.
Do vậy nhất thiết phải làm sạch cuvet trước và sau khi dùng. Không được sấy cuvet
trong tủ sấy hay hơ trên ngọn lửa. Các cuvet thường phải được chuẩn hóa có hệ thống
so với nhau nhờ dung dịch so sánh.
• Detector:
Detector có nhiệm vụ biến đổi năng lượng bức xạ thành tín hiệu điện, trong các
máy so màu quang điện hay dùng tế bào quang điện hay nhân quang điện. Đêtectơ của
bức xạ cần phải tác động lên bức xạ trong một vùng rộng của bước sóng; phải nhạy với
bức xạ có cường độ nhỏ và phản ứng nhanh với bức xạ cho tín hiệu điện có thể dễ dàng
khuyếch đại lên. Quan trọng nhất là làm sao cho tín hiệu nhận được tỉ lệ thuận với cường
độ của chùm sáng đến, cụ thể như sau: S = I.k + d
Trong đó: S là tín hiệu của đêtectơ trong các đơn vị cường độ dòng, điện trở hay
hiệu điện thế. Hằng số k là số đo độ nhạy của đêtectơ trong các đơn vị của tín hiệu điện
trên một đơn vị cường độ bức xạ. Đại lượng d còn gọi là dòng tối (dark current), là một
tín hiệu hằng định đối với detector khi không có bức xạ. Giá trị của d thường không lớn,
về nguyên tắc các máy với đêtectơ có dòng tối được trang bị một điện kế cho phép nhờ
một tín hiệu ngược lại dẫn đến giá trị d bằng không. Như vậy: I = S/k, I0 = S0/k
Trong đó S và S0 là các tín hiệu điện của detector khi bức xạ đi qua dung dịch
phân tích và dung dịch so sánh (dung dịch trống). Thay các phương trình này vào phương
trình định luật Lambe - Bia ta có: lg( I0/I ) = lg( S0/S ) = D
Với nguyên tắc hoạt động như vậy, có một số loại tế bào quang điện được đề cập
dưới đây. Tế bào quang điện lớp chắn: được cấu tạo từ điện cực đồng hay sắt trên đó có
đưa vào vật liệu bán dẫn, bề mặt của chất bán dẫn được phủ một lớp màng trong suốt từ
vàng bạc hay chì, màng này cũng chính là điện cực thứ hai hay điện cực thu nhận, tất cả
hệ được bảo vệ bằng một vỏ bọc trong suốt. Cơ chế hoạt động như sau: Khi chiếu một
chùm sáng thì một số electron trong lớp chất bán dẫn có một năng lượng đủ lớn để vượt
qua bản chắn và thâm nhập vào màng kim loại. Nếu nối màng với bản theo một phía
khác của lớp bán dẫn bằng sợi chỉ bên ngoài và nếu điện trở không quá lớn thì xuất hiện
15
dòng điện, dòng điện này thường là đủ lớn hoặc có thể được khuyếch đại để đo bằng
một điện kế hay một microampe kế. Như vậy lực của dòng điện tỉ lệ với cường độ của
bức xạ chiếu vào tế bào quang điện, nói chung các dòng cỡ từ 10 đến 100μA. Các tế bào
quang điện lớp chắn chủ yếu được sử dụng để đo bức xạ trong vùng khả kiến, độ nhạy
cực đại với bước sóng khoảng 550nm và giảm cho đến bước sóng khoảng 250nm và
750nm. Tế bào quang điện chân không (Tế bào quang điện với hiệu ứng quang điện
ngoài):
Tế bào quang điện bao gồm một catot nửa hình ống và một anot dây được đặt
giữa một bình chân không. Bề mặt lõm của catôt được phủ một lớp vật liệu nhạy ánh
sáng và phát ra electron dưới tác dụng của bức xạ. Sơ đồ trên Hình 1.8.
Hình 1.8. Sơ đồ tế bào quang điện với hiệu ứng quang điện ngoài
1- Chỉ anot; 2- Catot nhạy quang; 3- Acquy; 4- Điện trở; 5- Bộ phận chỉ thị
Nếu đặt một hiệu điện thế vào các điện cực thì các electron bắn ra được hướng
đến anôt, kết quả sẽ xuất hiện một dòng điện quang, sẽ được khuyếch đại và cho tín hiệu
đo. Dòng điện nhận được gây ra sự giảm hiệu thế dọc theo điện trở R sau đó được
khuyếch đại và đo nhờ bộ phận chỉ thị. Bề mặt của catôt nhạy quang của tế bào quang
điện được cấu tạo từ một kim loại kiềm hay oxyt của nó, có khi là sự tổ hợp với oxyt
của các kim loại khác; Vật liệu catôt xác định đặc tính quang phổ của tế bào quang điện.
Các máy so màu quang điện do các hãng khác nhau sản xuất sẽ khác nhau về độ phức
tạp, các đặc tính làm việc và giá thành. Không một máy nào có thể xem là toàn năng mà
việc chọn máy được xác định bằng loại công việc mà máy phải phục vụ. Dưới đây là sơ
đồ máy so màu quang điện một chùm tia và hai chùm tia.
16
Hình 1.9. Sơ đồ máy so màu quang điện một và hai chùm tia
a) Máy một chùm tia: 1- Đèn vofram; 2- Màng di động để chuẩn hóa 100%T; 3-
Cuvet chứa dung dịch so sánh; 4- Microampe kế; 5- Kính lọc sáng; 6- Cuvet
chứa dung dịch phân tích; 7- Tế bào quang điện với hiệu ứng quang điện ngoài.
b) Máy hai chùm tia: 8- Gương; 9- Tế bào quang điện; 10- Điện kế để chuẩn
hóa 100%T
Ở máy hai chùm tia dòng sáng được phân giải nhờ gương, một phần đi qua dung
dịch phân tích, phần thứ hai đi qua dung dịch so sánh. Bộ phận chỉ thị tín hiệu là thang
đo của độ truyền quang trong các đơn vị tuyến tính từ 0 đến 100, hoặc cũng có thể là
thang đo mật độ quang D.
1.3.3. Các máy quang phổ kế
- Quang phổ kế (Spectrophotometer) là các thiết bị hoạt động dựa trên phân tích
quang phổ của ánh sáng, nhằm thu được các thông tin về thành phần, tính chất hay trạng
thái của những khối vật chất liên quan đến chùm ánh sáng đó. Phân tích quang phổ là
phương pháp hàng đầu trong hóa phân tích.
- Thông thường thì Quang phổ kế xác định phân bố cường độ ánh sáng theo bước
sóng của ánh sáng do khối vật chất nào đó tự phát ra, hoặc phản xạ hay truyền qua nó.
Những khối vật chất khác nhau có đặc tính phát quang hay hấp thụ ánh sáng với các
bước sóng, hay mức năng lượng của photon, xác định. Chúng thường được nói đến là
các vạch quang phổ. Đo cường độ ánh sáng ở các bước sóng (hay các vạch phổ) đặc
trưng này cho phép xác định tỷ lệ (hay hàm lượng) của chất tương ứng trong mẫu vật
cần nghiên cứu.
- Máy quang phổ hồng ngoại khả kiến VIS
- Máy quang phổ UV-VIS
17
Bản chất: dựa trên sự cân bằng cường độ dòng sáng, dựa trên hiệu ứng quang điện,
thực hiện bằng máy chứa tế bào quang điện.
(2,2’): Kính hội tụ; (3,3’): Kính lọc sáng; (5,5’): Tế bào quang điện
Hình 1.10. Sơ đồ thiết bị so màu quang điện
Ưu, nhược điểm: Phương pháp có độ nhạy và độ chọn lọc cao hơn so màu bằng
mắt, kết quả đo bằng máy khách quan hơn, phân tích được hàng loạt.
Phương pháp so màu quang phổ:
Bản chất phương pháp: sự yếu đi của cường độ dòng sáng khi đi qua dung dịch màu
được đo bằng các máy quang phổ hoàn chỉnh, có cấu tạo phức tạp. Các kính lọc sáng
thay bằng lăng kính thạch anh hoặc các cách tử, cho phép ánh sáng hoàn toàn đơn sắc
đi qua. Phương pháp có độ nhạy, độ chọn lọc, độ chính xác cao, các máy thường là CΦ-
4, CΦ-4D, CΦ-4A, Hitachi, UV- Vis -Spekord, Agilent...
1.4.2. Các phương pháp định lượng bằng UV – VIS
Gồm nhóm phương pháp định lượng đơn giản sử dụng quan sát màu sắc bằng mắt
(phương pháp dãy tiêu chuẩn, phương pháp cặp đôi, phương pháp cân bằng) và nhóm
phương pháp định lượng phức tạp, đo độ hấp thụ bằng thiết bị phức tạp (phương pháp
đường chuẩn, phương pháp thêm chuẩn, phương pháp vi sai).
Phương pháp dãy tiêu chuẩn
Chuẩn bị dung dịch các mẫu chuẩn chứa chất tương ứng với chất cần phân tích và
mẫu phân tích X, các dung dịch được chuẩn bị trong cùng điều kiện về thuốc thử, dung
môi, pH...
Dãy chuẩn gồm các dung dịch chuẩn có nồng độ biết trước tăng dần: C 1, C2,
C3...Cn.
Mẫu phân tích có nồng độ Cx chưa biết.
Đem so sánh màu của các mẫu phân tích với dãy chuẩn, nếu màu của dung dịch
phân tích nằm trong khoảng màu của hai dung dịch chuẩn nào thì nồng độ Cx của dung
dịch phân tích nằm trong khoảng nồng độ của hai dung dịch chuẩn đó. Giả sử màu dung
dịch phân tích Cx trong khoảng màu 2 dung dịch chuẩn có nồng độ C2, C3 thì C2< Cx <
C3
19
Ưu điểm của phương pháp: sử dụng được cả vùng nồng độ không tuân theo định
luật Bia, tiến hành đơn giản.
Nhược điểm: dung dịch chuẩn không bền màu, nếu có thể phải pha lại khi định
lượng.
Phương pháp cặp đôi hay chuẩn độ
Lấy 2 cốc:
Cốc 1: Cho dung dịch phân tích, thuốc thử R, điều chỉnh về pH cần thiết để chuyển
cấu tử cần định lượng X thành hợp chất hấp thụ bức xạ hay hợp chất màu.
Cốc 2: Chứa thuốc thử R, các ion (muối...) và pH như cốc 1. Thêm H2O để thể tích
dung dịch trong 2 cốc bằng nhau, khuấy đều và nhỏ dung dịch tiêu chuẩn của chất cần
xác định X tới khi màu 2 cốc bằng nhau, thì nồng độ trong hai cốc bằng nhau. Màu dung
dịch 1 đóng vai trò chỉ thị.
Ưu nhược điểm: Chỉ dùng với những phản ứng tạo được phức màu tức thời, không
có phản ứng phụ, giới hạn nồng độ xác định phương pháp khá rộng, cũng còn mang tính
chất chủ quan.
Phương pháp cân bằng
Lấy 2 xi lanh như nhau, chia độ, có khoá ở sườn đáy.
Xilanh 1: chứa VX ml mẫu phân tích có nồng độ CX, thêm thuốc thử R,.. khuấy
đều.
Xilanh 2: V0 ml dung dịch chuẩn X (C0), thêm R, như trên.
Đặt 2 xilanh sát nhau, nhìn từ trên xuống, xilanh nào có màu đậm hơn, mở khoá
cho dung dịch chảy ra đến khi màu như nhau.
Ta có: hX.CX = h0C0 nên: CX = C0 (h0/hX)
Trong đó: hX, h0: chiều cao dung dịch trong mỗi ống xilanh.
Ưu nhược điểm của phương pháp: Phương pháp xác định gần đúng hàm lượng chất,
và là phương pháp phân tích nhanh. Phương pháp đơn giản, không cần máy đo phổ. Tuy
nhiên phương pháp chỉ phát hiện ngưỡng, trong vùng nồng độ nhất định, để kiểm tra
giới hạn cho phép về chất lượng và mang tính chất chủ quan, phụ thuộc vào mắt người
quan sát.
Phương pháp đường chuẩn
Pha dãy mẫu chuẩn của chất X có nồng độ đã biết và tăng dần: C1,C2,...Cn, mẫu
phân tích CX chuẩn bị như mẫu chuẩn. Đo phổ các mẫu chuẩn và mẫu phân tích theo
cùng một quy trình.
Dựng đường chuẩn thể hiện mối qua hệ giữa A và C (mối quan hệ tuyến tính) có
dạng:
20
A = kC + b
Mẫu phân tích có độ hấp thụ AX, thay vào phương trình đường chuẩn tính được
nồng độ Cx.
… … …
Các mẫu phân tích
Cx1 Ax1
Cx2 Ax2
Cx3 Ax3
….. ….
Hình 1.12. Đồ thị phương pháp thêm chuẩn (a)- Đồ thị gốc (b)- Đồ thị ngoại suy
Phương pháp một điểm chuẩn
- Khi có một mẫu chuẩn riêng biệt: Pha mẫu chuẩn, mẫu phân tích và đo phổ
Ta có: Mẫu chuẩn: Ach= kCch (a)
Mẫu phân tích: Ax = kCx (b)
Từ (a) và (b) ta có: CX = (AX/Ach).Cch
- Khi không dùng mẫu chuẩn riêng biệt:
Pha mẫu chuẩn và mẫu phân tích từ mẫu phân tích và đo phổ
Mẫu thêm chuẩn: Ach= k(CX+ C) (c)
Mẫu phân tích: Ax = kCx (d)
Từ (c) và (d) ta có: CX = (AX. C)/(Ach-AX)
Phương pháp này đơn giản, tuy nhiên chỉ sử dụng 2 mẫu, không có xử lý số liệu
phân tích và đã chấp nhận sự phụ thuộc giữa A và C là đường thẳng đi qua gốc tọa độ.
Phương pháp chỉ áp dụng xác định nồng độ CX trong vùng tuyến tính.
Phương pháp vi sai:
Phương pháp này áp dụng xác định được với nồng độ lớn ngoài khoảng nồng độ
tuân theo định luật Bughe-LamBe-Bia.
Giả sử có 2 dung dịch có nồng độ C1, C2 và dung dịch phân tích có Cx, sao cho: C1
< Cx < C 2 :
- Đo độ hấp thụ của dung dịch nồng độ C1 với dung dịch so sánh là dung môi được
A1 .
22
- Đo độ hấp thụ của dung dịch nồng độ C2 với dung dịch so sánh là dung môi được
A2 .
- Đo độ hấp thụ của dung dịch nồng độ C2 với dung dịch so sánh có nồng độ C1
được A2TĐ
- Đo độ hấp thụ của dung dịch nồng độ Cx với dung dịch so sánh là dung dịch có
nồng độ C1 được:AxTĐ
A2TĐ = A2 - A1 = εlC2 - εlC1 = εl(C2-C1) (1)
AxTĐ = Ax - A1 = εlCx - εlC1 = εl(Cx-C1) (2)
Từ (1) và (2) ta có:
𝐴𝑥𝑇Đ (𝐶2 − 𝐶1 )
𝐶𝑥 = + 𝐶1
𝐴2𝑇Đ
Các phương pháp xác định thành phần phức màu hấp thụ
Trong phản ứng tạo phức hấp thụ mang màu:
mM + nR MmRn
Việc xác định thành phần phức hấp thụ là xác định m, n hay tỷ lệ m:n
Phương pháp hệ đồng phân tử gam (phương pháp biến đổi liên tục)
- Phương pháp do Ostromuslenco đề xuất vào năm 1910.
- Cách làm: chuẩn bị các dung dịch gồm 2 cấu tử có nồng độ phân tử giống nhau và
trộn chúng theo các tỷ lệ ngược nhau (thường 1:9), giữ nguyên thể tích chung của dung
dịch (VM + VR = const), lúc này tổng nồng độ CM + CR = C = không đổi.
- Đo độ hấp thụ A ở hằng định lực ion, pH, dung dịch đệm của các dung dịch trên.
- Xây dựng đồ thị: A = f(CR/CM); A = f(VR/VM); A=f(CR/CM+CR)
Xác định vị trí cực đại, tương ứng với hàm lượng phức màu cực đại, phản ứng
mM + nR MmRn
Hình 1.13. Đồ thị xác định thành phần phức bằng phương pháp hệ đồng phân tử gam
xmax = CR/(CM+CR) = n/(m+n)
- Điều kiện áp dụng:
+ Phản ứng hóa học xảy ra theo phương trình, không có phản ứng phụ, phức bền.
23
Hình 1.14. Đồ thị xác định thành phần phức bằng phương pháp tỷ số mol
(1) đối với phức bền; (2) đối với phức không bền
M + nR MRn
mM + R MmR
Khi R thay đổi, M cố định thu được Agh, Khi M thay đổi, R cố định thu được A'gh.
𝐴𝑔ℎ 𝐴′𝑔ℎ
𝐶𝑅 𝐶𝑀
Khi đó: 𝑛 = 𝐴′𝑔ℎ và 𝑚 = 𝐴𝑔ℎ
𝐶𝑀 𝐶𝑅
Phương pháp xác định thành phần phức màu này áp dụng cho phức bền.
Ngoài hai phương pháp xác định thành phức: hệ đồng phân tử gam và tỷ số mol còn
có nhiều phương pháp khác như: Phương pháp chuyển dịch cân bằng, phương pháp
chuẩn độ, phương pháp điểm đẳng quang, phương pháp tỷ số các độ dốc, phương pháp
đường thẳng Asmus, phương pháp logarit giới hạn (phương pháp Bent - Ferch)...
1.5. Các phương pháp đo phổ hấp thụ nguyên tử
1.5.1. Sự xuất hiện phổ hấp thụ nguyên tử
Vật chất được cấu tạo bởi các nguyên tử và nguyên tử là phần tử cơ bản nhỏ nhất
còn giữ được tính chất của nguyên tố hóa học. Trong điều kiện bình thường nguyên tử
không thu và cũng không phát ra năng lượng dưới dạng các bức xạ và tồn tại ở trạng
thái cơ bản (trạng thái bền vững, nghèo năng lượng). Khi được cung cấp bởi một nguồn
năng lượng đủ lớn bằng cách chiếu một chùm tia sáng có những bước sóng (tần số) xác
định vào đám hơi nguyên tử đó, thì các nguyên tử tự do sẽ hấp thụ các bức xạ có bước
sóng nhất định ứng đúng với những tia bức xạ mà nó có thể phát ra được trong quá trình
24
phát xạ của nó trong phổ AES. Lúc này nguyên tử nhận năng lượng của các tia bức xạ
chiếu vào nó và chuyển lên trạng thái kích thích có năng lượng cao hơn trạng thái cơ
bản. Đó là tính chất đặc trưng của nguyên tử ở trạng thái hơi. Quá trình đó được gọi là
quá trình hấp thụ năng lượng của nguyên tử tự do ở trạng thái hơi và tạo ra phổ hấp thụ
nguyên tử của nguyên tố đó. Phổ sinh ra trong quá trình này được gọi là phổ hấp thụ
nguyên tử. Nếu gọi năng lượng của tia sáng đã bị nguyên tử hấp thụ là ∆E thì ta có:
ΔE = (Cm- E0) = hν
hay là ΔE = h.c / λ
trong đó:
E0 và Cm là năng lượng của nguyên tử ở trạng thái cơ bản và trạng thái kích thích
m;
h là hằng số Plank = 6,626.10 J.s;
c là tốc độ của ánh sáng trong chân không (3.10-8 m/s);
λ là độ dài sóng của vạch phổ hấp thụ.
Tương ứng với mỗi giá trị năng lượng ΔE mà nguyên tử đã hấp thụ ta sẽ có một
vạch phổ hấp thụ với độ dài sóng đặc trưng cho quá trình đó, nghĩa là phổ hấp thụ của
nguyên tử cũng là phổ vạch. Nhưng nguyên tử không hấp thụ tất cả các bức xạ mà nó
có thể phát ra được trong quá trình phát xạ. Quá trình hấp thụ chỉ xảy ra đối với các vạch
phổ nhạy, các vạch phổ đặc trưng và các vạch cuối cùng của các nguyên tố. Cho nên đối
với các vạch phổ đó quá trình hấp thụ và phát xạ là hai quá trình ngược nhau. Nếu giá
trị năng lượng ΔE là dương ta có quá trình phát xạ; ngược lại khi giá trị ΔE là âm ta có
quá trình hấp thụ. Chính vì thế, tùy theo từng điều kiện cụ thể của nguồn năng lượng
dùng để nguyên tử hóa mẫu và kích thích nguyên tử mà quá trình nào xảy ra là chính,
nghĩa là nếu kích thích nguyên tử sử dụng năng lượng nhiệt ta thu phổ phát xạ nguyên
tử; nếu nguyên tử sử dụng năng lượng của chùm tia đơn sắc ta thu được phổ hấp thụ
nguyên tử.
Môi trường kích thích phổ hấp thụ được tạo ra trong ngọn lửa hoặc trong lò graphit,
trong thuyền Tantan hay trong cuvet thạch anh. Trong môi trường có năng lượng cao
này sẽ kích thích tạo ra đám hơi nguyên tử tự do, các nguyên tử tự do này hấp thụ năng
lượng của tia bức xạ hν. Do đó, muốn có phổ hấp thụ nguyên tử trước hết phải tạo ra
được đám hơi nguyên tử tự do, và sau đó chiếu vào nó một chùm tia sáng có những bước
sóng nhất định ứng đúng với các tia phát xạ nhạy của nguyên tố cần nghiên cứu. Khi đó
các nguyên tử tự do sẽ hấp thụ năng lượng của chùm tia đó và tạo ra phổ hấp thụ nguyên
tử của nó.
Phương trình thực nghiệm thể hiện mối quan hệ phụ thuộc độ hấp thụ bức xạ Aλ vào
nồng độ chất phân tích C thể hiện theo phương trình:
25
Bốn bước trên chính là nguyên tắc của phép đo phổ hấp thụ nguyên tử. Vì vậy, trang
thiết bị đo phổ hấp thụ nguyên tử phải bao gồm các phần cơ bản sau đây:
- Phần 1: Nguồn phát tia phát xạ cộng hưởng của nguyên tố phân tích (vạch phổ
phát xạ đặc trưng của nguyên tố cần phân tích), để chiếu vào môi trường hấp thụ chứa
các nguyên tử tự do của nguyên tố. Đó là các đèn catôt rỗng (HCL), các đèn phóng điện
không điện cực (EDL), hay nguồn phát bức xạ liên tục đã được biến điệu.
+ Đèn catot rỗng HCL (Hollow Cathode Lamp): Là nguồn phát bức xạ cộng hưởng
được dùng phổ biến nhất hiện nay. Thân đèn gồm có vỏ đèn, cửa sổ và bệ đỡ các điện
cực anot và catot. Bệ đỡ bằng nhựa PVC. Thân và vỏ đèn bằng thuỷ tinh hay thạch anh,
phía trong chứa khí trơ như Ar, He... Trên catot tráng nguyên tố phân tích, khi cung cấp
nguồn điện, catot nóng đỏ và phát ra các λ tương ứng của nguyên tố cần phân tích gọi
là các bức xạ cộng hưởng, qua cửa sổ hướng tới đám hơi chứa chất phân tích (Hình
2.48). Đèn HCL có thể là đèn đơn nguyên tố (chỉ tráng 1 nguyên tố) hoặc đèn đa nguyên
tố (tráng nhiều nguyên tố phân tích) như V đèn kép đôi là (Ca+Mg), (Cu+Mn),
(Cu+Cr), (Co+Ni), (K+Na), (Cu+Pb); các đèn kép ba như (Cu+Pb+Zn) và đèn kép sáu
là (Cu+Mn+Cr+Fe+Co+Ni).
+ Đèn phóng điện không điện cực EDL (Electrodeless Discharge Lamp): Về cấu
tạo, đèn EDL thực chất cũng là một ống phóng điện trong môi trường khí trơ có chứa
nguyên tố cần phân tích với một nồng độ nhất định phù hợp để tạo ra được chùm tia
phát xạ chỉ bao gồm một số vạch phổ nhạy đặc trưng của nguyên tố phân tích. Đèn EDL
cũng gồm các bộ phận:
Thân đèn: Một ống thạch anh chịu nhiệt, dài 18 - 15 cm, đường kính 6 - 5 cm. Cửa
sổ cho chùm sáng đi qua cũng phải trong suốt với chùm sáng đó. Ngoài ống thạch anh
là cuộn cảm bằng đồng (Hình 1.17). Cuộn cảm có công suất từ 800 - 400 W, tùy loại
đèn của từng nguyên tố, và được nối với nguồn năng lượng cao tần (HF) phù hợp để
nuôi cho đèn EDL làm việc. Ngoài cùng là vỏ chịu nhiệt. Chất trong đèn là vài miligam
kim loại hay muối kim loại dễ bay hơi của nguyên tố phân tích, để làm sao khi toàn bộ
chất hóa hơi bảo đảm cho áp suất hơi của kim loại đó trong đèn ở điều kiện nhiệt độ từ
800 - 550oC là khoảng từ 1 - 1,5 mmHg. Chất này thay cho catot trong đèn HCL, nó là
nguồn cung cấp chùm tia phát xạ của nguyên tố phân tích khi chúng bị kích thích trong
quá trình đèn EDL hoạt động. Khí trong đèn là khí trơ Ar, He hay Nitơ có áp suất thấp.
Nguồn nuôi đèn làm việc là nguồn năng lượng cao tần để nuôi đèn EDL làm việc được
chế tạo theo hai tần số. Tần số sóng ngắn 450 MHz và tần số sóng rađio 27,12 MHz, có
công suất dưới 1 kW.
+ Nguồn phát liên tục có biến điệu:
27
Trong khoảng vài năm lại đây, một loại nguồn phát xạ phổ liên tục cũng được dùng
làm nguồn phát bức xạ cộng hưởng cho phép đo AAS. Đó là đèn deuterium (D2-lamp),
các đèn xenon áp suất cao (Xe-lamp), các đèn hoạt của kim loại W. Đó là các loại đèn
phát phổ liên tục trong vùng tử ngoại và vùng khả kiến (UV- Vis). Đèn này tuy phát ra
phổ liên tục, nhưng nhờ hệ thống biến điệu và hệ lọc giao thoa, nên chùm sáng phát xạ
đó đã bị biến điệu và lượng tử hóa thành chùm sáng không liên tục hay các chùm sáng
đơn sắc.
- Phần 2. Hệ thống nguyên tử hóa mẫu phân tích.
Hệ thống này được chế tạo theo hai loại kĩ thuật nguyên tử hóa mẫu. Đó là kĩ thuật
nguyên tử hóa bằng ngọn lửa đèn khí (lúc này ta có phép đo F-AAS) và kỹ thuật nguyên
tử hóa không ngọn lửa, lúc này ta có phép đo ETA-AAS (Hình 1.16).
Trong kĩ thuật nguyên tử hóa bằng ngọn lửa, hệ thống này bao gồm:
+ Bộ phận dẫn mẫu vào buồng aerosol hóa và thực hiện quá trình aerosol hóa mẫu
(tạo thể sol khí).
+ Đèn để nguyên tử hóa mẫu (Burner head) để đốt cháy hỗn hợp khí có chứa mẫu
ở thể huyền phù sol khí.
Ngược lại, khi nguyên tử hóa mẫu bằng kĩ thuật không ngọn lửa, người ta thường
dùng một lò nung nhỏ bằng graphit (cuvet graphit) hay thuyền Tantan (Ta) để nguyên
tử hóa mẫu nhờ nguồn năng lượng điện có thế thấp (nhỏ hơn 12 V) nhưng có dòng rất
cao (50-800 A).
- Phần 3. Hệ thống máy quang phổ hấp thụ, nó là bộ đơn sắc, có nhiệm vụ thu, phân
li và chọn tia sáng (vạch phổ) cần đo hướng vào nhân quang điện để phát hiện tín hiệu
hấp thụ AAS của vạch phổ.
- Phần 4. Hệ thống chỉ thị tín hiệu hấp thụ của vạch phổ (tức là cường độ của vạch
phổ hấp thụ hay nồng độ nguyên tố phân tích). Hệ thống có thể là các trang bị:
+ Đơn giản nhất là một điện kế chỉ năng lượng hấp thụ (E) của vạch phổ;
+ Một máy tự ghi cường dộ của vạch phổ; bộ hiện số digital;
+ Hay bộ máy tính và máy in (printer); máy tích phân (lntegrator), phần mềm. Loại
trang bị này có nhiệm vụ điều khiển quá trình đo và xử lí các kết quả đo đạc, vẽ đồ thị,
tính nồng độ của mẫu phân tích, v.v...
28
(a) (b)
Hình 1.16. Hệ thống nguyên tử hóa trong phương pháp AAS
(a) Hệ thống nguyên tử hóa bằng ngọn lửa
(b) Hệ thống nguyên tử hóa bằng lò graphit
29
Bảng 1.4. Quan hệ giữa thành phần khí đốt và nhiệt độ ngọn lửa
Loại khí Tỷ lệ khí Nhiệt độ (0C)
Khí oxi hóa Khí nhiên liệu
Không khí Propan 6/1,4 2200
Không khí Hydro 4/3 2050
Oxy Axetilen 1/1 3000
N2O Axetilen 2/1,8 2900
Không khí Axetilen 4,2/0,7 1800
Không khí Axetilen 4,2/0,9 2000
Không khí Axetilen 4,2/1,1 2300
Không khí Axetilen 4,2/1,2 2450
Không khí Axetilen 4,2/1,5 2400
Không khí Axetilen 4,2/1,6 2300
Đặc điểm nữa của phép đo không ngọn lửa là đòi hỏi một lượng mẫu tương đối
nhỏ. Thông thường mỗi lần đo chỉ cần lượng mẫu từ 20 đến 50 μL. Do đó không cần
nhiều lượng mẫu phân tích, việc chuẩn bị mẫu cũng dễ dàng và không tốn nhiều hóa
chất cũng như các dung môi tinh khiết cao đắt tiền. Về nguyên tắc, kĩ thuật nguyên tử
hóa không ngọn lửa là quá trình nguyên tử hóa tức khắc trong thời gian rất ngắn nhờ
năng lượng của dòng điện công suất lớn và trong môi trường khí trơ. Quá trình nguyên
tử hóa xảy ra theo ba giai đoạn kế tiếp nhau: sấy khô, tro hóa luyện mẫu, nguyên tử hóa
để đo phổ hấp thụ và cuối cùng là làm sạch cuvet. Trong đó hai giai đoạn đầu là chuẩn
bị cho giai đoạn nguyên tử hóa để đạt kết quả tốt. Nhiệt độ trong cuvet graphit là yếu tố
chính quyết định mọi sự diễn biến của quá trình nguyên tử hóa mẫu.
Yêu cầu của trang thiết bị nguyên tử hóa mẫu:
- Hệ thống nguyên tử hóa phải hóa hơi và nguyên tử hóa mẫu phân tích với hiệu
suất cao và ổn định, để đảm bảo cho phép đo có độ nhạy cao và độ lặp lại tốt.
- Phải cung cấp được năng lượng (nhiệt độ cao) đủ lớn, để có thể nguyên tử hóa
được nhiều loại mẫu và phân tích được nhiều nguyên tố.
- Cuvet chứa mẫu để nguyên tử hóa phải có độ tinh khiết cao. Không làm nhiễm
bẩn mẫu, không có phổ phụ gây khó khăn cho phép đo nguyên tố cần phân tích.
- Hạn chế, có ít hay không có các quá trình phụ trong quá trình nguyên tử hóa mẫu
thực hiện phép đo.
- Tiêu tốn ít mẫu.
Nguyên tắc:
Nguyên tắc và cách thực hiện của kĩ thuật nguyên tử hóa không ngọn lửa là hoàn
toàn khác với kĩ thuật nguyên tử hóa trong ngọn lửa. Ở đây người ta thường dùng năng
lượng nhiệt của một nguồn năng lượng phù hợp để nung nóng, hóa hơi và nguyên tử hóa
mẫu phân tích trong ống cuvet graphit hay trong thuyền tantan (Ta) nhỏ. Nguồn năng
lượng thường được dùng hiện nay là dòng điện có cường độ dòng rất cao (từ 50 - 600A)
và thế thấp (dưới 12V) hay là năng lượng của dòng điện cao tần cảm ứng. Dưới tác dụng
của các nguồn năng lượng này, cuvet chứa mẫu phân tích sẽ được nung nóng đỏ tức
khắc và mẫu sẽ được hóa hơi và nguyên tử hóa để tạo ra các nguyên tử tự do ở trạng thái
hơi có khả năng hấp thụ bức xạ đơn sắc, tạo ra phổ hấp thụ nguyên tử của nó. Dụng cụ
để nguyên tử hóa mẫu theo kĩ thuật này hiện nay có rất nhiều loại khác nhau được chế
tạo tùy thuộc theo từng hãng và từng phòng thí nghiệm như: cuvet graphit; cốc graphit;
thuyền kim loại chịu nhiệt, như Ta…
Dùng phổ biến nhất là các cuvet graphit, vì nó thoả mãn được những yêu cầu chính
của phép đo không ngọn lửa. Về cuvet graphit, mỗi hãng chế tạo máy quang phổ hấp
33
thụ nguyên tử đều có cuvet graphit riêng cho các máy của họ và hệ thống nguyên tử hóa
không ngọn lửa tương ứng.
Hệ thống nguyên tử hóa mẫu theo kĩ thuật không ngọn lửa gồm có:
+ Buồng nguyên tử hóa và cuvet graphit chứa mẫu phân tích để thực hiện quá trình
nguyên tử hóa;
+ Nguồn năng lượng để nung nóng đỏ lò graphit đến nhiệt độ nguyên tử hóa mẫu
và bộ điều khiển hay bộ chương trình (programer) để đặt chương trình và chỉ huy quá
trình nguyên tử hóa mẫu theo các giai đoạn nhất định. Tuy mỗi hãng có những dụng cụ
khác nhau, nhưng quá trình nguyên tử hóa trong các dụng cụ đó đều xảy ra theo 4 giai
đoạn kế tiếp nhau trong thời gian tổng cộng từ 80 - 60 giây.
Các giai đoạn nguyên tử hóa mẫu:
a, Sấy khô mẫu
Mục đích của giai đoạn này nhằm đảm bảo cho dung môi hoà tan mẫu bay hơi nhẹ
nhàng và hoàn toàn, nhưng không làm bắn mẫu, mất mẫu. Đây là giai đoạn đoạn đầu
tiên của quá trình nguyên tử hóa mẫu. Nếu không thực hiện sấy tốt, mẫu sẽ bị bắn làm
sai lệch kết quả phân tích. Để thực hiện quá trình sấy tốt, đối với mỗi một loại mẫu cần
phải tiến hành nghiên cứu, phát hiện và chọn nhiệt độ và thời gian sấy cho phù hợp.
Nhiệt độ và thời gian sấy khô của mỗi loại mẫu phụ thuộc vào bản chất của các chất ở
trong mẫu và dung môi hoà tan nó. Thực nghiệm cho thấy rằng, không nên sấy mẫu ở
nhiệt độ cao và sấy khô nhanh. Nói chung nhiệt độ sấy khô phù hợp đối với các mẫu vô
cơ trong dung môi nước nằm trong khoảng từ 100 - 150oC trong thời gian từ 25-40 giây
với lượng mẫu được bơm vào cuvet nhỏ hơn 100 μl. Tất nhiên quá trình sấy khô chậm
ở nhiệt độ thấp bao giờ cũng cho kết quả ổn định. Việc tăng nhiệt độ khi sấy, từ nhiệt
độ phòng đến nhiệt độ sấy mong muốn cũng cần được thực hiện từ từ, với tốc độ tăng
nhiệt độ từ 8 đến 50C trong một giây là phù hợp.
Đối với các mẫu có chứa các chất hữu cơ hay hoà tan trong dung môi hữu cơ, thường
phải sấy ở nhiệt độ thấp hơn và tốc độ tăng nhiệt độ phải chậm hơn dung môi nước. Với
loại mẫu này, nhiệt độ sấy thường là dưới 1000C.
Mỗi nguyên tố cũng có một nhiệt độ sấy tối đa cho nó (bảng 2.22), nghĩa là nếu sấy
mẫu ở nhiệt độ cao hơn nhiệt độ đó thì kết quả phân tích kém ổn định và sẽ mắc sai số
rất lớn.
Bảng 1.5. Nhiệt độ sấy, tro hóa luyện mẫu, nguyên tử hóa mẫu giới hạn của một số nguyên tố
Nhiệt độ tới hạn của quá trình
Nguyên tố
Sấy mẫu Tro hóa Nguyên tử hóa
Al 130 1100 2850
Ba 150 1100 2900
34
Mục đích của giai đoạn này là chuyển chất phân tích thành nguyên tử tự do, chuẩn
bị cho quá trình kích thích phổ hấp thụ. Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình nguyên
tử hóa mẫu, nhưng lại là giai đoạn quyết định cường độ của vạch phổ. Song nó lại bị
ảnh hưởng bởi hai giai đoạn trên. Giai đoạn này được thực hiện trong thời gian rất ngắn,
thông thường từ 3 đến 6 giây, rất ít khi đến 8-10 giây. Nhưng tốc độ tăng nhiệt độ lại là
rất lớn để đạt ngay tức khắc đến nhiệt độ nguyên tử hóa và thực hiện phép đo cường độ
vạch phổ. Tốc độ tăng nhiệt độ thường là từ 1800 - 2500oC/giây, thông thường người ta
sử dụng tốc độ tối đa, tốc độ nguyên tử hóa của một nguyên tố rất khác nhau. Đồng thời
mỗi nguyên tố cũng có một nhiệt độ nguyên tử hóa giới hạn Ta của nó. Nhiệt độ Ta này
phụ thuộc vào bản chất của mỗi nguyên tố và cũng phụ thuộc ở mức độ nhất định vào
trạng thái và thành phần của mẫu mà nó tồn tại, nhất là chất nền của mẫu.
này cần chọn đúng chiều cao của đèn nguyên tử hóa mẫu và chọn thành phần hỗn hợp
không khí cháy phù hợp.
1.6.1. Tối ưu hóa các thông số của máy đo
Các thông số này cần được khảo sát và chọn cho từng trường hợp cụ thể. Thực
hiện công việc này chính là quá trình tối ưu hóa các thông số của máy đo cho một đối
tượng phân tích.
Chọn bước sóng ánh sáng tới thích hợp với nguyên tố cần xác định. Nguồn ánh
sáng đơn sắc phải có cường độ ổn định, lặp lại được trong các lần đo khác nhau trong
cùng điều kiện và phải điều chỉnh được để có cường độ cần thiết trong mỗi phép đo.
Cường độ dòng điện làm việc của đèn catot rỗng (HCL): Nên chọn cường độ
dòng nằm trong vùng 60% đến 80% so với cường độ dòng cực đại ghi trên đèn HCL.
Khi cần độ nhạy cao thì chọn cận dưới còn khi cần độ ổn định cao thì chọn cận trên.
Khe đo: Khe đo có ảnh hưởng đến độ nhạy và vùng tuyến tính của phép đo, do đó cần
phải chọn khe đo có giá trị phù hợp nhất cho phép đo định lượng cần xác định theo bước
sóng đã chọn.
Thời gian đo: Yếu tố này phụ thuộc và đặc trưng kỹ thuật của máy đo và của kỹ
thuật nguyên tử hóa mẫu. Xác định vùng tuyến tính của A theo C tại các bước sóng đo
đã chọn. Có xác định được vùng này thì mới có thể xác định các mẫu đầu phù hợp với
khoảng tuyến tính, bởi vì các kết quả thi được khi đo ở vùng tuyến tính bao giờ cũng có
độ chính xác cao.
Lượng mẫu: là tốc tộ dẫn mẫu, lượng mẫu bơm vào
Bổ chính nền khi đo: Nếu nền của phổ có ảnh hưởng đến phép đo thì phải có bổ chính
nền để loại trừ các ảnh hưởng, nếu không ảnh hưởng thì không cần thiết.
Hệ nhân quang điện nhận tín hiệu AAS: Phải điều chỉnh núm GAIN để kim chỉ
thang năng lượng nằm trong vùng 70-100 là vùng làm việc phù hợp của thế nuôi nhân
quang điện cho máy đo phổ hấp thụ.
1.6.2. Tối ưu hóa các điều kiện nguyên tử hóa mẫu
Các yếu tố này thể hiện rất khác nhau tùy thuộc vào kĩ thuật được chọn để thực hiện
quá trình nguyên tử hóa mẫu.
- Môi trường khí trơ thực hiện quá trình nguyên tử hóa:
Khí trơ thường được dùng làm môi trường cho quá trình nguyên tử hóa là argon
(Ar), nitơ N2) và heli (He), nghĩa là quá trình nguyên tử hóa thực hiện trong môi trường
không có oxy. Do đó không xuất hiện hợp chất bền nhiệt loại MeO hay MeOX. Nhưng
bản chất, thành phần và tốc độ dẫn khí trơ vào trong cuvet graphit đều ảnh hưởng đến
cường độ của vạch phổ và nhiệt độ trong cuvet graphit. Trong ba loại khí trơ nói trên,
37
thì Ar là khí tốt nhất, sau đó đến N2. Đồng thời khi tăng tốc độ dẫn khí vào cuvet graphit
thì cường độ vạch phổ luôn luôn giảm và mức độ giảm cũng khác nhau đối với mỗi
nguyên tố. Do đó trong phân tích, khi đo cường độ vạch phổ bắt buộc phải giữ cho tốc
độ dẫn không đổi, hoặc có thể tắt khí môi trường trong giai đoạn nguyên tử hóa để đo
cường độ vạch phổ.
Độ nhớt và sức căng bề mặt của dung dịch mẫu: Để loại trừ ảnh hưởng này chúng
ta có thể dùng các biện pháp sau: Đo và xác định theo phương pháp thêm chuẩn, pha
loãng mẫu bằng một dung môi hay một nền mẫu phù hợp. Thêm vào mẫu chuẩn một
chất chuẩn có nồng độ đủ lớn, dùng bơm để đẩy mẫu với một tốc độ xác định mà chúng
ta mong muốn.
Hiệu ứng lưu lại: Khi nguyên tử hóa mẫu để đo cường độ vạch phổ thì một lượng
nhỏ của nguyên tố phân tích không bị chueyenr hóa chúng được lưu lại trên bề mặt cuvet
và cứ thế tích tụ lại qua một số lần nguyên tử hóa mẫu. Nhưng đến một lần nào đó thì
chúng lại bị nguyên tử hóa theo và do đó tạo ra số nguyên tử tự do của nguyên tố phân
tích tăng đột ngột không theo nồng độ của nó trong mẫu. Cách khắc phụ là làm sạch
cuvet sau mỗi lần nguyên tử hóa mẫu, để làm bay hơi hết các chất còn lại trong cuvet.
Sự ion hóa: Để loại trừ sự ion hóa của một nguyên tố phân tích có thể sử dụng các biện
pháp sau: Chọn các điều kiện nguyên tử hóa có nhiệt độ thấp, mà trong điều kiện đó
nguyên tố phân tích hầu như không bị ion hóa. Thêm vào mẫu phân tích một chất đém
cho sự ion hóa của nguyên tố phân tích với một nồng độ lớn phù hợp. Như vậy, trong
điều kiện đó, nguyên tố phân tích sẽ không bị ion hóa nữa. Yếu tố này xuất hiện thường
làm giảm nồng độ của các nguyên tử trung hòa có khả năng hấp thụ bức xạ trong môi
trường hấp thụ.
1.6.3. Ảnh hưởng của nồng độ axit, loại axit trong dung dịch mẫu
Các axit càng khó bay hơi thì thường làm giảm đến cường độ vạch phổ. Các axit
dễ bay hơi gây ảnh hưởng nhỏ. Nói chung các axit làm giảm cường độ vạch phổ theo
thứ tự: HClO4 < HCl < HNO3 < H2SO4 < H3PO4 < HF Nghĩa là các axit HClO4, HCl,
HNO3 gây ảnh hưởng nhỏ nhất trong vùng nồng độ nhỏ. Chính vì thế trong thực tss phân
tích của phép đo phổ hấp thụ nguyên từ người ta thường dùng môi trường là axit HCl
hay HNO3 1-2%. Vì ở nồng độ này ảnh hưởng của 2 axit là không đáng kể.
1.6.4. Ảnh hưởng của cation
Các cation có thể làm tăng, có thể làm giảm cũng có thể không gây ảnh hưởng gì
đến cường độ vạch phổ của nguyên tố phân tích. Để loại trừ ảnh hưởng của các cation
chúng ta có thể sử dụng các biện pháp sau đây hoặc riêng biệt hoặc tổ hợp chúng lại với
nhau. Đó là chọn điều kiện xử lý mẫu phù hợp để loại trừ các yếu tố ảnh hưởng ra khỏi
38
dung dịch mẫu phân tích để đo phổ, chọn các thông số của máy đo thích hợp và thêm
vào mẫu phân tích những chất phụ gia thích hợp để loại trừ ảnh hưởng
1.6.5. Ảnh hưởng của anion
Các anion của các axit dễ bay hơi thường làm giảm ít đến cường dộ vạch phổ.
Cần giữ cho nồng độ các anion trong mẫu phân tích và mẫu chuẩn là như nhau và ở một
giá trị nhất định không đổi. Mặt khác không nên chọn axit H2SO4 làm môi trường của
mẫu cho phép đo mà chỉ nên chọn HCl hay HNO3 nồng độ dưới 2%.
1.7. Phân tích trắc quang
1.7.1. Cơ sở lí thuyết của phương pháp
Phân tích trắc quang là tên gọi chung của các phương pháp phân tích quang học
dựa trên sự tương tác chọn lọc giữa chất cần xác định với năng lượng bức xạ thuộc vùng
tử ngoại, khả kiến hoặc hồng ngoại. Nguyên tắc của phương pháp trắc quang là dựa vào
lượng ánh sáng đã bị hấp thu bởi chất hấp thu để tính hàm lượng của chất hấp thu.
Ánh sáng có bước sóng nhỏ hơn 200nm, bị hấp thu bởi oxi không khí, hơi nước
và nhiều chất khác, vì vậy chỉ có thể đo quang ở bước sóng nhỏ hơn 200 nm bằng máy
chân không. Ánh sáng có bước sóng nhỏ hơn 200nm, bị hấp thu bởi oxi không khí, hơi
nước và nhiều chất khác, vì vậy chỉ có thể đo quang ở bước sóng nhỏ hơn 200 nm bằng
máy chân không. Ánh sáng có bước sóng từ 200 – 400 nm, được gọi là ánh sáng tử ngoại
(UV), trong đó vùng từ 200 – 300 nm được gọi là miền tử ngoại xa, còn vùng từ 300 –
400 nm gần miền khả kiến được gọi là miền tử ngoại gần.
Ánh sáng có bước sóng trong khoảng từ 800 – 2000 được gọi là ánh sáng hồng
ngoại (IR). Sự hấp thu ánh sáng ở miền phổ này ít được sử dụng để giải quyết trực tiếp
các nhiệm vụ phân tích, nhưng được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu cấu tạo của phân
tử.
Ánh sáng vùng UV có bước sóng trong khoảng: 200 – 400 nm. Ánh sáng vùng
IR có bước sóng trong khoảng: 800 – 2000 nm. Ánh sáng vùng VIS có bước sóng trong
khoảng: 396 – 760 nm. Trong phương pháp trắc quang – phương pháp hấp thu quang
học, chúng ta thường sử dụng vùng phổ UV – VIS có bước sóng từ 200 – 800 nm
1.7.2. Các định luật cơ bản của sự hấp thu ánh sáng
Định luật Bughe-Lambe (Bouguer -Lambert):
Cường độ màu được đo bằng độ giảm cường độ chùm sáng có λ nhất định, cường
độ chùm sáng tới ký hiệu là Io (ec: cm2/sec), cường độ chùm sáng sau khi bị hấp thụ ký
hiệu là I, độ hấp thụ ánh sáng là (Io- I) hoặc Io/I hoặc là một hàm số khác. Với phân tích
đo quang, thuận tiện nhất là biểu thị độ hấp thụ ánh sáng bằng đại lượng: A (hoặc D) =
lg(Io/I)
39
phụ thuộc vào cường độ của tia tới. Mỗi lớp bề dày như nhau hấp thụ một phần dòng
sáng đơn sắc đi qua dung dịch như nhau"
Bảng 1.6. Ví dụ về sự phụ thuộc giữa độ hấp thụ bức xạ vào bề dày lớp hấp thụ
(Với Io = 100)
l (cm) 1 2 3 4
I 50 25 12,5 6,25
Hình 1.20. Đường đi của ánh sáng qua dung dịch chứa 2 cấu tử mang màu A, B
Bản chất của định luật cộng tính là tính độc lập của đại lượng hấp thụ ánh sáng của
một chất riêng biệt khi có mặt của chất khác cũng có khả năng hấp thụ ánh sáng riêng.
Giả sử có 2 cấu tử A, B có khả năng hấp thụ ánh sáng, theo định luật Bughe-Lambe-Bia,
tại một giá trị λ chiếu tới có cường độ I0, sau khi qua cấu tử A, cường độ bức xạ là I1, I1
đóng vai trò tia tới hợp phần mang màu chứa cấu tử B, sau đó ló ra còn lại cường độ I2,
độ hấp thụ quang của 2 chất A, B lần lượt là AA, AB, của hợp phần gồm 2 chất A và B
là AAB.
AA = lg(Io/I1); AB = lg(I1/I2).
Mặt khác: AAB = lg(Io/I2), đem cộng AA và AB ta có:
AA+AB = lg(Io/I1) + lg(I1/I2) = lg(Io/I2) → AAB = AA + AB
Một cách tổng quát: nếu hệ chứa n cấu tử có khả năng hấp thụ ánh sáng tại một giá
trị λ nhất định, ta có:
42
A = A1 + A2 +…+ An = ∑𝑛1 A𝑖
A = ε1lC1 + ε2lC2 +...+εnlCn
Tại các λ khác nhau ta có:
A1 = (11C11 + 12C12 +... + 1nC1n).l (1)
A2 = (21C21 + 22C22 +... + 2nC2n).l (2)
....... ....
An = (n1Cn1 + n2Cn2 +... + nnCnn).l (n)
Giải hệ n phương trình có n ẩn số hoặc sử dụng phổ đạo hàm, phương pháp sai số
tương đối và tuyệt đối, phương pháp cải tiến Vierode, phương pháp lọc Karlman,
phương pháp mạng nơron nhân tạo ta tìm được các giá trị nồng độ chất màu.
Lúc này độ truyền quang: TA = I1/Io; TB = I2/I1
TAB = I2/Io = TA.TB
1.7.4. Thuốc thử
Trong phép đo UV - Vis, nếu chất cần xác định không hấp thụ bức xạ vùng UV -
Vis hoặc hấp thụ yếu, ta thường cho chất cần xác định tác dụng với một chất khác (thuốc
thử) để chuyển thành hợp chất có khả năng hấp thụ bức xạ.
Các thuốc thử là các hợp chất vô cơ, muối tan trong nước, các axit, hay bazơ hữu
cơ, phân tử của nó có nhiều liên kết pi, pi liên hợp, đôi electron tự do chưa liên kết n,
phản ứng với chất phân tích có tính định lượng tạo ra 1 sản phẩm bền.
M + R MR
M: ion, chất cần xác định;
R: Thuốc thử;
MR: Chất có khả năng hấp thụ bức xạ.
Thuốc thử R có thể là các chất vô cơ hay hữu cơ, thông thường thuốc thử hữu cơ
được sử dụng rộng rãi hơn.
Các thuốc thử vô cơ: Là các muối kim loại kiềm tan trong nước (như KCNS,
NH4CNS, K2CrO4, KMnO4, Na2[Co(NO2)2]), hay các kiềm yếu NH4OH (NH3) cho
phép xác định Cu(II), Ni(II), hoặc có thể là dung dịch H2O2 làm thuốc thử cho phép xác
định Ti, V, Nb...
Thuốc thử vô cơ chiếm một số lượng không lớn, tạo ra các phức chất có nhiều phối trí
như Fe(III)(CNS)n, với n: 1 - 6, phức có độ nhạy UV- Vis không cao (vì nhỏ), độ bền
phức sinh ra không cao.
Các thuốc thử hữu cơ: Có nhiều loại thuốc thử hữu cơ và luôn được tổng hợp phát
triển thêm. Loại thuốc thử này trong phân tử thường có nhiều liên kết pi, pi liên hợp, sản
phẩm phức sinh ra có độ hấp thụ quang cao ( lớn) và được chia thành các nhóm sau:
43
Nhóm các thuốc thử thông thường: Là các axit hay bazơ hữu cơ yếu, chủ yếu mạch
cacbon thẳng, cũng có nhiều liên kết pi, giá trị < 300, độ nhạy thấp nên ít được sử dụng
như hệ các α, β, γ- aminoaxit
Nhóm thuốc thử chelat (vòng càng): Là các axit, bazơ hữu cơ yếu, và các muối tan
của chúng, ngoài mạch cacbon, còn có thêm nhóm: -NH2, -NH-OH, H2N-COOH,
O=CHOH, … Phân tử có nhiều liên kết pi, liên kết pi liên hợp và có cả các đôi electron
chưa liên kết n. Chất hấp thụ tạo ra có hệ số hấp thụ phân tử mol khá lớn (10.000-
20.000), nên độ nhạy cao.
Đây là thuốc thử được ứng dụng nhiều trong việc xác định ion kim loại như EDTA,
catechol, ephinephrine, eriocrom đen T, eriocianyl R.
Rhodamine B Rhodamine 6G
Các phương pháp phân tích điện hóa là các phương pháp ứng dụng các qui luật liên
quan tới phản ứng điện hóa xảy ra trên ranh giới tiếp xúc giữa các điện cực và dung dịch
phân tích. Có 4 phương pháp sau đây thuộc về nhóm các phương pháp phân tích điện
hóa:
- Phương pháp phân tích đo điện thế;
- Phương pháp phân tích điện phân và đo điện lượng;
- Phương pháp phân tích đo độ dẫn điện;
- Phương pháp phân tích Von-Ampe.
2.1. Khái niệm chung
Phương pháp điện hóa là một trong những kĩ thuật ra đời từ rất sớm và có nhiều
ứng dụng trong cuộc sống. Ngay từ khoảng 2000 năm trước, những “viên pin của
người Parthian” có khả năng tạo ra dòng điện từ 1,5 – 2V giữa trụ sắt và tấm đồng đã
xuất hiện dưới bàn tay chế tạo của những người Parthian, một dân tộc miền bắc Ba Tư.
Tuy nhiên phải tới thế kỉ 19, pin điện hóa mới bắt đầu được nghiên cứu có hệ
thống, “pin Volta” ra đời vào năm 1800 bởi nhà bác học Alessandro Volta (1745 –
1827) là giáo sư Vật lí tại Đại học Pavia, Italy. Với một loạt các nghiên cứu, phát
minh, sáng chế sau này, pin điện trở thành một trong những phát minh quan trọng nhất
với cuộc sống con người ngày nay.
Các phương pháp phân tích điện hóa là dựa trên cơ sở ứng dụng các tính chất,
quy luật và các hiện tượng điện hóa có liên quan đến các phản ứng điện hóa học xảy ra
trên bề mặt hay trên ranh giới tiếp xúc giữa các cực (điện cực) và dung dịch phân tích
48
hay là các tính chất điện hóa của dung dịch điện hóa của môi trường giữa các cực
trong bình phản ứng (bình điện hóa).
Các phương pháp phân tích điện hóa là những phương pháp phân tích công cụ
vừa là để xác định các chất vừa là phương tiện để nghiên cứu lí thuyết điện hóa và các
phản ứng hóa học của các chất vô cơ (ion kim loại, muối) và các chất hữu cơ.
2.2. Nguyên tố ganvani
a/ Khái niệm: Nguyên tố điện hóa hay nguyên tố Ganvani còn được gọi là nguồn
điện hóa học là một hệ điện hóa cho phép biến đổi năng lượng của phản ứng hóa học
trên điện cực thành điện năng
b/ Cấu tạo: Nguyên tố điện hóa gồm hai điện cực bằng kim loại được nhúng vào
dung dịch điện phân. VD : Điển hình cho nguyên tố điện hóa là nguyên tố Đanien-Jacobi
hay Pin Daniell gồm :
- Bản đồng và kẽm được dùng làm điện cực và nhúng vào dung dịch đồng sunfat
và kẽm sunfat tương ứng có nồng độ xác định.
- Hai dung dịch này được ngăn cách bằng vách ngăn xốp để tránh sự pha trộn của
chúng.
c/ Hoạt động:
Nếu hai điện cực này được nối nhau bằng dây dẫn ở mạch ngoài thì :
- Khi đó hiệu thế đo được E sẽ được gọi là suất điện động (viết tắt là sđđ) của
nguyên tố ganvani. Điện cực Zn được gọi là anod, tại đó xảy ra quá trình : Cực âm : ⇒
Điện cực Cu là catot, tại đó xảy ra quá trình : Cực dương : ⇒ Đối vơi toàn bộ nguyên
tố, quá trình oxi hóa khử bằng tổng các quá trình xảy ra trên từng điện cực (bán nguyên
tố).
d/ Sơ đồ pin Sơ đồ nguyên tố điện hóa Đanien-Jacobi được viết một cách ngắn gon như
sau : (-) Zn|ZnSO4||CuSO4|Cu (-)
- Ranh giới phân chia điện cực và dung dịch được ghi bằng một vạch dọc, còn
ranh giới hai dung dịch được ghi bằng hai vạch.
- Anot được viết ở bên trái, catot ở bên phải. Electron (tích điện âm) dời cực Zn
(cực âm) tới cực Cu (cực dương).
2.3. Các loại điện cực
2.3.1. Điện cực chỉ thị
Là điện cực có thế phụ thuộc vào nồng độ ion cần phân tích trong dung dịch.
Điện cực chỉ thị đáp ứng một số yêu cầu sau đây:
- Thế điện cực chỉ thị phải lặp lại và cân bằng điện hóa thiết lập nhanh.
49
- Đối với điện cực là thanh kim loại thì thanh kim loại nhúng vào dung dịch muối
của kim loại đó phải thuận nghịch.
- Điện cực phải có độ bền hóa học để điện cực không tác dụng với các cấu tử
khác trong dung dịch nghiên cứu. Trong phương pháp đo điện thế người ta dùng điện
cực kim loại và điện cực màng làm điện cực chỉ thị.
Điện cực kim loại loại một
Là điện cực được chế tạo từ bản hoặc dây kim loại, nhúng vào dung dịch muối
tan của kim loại đó.
Các điện cực kim loại chế tạo từ bạc, thủy ngân, cađimi... là thuận nghịch và
kết quả lặp lại. Tuy nhiên nhiều kim lại như crom, coban... không cho kết quả lặp lại,
điện cực nhôm không thuận nghịch do có lớp oxit mỏng trên bề mặt điện cực, các loại
điện cực như vừa nêu không thích hợp cho phương pháp đo điện thế.
Với nhiều điện cực, độ lặp lại sẽ tốt hơn khi dùng hỗn hống kim loại thay cho
kim loại tinh khiết. Đó là điện cực hỗn hống. Trong các loại điện cực chỉ thị thì loại
điện cực để đo điện thế oxi hóa - khử có vị trí đặc biệt.
Người ta thường dùng các kim loại quý như Pt, Au, Ir hay graphit làm điện cực
chỉ thị để đo điện thế oxi hóa khử. Thế điện cực của loại điện cực này phụ thuộc tỉ lệ
nồng độ dạng oxi hóa và dạng khử của cặp oxi hóa - khử.
Điện cực kim loại loại hai
Được chế tạo từ các bản hoặc dây kim loại có phủ bên ngoài một lớp muối ít
tan của kim loại đó và được nhúng vào muối chứa anion cùng tên trong lớp phủ.
Các điện cực calomel, điện cực bạc clorua là điện cực kim loại loại hai. Điện
cực kim loại loại hai cũng thường được dùng làm điện cực so sánh.
Điện cực màng chọn lọc ion
Điện cực màng chọn lọc ion là một bán pin điện hóa. Trong loại điện cực này,
hiệu số điện thế trên mặt ngăn cách của các pha của vật liệu chế tạo điện cực - chất
điện li phụ thuộc nồng độ (hay chính xác hơn là hoạt độ) các ion xác định trong dung
dịch. Vật liệu chế tạo điện cực là màng chất rắn hoặc là màng chất lỏng có chứa các
ion xác định. Khi vật liệu màng tiếp xúc với dung dịch nước các ion có thể chuyển vào
dung dịch, hoặc các ion cần xác định có thể chuyển từ dung dịch nước vào màng. Do
đó trên bề mặt của màng có điện tích trái dấu với điện tích các ion có trong dung dịch
và trên mặt ngăn cách các pha sẽ xuất hiện một hiệu điện thế mà giá trị của hiệu điện
thế phụ thuộc hoạt độ các ion trong dung dịch.
50
Như vậy điện cực màng làm việc không phải do phản ứng điện hóa vận chuyển
ion mà là do hiệu số điện thế xuất hiện trên bề mặt ngăn cách các pha và sự trao đổi
cân bằng dung dịch nghiên cứu với dung dịch phụ ở bên trong màng. Điện cực thủy
tinh để đo pH các dung dịch là điển hình của loại điện cực này. Trong những năm gần
đây đã xuất hiện nhiều loại điện cực màng chọn lọc ion để xác định hoạt độ (hoặc
nồng độ) các ion hoặc để chuẩn độ điện thế. Ví dụ có các loại điện cực để xác định các
ion natri, kali, canxi, magie, kẽm, chì, lantan, clo, brom, iot, florua, nitrat, sunfua...
2.3.2. Điện cực so sánh
- Điện cực so sánh là điện cực có thế không đổi (ổn định), không phụ thuộc vào
thành phần dung dịch đo và đã được xác định theo thế của điện cực tiêu chuẩn.
- Yêu cầu của loại điện cực so sánh là phải bền theo thời gian, điện thế phải lặp
lại và không thay đổi khi có dòng điện nhỏ chạy qua.
- Các loại điện cực bạc clorua, điện cực calomel thường được dùng làm điện cực
so sánh.
Ví dụ: Điện cực bạc clorua
Điện cực bạc clorua được chế tạo bằng dây bạc hoặc một bản bạc kim loại có
phủ lớp bạc clorua nhúng vào dung dịch KCl.
Áp dụng phương trình Nernst cho điện cực bạc clorua và coi hoạt độ bằng nồng
độ ta có:
Ta thấy thế điện cực AgCl phụ thuộc vào hoạt độ hay nồng độ của ion Cl- trong
dung dịch. Thường người ta hay dung KCl bão hòa làm dung dịch phụ bên trong.
Ví dụ: Điện cực calomel
Điện cực calomel là điện cực loại hai, gồm thuỷ ngân kim loại tiếp xúc với muối
ít tan Hg2Cl2 và dung dịch KCl có nồng độ xác định (0,1M; 1M hoặc bão hoà).
Áp dụng phương trình Nernst cho điện cực calomen ta có:
Vậy thế điện cực calomel chỉ phụ thuộc vào nồng độ Cl- trong dung dịch.
Thông thường để giữ thế điện cực của điện cực AgCl và calomel không thay đổi
người ta thường chuẩn bị các điện cực này ở điều kiện trong dung dịch KCl bão hòa
hay dung dịch KCl 2M.
51
Hình 2.1. Sơ đồ một điện cực chọn lọc ion dạng màng lỏng.
Ở bên trong người ta đặt một điện cực AgCl 1 nhúng vào dung dịch MCl2, M là
cation cần xác định. Màng xốp 3 một phía tiếp xúc với dung dịch so sánh của điện cực
52
AgCl, phía kia tiếp xúc với dung dịch phân tích. Chất lỏng chứa trong bình 2 gồm có
ionit lỏng hữu cơ có nhóm chức axit, bazơ hoặc tạo phức hòa tan trong dung môi
không trộn lẫn với nước. Loại điện cực kiểu này thường được dùng để xác định ion
Ca2+ trong các đối tượng sinh vật (thử chức năng canxi). Trong điện cực này, ionit
lỏng là muối canxi của axit ankylphotphoric hòa tan trong điankylphotphat. Dung dịch
so sánh ở bên trong tiếp xúc với điện cực là CaCl2. Ở một phía của màng trao đổi ion
chọn lọc có cân bằng: CaR2 (hữu cơ) 2R- (hữu cơ) + Ca2+ (nước)
Vì nồng độ ion Ca2+ trong dung dịch so sánh không đổi nên thế điện cực sẽ chỉ
phụ thuộc nồng độ ion Ca2+ trong dung dịch nghiên cứu. Sự phụ thuộc này được biểu
diễn bằng phương trình: E = E0 - 0,029lgCCa2+
Dựa vào điện cực chọn lọc ion, người ta đã chế tạo được các loại máy đo trực
tiếp ion (ionometer) như kiểu pH - met để đo pH. Điện cực chọn lọc ion thường có vận
tốc phản hồi đủ nhanh nên có thể dùng vào mục đích chuẩn độ điện thế.
Phương pháp chuẩn độ điện thế
Chuẩn độ điện thế là một phương pháp phân tích mà việc xác định điểm tương
đương của quá trình định phân được thực hiện bằng cách đo điện thế của dung dịch phân
tích trong quá trình định phân. Tại gần điểm tương đương xảy ra sự thay đổi đột
ngột của thế điện cực chỉ thị nhờ đó xác định được điểm tương đương. Tuy nhiên việc
xác định điểm tương đương theo phương pháp chuẩn độ điện thế chỉ được thực hiện
khi có ít nhất một cấu tử tham gia phản ứng định phân có tham gia quá trình điện cực.
Ví dụ: Để xác định điểm tương đương của quá trình định phân theo phương pháp axit -
bazơ ta dùng điện cực thuỷ tinh làm điện cực chỉ thị. Để xác định các halogenua ta
dùng điện cực bạc clorua. Các phản ứng dùng cho phương pháp chuẩn độ điện thế phải
có vận tốc đủ lớn, xảy ra cho đến cùng ...
Để tiến hành phương pháp chuẩn độ điện thế người ta lắp một mạch đo gồm điện
cực chỉ thị, dung dịch phân tích - điện cực so sánh. Điện cực so sánh thường dùng là
điện cực calomel, điện cực bạc clorua.
Để xác định điểm tương đương trong phương pháp chuẩn độ điện thế, người ta
thường dựa vào các số liệu thực nghiệm đo điện thế của dung dịch trong quá trình định
phân rồi xây dựng trên đồ thị theo hệ trục tọa độ E/V hoặc AE/AV - V. Trường hợp đầu
người ta gọi là đường tích phân, còn trong trường hợp hai người ta gọi là đường vi phân.
V là thể tích dung dịch chuẩn.
53
Hình 2.2. a- Đường định phân dạng tích phân, b-Đường định phân dạng vi phân
Trên Hình 2.2 trình bày các kiểu đường định phân trong phương pháp chuẩn độ
điện thế. Trong phương pháp chuẩn độ điện thế người ta cũng dùng các phản ứng phân
tích thông thường là: phản ứng axit - bazơ, phản ứng oxi hóa - khử, phản ứng tạo phức
và complexon, phản ứng tạo kết tủa.
a. Định phân theo phương pháp axit — bazơ
Trong phương pháp chuẩn độ điện thế dùng phản ứng axit - bazơ, điện cực chỉ
thị thường dùng là điện cực thủy tinh. Khi định phân các axit bằng dung dịch NaOH
người ta có thể dùng điện cực quinhidron làm điện cực chỉ thị. Điện cực quinhidron là
điện cực bản platin nhúng vào dung dịch quinhidron là hợp chất gồm hai hợp chất quinon
và hidroquinon C6H4O2.C6H4(OH)2. Trong dung dịch quinhidron phân hủy thành cặp
oxi hóa - khử theo phương trình tạo thành điện cực có điện thế: Q + 2H+ + 2e = QH2
(aQ và aQH2 là hoạt độ của dạng quinon và hidroquinon tương ứng).
Vì quinhidron có lượng quinon và hidroquinon tương đương nên có thể xem aQ
=aQH2, và phương trình có dạng: E = E0 + 0,059lgH+ Hay E = E0 - 0,059pH
Vì vậy thế điện cực quinhidron là hàm tuyến tính theo pH. Thế điện cực của
điện cực quinhidron không ổn định khi pH > 8 vì khi pH > 8 hidroquinon dễ bị oxi
không khí oxi hóa thành quinon gây sự sai lệch cho chỉ số điện thế điện cực. Vì vậy
điện cực quinhidron chỉ được sử dụng khi chuẩn axit bằng NaOH mà không được
dùng trong trường hợp ngược lại.
Trong quá trình định phân theo phản ứng axit - bazơ điện cực so sánh thường là
điện cực calomel hay điện cực bạc clorua. Với phương pháp chuẩn độ điện thế, người
ta có thể xác định các axit trong một hỗn hợp khi hằng số phân li của chúng không
khác nhau ít hơn ba bậc. Đặc biệt phương pháp này cũng được sử dụng để xác định
các hỗn hợp nhiều cấu tử khi dùng dung môi không nước.
b. Định phân bằng phản ứng oxi hóa — khử
Quá trình định phân có thể được thực hiện với điện cực chỉ thị là kim loại quý
nhúng vào dung dịch oxi hóa - khử. Ví dụ điện cực dây Pt. Điện cực chỉ thị cũng có
54
thể là điện cực kim loại loại một thuận nghịch, bền và có tốc độ phản hồi đủ lớn. Điện
cực so sánh thường là điện cực calomel hay điện cực bạc clorua. Đường định phân được
xây dựng theo hệ tọa độ E/V, AE/AV - V hoặc pM - V. Trong đó V là thể tích dung dịch
định phân; E điện thế đo được; pM = log[M], ([M] nồng độ ion kim loại nghiên cứu).
c. Định phân dùng phản ứng tạo kết tủa
Trong phương pháp này người ta dùng điện cực kim loại, điện cực chọn lọc ion
làm điện cực chỉ thị. Điện cực so sánh là điện cực calomel hoặc điện cực bạc clorua.
Các điện cực này phải nhạy với ion cần xác định hoặc với thuốc kết tủa.
Dùng phản ứng kết tủa người ta có thể xác định các cation Ag+, Hg2+2 , Zn2+, Pb2+,...
các anion clorua, bromua, iodua, và vài ion khác, có thể xác định các halogenua trong
hỗn hợp không cần tách chúng ra khỏi nhau.
d. Định phân theo phản ứng tạo complexon
Trong phương pháp chuẩn độ điện thế dùng phản ứng complexon với complexon
III, người ta có thể dùng điện cực kim loại tương ứng làm điện cực chỉ thị. Như khi
định phân dung dịch muối đồng người ta dùng điện cực kim loại Cu, khi định phân
muối kẽm, người ta dùng điện cực Zn làm điện cực chỉ thị. Người ta cũng có thể dùng
các điện cực chọn lọc làm điện cực chỉ thị.
Để định phân theo phương pháp complexon người ta có thể dùng loại điện cực
chỉ thị vạn năng Hg/HgY hay Au(Hg)/HgY , trong đó Au(Hg) là hỗn hống vàng. HgY2-
là ion thủy ngân complexon.
Ví dụ: Khi định phân ion Ca2+ ta có thể lắp mạch đo kiểu: Hg/Hg2Cl2, KCl/Ca2+,
HgY2- (10-4)/Hg
2.4.2. Các phương pháp phân tích điện khối lượng
Dựa trên sự đo chính xác các khối lượng của các chất xác định được tách ra ở
trạng thái tinh khiết hóa học hoặc dưới dạng kết tủa ở trên các điện cực được nhúng
vào dung dịch phân tích khi có dòng điện một chiều đi qua. Mối liên hệ giữa lượng
chất thoát ra với điện lượng đi qua một dung dịch điện phân được thể hiện trong định
luật Faraday: “Khối lượng chất được tách ra trên bề mặt điện cực tỉ lệ thuận với điện
lượng đi qua dung dịch nghiên cứu và tỉ lệ thuận với đương lượng của chất”.
m = AIt / Nf
Trong đó m là khối lượng các chất được tách ra trên điện cực, I là cường độ dòng
điện (A), t là thời gian điện phân (s), F là hằng số Faraday = 96500, A/n đương lượng
gam cho chất cần xác định.
55
Trong phép phân tích điện hóa, dấu hiệu phân tích được dựa trên sự biến đổi thế
điện cực, cường độ dòng điện, điện lượng. Các dấu hiệu phân tích này được phát hiện,
điều khiển thông qua vôn kế, ampe kế, điện lượng kế và cả những thuốc thử hóa học.
Đối với phân tích điện phân hai phương pháp thương được sử dụng nhất là điện
phân với cường độ dòng điện không đổi và điện phân với thế điện cực không đổi.
Trong phương pháp phân tích điện khối lượng dung dịch phân tích được điện
phân trong điều kiện nhất định để toàn bộ ion của chất phân tích kết tủa trên bề mặt của
điện cực làm việc. So sánh khối lượng của điện cực làm việc trước và sau khi điện phân,
khối lượng chất cần phân tích sẽ được xác định. Điện cực làm việc trong phương pháp
điện khối lượng phải là điện cực trơ, thường là platin, đôi khi bằng bạc. Các điện cực
làm việc trong phân tích điện khối lượng thường có hình dạng sao cho thuận lợi nhất
cho việc kết tủa ion chất phân tích trên bề mặt như hình đĩa, hình trống hay hình trụ lưới.
Trước khi phân tích khối lượng chất người ta tiến hành xác định định tính các
chất có trong mẫu phân tích. Trong phân tích điện phân, người ta có thể đồng thời xác
định cả định tính và định lượng. Đối với mẫu dung dịch phức tạp thì người ta cố định
thế rồi điện phân để xác định từng ion trong dung dịch. Đối với các mẫu phân tích
không quá phức tạp người ta thường tiến hành điện phân dung dịch với cường độ dòng
điện không đổi.
Các điều kiện khác như thành phần dung dịch chất điện li nền, loại điện cực,
nhiệt độ, cường độ dòng,… được lựa chọn thích hợp để khi điện phân, chất cần phân
tích kết tủa bám chắc vào bề mặt điện cực làm việc, đều và mịn nhất.
Hiện nay trên thị trường các máy phân tích điện phân có nhiều loại trong đó có một số
loại tương đôi rẻ tiền và gọn nhẹ, tuy nhiên mức độ chính xác của từng loại máy có thể
khác nhau tùy vào công nghệ chế tạo.
(Máy AVL 9180 của ROCHE - Mỹ có khả năng làm việc tự động hoàn toàn các kim
loại Na, Ca và Li).
56
Tất cả mọi quá trình tách đều có một cơ sở chung là sự phân bố các cấu tử trong
một hỗn hợp giữa hai pha và sau đó có thể tách biệt chúng ra một cách cơ học. Nếu tỉ số
về lượng của một cấu tử riêng biệt trong các pha (tỷ số phân bố) khác nhau lớn với tỷ số
đó của một cấu tưe khác thì phương pháp tách hai cấu tử có thể được thực hiện. Chắc
chắn rằng, độ phức tạp của phương pháp tách phụ thuộc vào độ lớn của sự khác nhau
giữa các tỷ số phân bố. Khi sự khác nhau lớn, đủ đảm bảo cho một quá trình đơn giai
đoạn xảy ra. Ví dụ như kết tủa bằng ion bạc, tỷ số lượng ion clorua trong pha rắn và
trong pha nước là rất lớn so với các tỷ số khác, ví dụ như đối với các ion nitrat, peclorat
là rất gần với số không. Một tình huống phúc tạp hơn thường xảy ra khi tỷ số phân bố
đối với một cấu tử gần với số không như trong ví dụ dẫn ra trên đây nhưng tủ số đó đối
với một cấu tử khác lại không lớn. Trong trường hợp này cần một quá trình đa giai đoạn.
Ví dụ như uran (VI) có thể bị chiết vào ete từ một dung dịch axit nitric trong nước. Mặc
dù rằng, tỷ số phân bố hợp thức duy nhất với phép chiết đơn, tuy nhiên uran (VI) vẫn có
thể bị tách định lượng bằng phép chiết lặp, hoặc một cách triệt để hơn, chiết dung dịch
nước bằng một phần ete mới.
Khi các tỷ số phân bố của hai chất cần tách biệt cùng lớn hơn 0 và gần nhau về
giá trị, cần phải sử dụng những quy trình phức tạp nhất, nghĩa là kỹ thuật phân đoạn
nhiều giai đoạn như sắc ký. Kỹ thuật phân đoạn dựa trên sự khác nhau về hệ số phân bố
của chất tan. Có hai yếu tố có giá trị tăng cường hiệu suất tách phân đoạn. Thứ nhất là
số lần phân đoạn xuất hiện giữa hai pha được tăng lên nhiều. Thứ hai là sự phân bố xuất
hiện giữa các phần mới của hai pha. Chiết triệt để khác phân đoạn ở chỗ những phần
mới của chỉ một pha xuất hiện pha ở chỗ cũ.
3.2. Các phương pháp tách gián đoạn
3.2.1. Tách bằng phương pháp kết tủa
Muốn tách bằng kết tủa, sự khác nhau về độ tan của chất cần phân tích và chất
gây cản trở phải lớn. Cơ sở lý thuyết của phương pháp tách loại này là những tính toán
độ tan. Có một số yếu tố cản trở sử dụng thành công phương pháp kết tủa để tách.
Ví dụ: Hiện tượng cộng kết có thể gây nhiễm bẩn mạnh kết tủa do một hợp phần bất
thường nào đó ngay cả khi độ tan của sản phẩm nhiễm bẩn không lớn. Hơn nữa, tốc độ
tạo thành kết tủa của một kết tủa khác cũng có khả năng nhưng lại quá chậm sẽ có lợi
cho sự tách biệt. Cuối cùng, khi kết tủa tạo thành ở dạng keo huyền phù, sự keo tụ có
thể khó khăn và chậm, đặc biệt là khi có ý định tách lượng nhỏ của pha rắn. Nhiều thuốc
thử tạo kết tủa đã được ứng dụng để tách định lượng các chất vô cơ.
60
như thế đôi khi được thực hiện dựa trên một phản ứng kết tủa nhưng kỹ thuật đòi hỏi
phải khác với kỹ thuật được dùng khi phân tích lượng lớn.
Phương pháp chưng cất, thăng hoa
Phương pháp chưng cất
- Chưng cất là một phương pháp tách dùng nhiệt để tách hỗn hợp đồng thể (dung
dịch) của các chất lỏng khác nhau.
- Nguyên tắc: Chưng cất dựa trên nhiệt độ sôi khác nhau của các chất lỏng tham
gia. Các chất lỏng có áp suất hơi khác nhau tại cùng một nhiệt độ. Nếu đưa năng lượng
vào hệ thống, vì có áp suất hơi khác nhau, chất có áp suất hơi cao hơn (nhiệt độ sôi thấp
hơn) bốc hơi nhiều hơn các chất khác. Vì thế mà nồng độ của chất có nhiệt độ sôi thấp
hơn trong phần cất cao hơn là ở trong hỗn hợp ban đầu.
- Phân loại:
+ Chưng cất phân đoạn là một trong những phương pháp kinh điển dùng để tách
các chất bay hơi ra khỏi một hỗn hợp dựa vào sự khác biệt nhiệt độ sôi của các chất
trong hỗn hợp. Quá trình chưng cất có thể thực hiện ở áp suất khí quyển hay áp suất
giảm. Phương pháp chưng cất phân đoạn được thực hiện với những bình cất có lắp
cột phân đoạn và thường được nối với máy hút chân không để giảm nhiệt độ chưng
cất, giảm ảnh hưởng tới các chất nhạy cảm với nhiệt độ. Nhiệt độ và áp suất được
theo dõi trong quá trình chưng cất. Phương pháp này thường áp dụng để tách các chất
thành phần của tinh dầu.
+ Chưng cất lôi cuốn: chỉ dùng khi các chất lỏng cần phải tách hòa tan với nhau
ví dụ như dung dịch cồn và nước. Nếu hỗn hợp là của những chất không hòa tan vào
nhau, ví dụ như nước và dầu thì lệ thường là có thể tách các chất lỏng bằng cách lắng
và gạn đi.
3.2.2.2. Phương pháp thăng hoa
- Thăng hoa là quá trình làm bay hơi chất rắn rồi ngưng tụ thành tinh thể không
qua giai đoạn hóa lỏng.
- Thăng hoa có thể thực hiện trực tiếp trên dược liệu như tách caffein từ chè hoặc
có thể sử dụng để tách và tinh chế các hợp chất có trong dịch chiết thô. Các thiết bị hiện
đại cho phép sử dụng áp suất giảm và kiểm soát được nhiệt độ trong quá trình thăng
hoa.
3.2.2. Các phương pháp chiết
Chiết lỏng - lỏng
Các mẫu nước thường được sử dụng các chất lỏng để tách chiết (LLE). Thể tích
mẫu nước được tách chiết nhiều lần bằng chất lỏng (dung môi hưữ cơ) không trộn lẫn.
62
Nguyên tắc của phương pháp dựa trên sự phân bố chất tan khi được tạo thành ở dạng
phức liên hợp hay ion phức vòng càng không mang điện tích giữa hai pha không trộn
lẫn, thường là các dung môi hữu cơ và nước. Sự lựa chọn các dung môi hữu cơ phải đáp
ứng các yêu cầu sau:
- Không trộn lẫn với nước.
- Các chất ô nhiễm hữu cơ phải hòa tan trong dung môi này (khả năng hòa tan
của chúng phải lớn hơn trong nước).
- Tỷ trọng của dung môi này phải lớn hơn nước khi chiết rút được tách ra trong
phễu chiết hoặc một dụng cụ tách chiết liên tục chất lỏng - chất lỏng, ngược lại dung
môi phải có tỷ trọng nhỏ hơn nước khi sự tách chiết vi phân trong bình thủy tinh nhỏ.
Phụ thuộc vào sự trộn lẫn của mẫu chất lỏng với dung môi, các chất ô nhiễm sẽ hòa
tan vào trong dung môi chiết rút.
Hệ số phân bố sẽ tương ứng tỷ lệ của các chất hòa tan trong dung môi theo công
thức: P = Cdung môi/Cnước
Vì P không phụ thuộc vào tỷ lệ thể tích và là hằng số ở nhiệt độ nhất định nên
tăng thể tích dung môi chiết rút thì các chất hòa tan vào chúng sẽ tăng. Trong trường
hợp thể tích dung môi chiết rút không thay đổi, thì chia nhỏ và chiết nhiều lần cũng sẽ
tăng hiệu quả của quá trình tách chiết.
Ví dụ: Tách chiết các chất bán bay hơi hữu cơ sẽ có hiệu quả cao hơn khi sử dụng
chiết rút ba lần với 60 ml metylen clorua so với chiết 1 lần bằng 180ml.
Chiết rút pha rắn
Các chất hữu cơ có thể được tách chiết từ chất lỏng bằng cách tách chiết chất
lỏng - chất rắn. Quá trình này rất đơn giản, nhanh chóng và giá thành rẻ. Phương pháp
này cần lấy một thể tích đã biết chất lỏng cho chảy qua một ống có chứa các chất hấp
phụ thích hợp, các chất ô nhiễm hữu cơ trong mẫu sẽ được hấp phụ trên bề mặt chất rắn
hấp phụ, sau đó được giải hấp bằng một chất dung môi thích hợp. Mẫu sẽ được cho vào
từ phía trên ống hấp phụ và điều chỉnh cho tốc độ chảy 1-2 giọt/giây. Nếu ống hấp phụ
lớn có thể cho tăng tốc độ chảy. Ống sẽ được rửa bằng dung môi không phân cực cho
các chất phân tích phân cực và ngược lại. Cuối cùng các chất phân tích sẽ được giải hấp
bằng dung môi thích hợp. Dung môi phân cực sẽ dùng cho chất phân tích phân cực và
ngược lại. Mẫu có thể được cô đặc bằng cách làm bay hơi dung môi. Sự lựa chọn các
chất hấp phụ dựa vào tính phân cực của các chất phân tích (Bảng 3.1).
Bảng 3.1. Các chất chiết rút pha rắn
Octađexyl (C-18) liên kết với silic, octyl
Hợp phần không có cực
(C-8) liên kết với silic
63
chảy qua pha tĩnh rắn hoặc lỏng. Nhiều kỹ thuật khác nhau đã được dùng để phân tích
hợp chất phức tạp dựa trên ái tính khác nhau của các chất trong môi trường động khí
hoặc lỏng và đối với môi trường hấp phụ tĩnh mà chúng di chuyển qua như giấy, gelatin
hay gel magnesium silicate,...
Lịch sử phát triển của các phương pháp sắc ký
Năm 1903 nhà thực vật Nga Txvet đã tách các sắc tố của lá cây xanh thành các
vùng màu riêng biệt, 1931 Vinterstin dùng phương pháp của Txvet tách caroten thành
và - caroten.
Khi đó Chroma có nghĩa là "Màu sắc"; "Graphy" có nghĩa là "Ghi", đây là cơ sở
cho cụm từ "Chromatography" có nghĩa là sắc ký hay là phương pháp ghi lại màu sắc ra
đời. Từ đó các năm sau lần lượt các phương pháp sắc ký đã xuất hiện:
Năm 1938 Izmalov đưa ra phương pháp sắc ký lớp mỏng.
Năm 1941 Martin đề ra phương pháp sắc ký giấy.
Năm 1952. Máy sắc ký khí đầu tiên ra đời dưới sự chủ trì của giáo sư Keulemann
và các cộng sự.
Năm 1954 Martin & Synge đề ra lý thuyết đĩa.
1965. Máy sắc ký lỏng ra đời.
Từ đó đến nay các phương pháp phân tích sắc ký đã trở thành một trong những
nhóm phân tích công cụ phổ biến tách và phân tích các chất, đặc biệt là các chất hữu cơ.
Peak sắc ký và các đại lượng đặc trưng của nó
Giả sử khi tiến hành sắc ký, ta thu nhận được tín hiệu đo từ detectơ và được đồ thị
thể hiện mối quan hệ giữa tín hiệu đo đó theo thời gian đo sắc ký có dạng như Hình 3.1.
Đường cong BDF, B’D’F’ là được gọi là peak sắc ký, đường ABF, A’B’F’ được
gọi là đường không hay đường chân, đường nền; toàn bộ đồ thị được gọi là sắc ký đồ.
Hình dáng lý tưởng của peak sắc ký là đối xứng, nhưng trong thực tế chỉ gần đối
xứng.
Độ rộng (CE): Khoảng cách giữa 2 điểm trên đường cong ứng với nửa chiều cao,
đây là đại lượng có ý nghĩa khi phân tích đồng thời các chất. Độ rộng peak quá lớn hay
quá nhỏ đều ảnh hưởng tới khả năng phân tích, khả năng chen lấn peak.
Diện tích của peak: là vùng diện tích ứng với đường nối 2 chân peak.
Trong số các đại lượng đặc trưng cho peak sắc ký thì chiều cao và diện tích peak là
quan trọng nhất vì chiều cao và diện tích peak tỷ lệ thuận với nồng độ của cấu tử được
tách ra. Ứng dụng một trong hai đại lượng này để xác định hàm lượng của các cấu tử
sau khi đã tách (phân tích định lượng).
Hình 3.2. Các đại lượng đặc trưng của pic sắc ký
Sắc đồ (Sắc ký đồ)
Sắc đồ là đồ thị mô tả sự liên hệ giữa tín hiệu detectơ với thời gian hoặc nồng độ
cấu tử ra khỏi cột (C) với thể tích pha động đi vào cột (V)
Trường hợp 1: Nếu sắc đồ mô tả sự liên hệ tín hiệu detectơ và thời gian thì có các
đại lượng đặc trưng là thời gian lưu (tR), thời gian chết (tM) và thời gian hiệu chỉnh (tR’).
Thời gian lưu tR: Là thời gian từ khi bơm mẫu vào pha tĩnh đến khi xuất hiện điểm
cực đại của peak. Nếu tR càng lớn thì chất đó lưu giữ càng mạnh và tốc độ di chuyển của
nó càng chậm.
Thời gian chết tM: Là thời gian lưu của 1 chất không bị lưu giữ, được tính từ khi
bơm mẫu đến khi pha động đi qua pha tĩnh.
Thời gian lưu hiệu chỉnh tR’: tR’ = tR - tM
Hình 3.3. Sắc ký đồ - mối quan hệ tín hiệu đo và thời gian lưu
66
Trường hợp 2: Nếu sắc đồ biểu thị mối liên hệ nồng độ cấu tử ra khỏi cột (C) với
thể tích pha động đi vào cột (V). Sắc ký đồ loại này được đặc trưng thể tích lưu V R, thể
tích chết VM và thể tích lưu hiệu chỉnh VR’: VR’= VR- VM;
Hình 3.4. Sắc ký đồ - mối quan hệ nồng độ và thể tích pha động
Các đại lượng này có ý nghĩa tương tự như trường hợp 1:
Thể tích lưu: Là thể tích từ khi bơm mẫu vào pha tĩnh đến khi xuất hiện điểm cực
đại của peak. Nếu VR càng lớn thì chất đó lưu giữ càng mạnh và tốc độ di chuyển của
nó càng chậm.
Thể tích chết VM: Là thể tích lưu của 1 chất không bị lưu giữ, được tính từ khi bơm
mẫu đến khi pha động đi qua pha tĩnh.
Trong thực tế phân tích sắc ký người ta thường biễu diễn mối liên hệ giữa tín hiệu
detectơ với thời gian và thể tích lưu.
Ứng dụng các đại lượng tR và VR trong phân tích:
Mỗi chất khác nhau sẽ có thời gian lưu và thể tích lưu khác nhau. Vì vậy, thời gian
lưu tR và thể tích lưu VR là đại lượng đặc trưng để phát hiện các chất (phân tích định
tính).
Trong sắc ký đồ, ngoài các đại lượng đặc trưng cho phép phân tích định tính là thời
gian lưu, thể tích lưu; đại lượng đặc trưng cho phép phân tích định lượng là chiều cao
peak, diện tích peak sắc ký thì còn một đại lượng quan trọng khác đó là hệ số tách RS
đặc trưng cho độ phân giải của quá trình tách sắc ký, cho khả năng tách các chất ra khỏi
nhau trong một hỗn hợp.
TR1: Thời gian lưu của peak 1; tR2: Thời gian lưu của peak 1;
W1,W2: là độ rộng 2 peak tương ứng.
RS = 0,75 2 peak tách không tốt, còn xen phủ nhau nhiều
RS = 1,0 2 peak tách khá tốt, còn xen phủ nhau 4%
Rs = 1,5 2 peak tách hoàn toàn, chỉ xen phủ 0,3%
67
Giai đoạn 1: Đưa hỗn hợp các chất cần tách lên pha tĩnh (stationary phase), các chất
sẽ được giữ trên pha tĩnh, các chất khác nhau sẽ có ái lực hấp phụ khác nhau trên pha
tĩnh.
Giai đoạn 2: Giải hấp phụ các chất ra khỏi pha tĩnh.
Cho pha động (mobil phase) chạy liên tục qua pha tĩnh, các chất có ái lực lớn với
pha tĩnh sẽ chuyển động với tốc độ chậm hơn qua hệ thống sắc ký và ngược lại.
Từ hỗn hợp ban đầu chúng đã tách ra khỏi nhau và có vị trí khác nhau trên pha tĩnh,
khi đó tạo thành một sắc đồ.
Hình 3.5. Sắc đồ và sự tách chất của phương pháp phân tích sắc ký
Giai đoạn 3: Phát hiện các chất, định tính và định lượng các chất.
- Phát hiện và định tính các chất:
Nếu là các chất có màu, chúng được phát hiện dễ dàng trên sắc đồ, nếu các chất
không màu được phát hiện bằng các cách khác nhau như cho hiện hình bằng các thuốc
thử hay bằng các tín hiệu của detectơ như thời gian lưu, thể tích lưu.
- Định lượng các chất bằng cách đo diện tích hoặc chiều cao của peak sắc ký (các
đại lượng này tỷ lệ thuận với nồng độ).
Như vậy, sắc ký là quá trình tách liên tục hỗn hợp các chất do sự phân bố khác nhau
của các chất giữa pha tĩnh và pha động khi cho pha động đi xuyên qua pha tĩnh.
Nếu so sánh 2 phương pháp sắc ký và chiết ta thấy có điểm giống nhau đều là quá trình
tách các cấu tử dựa trên sự phân bố giữa 2 pha khác nhau nhưng khác nhau là: quá trình
tách bằng phương pháp chiết có tính chất gián đoạn, phương pháp sắc ký có tính chất
liên tục.
3.3.3. Các phương pháp sắc ký thường dùng
Sắc ký lớp mỏng - Thin Layer Chromatography (TLC)
Sắc ký lớp mỏng là hay còn gọi là sắc ký phẳng (planar chromatography), dựa chủ
yếu vào hiện tượng hấp thụ trong đó pha động là dung môi hoặc hỗn hợp các dung
môi, di chuyển ngang qua một pha tĩnh là một chất trơ (thí dụ như: silicagel hay oxit
69
alumin). Pha tĩnh được tráng thành một lớp mỏng, đều, phủ lên nền phẳng như tấm
kiếng, tấm nhôm hay tấm plastic. Do chất hấp thu được tráng thành một lớp mỏng nên
phương pháp này được gọi là sắc ký lớp mỏng.
Bản chất của phương pháp
Phương pháp do I.Z.Mailov và Sraiber đề ra năm 1938 dùng để tách và phân tích
ancaloit chiết được từ cây thuốc trên lớp mỏng là bột nhôm oxit. Năm 1958 Stahl tiêu
chuẩn hoá quy trình phân tích và tách các chất.
TLC là một phương pháp sắc ký, trong đó pha tĩnh là chất hấp phụ được trải thành
lớp mỏng, mịn và đồng nhất, được cố định trên phiến kính hoặc phiến kim loại, nhựa;
Pha động là một hệ gồm một dung môi đơn thuần hay hỗn hợp nhiều dung môi phối
hợp với nhau theo tỷ lệ xác định. Sắc ký được tiến hành khi cho pha động di chuyển qua
pha tĩnh trên đó đã đặt các chất cần tách. Trong quá trình di chuyển qua chất hấp phụ,
các cấu tử (thành phần) trong hỗn hợp mẫu thử di chuyển trên lớp mỏng theo hướng pha
động với những tốc độ khác nhau dẫn đến việc tách và phân bố khác nhau trên lớp mỏng.
Kết quả thu được một sắc ký đồ trên lớp mỏng, ở đó, các thành phần của mẫu thử phân
bố rải rác dọc theo đường đi của dung môi động. Cơ chế của sự tách có thể là hấp phụ,
phân bố, trao đổi ion, sàng lọc phân tử hay phối hợp nhiều cơ chế, trong đó, một loại
nào đó trội lên ít hoặc nhiều, tuỳ thuộc vào tính chất của chất làm pha tĩnh và dung môi
làm pha động.
Pha tĩnh: Là các chất rắn được rải thành lớp mỏng trên các bản kính, tấm nhựa. Lớp
mỏng pha tĩnh thường sử dụng là: silicagel, nhôm oxit, xenlulozơ, nhựa trao đổi ion ….
có chiều dày khoảng 0,2 - 0,5mm.
Pha động: Sử dụng các dung môi là các chất lỏng, đây là hệ sắc ký lỏng - rắn.
Cách tiến hành sắc ký lớp mỏng gồm 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Đưa chất phân tích lên bản mỏng, giai đoạn này sử dụng micropipet
chấm 1 giọt dung dịch chứa hỗn hợp các chất cần tách lên điểm xuất phát cách rìa bản
mỏng từ 2 - 3cm.
Giai đoạn 2: Khai triển sắc đồ
Trong giai đoạn này, nhúng bản mỏng (phía rìa) vào một dung môi thích hợp, dung
môi này đóng vai trò pha động. Dưới tác dụng của lực mao quản, dung môi này sẽ
chuyển động dọc theo lớp chất hấp phụ và chuyển vận các cấu tử của hỗn hợp với vận
tốc khác nhau. Kết quả là mỗi chất trong hỗn hợp được phân chia thành từng vùng riêng
gọi là sắc đồ.
Giai đoạn 3: Hiện hình, định tính và định lượng các chất
Định tính: Nếu các chất không màu, hoặc có màu rất nhạt người ta hiện sắc đồ bằng
phương pháp hoá học, quang học hoặc phóng xạ (đối với các đồng vị phóng xạ). Nếu các
70
chất có màu đặc trưng thì tiến hành nhận biết trực tiếp trên sắc đồ. Nếu các chất không
màu hoặc có màu rất nhạt thì dựa vào giá trị hệ số dịch chuyển Rf đặc trưng cho mỗi chất
trong một hệ sắc ký nhất định.
Định lượng: có thể tiến hành định lượng trực tiếp trên sắc đồ bằng cách đánh giá
diện tích hoặc cường độ màu của vệt sắc ký hoặc tách chất khỏi sắc đồ sau đó tổ hợp
với các phương pháp phân tích công cụ như đo quang, điện hoá….
Hình 3.6. Các giai đoạn thực hiện của phương pháp sắc ký lớp mỏng (a): Giai đoạn 1; (b):
giai đoạn 2; (c): giai đoạn 3
Ưu điểm và ứng dụng của phương pháp sắc ký lớp mỏng
Ưu điểm:
- Các dụng cụ và thiết bị đơn giản
- Thời gian phân tích nhanh, việc tách các cấu tử có thể tiến hành dễ dàng
- Có thể tổ hợp với 1 phương pháp phân tích công cụ làm tăng độ nhạy, độ chọn lọc
của phương pháp.
Ứng dụng:
-Tách và phân tích các chất hữu cơ (chủ yếu): Sử dụng sắc ký lớp mỏng có thể tách
và phân tích các họ: axit, rượu, ancaloit, carotenoit, clorophin, amin, aminoaxit, protein,
lipit, các chất kháng sinh, vitamin, dược phẩm, thực phẩm và độc chất…Sắc ký lớp
mỏng được sử dụng rộng rãi trong công nghệ thực phẩm, dược học, y học…
- Tách và phân tích các ion vô cơ: cation kim loại kiềm, kiềm thổ, và một số kim
loại khác, các anion halogenua, nhóm hidrosunfua….
Sắc ký cột
Nguyên tắc, cấu tạo
Sắc ký là một kỹ thuật tách trong đó các cấu tử cần tách trong một hỗn hợp mẫu
được vận chuyển bởi pha động đi qua pha tĩnh. Sự tương tác xảy ra giữa các cấu tử với
pha tĩnh nhờ đó các cấu tử sẽ phân bố giữa pha động và pha tĩnh. Sự ái lực khác nhau
của các chất tan trên pha tĩnh làm chúng di chuyển với những vận tốc khác nhau trong
71
pha động của hệ thống sắc ký. Cấu tử di chuyển chậm (tương tác yếu) ra trước, cấu tử
bị lưu giữ mạnh hơn ra sau dưới dạng các đỉnh (peak) tách riêng rẻ (hoặc bậc thang) tùy
thuộc vào cách tiến hành sắc ký và được hiển thị dưới dạng sắc ký đồ.
Trong sắc ký cột, pha động là dung môi được cho chảy qua pha tĩnh được nhồi trong
cột. Cột là những ống làm bằng thủy tinh hoặc bằng thép, đầu dưới có khóa, đầu trên có
nút mài để nối với một phễu chứa dung môi, loại này thường được bán sẵn trên thị
trường với nhiều loại kích cỡ lớn nhỏ.
Phân loại sắc ký dựa vào tính chất của pha tĩnh chia làm các loại:
+ Sắc ký hấp phụ:
Các chất trong hỗn hợp mẫu sẽ hấp phụ hoặc dính lên bề mặt của chất rắn pha tĩnh.
Các chất khác nhau sẽ có những mức độ hấp thu khác nhau, hệ quả là trong quá trình
pha động di chuyển chúng sẽ tác xa nhau ra.
+ Sắc ký trao đổi ion:
Pha tĩnh là các hạt nhựa, bề mặt của nó là các hạt mang các nhóm chức hóa học ở
dạng ion. Có 2 loại nhựa trao đổi anion và trao đổi cation. Nhựa trao đổi anion mang
nhóm chức có điện tích dương nên bắt giữ các ion âm của pha động, nhựa trao đổi cation
mang nhóm chức có điện tích âm nên bắt giữ các ion dương của pha động. Các loại nhựa
trao đổi ion dùng để tách các ion vô cơ hoặc hữu cơ.
+ Sắc ký rây phân tử:
Pha tĩnh là các hạt hình cầu bằng polymer, trên bề mặt có nhiều lỗ rỗng. Mỗi loại
hạt nhựa có kích cỡ nhất định. Sự tách riêng các hợp chất của một hỗn hợp dựa vào
những phân tử có kích thước nhỏ dễ dàng chui vào các lỗ rỗng và bị giữ lại lâu hơn, các
phân tử có kích thước lớn không thể lọt vào các lỗ, giải ly ra khỏi cột.
+ Sắc ký phân bố:
Hình thức sắc ký này dựa trên một màng mỏng được tạo thành trên bề mặt của giá
đỡ rắn bởi pha tĩnh lỏng. Chất tan cân bằng giữa pha động và chất lỏng tĩnh. Sự phân
tách các thành phần của hỗn hợp mẫu xảy ra do có sự phân vùng. Pha tĩnh được phủ một
lớp chất lỏng không thể trộn lẫn trong pha động. Sự phân chia thành phần của mẫu giữa
mẫu và pha tĩnh lỏng/khí làm chậm một số thành phần của mẫu hơn so với những thành
phần khác. Điều này tạo cơ sở cho việc phân tách. Pha tĩnh làm bất động lớp bề mặt chất
lỏng, lớp này trở thành pha tĩnh. Pha động đi qua chất hấp phụ được phủ và tùy thuộc
vào độ hòa tan tương đối trong chất lỏng được phủ, sự phân tách xảy ra. Thành phần của
hỗn hợp mẫu có vẻ tách biệt do sự khác biệt về hệ số phân vùng của chúng.
+ Sắc ký ái lực:
Là phương pháp tách riêng biệt và đặc hiệu sinh chất, dựa vào khả năng đặc hiệu
của chúng vào nền sắc ký thông qua tương tác giữa kháng nguyên-kháng thể, enzyme-
cơ chất... Sau đó dùng đệm phù hợp để rửa trôi sinh chất mong muốn ra khỏi cột. Các
tay nối đặc hiệu sinh học thường là các chất có trong các phản ứng sinh hóa.
Sơ đồ tách chất trên sắc ký cột:
73
Hình 3.9. Quá trình tách sắc ký trên cột của hai chất A và B
Các yếu tố ảnh hưởng đế quá trình tách chất
+ Ảnh hưởng của quá trình nạp pha tĩnh lên cột: khi nạp pha tĩnh lên cột ta lựa
chọn nạp ướt hoặc nạp dạng khô. Khi tiến hành nạp lên cột cần chú ý không được để
khô đầu cột và có bọt khí ở trong cột. Nếu có bọt khí phải tiến hành nạp lại. Để quá trình
tách được tốt ta dùng búa cao su gõ hoặc dùng bơm nén để cột nén chặt. Sau khi nạp
74
phòng mẫu. Nhiệt độ phòng mẫu có thể cao hơn nhiệt độ trong cột một chút để quá
trình bay hơi được thực hiện dễ dàng.
Cột sắc ký
Cột được đặt trong lò có thể điều chỉnh nhiệt độ trong quá trình thực hiện. Cột
thông dụng nhất trong phân tích là những ống bằng thép không gỉ (đồng,
thép) hoặc bằng thủy tinh dài từ 1 đến 10m và có đường kýnh từ 2 đến 4 mm. Chúng
được uốn hoặc cuộn tròn cho khớp với phòng lò. Cột được nhồi bằng những phần tử
rắn hoạt động như một pha tĩnh (GSC): đó là những hạt nhỏ xếp gắn trên mặt trong cột
hoặc pha tĩnh được tẩm trên các hạt nhỏ đó. Trong sắc ký lỏng (GLC), pha tĩnh được
giữ trên chất mang, đó là những hạt chất rắn nhỏ, bền nhiệt, trơ về mặt hóa học, có lỗ
cỡ 1-5 m, có bề mặt riêng lớn từ 1-10m2/g. Pha tĩnh phải chịu nhiệt, hóa lỏng ở nhiệt
độ phân tích, trơ về mặt hóa học. Thường hay sử dụng các polime xốp hoặc
aluminosilicat khử nước.
Detector
Yêu cầu về detector rất nghiêm ngặt: Mọi hợp phần có trong 0,1 l mẫu phải
được phát hiện ở mức 1%, cho nên phải nhanh chóng phát hiện được 0,002 l (có khối
lượng cỡ 10-6g) mẫu. Các detecto hiện nay đo được những lượng nhỏ hơn đến mấy
bậc. Hiện nay trong phương pháp GC người ta sử dụng những loại detector sau:
- Detector dẫn nhiệt (TCD): Việc vận hành của detector dựa trên sự cân bằng
nhiệt của một dây dẫn đun nóng. Khi có chất cần phân tích đi qua thì độ dẫn điện của
hợp chất khí sẽ thấp đi, dây sẽ nóng lên, xuất hiện một tín hiệu điện. Detector dẫn
nhiệt thích hợp được với rất nhiều chất khí.
Detector ion hóa ngọn lửa (FID): Khi đốt cháy các hợp chất hữu cơ trong ngọn
lửa, chúng sẽ tạo ra các ion. Các điện cực ở gần ngọn lửa sẽ phát hiện ra sự có mặt của
các ion bằng sự xuất hiện một dòng điện nhỏ chạy qua mạch điện. Có thể đo được những
dòng ngay cả khi chúng chỉ xấp xỉ bằng 10-12A. Đây là detector được dùng nhiều nhất,
phát hiện được đến 10-9g.
- Detector hấp thụ electron (detector bắt electron - ECD): Nhờ có một nguồn
phóng xạ như 3H hoặc 63Ni, khí mang bị ion hóa tạo nên một “dòng nhất định” trong
mạch detector. Khi một chất phân tích hấp thụ electron được giải hấp nó sẽ làm giảm
dòng này, đặc biệt khi hấp chất có chứa nguyên tố có độ âm điện cao. Dòng sẽ giảm
đi, tạo ra tín hiệu ghi được. Detector đặc biệt nhạy cảm với những hợp chất chứa
holegen. Dectector hấp thụ electron rất thuận lợi cho việc phân tích môi trường. Độ
nhạy cao, đạt tới 10-12g.
Thông tin GC
77
Sắc đồ thông thường biểu thị trên hai trục x và y, trong đó tín hiệu detector ghi
trên trục y và thời gian ghi trên trục x. Khi một hợp phần của mẫu được giải hấp và phát
hiện nhờ detector thì tín hiệu đó sẽ được ghi lại. Thời gian ghi được ở pic tín hiệu là
hàm của KD và vì thế nó cung cấp thông tin định tính về mẫu giống như thế bán sóng
trong cực phổ, sẽ nhận biết được một hợp phần trong mẫu.
Thông tin định lượng từ sắc đồ được rút từ chỗ tín hiệu detector là hàm của thời
gian. Diện tích dưới pic tỉ lệ với lượng chất phân tích. Lượng này có thể biểu thị bằng
đơn vị mol hoặc đơn vị khối lượng, tuy nhiên hằng số tỉ lệ sẽ khác nhau:
SA = diện tích dưới pic = RA
Trong đó: R là diện tích trên một mol khi A được biểu thị bằng mol hoặc là diện tích
trên một gam khi A biểu thị bằng gam.
Ứng dụng sắc ký khí trong phân tích
Với ưu điểm về độ nhạy, độ phân giải và độ lặp lại cao, ngày nay sắc ký khí được
áp dụng rộng rãi trong phân tích nói chung và phân tích dược phẩm nói riêng.
Định tính
Thời gian lưu hoặc thể tích lưu của một hợp chất là đại lượng đặc trưng cho phép
định tính chất đó trong hỗn hợp. Chất phân tích được xác định bằng cách so sánh thời
gian lưu với chất chuẩn hoặc sử dụng phương pháp đối chứng (Đưa chất chuẩn vào mẫu
phân tích, rồi đo sắc đồ đối với 2 mẫu, kết quả sẽ chính xác khi có cùng thời gian lưu,
diện tích và chiều cao của peak sẽ tăng).
Với detectơ khối phổ (MSD), ngoài ra thời gian lưu các chất còn được xác định
tương đối chính xác cấu trúc qua phổ khối của nó.
Định lượng
Mỗi chất được xác định bằng peak trên sắc ký đồ, qua hệ thống phân tích xử lý số
liệu, các peak sẽ được tính diện tích, chiều cao. Chiều cao, diện tích peak tỷ lệ thuận với
nồng độ chất phân tích. Dựa vào các số liệu đó ta có thể tính toán được hàm lượng của
mỗi chất theo một số phương pháp định lượng khác nhau.
Ưu điểm
- Tự động hóa, đa năng, hiệu quả tách tốt, nhanh chóng.
- Có khả năng phát hiện và phân tích rất nhiều chất và hỗn hợp phức tạp.
- Thiết bị đơn giản và rẻ, dễ dàng kết nối với phổ khối.
Nhược điểm
Thiết bị đắt tiền, người vận hành phải có kiến thức chuyên sâu
Sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC)
Khái niệm, phân loại và nguyên tắc quá trình sắc ký trong cột
78
Khái niệm:
Sắc ký lỏng hiệu năng cao: Là phương pháp chia tách trong đó, pha động là chất
lỏng, pha tĩnh chứa trong cột là chất rắn đã được phân chia dưới dạng tiểu phân hoặc
một chất lỏng phủ lên một chất mang rắn hay một chất mang đã được biến đổi bằng liên
kết hoá học với các nhóm chức hữu cơ.
Phân loại:
Quá trình sắc ký lỏng dựa trên cơ chế hấp phụ, phân bố, trao đổi Ion hay phân loại
theo kích cỡ (rây phân tử).
Pha tĩnh quyết định bản chất của quá trình sắc ký và loại sắc ký.
- Nếu pha tĩnh là chất hấp phụ: ta có sắc ký hấp phụ pha thuận hoặc pha đảo
(adsorption liquid chromatography)
- Nếu pha tĩnh là chất trao đổi ion có khả năng trao đổi ion với chất phân tích thì ta
có sắc ký trao đổi ion (ion chromatography).
- Nếu pha tĩnh là chất lỏng có khả năng phân bố trên pha tĩnh thì ta có sắc ký phân
bố hay sắc ký chiết (partition chromatography)
- Nếu pha tĩnh là gel thì ta có sắc ký gel hay rây phân tử (Size Exclusion/Gel
Permeation Chromatography): Pha tĩnh là các hạt chất rắn có các kích thước lỗ xốp khác
nhau, các phân tử mẫu có kích thước nhỏ sẽ chui sâu vào bên trong của lỗ xốp nên được
pha động rửa giải ra sau. Các phân tử mẫu có kích thước lớn nằm ở ngoài nên được rửa
giải ra trước.
Trong các cơ chế trên thì sắc ký hấp phụ được ứng dụng nhiều nhất vì có thể phân
tích được những hợp chất không phân cực, phân cực, hay rất phân cực, hợp chất ion có
khối lượng phân tử không quá lớn (<3000).
* Trong sắc ký hấp phụ:
Quá trình sắc ký dựa trên sự hấp phụ mạnh yếu khác nhau của pha tĩnh đối với các
chất tan và sự rửa giải của pha động. Có 2 trường hợp:
- Sắc ký hấp phụ pha thuận (NP-HPLC: Normal Phase Chromatography): Trong
phương pháp này pha tĩnh phân cực, pha động không phân cực hoặc kém hơn chất phân
tích. Pha tĩnh loại này sẽ có ái lực với các hợp chất phân cực. Phương pháp này dùng để
tách và phân tích các hợp chất có độ phân cực cao với phân tử lượng không lớn lắm.
- Sắc ký hấp phụ pha đảo (RP - HPLC Reversed Phase Chromatography):
Trong phương pháp này pha tĩnh không phân cực hoặc phân cực ít hơn pha động.
Phương pháp này phân tích các hợp chất từ không phân cực đến phân cực, thích hợp các
hợp chất hữu cơ có mạch cacbon dài (ít phân cực). Dung môi sử dụng trong phương
pháp này là các dung môi phân cực, trong đó dung môi nước đóng vai trò quan trọng
79
mà lại rẻ tiền. Do đó sắc ký lỏng hiệu năng cao pha đảo được ứng dụng nhiều và phổ
biến hơn sắc ký lỏng hiệu năng cao pha thường.
Nguyên tắc:
Để đo sắc ký lỏng HPLC, mẫu phân tích gồm hỗn hợp chất phân tích A,B,C.. được
nạp vào cột phân tích, kết quả các chất A,B,C.. sẽ được tách ra khỏi nhau sau khi đi qua
cột. Quyết định hiệu quả của sự tách sắc ký ở đây là tổng hợp các tương tác F1, F2, F3.
Hình 3.12. Các tương tác quyết định cho sự tách chất trong cộtTổng 3 tương tác F1, F2, F3
quyết định chất nào được rửa rải ra khỏi cột trước tiên khi lực lưu giữ trên cột là nhỏ nhất
(F1). Hai lực F1 và F2 ngược chiều nhau, F1 là lực giữ chất phân tích lại trên pha tĩnh, F2 là lực
kéo chất phân tích vào pha động. Hai lực F1 và F3 là hai tương tác cạnh tranh của chất phân
tích và pha động lên pha tĩnh. Nếu pha động có thành phần không đổi (không chạy gradient
pha động) thì F3 = 0 thì F1 và F2 giữ vai trò quyết định.
Chất tan nào có lực tương tác tổng cộng lớn nhất sẽ bị giữ lại trong cột tách lâu nhất,
nghĩa là nó được rửa giải ra sau cùng. Ngược lại chất tan nào có lực tương tác tổng cộng
nhỏ nhất sẽ được rửa giải ra trước tiên trong quá trình sắc ký.
Như vậy, các chất khác nhau thì F1 và F2 là khác nhau nên các chất khác nhau sẽ di
chuyển trong cột với tốc độ khác nhau và tách ra khỏi nhau khi ra khỏi cột theo thời gian
khác nhau.
Hệ thống sắc ký HPLC
Hệ thống dung môi đóng vai trò pha động được trộn với nhau theo tỷ lệ thích hợp
(điều khiển bằng máy tính) và có thể thay đổi thành phần bởi hệ thống gradient. Pha
động được bơm liên tục qua cột tách bằng hệ thống bơm cao áp sau khi đã qua bộ khử
khí. Mẫu phân tích được đưa vào cột tách bằng bộ phận tiêm mẫu, sau đó được pha động
đẩy qua hệ thống cột tách (column), quá trình tách các chất xảy ra tại đây.
Các chất sau khi ra khỏi cột tách tại các thời điểm khác nhau lần lượt đi vào detectơ
thích hợp và được chuyển thành tín hiệu điện rồi được khuyếch đại và chuyển đến bộ
phận tự ghi và xử lí kết quả (máy tính, máy in).
80
- Ngoài ra người ta còn dùng các loại hạt khác như: nhôm oxit, polyme xốp, chất
trao đổi ion.
Có khi phải sử dụng tách chất trên trên 2 cột kế tiếp nhau khi mẫu phân tích chứa
nhiều chất tan có độ phân cực và tính chất rất khác nhau và đã sử dụng các biện pháp
như thay đổi thành phần pha động, gradient pha động, nhiệt độ mà hiệu quả tách vẫn
kém.
- Đối với một số phương pháp phân tích đòi hỏi phải có nhiệt độ cao hoặc thấp hơn
nhiệt độ phòng thì cột được đặt trong bộ phận điều nhiệt (Oven column).
h. Detectơ:
Detectơ dùng để phát hiện các chất khi chúng ra khỏi cột và cho các tín hiệu.
Các yêu cầu của detectơ sử dụng trong kỹ thuật HPLC:
- Có tính chất chọn lọc đối với chất phân tích
- Có độ nhạy cao đối với chất phân tích
- Hoạt động ổn định và bền vững trong các điều kiện phân tích
- Có vùng tuyến tính rộng
- Không bị ảnh hưởng hoặc ít bị ảnh hưởng bởi các tác động của môi trường như độ
ẩm, áp suất, nhiệt độ.
- Độ nhiễu tự thân của detectơ nhỏ
Tùy theo tính chất của các chất cần phân tích để chọn detectơ thích hợp. Tín hiệu
có thể là: độ hấp thụ quang, cường độ phát xạ, cường độ dòng điện, độ dẫn điện, độ dẫn
nhiệt, chiết suất...
- Detectơ UV vùng 200 - 380 nm phát hiện chất hấp thụ vùng UV
- Detectơ UV - Vis vùng 190 - 900 nm phát hiện các chất hấp thụ quang vùng UV
- Vis, đây là loại thông dụng nhất.
- Detectơ huỳnh quang phát hiện các chất hữu cơ phát huỳnh quang, là loại detectơ
có độ chọn lọc cao nhất.
- Loại hiện đại đại hơn có detectơ Diod Array, ELSD (detectơ tán xạ bay hơi) các
detectơ này có khả năng quét chồng phổ để định tính các chất theo độ hấp thu cực đại
của các chất.
- Detectơ điện hóa: Đo dòng, cực phổ, độ dẫn, điện lượng...
- Detectơ chiết suất vi sai: detectơ đo khúc xạ (thông thường dùng cho đo các chất
đường)
- Detectơ đo độ dẫn nhiệt, hiệu ứng nhiệt..
Trong ứng dụng phân tích bằng HPLC, detectơ tử ngoại và tử ngoại- khả kiến chiếm
60%, detectơ huỳnh quang chiếm 15%.
82
k. Bộ phận ghi tín hiệu: Hệ thống máy tính gắn phần mềm nhận tín hiệu, xử lý dữ
liệu và điều khiển hệ thống HPLC.
Thế hệ máy cũ: máy ghi đơn giản là vẽ sắc ký đồ, thời gian lưu, diện tích của peak,
chiều cao peak...
Thế hệ máy mới dùng phần mềm chạy trên máy tính nó có thể lưu tất cả các thông
số, phổ đồ và các thông số của peak như tính đối xứng, hệ số phân giải.... trong quá trình
phân tích đồng thời xử lý, tính toán các thông số theo yêu cầu của người sử dụng như:
Nồng độ, RSD,...
Ưu điểm
- Có độ nhạy cao, khả năng định lượng tốt, áp dụng được với các mẫu không bay
hơi và không bền nhiệt.
- Áp dụng được cho các ion vô cơ.
- Có thể phân tích được rất nhiều loại hợp chất khác nhau, khả năng phân tích
rộng.
- Tính linh hoạt của sắc kí lỏng HPLC cao hơn các phương pháp khác do pha tĩnh
và pha động đa dạng phong phú.
- Tiện lợi, đơn giản, hiệu lực cao và hạn chế được thể tích ngoài cột.
Nhược điểm
- Độ lặp lại không cao vì thể tích mỗi lần bơm khác nhau.
- Tắt kim ngưng dòng chảy khi mỗi lần đưa mẫu vào cột, đợi đến khi áp suất bằng
áp suất không khí rồi mới thêm mẫu.
Ứng dụng
- Ứng dụng trong nghiên cứu các hợp chất tự nhiên nói chung và nghiên cứu dược
liệu nói riêng.
- Ứng dụng rất rộng như phân tích các hợp chất thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh,
các chất phụ gia thực phẩm trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, môi trường…
Cụ thể như trong y học (ví dụ: phát hiện nồng độ vitamin D trong huyết thanh;
phát hiện các thuốc làm tăng lực trong nước tiểu…), trong nghiên cứu (ví dụ: tính khiết
chất từ mẫu sinh học phức hợp, hoặc tách các chất tổng hợp giống nhau từ các
chất khác) và trong sản xuất (ví dụ: trong tiến trình sản xuất các chế phẩm sinh học
hoặc dược liệu)…
83